Hiện có 18 người xem / 2518851 lần xem
         info@sachvatranh.com       84 (0) 1 222 929 703        

VÀI CHI TIẾT VỀ KỲ HỌP NGÀY 8/7/2017

CỦA CÂU LẠC BỘ SÁCH XƯA & NAY

Như thường lệ để mở đầu phiên họp Dịch giả Vũ Anh Tuấn đã giới thiệu với các thành viên hai tân quý thư mà ông mới có. Cuốn đầu bằng tiếng Pháp tương đối cổ, vì được in hồi đầu thế kỷ trước, nghĩa là được gần 100 tuổi, là một cuốn Sách Lễ hàng ngày (Missel) mà ông đã mua, vì thấy cuốn sách quá đẹp với mỗi trang đều có những hình khắc gỗ tuyệt đẹp bao quanh. Khi thấy cuốn cổ thư được in và có hình vẽ quá đẹp, ông đã nghĩ ngay tới việc giúp cho nó tới với vị chủ nhân đáng giữ nó nhất, biết chăm sóc và sử dụng nó nhất, nên ông đã mang nó tới buổi họp hôm nay để mọi thành viên được biết gần 100 năm trước một cuốn sách lễ của Pháp được in đẹp như thế nào, và sau khi giới thiệu xong, ông đã trân trọng tặng cuốn quý thư cho Lm. Triết, Cố Vấn của CLB.

Cuốn thứ nhì được giới thiệu hôm nay là một cuốn sách mới, được in ở Hongkong năm 1993, mang tựa đề là “Những Điểm Nổi Bật về Nước Mỹ” (Spotlight on the USA). Cuốn sách khổ 18x26, dày 170 trang chứa hàng ngàn hình ảnh toàn bằng màu cực đẹp của một tác giả tên là Randee Falk, đã giới thiệu các điểm nổi bật mà một người tới thăm nước Mỹ nên biết. Cuốn sách đưa người đọc đi từ miền này tới miền nọ ở khắp nước Mỹ, giới thiệu tất cả các điều nổi bật, đáng chú ý về đủ mọi lãnh vực như lịch sử, văn hóa, xã hội, thể thao, đời sống thường nhật v.v… và đặc biệt nhất là sau mỗi chương đều có một mục giải thích tường tận các từ vựng đặc trưng của mỗi địa phương khó tìm trong tự đi ể n. Cuốn sách thật sự hấp dẫn cho những ai sắp lên đường qua thăm nước Mỹ, và muốn hiểu cặn kẽ về nước Mỹ. Sau khi được giới thiệu , hai cuốn sách đã được một số thành viên chuyền tay nhau xem một cách thích thú.

Dịch giả Vũ Anh Tuấn giới thiệu sách xong, bà Tâm Nguyện lên giới thiệu tác phẩm mới của bà là cuốn “Đại Thừa Kim Cang Kinh Luận” mà bà vừa viết xong, đưa số tác phẩm về nghiên cứu Phật giáo của bà lên gần chục cuốn. Giới thiệu xong, tác giả này đã ưu ái quý tặng mỗi thành viên 1 cuốn với lời đề tặng cho từng người một, thật là tuyệt và vời! Tiếp lời bà Tâm Nguyện, thành viên Phạm Vũ lên nói về nước Gia Nã Đại (Canada), về việc thiết lập liên bang, về “ngày không vội vã” (no hurry day), và về một số sự việc khác. Anh Phạm Vũ nói xong, Lm. Triết đã lên giới thiệu Tuyển Tập Thơ Văn “MỤC ĐỒNG” của ban Văn Hóa Giáo phận Quy Nhơn cho ra đời nhằm mục đích “chấn hưng tiếng Việt”. Giới thiệu xong Lm. Triết cũng ngỏ lời mời các thành viên tham gia gửi bài viết. Tiếp lời Lm. Triết, nhà thơ Hải Âu, một vị khách mới vừa được dành cho ít phút để tự gi ớ i thiệu, lên ngâm tặng các thành viên hai bài thơ mà ông viết về vấn đề “Nam Nữ và Tình Yêu” nhan đề là “Nhớ người dưng” và “Tương Tư”. Nhà thơ Hải Âu ngâm thơ xong, đến lượt nhà thơ Phước Hải lên ngâm tặng các thành viên cũng hai bài thơ của ông viết về đám cưới một người cháu. Tiếp lời nhà thơ Phước Hải, anh Lang Nguyên lên và lại cũng ngâm tặng các thành viên bài thơ nói về đề tài Yêu Quê Hương.

Sau anh Lang Nguyên, thành viên Thùy Hương cũng lại lên ngâm tặng các thành viên hai bài thơ “Răng Rứa” và “Thổn Thức, Thổn Thức”, ôi sao kỳ họp này “đa thơ” đến thế. Rất may là ngay sau đó, để thay đổi thi khí, thành viên Thùy Mai lên hát tặng các thành viên bài hát nhan đề là “Chiều về Bản Thượng”. Thùy Mai hát xong, anh Lê Nguyên lên nói về chuyện “Hóa vàng văn thơ” tức là chuyện một nhà thơ mang thi phẩm của mình tới đốt trước mộ liệt sĩ Võ Thị Sáu.

Anh Lê Nguyên kể chuyện xong, thành viên Hoài Ly lên ngâm tặng thành viên Thanh Châu, người có tiếng hát át tiếng bom, bài thơ “Chiều Mưa nhớ”. Hoài Ly ngâm thơ xong, anh Minh lên hát tặng các thành viên hai ca khúc bằng “tiếng Em” (English) mang tựa đề là “Exodus” và “Johnny Guitar”. Sau anh Minh, anh Chử lên “hát thơ” tặng các thành viên bài “Gia Đình” do chính anh sáng tác. Anh Chử hát xong, Kim Sơn lên ngâm tặng các thành viên hai bài “Ngâm thơ trên điện thoại” và bài “Em là con gái”. Tiếp lời Kim Sơn, anh Phùng Chí Tâm lên hát tặng các thành viên bài “Mấy vần thơ tình”, thơ của thi sĩ Thanh Tùng do anh phổ nhạc và bài “Cây xương rồng kia bừng nở hoa rồi”. Sau anh Ph ù ng Chí Tâm , anh Tấn Thuận lên ca bài “Sang ngang” của Đỗ Lễ, và cuối cùng, anh Thanh Châu, với tiếng hát át tiếng bom, hát tặng các thành viên bài “Chiến sĩ vô danh”.

Buổi họp kết thúc thật vui vẻ lúc 11g20 cùng ngày.

VŨ THƯ HỮU


MỘT CHUYỆN VUI VUI KHI ĐI MUA SÁCH ,

LIÊN QUAN TỚI MỘT CUỐN SÁCH

TƯỞNG RẺ MÀ MẮC

NHƯNG VẪN RẤT ĐÁNG CHƠI

Đã lâu lắm người viết không hề còn có hứng thú đi lùng tìm quý thư như những năm tháng trước, lý do đơn giản chỉ vì người viết đã hết “hai mươi tuổi lần thứ tư cộng 3”, và cũng còn đang ôm cả vài ngàn cuốn trong nhà. Nhưng rồi, vẫn chứng nào tật ấy, tối hôm nọ người viết lại nổi hứng ghé đường sách, và đã gặp gỡ cuốn quý thư này. Thoạt nhìn thấy nó, và vóc dáng đường bệ của nó, người viết nhìn vào giá tiền ở phía sau, và cặp mắt già nua của người viết đã khiến anh ta tưởng là 600.000 đồng, nhưng vẫn không cảm thấy mắc khi thấy cuốn sách khổ 20x28, dày 1256 trang, bìa cứng thật đẹp và cân nặng khoảng gần 4 kí lô. Để rồi đến khi cháu gái bán hàng nhìn kỹ, và cho biết giá chỉ là 400.000 đồng thì người viết thích quá, và vội cho là mình đã lâu không đi mua sách mà vẫn… còn hên, gặp cuốn sách quá rẻ so với giá cả các sách hiện nay. Thế là anh ta hí hửng mua ngay và ẵm cuốn sách về. Về tới nhà, ăn vội một chén cơm, anh ta lập tức tới với cuốn quý thư.


Cuốn sách mang tựa đề là “Minh họa thế kỷ 20” (An Illustrated History of the Twentieth Century) của một nữ tác giả, đồng thời là nhà báo Mỹ tên là Lorraine Glennon mà người viết biết rất rõ vì bà ta cùng ở trong làng Facebook với anh ta. Cuốn sách chứa đựng trong 1256 trang khoảng trên 3000 hình và tranh vẽ minh họa, tuy không có màu nhưng khá rõ (không biết nguyên bản có màu hay không) và đẹp. Sách được chia ra từng mười năm một, phần đầu tiên là từ 1900 tới 1909, phần hai từ 1910 tới 1919, phần ba từ 1920 tới 1929, và cứ như vậy cho tới phần thứ 10 là từ 1990 tới 1999.

 

Trong mỗi thập niên, nữ tác giả cho người đọc biết những sự kiện nổi bật nhất, đáng chú ý nhất, hấp dẫn nhất, về đủ mọi lãnh vực xã hội, chính trị, văn học, nghệ thuật, tôn giáo, thể thao, v.v… qua những bài viết ngắn gọn, và s úc tích được minh họa bằng hình ảnh đính kèm. Thật là kỳ thú khi, với cuốn sách, người đọc như được dẫn đi ngược dòng lịch sử và thời gian để được biết tới những sự kiện nêu trên, được biết dung nhan cơ man nào là đại văn hào, đại nghệ sĩ, đại mỹ nhân v.v… và v.v… Người viết đã dành ra trên hai giờ đồng hồ để lướt qua 125 6 trang sách và ghi vào một cuốn sổ các bài viết thuộc các lãnh vực anh ta thích để rồi trong những ngày tới sẽ từ từ… thưởng và thức.

Làm xong việc nói trên thì đã là gần 11g đêm, và điều cuối cùng người viết nghĩ vào lúc đó là mở xem cuốn sách được N hà Xuất bản Tổng Hợp TPHCM in vào năm nào? Khi thấy sách được in và nộp lưu chiểu vào năm 2006, người viết chợt hiểu ra rằng đây là lý do tại sao cuốn sách chỉ có 400.000 đồng, vì thực tế cho thấy là 400.000 đồng vào 11 năm trước thì to gấp mấy lần 400.000 đồng bây giờ, và người viết thầm cảm ơn người bán đã không tăng giá, như phần đông những người bán sách đang làm bây giờ. Và sau đó với niềm vui mua được cuốn sách hay mà rẻ, anh ta đã ngủ một giấc ngon ơi là ngon, với khá đa hảo mộng.


Sáng hôm sau, khi tỉnh dậy, chuyện vui vui liên quan tới cuốn sách này đã xảy đến, khiến anh thấy rằng suốt tối hôm trước anh đã nhầm khi tưởng mình mua được cuốn sách với giá rẻ, và chuyện này cho thấy có rất nhiều điều mình “tưởng nó vậy mà không phải vậy” và dù ở tuổi nào cũng vẫn có thề nhầm, vẫn có thể bị vỡ mộng!

Chuyện xảy ra như sau, anh lên máy tính đánh tên cuốn sách và tính khi nó hiện ra anh sẽ xem nó được bán ở các của hàng “bán sách trên mạng” với giá bao nhiêu, để vui hưởng cái giá rẻ là cái giá không thay đổi từ 11 năm trước là năm 2006 khi sách được xuất bản.

Cái giá nhà sách trên mạng đầu tiên đưa ra làm anh vỡ mộng mua rẻ cái bốp vì, lạ thay, giá cuốn sách chỉ là 280.000 đồng, và cái giá của nhà thứ nhì còn rẻ thêm 7 ngàn nữa, và cả hai nhà đều cho thấy rõ là giá trên sách là 350.000 đồng, thay vì 400.000 đồng như ghi trên cuốn anh có, và họ trừ % đi nên còn 280.000 đồng. Thấy vậy anh lật phía sau cuốn sách và thấy là có một con tem ghi 400.000 đồng được dán lên trên cái giá trên sách (mà khi bóc ra anh thấy) là 350.000 đồng. Tóm lại là sau một thời gian tưởng là mua được cuốn sách rẻ, anh mới vỡ mộng khi thấy mình phải trả hơn 120.000 đồng cho cuốn sách.

Để tâm tìm hiểu thêm một chút anh mới hiểu là với giá tiền 350.000 đ ồ ng hồi năm 2006, lúc đó cũng là hơi cao và có lẽ sách bị ế không bán được nên nhà xuất bản có thể đã bán mão cho các nhà sách trên mạng nên giờ này mới có giá rẻ thật sự như vậy! Do đó người viết muốn phổ biến để các bạn nào muốn có cuốn quý thư, khá hay và bổ ích này thì cứ lên mạng đặt hàng (sách sẽ được giao tận nhà và sau khi kiểm tra chất lượng như mới nguyên, toàn vẹn, thì mới trả tiền và lấy sách). Biết chuyện mình mua hớ, người viết hơi bực mình một chút, nhưng vốn là kẻ biết “khi buồn thì hãy cộng thêm… chữ cười!” nên người viết bỗng tự bảo mình “ôi một giây cũng đã là quá khứ” chuyện xong rồi, không thèm bực chỉ buồn và cười thôi! Và vào đúng lúc đó hắn lại khám phá ra một điều kỳ diệu nữa khiến hắn buồn cười thật sự: đó là tên của nữ tác giả cuốn sách chính xác là LORRAINE GLENNON đã bị tịch thu một chữ E trong từ LORRAINE, và được in to đùng là LORRAIN ngay mé trên bên phía trái của bìa sách. Bà bạn tác giả cuốn sách, nếu mà biết được là mình được người đời tặng thêm một tên mới thì chắc sẽ cũng… cười tươi như hắn! Hi hi vui ghê!

Trích “Hồi ký 60 năm chơi sách, chương VI”

VŨ ANH TUẤN

CÓ TẬN THẾ KHÔNG?

(Tập 11)

Đây là câu hỏi người ta đặt ra từ thời thượng cổ tới bây giờ và mãi sau này nữa. Nhiều giáo phái chẳng biết dựa vào đâu mà rao báo tận thế tới nơi đồng thời hô hào mọi tín đồ chuẩn bị cho ngày tận thế…

Cách nay hơn 10 năm ở Hàn Quốc có một vị đạo trưởng loan báo chính xác ngày tận thế đồng thời hô hào đạo hữu bán nhà cửa, vật dụng rồi nộp tiền cho vị đạo trưởng đó… nhiều người đã làm theo. Tới đúng kỳ hạn, không thấy chuyện gì xảy ra, dân chúng tố cáo, vị đạo trưởng đã bị Chính phủ bắt giam và bắt bồi thường tài sản cho các đạo hữu…

Thực ra có tận thế không? Ai làm ra tận thế? Làm thế nào để đẩy ngày tận thế lùi xa? Đó là ba vấn đề mà bài viết sẽ bàn tới.

CÓ LÀ CHUYỆN CHẮC CHẮN:

PHẦN I

1. Theo khoa học:

Theo các nhà khoa học: Trong vũ trụ có nhiều thái dương hệ, cho tới nay rất nhiều định tinh, tức là mặt trời trong thái dương hệ đó đã không còn chiếu sáng, nghĩa là đã “tắt thở”. Vậy thì mặt trời của chúng ta cũng chỉ tồn tại tối đa 13 tỷ năm nữa, sau đó ngọn lửa sẽ tắt, kéo theo cái chết của các hành tinh và vệ tinh.

Các nhà khoa học còn tính được mỗi phút qua đi, mặt trời đốt cháy 400 triệu tấn khí Helium để duy trì ngọn lửa liên tục. Lượng khí Helium tuy nhiều nhưng không phải vô tận, không thể cung cấp vô thời hạn cho mặt trời. Nguồn khí Helium cạn kiệt cũng kéo theo sự “tắt thở” của mặt trời và cả thái dương hệ. Đó chính là ngày tận thế theo khoa học.

Vũ trụ sẽ diệt vong như thế nào?

Adam Becker (BBC ngày 2/9/2015) cho biết vũ trụ sẽ đến hồi diệt vong nhưng khi nào? 6 tỉ năm nữa rất có thể, mặt trời trong cơn hấp hối sẽ phình ra thành khối lửa khổng lồ và nuốt trọn trái đất, 100 tỉ sao trong dải ngân hà, 100 tỉ ngân hà (chỉ tính những gì quan sát được) cũng sẽ tiêu tan. Dựa trên kiến thức khoa học sẽ có bốn kịch bản:

- Vụ băng giá lớn (Big Freeze)

- Vụ co lớn (Big Crunch)

- Vụ thay đổi lớn (Big Change)

- Vụ xé lớn (Big Rip)

§ Diệt vong do nhiệt: Nhiệt động lực học ra đời vào đầu 1800. Sự diệt vong do nhiệt là khả dĩ nhất. 100 năm trước đây thuyết tương đối tổng quát của Einstein cho thấy số phận vũ trụ sẽ như sau: Vật chất trong vũ trụ sẽ quyết định số phận vũ trụ. Theo Einstein, vũ trụ sẽ nở rộng ra hay thu hẹp lại chứ không duy trì kích thước cũ. Einstein nhận ra điều này năm 1917 nhưng còn e ngại. Năm 1929 nhà thiên văn Mỹ Edwin Hubble thấy bằng chứng vũ trụ đang mở rộng. Einstein nhận ra ông sai lầm về một vũ trụ tĩnh - nếu vũ trụ đang lớn dần thì kích thước của nó chắc chắn trước đây nhỏ hơn hiện nay. Việc nhận ra điều này đưa đến thuyết Big Bang.

§ Vũ trụ có tiếp tục nở? Tốc độ nào? Vũ trụ mở rộng tới cỡ vật chất bị đẩy tới ngưỡng sống còn, không đủ trọng lực nữa, mọi thứ trở nên tan rã cuối cùng là cảnh hủy diệt trong băng giá (Big Freeze).

§ Big Crunch: Nếu vật chất quá lớn, sự mở rộng vũ trụ sẽ chậm lại và dừng rồi bắt đầu thu nhỏ lại sẽ nóng hơn, đảo ngược với Big Bang bằng Big Crunch.

§ Cuối thế kỷ 20 - 1998 hai nhóm nghiên cứu vũ trụ cùng nhất trí - vũ trụ trương nở cách nhanh chóng năng lượng tối hút vũ trụ vào nó khiến vũ trụ co lại… trong quá trình biến đổi, có sự giằng xé và làm vũ trụ tan nát - Big Rip.

Đó là những giả thuyết khoa học hiện đại về tận thế.

Tin Tức 24h ngày 3/7/2015 (btv Trùng Quang) : Các nhà khoa học Mỹ tìm thấy bằng chứng một vụ nổ trái đất là không thể tránh khỏi. Các khoa học gia Đại học Vanderbilt (Mỹ) phát hiện mô hình mới về động lực học chất lỏng giải thích sự giãn nở của trái đất không cần tới năng lượng mạnh. Kết quả trái đất sẽ nổ tung… Lý thuyết 22 tỉ năm nữa trái đất sẽ nổ với phần còn lại của vũ trụ. Kết thúc với vụ Rách Lớn (Big Rip) giãn nở từ bên trong, xé rách, nổ… Nhà khoa học Robert Scherrer Đại học Vanderbilt: “Trong các mô hình trước đây viễn cảnh Big Rip là điều không thể xảy ra. Trong mô hình mới, độ nhiệt sẽ đưa vũ trụ tới điểm cuối con đường diệt vong”. Trước đây có nhiều kịch bản diệt vong như Big Freeze, Red Giant… tất cả đều tập trung vào nhiệt theo đó vũ trụ không còn khả năng sinh nhiệt để duy trì sự sống… Mặt trời hết, Helium sẽ tắt…

Bên trong nơi trú ẩn ngày tận thế” - Báo Thanh Niên số 317 ngày 13/11/2015:

Khu phức hợp The Oppidum ở Cộng hòa Czech được xem là địa điểm trú ngụ lớn nhất thế giới trong ngày tận thế.

The Oppidum tọa lạc trong một thung lũng yên bình ở Cộng hòa Czech, tiếp giáp với một vùng quê tuyệt đẹp của xứ sở này. Nhìn từ trên cao, khu phức hợp trông như một trung tâm hành chính khổng lồ với những tòa nhà thấp tầng được bao bọc bởi các bức tường cao xung quanh. Trải rộng trên diện tích hơn 30.000m2 với phần công trình ngầm khoét sâu vào đá, The Oppidum tạo cảm giác đây là một nơi trú ẩn tuyệt đối an toàn cho “ngày tận thế”.

Không chỉ là boong ke: Theo tạp chí Forbes, khu phức hợp này không đơn thuần là một boong ke ngầm để sử dụng cho những thời khắc nguy hiểm… Toàn bộ công trình Oppidum có thể được vận hành từ một trung tâm kiểm soát dưới lòng đất có hệ thống kết nối riêng biệt với các mạng thông tin liên lạc nội bộ và thế giới bên ngoài. Địa điểm chính xác của Oppidum không được công bố rộng rãi, chỉ biết rằng nó tọa lạc gần thủ đô Prague và cách thủ đô London của Anh và Moscow của Nga chưa đầy 2 giờ di chuyển bằng máy bay riêng. Trong những tình huống khẩn cấp chưa đến mức “tận thế”, boong ke ngầm tại The Oppidum sẽ giúp các cư dân sống sót qua những thảm họa thiên nhiên và nhân tạo. Khu phức hợp sẽ cho phép các cư dân sinh sống đến tận 10 năm mà không cần nguồn tiếp tế từ bên ngoài. The Oppidium được xây dựng trong thời gian từ năm 1984 - 1994, thời điểm tình trạng bất ổn toàn cầu và khả năng vũ khí hủy diệt hàng loạt được sử dụng là rất thật. Hiện trạng The Oppidum ngày nay là công trình sáng tạo của ông Jakub Zamrazil, một doanh nhân Czech có nhiều thành tựu trong việc phát triển, kinh doanh và tiếp thị địa ốc. Là một giải pháp chạy trốn ngày tận thế cho các tỉ phú. Tờ Daily Mail dẫn lời ông Sándor.

2. Theo lý trí:

Theo suy luận của lý trí loài người: Tất cả những gì ở trong vũ trụ này có bắt đầu thì cũng phải có kết thúc. Nhà thờ Đức Bà xây vững chắc như vậy mà trải qua hơn 100 năm đã xuống cấp trầm trọng, cần tu sửa gấp mới có thể đứng vững được một khoảng thời gian nữa.

Chúng ta hay “lạm ngôn” khi tuyên bố đã xây công trình này, công trình kia vĩnh cửu. Chẳng hạn chúng ta đã thay được bao nhiêu cây cầu tre lắt lẻo bằng những cầu bêtông vĩnh cửu,… Chẳng có gì vĩnh cửu ở trần gian này cả, đó là điều mà lý trí chúng ta nhận ra.

3. Theo Đức tin:

Theo Thánh Kinh: Chắc chắn có ngày tận thế, cũng là ngày Chúa Giêsu tái lâm, xét xử kẻ sống và người chết để thưởng phạt công minh mỗi người, đền bù sòng phẳng mọi nỗi oan khiên người ta đã phải chịu.

- “Khi Con Người đến trong vinh quang của Người, có tất cả các thiên thần hầu cận, Người sẽ ngự trên ngai vinh hiển của Người. Muôn dân sẽ được tập họp trước mặt Người. Người sẽ tách biệt họ ra như mục tử tách chiên (kẻ lành) ra khỏi dê (kẻ dữ). Chiên thì cho đứng bên phải, còn dê thì ở bên trái… Bấy giờ họ sẽ ra đi: Những kẻ dữ vào chốn cực hình muôn thuở (Hỏa ngục), còn những người lành đến hưởng sự sống muôn đời (Thiên đàng)” (Mt 26,31-46).

- “Thầy bảo thật anh em, trước khi trời đất này sẽ qua đi, thì một chấm một phết trong Lề Luật cũng sẽ không qua đi, cho đến khi mọi sự được hoàn thành” (Mt 5,18).

- “Trời đất này sẽ qua đi” (Lc 21,33).

- “Bộ mặt thế gian đang biến đi” (1Cr 7,31),

- “Theo lời Thiên Chúa hứa, chúng ta mong đợi trời mới đất mới nơi công lý ngự trị” (2Pr 3,13).

- Ngày tận thế cũng là ngày Chúa phán xét mọi người cách công minh vô cùng, mọi điều lành dù nhỏ bé như cho nhau một chén nước lã cũng được thưởng công. Mọi việc dữ dù chỉ là món nợ 1 xu cũng phải đền đủ. Bản tính con người yếu đuối làm lành thì khó, làm dữ thì dễ cho nên “Ngày Đức Chúa đến phán xét là ngày trọng đại và kinh hoàng” (Ml 3,23-24).

- Ngày tận thế Chúa Giêsu lại đến thế gian để phán xét kẻ sống và kẻ chết chắc chắn sẽ xảy ra nhưng không ai có thể biết rõ thời điểm nào. “Thưa anh em, về ngày của Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta quang lâm và tập hợp chúng ta về với Người tôi xin anh em điều này: nếu có ai bảo rằng chúng tôi đã được Thần Khí mặc khải hoặc đã nói, đã viết thư quả quyết rằng ngày của Chúa sắp đến, thì anh em đừng vội để cho tinh thần dao động cũng đừng hoảng sợ. Đừng để ai lừa dối anh em bất cứ cách nào” (nghĩa là đừng tin - 2Tx 2,1-3a).

- “Xin Thầy nói rõ cho chúng con biết: bao giờ các sự việc ấy (tận thế) xảy đến và khi tất cả sắp đến hồi chung cuộc thì có điềm gì báo trước?”. (Đức Giêsu trả lời): “Còn về ngày hay giờ đó thì không ai biết được ngay cả các thiên sứ trên trời hay Con Người cũng không biết, chỉ có Chúa Cha biết mà thôi” (Mc 13,4.32) [do đó ai nói ngày nào, năm nào tận thế là nói dóc]. Vậy: “Anh em phải coi chừng, phải tỉnh thức (sẵn sàng luôn) vì anh em không biết khi nào thời ấy đến” (Mc 13,33).

Lưu ý: Ngày tận thế không ai biết được, có thể còn rất xa, nhưng ngày con người lìa đời, ra trình diện Chúa thì mỗi người nắm chắc không xa, vì quỹ thời gian tối đa:

Ba vạn sáu ngàn ngày là mấy.

Cảnh phù du trông thấy cũng nực cười

(Nguyễn Công Trứ)

Thế nên mọi người phải sẵn sàng cho hậu sự của linh hồn mình.

Thực trạng thế giới hôm nay cho chúng ta thấy chính loài người làm ra tận thế qua việc hủy diệt môi trường sống của con người và muôn loài: khí thải vượt mức sinh ra hiệu ứng nhà kính, tầng ôzôn bị thủng, mưa acid… phá sạch rừng, chận mọi dòng nước làm thủy điện, bức tử các dòng sông - Rác thải ngập đầu ngập cổ, trung bình mỗi ngày T/p Hồ Chí Minh xả 7.000 - 7.500 tấn rác (Hải Nam, báo Thanh Niên ngày 12/11/2015), không còn chỗ đâu mà chứa… Chất thải hóa học từ các nhà máy làm ô nhiễm mọi nguồn nước… nhất là chất thải nguyên tử, phóng xạ chôn vùi trong lòng đất. Chưa kể lò thuốc súng đạn và các lò nguyên tử của thế giới mà phát nổ thì ai mà sống được !

Chính vì nhìn thấy nguy cơ hủy diệt do chính con người tự tạo ra qua việc hủy hoại môi trường nên Đức Giáo hoàng Phanxicô đã ra thông điệp “Laudato Sí” gửi toàn thế giới như một lời cảnh báo. Xin mời mọi người tìm hiểu để cùng nhau bảo vệ “Ngôi nhà chung là Trái đất” mà Chúa đã tặng chúng ta.

PHẦN 2: AI LÀM RA TẬN THẾ?

Cuối năm 2012 nhiều nơi trên thế giới trong đó có cả Việt Nam xôn xao, lo âu về tin đồn tận thế.

1. Báo Tuổi Trẻ & Đời Sống ngày 28/3/2013 btv Như Ý có bài: “Sợ Tận Thế” - Giáo phái bí ẩn lập “tu viện” trên internet: Cuối năm 2012, người dân khắp hành tinh đã hoảng loạn trước tin đồn “tận thế” được cho là sẽ xảy ra vào ngày 21/12/2012.

2. Báo Người Hà Nội cuối tuần số 24 từ 1 - 7/12/2012 có bài: “Hé lộ bí mật về ngày tận thế 2012 làm sôi sục thế giới khoa học” - Gần đây cư dân mạng lại hoang mang khi xuất hiện những thông tin về dự báo tận thế trong năm 2012. Theo đó có ý kiến cho rằng thế giới sẽ sụp đổ vào hôm 21/12/2012 sau đó lại được đính chính là ngày 23/12/2012. Đây cũng là một cơn đại hồng thủy sẽ xảy ra theo lịch của nền văn minh Maya cổ (ngày 21/12/2012 là ngày kết thúc lịch của dân tộc Maya, một dân đã vắng bóng từ lâu trên thế giới, hiện nay chỉ còn những kim tự tháp và vết tích xây dựng của họ ở Nam Mỹ mà thôi). Để giải mã những bí ẩn về “ngày tận thế” giới khoa học Việt Nam tỏ ra hết sức thận trọng trước thông tin này.

3. Người viết mới có thêm đồng minh Kim Ngà, một biên tập viên cũng chủ trương “thảm họa môi trường, chiến tranh hạt nhân, dịch bệnh lớn… là những nguyên nhân có thể dẫn đến ngày tận thế” (Kim Ngà, báo KTNN số 919 ngày 20/2/2016). Thiên hạ mấy ai xác tín điều này? Họ vẫn hoang mang về những tin đồn tận thế. Đây lại là cơ hội để những tỷ phú “biểu dương lực lượng chống tận thế”. Ngoài The Oppidum (Cộng Hòa Czech) như đã nêu ở trên còn có:

ü Luxury Survival Condor (Mỹ) - Xilo cũ để tránh thảm họa hạt nhân biến thành nơi ẩn náu sang trọng từ 2012 (năm tận thế?) do Larry Hall thiết kế ở độ sâu 53m dưới mặt đất từ một vùng hẻo lánh ở Kansas với những cánh cửa thép nặng 15 tấn.

ü Vivos Europa One (Mỹ và Đức) - Bunker được khởi công xây dựng từ 2008 tại Indiana (Mỹ) và gần đây là Europa One ở Rothenstein (Đức). Bunker này có thể nuôi sống gần 500 người ít nhất trong một năm ở một không gian ngầm 70.000m2 với 5km đường hầm… không gian riêng cho một người là 35.000 Euro…

ü Waterwood Estate (Mỹ) – Bunker thôn dã của triệu phú Don Brown xây dựng thập niên 1980 với dinh cơ 5.350m2 giữa đồng cỏ 68 ha tại bang Ohio. Thế nhưng ông bà Brown không phải trải qua ngày tận thế vì họ đã chết trong một tai nạn máy bay năm 2010.

ü Martello Tower Y (Anh) - Thành trì này nằm ở bờ biển Suffolk, miền đông nước Anh với những bức tường gạch dầy 3m thiết kế bởi chuyên gia nổi tiếng Duncan Jackson.

ü Villa Vals (Thụy Sỹ) - Dinh cơ này nằm sâu trong vùng núi Thụy Sỹ với các đỉnh núi. Các phòng rộng 160m2 đúc bêtông… có cả một sân thượng 60m2 để người ta ngắm đỉnh núi phủ tuyết… trước khi tận thế. Tất cả đã được nghĩ đến để các tỉ phú có thể tận hưởng cuộc sống trong vòng 10 năm sau khi hành tinh bị thảm họa (tận thế) (Kim Ngà - Báo KTNN số 919). Đúng là những con người ngông cuồng, thừa tiền dư bạc họ cứ nghĩ tận thế ở đâu đó ập xuống mà không biết tận thế đang đến từ nguồn nước ô nhiễm họ sử dụng, thực phẩm chứa hóa chất nguy hiểm họ ăn vào, không khí độc hại họ hít thở… và bệnh tật nhất là ung thư, sida… như những tên nằm vùng từ chính bản thân họ phát tán ra…

Chúng ta hãy lắng nghe những “Hồi chuông báo tử”:

Hồi chuông báo tử số 1

Ô nhiễm nguồn nước: Bức tử sông Đồng Nai, con sông huyết mạch của miền Đông Nam bộ ảnh hưởng trên mấy chục triệu dân trong đó có 10 triệu dân Tp.HCM.

Trường hợp Công ty Cổ phần Dịch vụ X xả thải ra sông Đồng Nai:

* Ngoài việc bị Cục Cảnh sát điều tra tội phạm về môi trường (C49) Bộ Công an bắt quả tang xả thải ra sông Đồng Nai vào khuya ngày 3/8/2011, Công ty CP-DV X còn nhiều lần bị xử phạt hành chính do vi phạm bảo vệ môi trường.

Hôm 5/8/2011, Sở TN-MT Đồng Nai đã có buổi làm việc với Cty CP-DV X để xem xét toàn bộ nội dung vi phạm về lĩnh vực môi trường. Qua kiểm tra thực tế, Sở TN-MT ghi nhận hệ thống vi sinh đã bị hư hỏng, đường ống dẫn hóa chất vào bể khử trùng và hệ thống khử màu không hoạt động. Giải trình với cơ quan chức năng, Cty X lấy lý do một số doanh nghiệp dệt nhuộm có lưu lượng xả thải lớn với nhiệt độ và độ màu vượt giới hạn nên khi nhà máy tiếp nhận để xử lý đã làm ảnh hưởng đến việc xử lý sinh học. Trong quá trình tiến hành nâng cấp xử lý hóa lý lên bậc 2 thì đã bị C49 bắt quả tang (Cty CP-DV X là công ty mẹ, thầu xử lý nước thải của hơn 40 công ty con).

Theo báo cáo của Thanh tra Sở TN-MT Đồng Nai, Cty CP-DV X đã nhiều lần vi phạm quy định bảo vệ môi trường. Cụ thể năm 2009, đã 2 lần bị các cơ quan chức năng của tỉnh Đồng Nai xử phạt 34 triệu đồng về hành vi xả nước thải vượt tiêu chuẩn cho phép từ 2 đến dưới 5 lần. Đến năm 2010, bị Bộ TN-MT phạt số tiền 31 triệu đồng về hành vi thực hiện không đúng nội dung báo cáo đánh giá tác động môi trường; quản lý vận chuyển xử lý chất thải nguy hại không đúng quy định ; xả nước thải vượt tiêu chuẩn cho phép từ 2 đến dưới 5 lần. Đầu năm 2011, Thanh tra Tổng cục Môi trường phát hiện nước thải sau xử lý tại rạch Bà Chèo (của KCN Long Thành) tiêu chuẩn về độ màu vượt 1,4 lần, coliform vượt 1,86 lần, mẫu nước mưa tại cửa xả cống số 4 vượt 3,9 lần, nitơ vượt 1,4 lần… Sau đó, Thanh tra Tổng cục Môi trường (Bộ TN-MT) ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính số tiền 75 triệu đồng. Vừa mới nộp phạt xong thì đến nay, công ty này lại bị C49 bắt quả tang về vi phạm môi trường.

Trở lại khu vực rạch Bà Chèo vào sáng qua để tìm hiểu cuộc sống của người dân ở đây, chúng tôi gặp ông Lê Hộ (ấp 2, xã Tam An, Long Thành). “Chúng tôi ở cách con rạch này hơn 200m, nhưng nhiều năm nay, cứ nửa đêm là chúng tôi thở không nổi do xả thải. Các vườn cây ăn trái gần đây đều chết rạp, gà vịt không dám ra gần suối vì hơi nóng của nước thải và mức ô nhiễm quá cao. Lần nào tiếp xúc cử tri, dân cũng kiến nghị mà có ai giải quyết đâu?”, ông Lê Hộ bức xúc. Còn ông Kiều Hoàng Anh, Trưởng ấp 2, xã Tam An cũng nói gay gắt: “Suốt nhiều năm nay chúng tôi phát hiện cứ nửa đêm là bị xả nước thải ô nhiễm, không tài nào chịu được. Chúng tôi phản ánh nhiều lần nhưng họ chỉ nói là do sự cố nhưng không khắc phục. Sau đó họ vẫn xả năm này qua năm khác”.

Trả lời câu hỏi của Báo Thanh Niên: Vì sao là một doanh nghiệp nhà nước luôn được tỉnh Đồng Nai ca ngợi là đơn vị làm tốt công tác bảo vệ môi trường, nay lại xảy ra việc bê bối trong xả thải?”, Giám đốc Sở TN-MT Đồng Nai Lê Viết Hưng cho biết: “Sau khi có thông tin C49 bắt quả tang KCN Long Thành xả nước thải không đạt tiêu chuẩn ra môi trường, tôi hoàn toàn bất ngờ nên đã chỉ đạo kiểm tra ngay. Tôi bất ngờ ở chỗ Công ty X là doanh nghiệp nhà nước có thương hiệu mạnh, được đánh giá tốt toàn diện trong lĩnh vực môi trường nhưng lại để xảy ra sự cố này. Tuy nhiên sai phạm như thế nào cần phải chờ cho đến khi C49 kết luận”. (Kim Cương, báo TN ngày 6/8/2011)

Công ty X không có cái gì là gian dối

Chủ tịch Hội đồng quản trị Tổng công ty phát triển KCN, nhất mực khẳng định như vậy khi trả lời phỏng vấn báo chí chiều ngày 5/8/2011.

Cuộc phỏng vấn diễn ra sau sự việc Cục Cảnh sát phòng chống tội phạm môi trường (C49) Bộ Công an bắt quả tang Nhà máy xử lý nước thải tập trung của Cty CP-DV X (KCN Long Thành, Đồng Nai) xả nước thải không đạt tiêu chuẩn ra môi trường.

- Rạng sáng ngày 4/8, Cục Cảnh sát phòng chống tội phạm môi trường (C49) Bộ Công an bắt quả tang Nhà máy xử lý nước thải tập trung X (KCN Long Thành, Đồng Nai) xả nước thải không đạt tiêu chuẩn ra môi trường, Chủ tịch HĐQT đã được báo cáo về thông tin này chưa?

- Về cơ bản chủ trương của Cty X lúc nào cũng làm theo đúng quy định của pháp luật. Hiện công ty đang xem xét kỹ thuật, lúc nào có thông tin thì tôi sẽ cung cấp.

- Theo kết luận ban đầu của C49 thì đại diện phía công ty cũng đã ký vào biên bản rồi .

- Bạn đã coi biên bản đó chưa?

- Nói như vậy nghĩa là Chủ tịch khẳng định không có biên bản đó?

- Tới giờ này tôi chưa có thông tin đầy đủ nên tôi chưa thể trả lời được.

- Chủ tịch đã nhận được báo cáo của công ty về vụ việc này chưa?

- Thứ nhất, đó là công ty thành viên, thứ hai là chuyện này có thể trên tổng công ty họ sẽ có báo cáo sau.

- Nhưng là Chủ tịch, chẳng lẽ đến giờ này vẫn chưa nhận được báo cáo về vụ việc này?

- Đến giờ này báo cáo chi tiết thì chưa.

- Vậy thông tin ban đầu Chủ tịch nhận được như thế nào?

- Về nguyên lý thì lúc nào Cty X cũng làm theo đúng quy định.

- Chủ tịch bình luận thế nào về thông tin C49 đưa ra?

- Cái đó sẽ có buổi làm việc cụ thể, chi tiết sau.

- Khi nào Chủ tịch sẽ làm việc với cơ quan chức năng về vụ việc này?

- Hiện tôi đang họp. Khi nào họp xong tôi sẽ về làm việc với các cơ quan chức năng về vấn đề trên.

- Thông tin phía C49 đưa ra về việc xả thải chưa qua xử lý trong một đêm tới 9.300m3 và việc lắp đường ống ngầm đấu nối từ trong nhà máy ra hồ sinh thái thì sao?

- Đảm bảo rằng Cty X không có cái gì là gian dối.

- Trong chương trình hành động , Chủ tịch đã khẳng định quyết tâm bảo vệ môi trường...?

- (Ngắt lời) Đương nhiên đó là quan điểm từ đầu đến cuối nhất quán của Cty X.

Báo TN ngày 6/8/2011, Bảo Cầm (ghi)

Về tiến độ điều tra, thông tin từ C49 cho hay, đã lấy 3 mẫu nước tại bể xử lý sinh học và 1 mẫu bùn thải để tiến hành kiểm nghiệm. Trao đổi với báo Thanh Niên, đại tá Phan Hữu Vinh, Phó cục trưởng C49 nói, qua kiểm tra cho thấy hệ thống xử lý chưa đạt yêu cầu khi thải ra môi trường. Tuy nhiên, hiện nhà máy đã đấu nối với hơn 40 công ty nên nếu đề nghị ngưng hoạt động sẽ ảnh hưởng đến toàn bộ hoạt động các doanh nghiệp. Do đó, sau khi có kết quả phân tích mẫu sẽ có biện pháp xử lý tiếp theo.

Ông Võ Tuấn Nhân, Phó chủ nhiệm Ủy ban Khoa học công nghệ - môi trường của Quốc hội: “ Cần xử nghiêm hành vi xả thải ra môi trường ”:

Vụ Vedan xả thải chưa qua xử lý ra sông Thị Vải (Đồng Nai), chúng ta đã yêu cầu Chính phủ có chế tài xử lý thì tương tự như thế chúng ta phải tiếp tục, bất cứ công trình nào vi phạm xả thải, cũng phải xử lý nghiêm túc đúng pháp luật.

Luật Bảo vệ môi trường đòi hỏi phải có phê duyệt đánh giá tác động môi trường các nhà máy, hiện nay đa số được phê duyệt hết các đánh giá tác động nhưng trong quá trình thực thi chưa thực hiện được đúng như báo cáo đánh giá đó. Tình trạng này diễn ra trên thực tế rất nhiều. Do vậy yêu cầu các cơ quan quản lý tăng cường trách nhiệm hơn và phải chế tài nghiêm khắc với doanh nghiệp, khi triển khai đến thời điểm nào phải hoàn thành những công việc theo đánh giá tác động môi trường thì được phê duyệt đến đó. Theo tôi nếu đảm bảo đúng như cam kết đánh giá tác động môi trường đã được phê duyệt thì ô nhiễm là đương nhiên nhưng ở mức độ cho phép, còn hiện nay, các công ty xả thải ra môi trường vượt quá mức độ cho phép thì đây là việc chưa thực thi đúng quy định pháp luật, cần phải xử lý nghiêm minh và có chế tài mạnh mẽ.

Báo Thanh Niên ngày 07/08/2011 phóng viên Kim Cương đăng tiếp với bài “ Khó phủ nhận trách nhiệm ”:

Với những gì đang xảy ra tại rạch Bà Chèo, khó có thể phủ nhận “Cty X không có cái gì gian dối” như phát biểu của Chủ tịch HĐQT kiêm Tổng giám đốc Tổng công ty X.

Sáng ngày 6/8, trở lại rạch Bà Chèo, nhiều người dân bày tỏ bức xúc trước phát biểu của Chủ tịch HĐQT trên Báo Thanh Niên. Sống gần hồ sinh thái chứa nước thải của Nhà máy xử lý nước thải của Cty CP-DV X, gia đình bà Lê Thị Năm (75 tuổi, ngụ ấp 2, xã Tam An, huyện Long Thành) có 8 đìa nuôi tôm cá nhưng nay đã phải bỏ hoang vì nguồn nước quá ô nhiễm, tôm cá không thể sống nổi. Còn anh Nguyễn Văn Nhân (trú ấp 2) cho biết anh làm nghề đánh bắt cá từ nhiều năm nay trên các con rạch như Rạch Mương, rạch Bà Chèo… thế nhưng mấy năm nay thì hầu như không làm ăn được gì. “Cá tôm làm gì mà sống nổi với nguồn nước đen ngòm, đặc quánh như nhớt xe mỗi khi nước thủy triều rút xuống”, anh Nhân thở dài.

Nhiều hộ dân còn cho biết thêm, việc chăn nuôi gia cầm cũng không phát triển được vì mỗi khi uống phải nước ô nhiễm thì gà, vịt cũng lăn ra chết. Nhiều vườn sầu riêng và vườn dâu của người dân ven con rạch cũng phải đốn bỏ do bị thối gốc. “Trước việc nguồn nước bị ô nhiễm từ nước thải các nhà máy trong KCN Long Thành, chúng tôi đã có những phản ánh lên chính quyền các cấp, ngành nhưng đến nay chưa được giải quyết, cuối cùng phải cắn răng, chấp nhận sống chung với ô nhiễm”, một người dân nói.

Đi cùng với chúng tôi, anh Nguyễn Thành Phát bức xúc: “Việc gây ô nhiễm nhiều năm qua làm dân chúng tôi điêu đứng. Vậy mà lãnh đạo Tổng công ty X bảo không có gì gian dối. Chúng tôi mong cơ quan quản lý môi trường có đánh giá sai phạm và tính toán thiệt hại cho chúng tôi để lấy cơ sở đòi bồi thường”.

“Công nghệ” xả trộm.

Khó có thể phủ nhận “Cty X không có cái gì gian dối” với chứng cứ mà Cục Cảnh sát phòng chống tội phạm về môi trường (C49) Bộ Công an lập vào ngày 4/8, trong đó có đề cập đến hành vi xả thải tinh vi.

Theo biên bản, nhà máy xử lý nước thải đã đặt tại hồ sinh thái một cửa xả sử dụng bằng khóa van tay nằm sâu dưới đất khoảng 80 - 100 cm. Sử dụng khóa van này, có thể đưa nước từ rạch Bà Chèo vào hồ khi thủy triều lên và xả ra khi thủy triều xuống thấp. Vào thời điểm lập biên bản (23 giờ 15 phút ngày 3/8), van khóa này được mở để nước từ trong hồ chảy ra rạch Bà Chèo, ra sông Đồng Nai với màu đen đặc và bốc mùi hôi thối.

Một trinh sát C49 cho biết: “Sau hơn một tháng theo dõi, chúng tôi phát hiện quy luật của nhà máy này như sau: do nước thải sau khi xử lý không đạt tiêu chuẩn, nếu thải ra rạch Bà Chèo rất dễ bị phát hiện nên họ tìm cách pha loãng với nước sông Đồng Nai. Rồi lợi dụng lúc thủy triều xuống hoặc trời mưa lớn, thì mở van để tống nước thải ra sông”.

Cũng trong biên bản làm việc, Phó tổng giám đốc Cty CP-DV X thừa nhận để giảm chỉ tiêu xử lý ô nhiễm trong nước thải, công ty đợi khi thủy triều lên sẽ tích nước để pha loãng ô nhiễm, khi thủy triều rút kéo theo toàn bộ nước thải ra rạch Bà Chèo để chảy ra sông Đồng Nai.

Cũng cần nhắc lại, đây không phải lần đầu Cty CP-DV X bị phát hiện hành vi gây ô nhiễm. Năm 2009, công ty này bị cơ quan chức năng tỉnh Đồng Nai xử phạt 34 triệu đồng (2 lần) do xả nước thải vượt tiêu chuẩn cho phép từ 2 đến 5 lần. Năm 2010, công ty bị Thanh tra Tổng cục Môi trường (Bộ TN-MT) xử phạt 31 triệu đồng và đến tháng 2/2011 bị phạt tiếp 75 triệu đồng về hành vi tương tự...

Nhiều doanh nghiệp bức xúc.

Vào thời điểm mà C49 bắt quả tang, Cty CP-DV X đang tiếp nhận xử lý nước thải cho 42 doanh nghiệp (trong đó có đến 80% nước thải từ dệt nhuộm). Sau khi nghe tin nhà máy xử lý bị C49 bắt quả tang xả nước thải chưa đạt tiêu chuẩn ra sông Đồng Nai, một số doanh nghiệp tỏ ra lo lắng. Lãnh đạo một công ty dệt (đề nghị không nêu tên) cho biết: “Trước khi đầu tư, chúng tôi tin tưởng vào sự quảng bá của Cty X nên mới ký hợp đồng xử lý nước thải. Nay thấy nhà máy bị bắt quả tang, nếu nặng đến mức cơ quan chức năng phải đình chỉ hoạt động thì ảnh hưởng rất lớn đến doanh nghiệp chúng tôi”.

Lãnh đạo một nhà máy len đóng tại KCN Long Thành cũng bức xúc: “X nhận tiền xử lý nước thải, nhưng xả thải không đạt chuẩn là khó chấp nhận. Với những gì đang diễn ra thì họ đã lừa dối chúng tôi(Kim Cương).

NHẬN ĐỊNH

a. Chuyện rõ mười mươi như vậy mà người có trách nhiệm vẫn quả quyết “không gian dối”, không biết lương tâm họ thế nào?

b. Bị phạt nhiều lần vì vi phạm, mỗi lần phạt mấy chục triệu, số tiền này có làm cho môi trường sạch như cũ không? Cả đống dân bị hại có được ai đền bù “sòng phẳng” cho họ không?

c. Cứ đà này thì sông Đồng Nai và bất cứ con sông, cái biển nào cũng bị bức tử, vấn đề là thời gian mà thôi, vì xử lý cách nào cũng còn bẩn, trừ khi chưng cất cho bốc hơi thì mới sạch được, nhưng vẫn còn cặn tức là còn ô nhiễm.

Sự thật được phơi bày, nhưng chưa đầy đủ và cũng chưa “giải phóng” chúng ta được.

Trong khi đó người có trách nhiệm chối bỏ sự thật rành rành về những sai phạm của Cty X, để hằng ngày cứ thu tiền xử lý nước thải của 42 công ty con nhưng lại xả nước bẩn mỗi ngày gần 10.000m3 (một tháng là gần 300.000m3, một năm gần 3.600.000m3, chưa tính lâu hơn nữa). Bao nhiêu chất độc hại, cặn bã hòa vào nước sông Đồng Nai, rồi người dân phải trả tiền để mua lại nước ô nhiễm này về sử dụng, hậu quả tất yếu là bệnh tật và chết chóc, chỉ có Trời mới đo lường được hậu quả tai hại này. Ấy thế mà đối với xã hội của ta dường như đó chỉ là chuyện nhỏ, báo chí la to nhưng chỉ ỉm đi ít bữa rồi đâu cũng lại vào đấy, có ai mà kiểm tra mỗi ngày tất cả các nhà máy được. Quy trình: “Cam kết rồi kiểm tra, rồi phạt xong lại cam kết, lại kiểm tra, lại phạt”, cứ như bánh xe luân hồi vậy.

Cuối cùng thì Cty X bị xử phạt do xả thải vượt quy chuẩn từ 5-10 lần trong trường hợp thải lượng nước thải từ 5000m3/ngày đêm - thực hiện không đúng, không đầy đủ các nội dung trong cam kết bảo vệ môi trường đã được duyệt - vận hành không đúng, không đầy đủ, không thường xuyên hệ xử lý nước thải dẫn đến nước thải sau xử lý không đạt chuẩn. Tổng mức tiền phạt cho cả 3 hành vi trên là 405 triệu đồng (Nguyễn Triều, báo Tuổi Trẻ ngày 8/10/2011).

Chúng ta thử hỏi 405 triệu tiền phạt có lọc sạch được hết chất dơ bẩn đã thải ra sông Đồng Nai, đã ngấm xuống lòng đất, mạch nước ngầm, đã xâm nhập vào cỏ cây, tôm cá và con người, làm hại sức khỏe, gây bao bệnh tật và có bảo đảm sau khi nộp phạt nước thải sẽ sạch như nước tự nhiên không? Xin mọi người cho câu trả lời.

Chúng ta có cảm tưởng rằng do đất nước còn nghèo, mọi người quyết vươn lên, các tỉnh cố mời gọi các nhà máy, công ty nhất là nước ngoài về tỉnh đầu tư để dân có việc làm, tỉnh có ngân quỹ nhưng dường như chỉ chú tâm vào vấn đề đầu tư mà lơ là, coi nhẹ vấn đề chất thải của các nhà máy phá hoại môi trường… người dân lãnh đủ.

(còn tiếp)

Lm. Joseph NGUYỄN HỮU TRIẾT


Phụ Bản I

KINH VÔ TỰ

Một thời dư luận xôn xao khi Phim Tây Du Ký được trình chiếu. Phải nói là sức hấp dẫn của bộ phim rất lớn, tuổi nào cũng tìm được điểm yêu thích trong đó, trẻ con là số một, tới giờ chiếu phim là ngoài đường không thấy có bóng dáng đứa trẻ nào, vì chúng đang ngồi dán mắt vô màn hình để theo dõi phim! Phong cảnh hùng vĩ, hình ảnh rất đẹp, cộng thêm những nhân vật đã ngộ nghĩnh lại có phép thần thông biến hóa. Nhất là chú khỉ Tôn Ngộ Không, do Lục Tiểu Linh Đồng đóng, linh hoạt, hấp dẫn không chê vào đâu được! Anh xuất thân từ một gia đình mấy đời “chuyên trị” vai Tôn Ngộ Không, cho nên từ thần thái cho đến cử chỉ đều y hệt Tề Thiên, khó ai có thể đóng vai này hay hơn được!

Khán giả mỗi người nhìn một góc độ. Người đơn giản tin rằng Phật là Thần Linh, Chư vị Bồ Tát lúc nào cũng ứng cứu khi có ai đó hữu sự cầu xin thì trong phim có rất nhiều lần Quan Âm Bồ Tát xuất hiện để cứu khi Tam Tạng bị nạn, nên càng thêm tin tưởng vào Đạo. Nhất là khi thấy Tề Thiên Đại Thánh, có đến 72 phép thần thông, thiên đình còn phải nể một phần, vậy mà gặp Phật Tổ là phải chịu khuất phục, nằm chết dí dưới 5 ngọn núi, không tài nào chui ra được cho đến khi được tha!

Người khó tính, hay xét nét thì thấy là rốt cuộc những loài yêu nghiệt đi hại người trong phim, khi phát hiện thì lúc nào cũng là “thú cưng” của một vị thần tiên cao cấp nào đó! Nhưng phải nói chỗ mà nhiều nguời bất bình nhất, là nói về thái độ đòi hối lộ của hai vị Đại Đệ Tử của Phật Tổ Như Lai là Ngài Ca Diếp và Ngài A Nan. Hai Ngài đã thẳng thừng đòi phải trao đổi thứ gì đó thì mới đưa Bộ Kinh Đại Tự cho Tam Tạng! Thậm chí trong phim còn cho rằng việc đòi hối lộ đó là do sự sắp xếp của Phật Tổ, nên khi Tôn Ngộ Không đi khiếu nại chẳng những không được giải quyết còn bị mắng cho!

Không ai có thể chấp nhận được việc đem hai vị Tổ lớn nhất của Đạo Phật, kể cả Phật Tổ để bôi bác - dù có thể ngụ ý của Ngô Thừa Ân là nói về người tu hành nếu muốn được Đạo Quả thì phải xả cho bằng hết, không được ôm giữ thứ gì - trong phim là món quà bằng vàng của vua ban cho Đường Tăng trước lúc đi thỉnh Kinh!

Theo tôi, hẳn là Ngô Thừa Ân cũng có nghiên cứu và rất là mến mộ Đạo Phật, nên mới phóng tác dựa theo một câu chuyện có thật, là Thầy Huyền Trang đời Đường, đi Tây Trúc thỉnh Kinh, thành bộ truyện Tây Du Ký. Ông muốn tả về những gian khổ, kiếp nạn mà Pháp Sư Huyền Trang gặp phải trên đường đi cho đến khi hoàn thành sứ mạng, sẵn dịp hư cấu thêm một số cho tăng tính hấp dẫn.

Theo tài liệu của cụ Vương Hồng Sển, thì “Thầy Huyền Trang một mình, một ngựa, đi trong 2 năm, 13 năm ở lại học tại Ấn Độ và 2 năm về, tổng cộng là 17 năm. Thời gian ở Ấn Độ, Thầy học tại Chùa Ni Lan Đà 6 năm, trở thành 1 trong 3 đệ tử giỏi nhất của Pháp Sư Giới Hiền. Thầy Huyền Trang ngoài đạo đức còn là một học giả uyên thâm, một nhà du thám kỳ tài, một nhà sử học uyên bác, một nhà địa lý chơn tài, một nhà ngôn ngữ học xuất chúng và là một nhà phiên dịch xuất sắc.

Thời gian sống ở Ấn Độ, đi đâu Thầy cũng nghiên cứu kỹ lưỡng tình hình từng địa phương. Khi về, Thầy viết lại thành bộ Đại Đường Tây Vực Ký gồm 12 quyển, trong đó ghi đầy đủ lịch sử, địa lý, phong tục, tập quán của 128 nước Thầy đã tới. Ngày nay, những tài liệu của Thầy Huyền Trang để lại vẫn còn giúp ích rất nhiều cho các chuyên gia khảo cổ Ấn Độ. Mọi nguời đều công nhận những ghi chép của Thầy rất chính xác.

Thầy Huyền Trang đã mang về:

- 150 Xá lợi Tử (tinh cốt của Phật)

- 2 Tượng Phật bằng gỗ đàn tô ngân cao 4m

- 3 Tượng Phật bằng Đàn Hương, cao 3m5, 2m9, 2m3

- 657 Bộ Kinh, chia làm 520 hiệp (?)

- Cùng một số bảo vật khác mà phải dùng voi, lạc đà và 24 ngựa mới chở hết.

Từ khi về Trường An, Thầy Huyền Trang bắt đầu phiên dịch. Suốt 19 năm ròng rã, Thầy dịch được tất cả 75 Bộ Kinh gồm 1335 quyển, từ Phạn tự qua Hán tự và 1 Bộ Đạo Đức Kinh và 1 bản dịch Đại Thừa Khởi Tín Luận từ chữ Hán ra chữ Phạn. Thầy Huyền Trang qua đời năm 664, thọ 69 tuổi. Tang lễ của Thầy có đến 1 triệu người ở Trường An và các vùng lân cận quy tụ để tiễn đưa. An táng xong, có đến 3 vạn người cất lều cư tang gần mộ phần. Từ xưa đến nay chưa có vị đế vương nào được ngưỡng mộ, sùng bái bằng vị Thánh Tăng có một không hai nầy”.

Trở lại phim Tây Du Ký. Vấn đề rắc rối khó diễn tả là do Đạo Phật nói chuyện Giải Thoát bên trong của người tu. Đó là 4 trong 1. Tức là vừa Phật Tánh, vừa Tham Sân Si trong cùng một con người. Đạo Phật cho rằng trong Tâm của mỗi người có những thói tật xấu gọi là Chúng Sinh. Chính những Chúng Sinh này là nguyên nhân của Phiền Não, của tạo Nghiệp. Vì vậy, Phật, Bồ Tát cũng nơi tự tâm mỗi người tu hành, phải cứu độ cho hết những chúng sinh đó để đi đến kết quả Giải Thoát gọi là Thành Phật. Thế nhưng, khi tác giả Ngô Thừa Ấn mang ra diễn tả bằng ngôn ngữ điện ảnh thì không thể nào diễn tả cho ra tình trạng của nội tâm được, mà trở thành Nhị Thị, tức là có Phật, Bồ Tát bên ngoài để ứng cứu. Có chúng sinh lúc nào cũng chỉ biết cầu xin được cứu. Ngô Thừa Ân đã “nhân cách hóa” Dâm, Nộ, Si bằng những nhân vật Sa Tăng, Bát Giới, và Tề Thiên, theo tác giả là đã Ngộ được Tánh Không, nên tự xưng là Tôn Ngộ Không.

Đối với người tu thì cái Chân Tánh trong Tâm nó sáng suốt, điều khiển để cứu giúp cho những Phàm Tánh là Tham, Sân, Si, Thương, Ghét v.v... nhưng trong phim, đại diện cho Chân Tánh là Ngài Tam Tạng. Dù chính Ngài là người khởi xướng cuộc đi thỉnh Kinh, nhưng qua bao nhiêu tập phim, lúc gặp khó khăn chẳng thấy Ngài giải quyết, hay có ý kiến gì hay ho cho vấn đề nào, chỉ biết niệm “A Mi Tàu Phù”! Mọi gian khổ, từ gánh hành trang, cho tới vất vả, kiếm thức ăn, nước uống khi lạc giữa rừng sâu, thậm chí đánh nhau với yêu tinh đều do các đệ tử đảm nhiệm! Ngay cả bị yêu tinh bắt Ngài Tam Tạng cũng đành bất lực, chờ Ngộ Không cứu! Vậy mà nhiều lúc Ngài còn từ bi không đúng chỗ, nghe yêu tinh than vãn là tin theo, rồi nhiều lần hồ đồ, bênh vực cho yêu quái, niệm chú hại Ngộ Không, đến độ Ngộ Không bực mình mấy lần bỏ đi, làm Ngài suýt bị yêu quái ăn thịt! Công lao, gian khổ của các đệ tử phò tá như vậy, nhưng khi đắc quả thì Tam Tạng là người đắc quả cao nhất.

Nhưng điều tôi muốn đề cập ở đây, là trong phim, Ngô Thừa Ân có nhắc đến Kinh Đại Tự là quyển Kinh cuối cùng, được cho là kinh cao nhất do Phật Tổ Như Lai tặng cho Đường Tăng, cuối cùng khi khám phá ra thì lại là Kinh Vô Tự. Kinh Vô Tự là Kinh không có chữ. Nhưng Kinh mà không có chữ là Kinh gì? Được viết như thế nào? Có quyển Kinh đó hay không? Hay chỉ là chuyện mà tác giả Ngô Thừa Ân bịa cho vui?

Có lẽ với nhiều người thì Kinh Vô Tự chỉ là trò đùa của hai vị Tổ trong phim, lừa lấy báu vật bằng vàng của thầy trò Đường Tăng, đổi lại là một quyển Kinh vô giá trị! Nhưng thật ra, trên con đường tu Phật, nếu muốn nói rằng có Kinh Vô Tự thì cũng không sai. Nhưng không phải là Kinh viết chữ bằng một loại mực hóa học như các điệp viên hay dùng để chuyển thông tin ngày xưa, mắt thường đọc không thể thấy, chỉ khi nào đến tay người nhận thì họ sẽ dùng phương pháp được quy ước riêng, dùng một loại hóa chất nào đó để làm cho chữ hiện lên. Cũng không phải quyển Kinh bằng giấy như Phim Tây Du Ký diễn tả, là có một quyển Kinh, nhưng chỉ toàn những trang giấy trắng, không có chữ trên đó! Kinh này cũng không phải do Phật Tổ Như Lai tặng cho người nào sắp chứng đắc, mà đó là muốn nói về những công việc mà người tu làm từ lúc bắt đầu Phát Tâm cho đến cuối cuộc đời.

Mọi người thường nghĩ rằng cuộc đời con người sẽ kết thúc sau khi chết, và Chết là hết. Mọi xấu cũng như tốt đều mất đi. Không ngờ rằng mọi việc mỗi chúng ta làm đều được ký ức của chính mình lưu giữ lại. Và những gì cứ lập đi lập lại, mà Đạo Phật dùng bằng từ Huân Tập sẽ trở thành chủng tử cho kiếp tiếp theo. Không riêng vì người tu, người đời ai cũng có quyển sách này. Nó như là Nhật Ký cuộc đời, là những gì được ghi nhận bởi những việc làm trong suốt quá trình sống của mỗi con người.

Với một số người thì nó chỉ là những trang vô nghĩa, vì sinh ra, lớn lên, học chữ hay học nghề, rồi lập gia đình, sinh con đẻ cái. Cả cuộc đời là cắm cúi kiếm tiền, kiếm danh, rồi khi chết đi là mọi chuyện kết thúc. Cũng có những người đã viết cuộc đời của mình thành những trang rạng rỡ, bởi họ không chỉ vun vén cho bản thân, trái lại sống vì người khác, giúp ích cho mọi người, mà cho dù người đời dẫu không xây bia để tưởng niệm, nhưng họ vẫn sống trong tâm tưởng mọi người, được nhiều thế hệ ghi nhớ. Ngược lại, cũng có những người đã bôi đen cuộc đời của mình bằng lối sống thấp hèn, tội lỗi, chèn ép người này, lấn át người kia, chỉ để tranh giành quyền lợi, bạc tiền để hưởng thụ, bất chấp thủ đoạn, nhân cách. Những người này, lúc sống chỉ làm rối loạn xã hội, nên chẳng ai thích tiếp xúc mà khi chết cũng chẳng ai thương tiếc.

Bên cạnh những trang đời tốt, xấu như thế thì người tu Phật theo Đại Thừa có một lối đi riêng của mình. Họ không bỏ đời, để mặc cuộc đời cho người khác mặc tình xây dựng hay tàn phá, chui vô Chùa, nấp sau cửa Chùa để tìm an ổn cho bản thân, không dính líu đến cuộc đời, rồi thấy mình thong dong, thoát tục! Ngược lại, họ vẫn tiếp tục làm đủ mọi ngành nghề như trước lúc gặp Đạo, hòa chung cuộc sống với mọi người trong xã hội. Có điều, bắt đầu từ lúc vào tu, họ theo hướng dẫn của Đạo Phật, dừng lại, để nhìn lại bản thân, nhìn lại cuộc đời. Đánh giá đúng về mọi thứ để cư xử cho đúng lý, đúng tình. Họ vẫn sống như bao người bình thường với vật chất ngày càng hấp dẫn, quyến rũ vây quanh. Họ cũng biết giá trị vật chất, nhưng ý thức được rằng cuộc sống ngắn ngủi, có giành cũng không giữ, không mang theo được, nên hạn chế lòng Tham. Họ cũng hiểu giá trị và uy lực của tiền bạc, địa vị, nhưng họ không tranh giành bất kể để có được, bởi biết rằng có giành được những thứ đó cũng chỉ để cung cấp cho cái Thân những sự thụ hưởng không cần thiết, trong khi nó chỉ cần đủ thực phẩm để khỏi đói, mái nhà đủ che mưa, núp nắng, y phục đủ để che thân không bị cái nóng, cái lạnh tấn công. Họ không bám lấy cái Thân, tìm mọi cách để phục vụ cho những nhu cầu của nó, nên nó không còn là chủ nhân, sai khiến họ, mà ngược lại, họ làm chủ cái Thân, không để cho Mắt, Tai lôi vào những hành động bất lương hay làm thiệt hại cho người khác. Họ biết có Con Đường Giải Thoát cần phải đi. Biết có những điều phải giữ, phải tránh. Biết có Đạo Lý làm người cần tuân theo, nhờ đó mà họ tuy ở giữa thế gian với muôn vàn phải, trái, đúng, sai, tốt, xấu, được, mất, sướng, khổ… đan xen, mà vẫn được an vui. Họ giữ tròn bổn phận của mình đối với bản thân, với gia đình và xã hội.

Với bản thân thì họ không nuông chìu, cũng không hành hạ, không bắt nó phải chịu đói khát, chịu nóng, chịu lạnh, thức khuya, dậy sớm nếu không cần thiết. Họ biết điều gì tốt cho nó để bắt nó thực hiện, điều gì có ảnh hưởng xấu cho nó để tránh xa, vì thế mà họ được nhàn hạ, ung dung. Họ cũng sợ Nhân Quả nên tự trang trải cuộc sống để không mang nợ ai, vì biết cái Thân dù hữu hạn, nhưng cuộc sống bất tận, không phải chỉ kiếp này là kết thúc. Do biết rằng kiếp sau chính là do kiếp hiện tại tạo dựng. Lành hay dữ. Tốt hay xấu là do những việc làm hiện tại, nên họ không chỉ sống cho kiếp này mà còn chuẩn bị cho kiếp sau càng tốt đẹp hơn lên.

Với gia đình, trong vai trò làm con thì họ phụng dưỡng, kính trọng cha mẹ để trả ân sinh thành, dưỡng dục, vì đó là Ân đầu tiên mà người tu Phật phải thực hiện. Với vợ chồng, con cái thì họ hoàn thành trách nhiệm của mình một cách tốt đẹp nhất. Họ không né tránh trách nhiệm hay tranh giành, lấn át người phối ngẫu, mà chung tay, góp sức với vợ, chồng để lo cho con cái. Họ được Đạo hướng dẫn để giữ Giới, đi trong Bát Chánh Đạo, tu sửa bản thân, cho nên từ suy nghĩ cho tới hành vi đều chừng mực. Không hoang phí. Không bê tha. Không ỷ thế, cậy quyền, khoe khoang. Không làm thương tổn người khác. Không những đối với gia đình, họ là một nhân tố tốt, làm gương cho con cái về lòng hiếu thuận, về cách sống nhân văn, mà đối với xã hội họ cũng là một công dân tốt, sẵn sàng chung tay, góp sức với mọi người để cùng làm cho xã hội tốt đẹp hơn lên để trả ơn cuộc đời, vì biết rằng nhờ có cuộc đời,có xã hội làm điểm tựa, trong đó có nhiều thành phần đủ mọi ngành nghề chung sức với nhau. Người lo vấn đề an ninh, người cung cấp thực phẩm, vật dụng, và mọi thứ để phục vụ cuộc sống cho họ. Chính vì vậy, có cơ hội là họ sẵn sàng giúp đỡ người yếu thế. Nâng đỡ ai đó khi cần, không chỉ bo bo lo cho riêng mình. Với người thật sự muốn bản thân có được những Tướng Tốt của Phật thì họ còn làm cho kiếp sống của một con người tốt đẹp hơn nữa. Vì nếu ai có xem 32 Tướng Tốt, 80 Vẻ Đẹp của Phật sẽ thấy đó là phương tiện để giáo dục con nguời, vì không yêu cầu người thực hiện phải làm điều gì vĩ đại, lớn lao, chỉ là những việc tầm thường đối với ông bà, cha, mẹ, với thầy, bạn và mọi người chung quanh mà thôi. Mỗi việc là một Tướng, nhân lên thành vẻ đẹp, mà nhiều người không hiểu đã tìm vật liệu quý để tạc hay đúc thành hình tượng để thờ!

Người theo lời Đạo Phật dạy, tu sửa bản thân, nên hàng ngày, trang đời của họ đều ghi những dấu ấn tốt đẹp, nhẹ nhàng như cuộc đời họ đang thể hiện. Họ cố gắng hoàn thiện bản thân, không những bỏ ác, hành thiện, mà còn kính trên, nhường dưới, mang lại sự an vui cho bạn bè, láng giềng vì không xâm phạm của người khác. Bản thân không gây hấn, tranh chấp, mà còn giảng hòa cho mọi người. Luôn nói những lời chân thật, không hơn thua với người khác. Tóm lại, họ cố gắng theo lời Phật dạy, giữ gìn Thân, Khẩu, Ý được tịnh Ba Nghiệp. Đạo Phật dạy rằng những người làm những việc như vậy gọi là đang chạm khắc Tượng Phật nơi Tâm của họ. Đang xây Chùa nơi đất Tâm của họ, là họ đang viết Kinh Vô Tự cho bản thân, bởi Kinh này không viết bằng Chữ, mà bằng những công việc làm. Quyển Kinh này không do Phật Tổ hay ai ban tặng, nhưng ký ức tự lưu giữ, làm hành trang cho những kiếp lai sinh càng tốt đẹp hơn. Đối với họ, Kinh không phải để đọc, để tụng, mà để áp dụng từng bước, từng phần, nên đời sống của họ là trải nghiệm, là thực hành theo những lời dạy trong đó, để thấy thế nào là lời Phật dạy: “Ở trong trần tục nhưng không nhiễm trần tục”. Từ đó họ thấy được ý nghĩa của Hoa Sen mà Đạo Phật dùng làm biểu tượng. Và bản thân họ, qua cách sống nhẹ nhàng, họ cũng được “thoát phàm ngay chính trong phàm”, bởi “Phàm” không phải là những người thế tục trong xã hội, mà chính là Tham Sân Si của mỗi người. Khi chúng không còn ngự trị làm ô nhiễm cái Tâm của ai nữa thì gọi là người đó đã “Thoát Tục”. Cũng là thân phàm, nhưng từ khi áp dụng Giáo Lý của Đạo Phật thì trở thành Pháp Khí, là khí cụ để chứa đựng những Pháp tốt lành, Pháp Giải Thoát. Tự họ hành động để tự Giải Thoát, không cầu xin Phật nào độ cho, phù hợp với Nhân Quả mà Đạo Phật dạy.

Qua cách hiểu, cách áp dụng Đạo Phật ttheo mô tả trong Chính Kinh thì tôi thấy, do Ngô Thừa Ân hiểu chưa đúng về Đạo Phật mà lại nhiệt tình muốn quảng bá nên hiệu ứng càng rộng thì cái quả càng xấu, vì lợi bất cập hại. Thay vì Đạo Phật là con đường Nhất Thừa, không cầu xin, không nương tựa Phật, Bồ Tát, chúng sinh cũng tự nơi Tâm của mỗi người phải tự cứu độ. Việc tu hành là người tu tự gây tạo Nhân Quả thì qua diễn tả trong phim trở thành Nhị Thừa, vì có Phật Tổ Như Lai điều động, quyết định thưởng phạt, cho mọi người, hoàn toàn sai với tinh thần Đạo Phật chân chính. Kinh Vô Tự là do mỗi người tự “viết” bằng hành động, thì được diễn tả thành một quyển Kinh bằng giấy trắng, không có chữ trong đó, nên trở thành bôi bác Đạo. Phật, Bồ Tát của mình, tự giáo dục chúng sinh của mình Xả đi những ham muốn, ôm giữ, khi chuyển ra ngoài thì trở thành Bồ Tát bên ngoài đòi hỏi hối lộ. Kêu gọi mọi người xả bỏ bằng cách cúng dường, hay trao đổi của cải, tài sản để lấy quả vị hoặc phước báo, thì không thể hiểu cách nào khác hơn là dùng danh nghĩa Đạo để thu gom của người khác!

Vì thế, theo tôi, muốn “phá mê” cho người, muốn quảng bá cho Đạo Phật, thì trước hết chúng ta phải đọc cho nhiều Kinh, để đối chiếu, kiểm chứng, hiểu cho hết nghĩa mà Đạo Phật muốn truyền tải. Nếu không, thay vì “phá mê” thì lại “chồng mê” cho người khác. Như vậy thì công không bằng tội, như bộ phim Tây du Ký kể trên. Một việc làm tốt, phổ biến Đạo Phật đi khắp thế giới, được nhiều người yêu thích, lẽ ra được khen thưởng không hết, chỉ vì những diễn tả sai, chẳng những làm cho người tin theo đó trở thành Nhị Thừa, lệ thuộc vào Phật, xem Phật như Thần Linh để cứu độ hay trừng phạt người khác, mà qua việc đưa ra hai vị Tổ lớn nhất của Đạo đòi hối lộ trở thành bôi bác Đạo, nên không trách bị mọi người chỉ trích, phê phán vậy.

Tháng 7/ 2017

Tâm Nguyện


NHỮNG MẮT XÍCH

TRONG SỢI DÂY XÍCH THỜI GIAN

Chuyện này xảy ra đã khá lâu, khi ở miền Bắc Việt Nam còn có chiến tranh. Sau cuộc dạo chơi bằng xuồng trên con sông Đà cùng với nhà văn Nguyễn Tuân, chúng tôi thu xếp chỗ nghỉ đêm trong căn nhà sàn tre lá. Xuyên qua những khe nhỏ trên tấm tường liếp đan ken tinh tế, những vì sao lấp lánh, treo lơ lửng trên ngọn núi thấp đến nỗi có cảm giác có thể đưa tay với được. Gần bên, trong những vườn cây của nông trường “Cao phương” lấp lánh dưới ánh trăng những trái cam to vàng ươm, giống hệt như những trái thiên đường mà Albrekht Dưurer treo trên những cành cây sau lưng Eva*.

“Cụ” Tuân - bạn bè của ông gọi ông như vậy, - lột vỏ không thương tiếc trái cam của Dưurer, đốt lên ba cây hương. Làn khói cay cay của hương phải lập tức tiêu diệt những con muỗi xung quanh, bằng việc đó bác bỏ cái chất lỏng trong suốt với cái tên dài khác thường đựng trong cái ve của tôi được tôi vẩy ra. Bản thân nó, trong cái thế kỷ của chúng ta, được mệnh danh là “thế kỷ hóa chất”, cái thứ như thế này đã được coi là cổ hủ. Tôi thông báo điều này cho cụ Tuân. Thế là cụ bắt đầu nhớ ra mọi thứ định nghĩa của cái thế kỷ XX náo động. Thế kỷ Hạt nguyên tử, Thế kỷ Điện năng, Tụ động hóa, Vũ trụ… Nói chung, chúng ta đã thấy rõ, nếu như thế kỷ XIX còn có được điện khí và hơi nước, thì phần của các thế kỷ khác hầu như chẳng còn có được chút gì. Và chúng tôi đã tranh luận về thời đại chúng ta - thời đại vũ bão, đầy mâu thuẫn và nhiều bộ mặt. Bấy giờ tôi ngạc nhiên ông nhà văn, sống ở một đất nước, mới đây còn bị xếp vào số những nước lạc hậu, và không phải một lần trong đời mình đã nếm trải “nền văn minh tiên tiến” khá là cụ thể - qua những thành quả của nó trong lãnh vực tàn phá và giết chóc, lại hiểu biết nhiều đến vậy về những thành tựu của tư duy con người và các khoa học ứng dụng. Cụ Tuân đã tổng kết cuộc tranh luận của chúng tôi bằng một cách hoàn toàn bất ngờ. “Và tôi còn, - cụ nói, - đọc của một trong số các nhà triết học đương đại nổi tiếng, rằng trong nghệ thuật thế kỷ chúng ta - đó là thế kỷ của thể loại tư liệu, thế kỷ của sự kiện. Hóa ra, tôi như một cây chính luận nói chung - không hề cổ hủ, mà là con người đương thời và hợp mốt. Vậy là tôi bắt đầu, - cụ Tuân nói tiếp, - viết không có các dấu ngắt câu, và cái đó thậm chí đã tới với cậu…”.

Tôi hiểu ra là những lời của tôi không hề làm phật lòng cụ, và điều đó tất nhiên chỉ là chuyện đùa. Nhưng, như người ta thường nói, trong mỗi chuyện đùa… Tôi mãi vẫn không thiếp ngủ được, trăn trở mãi về cuộc tranh luận của chúng tôi. Tất cả các cuốn sách của Nguyễn Tuân, ngoài cuốn cuối cùng, vừa ra sau này, đến lúc đó tôi đã đọc hết - và đọc không chỉ một lần - từ đầu đến cuối, cắt từ cái tạp chí và báo các bài bút ký và tiểu luận của cụ. Tôi xin thú thực, ngay từ đầu, còn ở ghế đại học, khi tôi học tiếng Việt, tôi đã bị hấp dẫn bởi sự trong sáng và giàu hình ảnh trong ngôn ngữ của cụ, sự tinh xảo và hoàn mỹ trong bút pháp của cụ. Nhưng về sau tôi còn đánh giá cao cả một tính cách khác nữa, không kém quan trọng trong văn xuôi của Nguyễn Tuân - đó là tính chất nhiều chiều trong văn chính luận của cụ. Cụ biết không chỉ tái tạo những miêu tả nhiều màu sắc và bao quát “môi trường vật chất” và những chân dung con người, mà còn nắm được một cách tài nghệ “cách đo đạc chiều thứ tư” - cách đo bằng thời gian. Mỗi bài bút ký của cụ - đó không chỉ là một sự kiện đơn giản riêng lẻ, tự thân của nó, mà - cả ở đây, chắc hẳn, đã bắt đầu cái ranh giới giữa phóng sự báo chí và văn xuôi nghệ thuật - cái mắt xích cơ bản trong “sợi giây xích của thời gian”, tổng kết tính chất trình tự liên tục có lôgich của các sự kiện xảy ra, mà đôi khi - là bực thang đi đến tương lai. Nguyễn Tuân bao giờ cũng quan tâm không chỉ đơn giản một “sự kiện” trong cái gọi là, tính bút ký tài liệu của cụ, mà trước hết quan tâm đến cái ẩn sau mỗi sự kiện - cái ý nghĩa lịch sử và tinh thần của nó. Cụ đánh giá các biến cố và các sự kiện theo thang bực các giá trị nhân loại. Toàn bộ văn chính luận của Nguyễn Tuân đặc biệt mang tính chất “tự thân” - không đơn giản ở phương diện lập trường của tác giả, các kết luận và các đánh giá của tác giả, mà trong mỗi bút ký của cụ tác giả nhất thiết là một nhân vật hành động, không phải là người quan sát, mà là người tham gia sự kiện đang diễn ra. Và vì thế mỗi tác phẩm của cụ mang trong bản thân nó một trữ lượng cảm xúc cao, Nguyễn Tuân - cây bút văn xuôi chính luận hướng tới không chỉ, mà đôi khi cả không chỉ tới tri thức và suy tư khỏe khoắn của người đọc, mà cả tới những cảm xúc và trí tưởng tượng của người đọc. Tác động của những tác phẩm xuất sắc nhất của cụ đối với người đọc có thể sánh với tác động của thơ ca, và, chắc hẳn, ở đó là điều bí mật của chuyện, tại sao nhiều tác phẩm trong số những tác phẩm “thời sự cập nhật” nhất của cụ vẫn được đọc một cách thích thú một thời gian lâu dài sau khi tính cập nhật - hình thức của các tác phẩm ấy đã mất đi tính chất bén nhạy của mình.

Tôi nghĩ rằng, đối với các nhà sử học trong tương lai bẩy trăm trang văn chính luận tập hợp trong bốn cuốn sách cuối cùng của Nguyễn Tuân sẽ là một bổ sung đáng kể đối với các tài liệu, các tấm bản đồ và những con số. Những cuốn sách này thấm đượm niềm hân hoan tưng bừng của hai chiến thắng vĩ đại của Việt Nam - cuộc chiến hiện nay và cuộc chiến trước đây đã kết thúc từ hai chục năm trước. Nhưng các tác phẩm ấy còn nói về một điều khác: về cái điều hai chiến thắng kia đã giành được bằng một cái giá như thế nào - về sự kiên cường và lòng dũng cảm, về những hy sinh mất mát và về nỗi đau đớn của những mất mát không thể bù đắp được. Những cuốn sách này - là chứng cứ hai mươi bảy năm lịch sử Việt Nam: từ những trận chiến đầu tiên với bọn thực dân vào cuối năm bốn sáu và cho đến mùa xuân chiến thắng bẩy mươi ba - hai cuộc chiến tranh, khi tự do mới giành được đã được bảo vệ; và nền hòa bình không lâu dài giữa những khoảng trống ở giữa hai chiến thắng ấy, khi đã khẳng định, và, như ngày nay chúng ta thấy, một cách không phá nổi, các cơ sở của chế độ mới xã hội chủ nghĩa. Và vì thế trong văn chính luận của Nguyễn Tuân cảm thấy rõ ràng niềm vui của thêm một chiến thắng vĩ đại thứ ba của Việt Nam - chiến thắng đối với sự bất công và thói hủ lậu cũ đối với thiên nhiên hùng mạnh chống đối lại các dự định sáng tạo của con người, - chiến thắng, giành được không còn bởi sức mạnh của vũ khí, mà là sức lực của lao động và trí tuệ của một nhân dân đã được giải phóng.

Về mặt tinh thần và phong cách sáng tác của mình Nguyễn Tuân, - là một nhà văn đương đại và dường như không giống ai trong quá khứ. Nhưng dù sao đi nữa… Dù sao đi nữa “truyền thống tư liệu” trong văn xuôi Việt Nam tính ra cũng có tới gần tới năm trăm năm (ở đây không kể tới các bộ sử biên niên), mặc dù trước đây nó khác, tất nhiên, không giống như hôm nay. Ta hãy nêu ra bộ Thập giới cô hồn quốc ngữ văn nổi tiếng của Lê Thánh Tông. Rồi sau đó, giờ là ở thế kỷ XVIII, tập Thượng kinh lý sự của Lê Hữu Trác, muộn hơn - Tang thương ngẫu lục của Phạm Đình Hổ và còn nhiều cuốn sách khác… Tôi chỉ nêu ra ở đây những sách, theo tôi, lý thú nhất. Nhiều cuốn được viết theo thể loại bút ký hành trình - Thể loại yêu thích của Nguyễn Tuân. Nhân tiện phải nói thêm, cả trong thơ ca cổ điển Việt Nam, mà Nguyễn Tuân yêu thích và am hiểu tường tận, cũng thấy sự quan tâm đến “tính tư liệu” (tới những sự kiện chính xác, những con người cụ thể, những địa danh rõ ràng); hơn nữa các nhà thơ cố gắng quay ngược sự kiện đã được biết, cái vật quen thuộc phô ra mặt còn chưa quen biết, tìm ra cái lạ trong cái bình thường… Thì “bước đi” yêu thích của Nguyễn Tuân chẳng phải như thế sao? Và đôi khi các bút ký của cụ với những khúc thơ ca dày đặc và những đoạn sáng tác dân gian lồng vào mới thật giống văn xuôi cổ điển với những điểm xuyết thơ ca nhất thiết phải có!

Nguyễn Tuân là nhà văn với tính cách dân tộc được biểu hiện rực rỡ. Cụ viết về Hensinhki, về Moskva hay về Odessa - suy nghĩ của cụ thường xuyên hướng về Việt Nam, nơi cụ khai thác ra những thí dụ tương tự, đem so sánh, ở đó là ngọn nguồn niềm hứng khởi sáng tạo của cụ và người bạn đọc của cụ. Cụ hiểu biết kỹ đất nước của mình. Trên những nẻo đường đất nước cụ đã đi bộ, đi xe ngang dọc vậy là đã hàng mấy chục năm trời rồi. Và đất nước quê hương, nhân dân đất nước ấy - trên miền Bắc và ở miền Nam - đối với cụ luôn luôn là một thể thống nhất: về điều này cụ viết với tất cả niềm say mê nồng nhiệt bản chất của mình, tương lai của Việt Nam đối với cụ không tách rời việc thống nhất dân tộc. Không phải ngẫu nhiên chính Nguyễn Tuân trong quá trình nhiều năm đã giữ mục “Thư vào Nam” trên Đài phát thanh Hà Nội. Xin các bạn hãy cùng nghe trả lời của một trong những người nhận thư của Nguyễn Tuân - nhà văn miền Nam Anh Đức: “Tôi không phải có một mình ngồi nghe bác, bên cạnh tôi cùng ngồi nghe là Lý Văn Sâm(1). Anh ấy thán phục sự khéo léo của bác xây dựng cái nền tư liệu cho bài bút ký của mình, sự phong phú và sáng sủa, sức tưởng tượng của bác và nghệ thuật cổ vũ mọi người bằng sức mạnh của ngôn từ tìm được một cách chính xác”. Đến đây, như người ta thường nói, chẳng còn có thể thêm bớt gì được nữa.

Nguyễn Tuân trong một bài bút ký đã ví mình với một người cần cù đãi vàng ròng của những trái tim con người. Và thứ vàng ấy cụ không chỉ tìm thấy ở các con sông Việt Nam của mình, mà cả trên bờ sông Moskva, Angara, và Volga. Những từ “nước Nga” và “Cách mạng” đối với cụ trở thành các biểu tượng. Cụ đã viết về các thánh địa của tháng Mười - Razlip, “Rạng đông” và Smolnưi, về căn hộ của Lênin trong Kremli và về Quảng trường Đỏ. Đã viết về Lênin, và sự vĩ đại của tư tưởng Lênin, thể hiện trong kế hoạch Điện khí hóa nước Nga, về các tổ máy phát điện Nhà máy Thủy điện Hữu nghị và về những chuyến bay đầu tiên vào vũ trụ. Đối với cụ ái lực và mối giây liên lạc giữa hai cuộc cách mạng - Tháng Mười và Tháng Tám, cũng như giữa cuộc chiến tranh vệ quốc của chúng ta và những trận chiến vì tự do của Việt Nam bao giờ cũng là hiển nhiên. Không phải ngẫu nhiên mà hầm nhà Xtalingrat, nơi Paulus(2) cùng bộ chỉ huy của mình bị bắt làm tù binh gợi cho cụ nhớ đến cái hầm Đờ Castre ở Điện Biên Phủ. Và trong những ngày tháng gian khó của cuộc chiến tranh mới đây không phải một lần cụ đã nhớ tới chủ nghĩa anh hùng của những người Xô Viết, đã bẻ gãy xương sống của con thú phát xít.

Như tất cả các người đồng hương của mình, Nguyễn Tuân đánh giá cao sự giúp đỡ, mà nhân dân chúng ta đã dành cho Việt Nam, lúc đó đang chiến đấu chống bọn đế quốc Mỹ. Con mắt tinh tường của cụ lập tức nhận ra cả ổ bánh làm từ bột mì Xô Viết tại các nhà ăn Hà Nội, cả những cỗ xe zil mới toanh chạy trên các nẻo đường, cả những quả tên lửa nhắm thẳng lên trời, - những quả tên lửa ấy, giống như nông dân Việt Nam, cụ gọi là “những con rồng lửa”. Nhưng hơn hết thảy, theo tôi, cụ thích nhìn ngắm những con tàu dưới lá cờ đỏ búa liềm, đậu ở bến cảng Hải Phòng. Trèo lên boong tàu cụ đã trò chuyện rất lâu với các thủy thủ và xem xét các tấm bản đồ với các tuyến đường đi trên biển. Sự quan tâm chú ý của cụ đối với những con đường đại dương màu xanh hoàn toàn hiểu được, bởi vì sau chiến thắng các chuyến chuyên chở thiết bị cần thiết cho công cuộc hồi phục các nhà máy, đường sá và các thành phố của Việt Nam bị chiến tranh tàn phá và dành cho những công trình xây dựng mới được đề ra, - đúng hơn, là đã đang - vận chuyển theo những tuyến đường này. Cụ mơ ước có một dịp nào đó cả bản thân cụ cũng sẽ được đi theo những tuyến đường này; và tôi nghĩ rằng, niềm mơ ước của cụ sẽ thành hiện thực, bởi vì cụ Tuân như chính cụ thích nói, - “mới” sáu mươi tư tuổi…

Trích lời giới thiệu chùm bút ký của Nguyễn Tuân đăng trên Tạp chí “Văn học nước ngoài”, Liên Xô, số 4, năm 1974 - Thúy Toàn dịch

------------------

(1) Lý Văn Sâm - Nhà văn miền Nam, nhà chính luận.

(2) Paulus, Fridric (1890-1957) - Thống chế phát xít Hitle (1943), bị quân đội Xô Viết bắt làm tù binh trong trận Xtalingrat.

LAN KHAI

Nghệ sĩ tài năng bị lãng quên?


Nhà văn Lan Khai ( 24/6 / 1906 - 1945 )

Lan Khai tên thật là Nguyễn Đình Khải, là nhà văn Việt Nam thời tiền chiến . Trong lịch sử văn học hiện đại Việt Nam trước năm 1945 , ông được xem là một cây bút sung mãn, một nhà văn “đường rừng” sáng giá. Dù ở thể loại nào ngòi bút của ông vẫn thuyết phục được cảm tình và lý tính của độc giả. Đặc sắc nhất vẫn là ở lĩnh vực sáng tác hiện thực về đời sống miền núi.

Bút danh “Lan Khai” là do ông thích hoa lan, nhất là trong khi nở. Bút danh này cũng đã ám vào thân phận ông. Ngắn ngủi, ẩn dật, không xô bồ nhưng tinh khiết và đẹp đẽ đến vô ngần.

Thân thế và sự nghiệp

Lan Khai sinh tại xã Vĩnh Lộc, châu Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang . Cha ông là Nguyễn Đình Chức, nguyên quán ở tỉnh Thừa Thiên - Huế . Khoảng năm 1885 , ông Chức cùng hai anh hưởng ứng dụ Cần Vương , tham gia khởi nghĩa do Phan Đình Phùng lãnh đạo ở Hương Khê ( Hà Tĩnh ). Năm 1895 , cuộc khởi nghĩa bị dẹp tan, ba anh em ông Chức phải rời bỏ quê hương, lên thượng nguồn Việt Bắc lập nghiệp. Và ông Chức đã dừng lại ở châu Chiêm Hóa hành nghề dạy học, chữa bệnh. Mẹ Lan Khai là bà Lê Thị Thục, xuất thân trong một gia tộc lâu đời ở địa phương.

Thuở nhỏ, Lan Khai sống gần gũi với các dân tộc Tày , Nùng , Dao , Cao Lan , Hà Nhì ... Năm 12 tuổi ( 1918 ), ông bắt đầu tập làm thơ, viết văn và sớm bộc lộ năng khiếu hội họa . Năm 18 tuổi ( 1924 ), ông về Hà Nội theo học trường Bưởi . Sau khi học xong bậc Thành Chung , ông thi vào trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương .

Năm 21 tuổi (1927), ông trở về quê lập gia đình với Hà Thị Minh Kim ( 1909 - 1999 ), con một gia đình khá giả ở tỉnh Tuyên Quang , có nhan sắc, học thức và tâm tính nhân hậu...

Lấy vợ xong, cuối năm đó, Lan Khai trở lại trường tiếp tục học tập, nhưng học chưa hết hai năm, ông trở lại Tuyên Quang, dạy học, dịch sách và viết văn. Ông cũng đã dành nhiều thì giờ đi du ngoạn đó đây, để vẽ tranh phong cảnh, sưu tầm những sáng tác dân gian của đồng bào các dân tộc thiểu số và tìm hiểu cuộc sống của những người phu mỏ.

Sau, vì tham gia vào tổ chức bí mật kháng Pháp do Nguyễn Thái Học lãnh đạo, Lan Khai bị thực dân Pháp bắt giam ở nhà tù Hỏa Lò (Hà Nội). Cha mẹ ông đã phải bán hết gia sản mới cứu ông thoát chết.

Năm 1934 , khi Lan Khai đã thành danh trên văn đàn, ông quyết định đưa cả gia đình về sống ở Hà Nội (ở nhà thuê, thường đổi chỗ). Để nuôi được 8 người, ông phải viết cật lực.

Năm 1938 , ông bắt đầu viết cho Tiểu thuyết thứ Bảy và sau đó ông cùng với Lê Văn Trương , trở thành hai cây bút cột trụ của nhà xuất bản Tân Dân .

Năm 1939 , ông làm Tổng thư ký tạp chí Tao Đàn của nhà xuất bản Tân Dân, đồng thời, còn cộng tác với các báo: Loa, Ngọ báo, Đông Tây, Tiểu thuyết thứ Bảy, Phổ thông bán nguyệt san...

Ngoài ra, ông còn làm diễn viên nghiệp dư trong các vở tuồng và kịch lịch sử tại Nhà hát lớn Hà Nội , làm diễn giả thường xuyên của hội Trí Tri , cộng tác với Hội truyền bá quốc ngữ của Nguyễn Văn Tố ...

Cuối năm 1943 , sau khi Lan Khai ra tù vì tội viết cuốn “Lầm than”, gia đình ông lâm vào tình cảnh túng quẫn, cộng thêm bệnh hen suyễn hành hạ ông, nên ông đã phải đưa vợ con về lại quê nhà. Tại đây, ông mở hiệu sách Lan Đình bán các loại sách báo, tiếp tục viết văn, dạy học và vẽ truyền thần.

Trong một ngày gần cuối năm 1945 , Lan Khai bị một nhóm người khác phe phái thủ tiêu tại Tuyên Quang.


Tác phẩm

Trong 17 năm cầm bút ( 1928 - 1945 ), Lan Khai đã để lại gần 50 cuốn sách các loại. Riêng về lĩnh vực văn xuôi, sáng tác của ông có thể chia làm ba loại: tiểu thuyết đường rừng, tiểu thuyết tâm lý xã hội và tiểu thuyết lịch sử.

Tiểu thuyết đường rừng

Tuy ít, nhưng đó là những tác phẩm đặc sắc, in đậm cá tính sáng tạo của ông. Nổi bật có:

Tiếng gọi của rừng thẳm (Tân Dân xuất bản, 1939)

Truyện đường rừng (Tân Dân xuất bản, 1940)

Dấu ngựa trên sương (Hương Sơn xuất bản, 1940)

Chiếc nỏ cánh dâu (Duy Tân xuất bản, 1941)

Suối đàn (Cộng Lực xuất bản, 1942)

Tiểu thuyết lịch sử (22 cuốn)

Tiểu thuyết tâm lý xã hội (18 cuốn)

Nghiên cứu lý luận và phê bình văn học : có các tác phẩm:

Phê bình các nhân vật hiện thời: Lê Văn Trương (1940)

Phê bình các nhân vật hiện thời: Vũ Trọng Phụng (1941), Hồ Xuân Hương (1941)...

Và các bài viết trên tạp chí Tao đàn, đáng kể như: Tính cách Việt Nam trong văn chương (Tao đàn số 4), Thiên chức của văn sĩ Việt Nam (Tao đàn số 5), Cái nguy mất gốc (Tao đàn số 6), Một lòng tin cần phải có (Tao đàn số 7), Bàn qua về nghệ thuật (Tao đàn số 7), Phác họa hình dung tâm tính Tản Đà (Tao đàn số 9-10), Con người Vũ Trọng Phụng (Tao đàn số đặc biệt)...

Sách dịch

- Bức thư của người không quen, dịch của Stéfan Zweig (Đời Mới xuất bản, 1941)

- Cái đẹp với nghệ-thuật, phỏng thuật Félicien Challaye (Đời Mới xuất bản, 1943)

- Tuổi thơ (1944, dịch của Lev Tolstoy )

Thơ

Theo Nguyễn Vỹ, Lan Khai có làm khá nhiều thơ, ký tên là Lâm Tuyền Khách. Hầu hết là thơ Rừng Núi, vang bóng của đồi sim quạnh quẽ, của dòng suối réo rắt bên nhóm nhà sàn, của tiếng cười trong veo trên môi cô gái Mán... Thơ ông nhẹ nhàng, êm ái, huyền mơ như mây gió biên thùy. Nhưng rất tiếc, ông chú trọng đến tiểu thuyết nhiều hơn, làm thơ chỉ để bạn làng thơ ngâm chơi, không bao giờ thấy in trên sách báo.

Những sáng tác của Lan Khai hiện vẫn chưa có được một danh sách đầy đủ.

Nhận xét

Thi sĩ Nguyễn Vỹ , người cùng thời, kể:

Nhà văn “đường rừng” là biệt hiệu của anh em làng văn Bắc Hà đã tặng cho Lan Khai, vì anh chuyên viết các truyện về Mạn Ngược, nghĩa là về các vùng Thượng du Bắc Việt, nơi anh đã sinh ra... Anh bỏ nghề giáo viên, cũng chỉ vì anh mải nghe tiếng gọi của “rừng thẳm”, tiếng gọi mà anh ghi chép say sưa thành những bóng vang huyền bí trong các tác phẩm văn chương và trong các nét họa của anh... Ở anh, dù là văn sĩ hay họa sĩ, cũng đều là cái “tài tử”, theo nghĩa của anh em nhà văn chúng tôi cho nó hồi tiền chiến, là không “không cầu lợi”. Nói khác hơn, Lan Khai là một trong số văn nhân chịu hy sinh cho lý tưởng nhiều hơn, thích sống đời thanh cao nho nhã hơn... Anh, quả là một tâm hồn thuần túy mơ mộng, rất đa cảm, đa tình. Anh có hai vợ, lại được rất đông nữ độc giả mến phục, nhưng anh không thích ở với gia đình và có lẽ anh cũng không có cuộc tình duyên nào lâu dài và tha thiết... Cũng có lẽ tại anh thích sống cuộc đời lý tưởng quá...

Nói về khía cạnh khác của Lan Khai, Nguyễn Vỹ viết:

...Một hôm được tin bà vợ cả ở Tuyên Quang đau nặng gần chết. Anh đến nhà xuất bản hỏi mượn trước một món tiền để về tỉnh nhà lo thuốc men cho vợ. Nhưng chủ một nhà in lớn ở Hà Nội, trả lời rằng không có sẵn tiền... Nài nỉ mãi không xong, anh đành rút trong túi ra một xấp bản thảo kèm theo những lời hứa hẹn sẽ sớm hoàn thành mới mượn được hai chục đồng... Về nhà, anh vứt xuống giường mấy tờ giấy bạc, nước mắt chảy tràn trề trên đôi má: “Toa thấy không, Vỹ? Mẹ cha cái kiếp chúng mình!”. Hôm bị người Pháp bắt và bị còng tay đưa lên xe lửa Hà Nội, trong đám bạn bè quen thuộc tôi thấy có mặt anh Lan Khai. Hôm ấy anh ốm quá, mặt xanh xao gầy còm, không có đánh phấn như mọi khi. Tôi mỉm cười ngó anh. Anh đáp lại bằng một cái nhìn đăm chiêu tịch mịch. Sau này, trong thời kỳ đồng bào miền Bắc di cư, tôi có tìm kiếm các bạn cũ đất Hà Thành. Một đôi bạn cho tôi biết Lan Khai đã bị thủ tiêu ở Tuyên Quang. Tôi nghẹn ngào, không nói được. Tôi biết anh là người của VNQDĐ , bạn đồng chí rất thân của Nhượng Tống. Đó là nguyên do người ta thù ghét anh...

Truyện Đường Rừng - Lan Khai

Cho đến đầu thế kỷ XX, rừng núi, vùng cao trong tâm thức người Việt đồng bằng, rất đúng như Philippe Papin trong Việt Nam, hành trình một dân tộc nhận xét, vẫn còn là một thực tại mới mẻ, một ý niệm mà họ chưa thấu rõ nội dung. Với nhiều người, không gian đó đồng nghĩa với biệt xứ, với lạ thường nên khi phải đối mặt, cảm giác sợ hãi, lo lắng thường bóp nghẹt những hào hứng khám phá. Nhưng bởi những tác động từ chương trình xây dựng “mẫu quốc thứ hai” tại Đông Dương của nước Pháp, khoảng cách địa lý tại các vùng nước ta đã dần được rút ngắn và sự cách biệt không gian, thay vì ám ảnh, lại có thể kích động trí tò mò tìm biết. Không phải ngẫu nhiên trong văn học giai đoạn này, với Tản Đà ở điểm giao thời và Nguyễn Tuân ở điểm cao trào, cảm hứng giang hồ, xê dịch và thú phiêu lưu trở thành mốt, không chỉ bày ra món mới cho các thực khách thuần nông vốn chỉ quen tâm lý khu trú an cư tại chỗ, mà còn hỗ trợ cho nhu cầu vươn tới những thực tại của tưởng tượng, của những điều chưa biết như tinh thần hiện đại tất yếu phải thế. Bởi vậy, một phần kịch tính, mới mẻ trong văn chương lẫn tâm thái sống bấy giờ là được bứng gốc để chiếm lĩnh hoặc thuộc về cái dị thường lạ lẫm. Rừng sâu núi thẳm, một cách tức thì hợp lý, có mặt đầy thách thức cho tất cả những ai biết lối đi vào. Thế Lữ, Lưu Trọng Lư, Đái Đức Tuấn, Nhất Linh, Hồ Dzếnh, Vũ Bằng... đều đã từng thử sức, với rất nhiều hăm hở và kiên trì, đủ đến khi kéo được một lượng độc giả khá nhất định dõi theo những: Người sơn nhân (1933), Vàng và máu (1934), Trên đỉnh non Tản (1940), Ai hát giữa rừng khuya (1942), Ngậm ngải tìm trầm (1943)...

Chính bởi loạt tác phẩm này, văn xuôi thập niên 1930 không nên hiểu chỉ là cuộc ganh đua tách bạch “lãng mạn” và “hiện thực”, mà đúng hơn, phải thấy rằng cả hai hoàn toàn nới lỏng những đặc tính riêng để mỗi bên trở thành mảnh ghép bắt buộc của nhau. Tính chất hoang đường, kỳ ảo, huyễn hoặc trong các chuyện kể về rừng núi thường là phép cộng tinh xảo giữa trí mơ tưởng, lãng mạn hóa cảnh quan và vốn am hiểu thế tục, nhân sinh. Chẳng dễ tin nhưng cũng khó lờ đi, chúng gây ngạc nhiên vì trạng thái lấp lửng hai mặt của mình: quen mà khác lạ, bịa đặt nhưng gần gũi, đáng sợ đến mức muốn quên song vẫn được lấy làm bài học truyền tai. Từ đấy, quan trọng hơn, chúng chứng thực kiểu tự sự truyền kỳ trung đại chưa lỗi thời dù vào quãng Âu hóa đó, lối viết kỳ ảo phương Tây đang đánh động sự học đòi.

Truyện đường rừng (1940) của Lan Khai xuất hiện đúng lúc niềm háo hức chuyện lạ biên viễn vào độ tăng cao. Đời người ngắn, đời văn không quá dài nhưng quá nhiều tác phẩm và cũng quá nhiều hoạt động của Lan Khai càng là lý do khiến người ta nhớ lâu tập truyện này.

Tiểu thuyết Lầm than - Lan Khai

Cuốn nổi tiếng nhất của Lan Khai về mảng hiện thực - tâm lý xã hội.

Tác phẩm viết về cuộc đời cơ cực của người thợ mỏ, cụ thể ở đây là Thuật. Một cuộc sống vất vả, nhọc nhằn, làm mỗi ngày đến 14, thậm chí 18 tiếng mà không đủ ăn. Cái chết luôn rình rập mỗi khi có tai nạn nổ khí hay sập lò. Ngoài ra lại bị giới chủ áp bức, bóc lột.

Tác phẩm có manh nha nói đến lối thoát của thợ mỏ khi đề cập đến đảng CS, tuy nhiên chưa phải triệt để khi kết thúc tác phẩm Thuật “manh động” đánh chủ và bị xử tù 18 tháng.

Tác phẩm được nhiều nhà phê bình, nhà văn đánh giá là có giá trị. Cuốn sách có giá trị: “đã phất lá cờ tiên phong trên mảnh đất này” (lời Hải Triều), do “biết ghi lại những cái đáng ghi” trong đời sống (lời Vũ Ngọc Phan), được một nhà văn “to gan lớn mật nhất văn giới Bắc Hà” (lời Nguyễn Tuân) viết ra. Trước Nam Cao khá lâu, Lan Khai là người đã mở ra trước mắt người đọc cái thế giới đầu mâu thuẫn, đôi khi nhỏ bé, thảm hại và mòn mỏi của những người cầm bút thời...

Ở lĩnh vực nghiên cứu lý luận và phê bình, ông đã thể hiện rất rõ quan điểm về thiên chức đặc biệt của nhà văn... Ông phê phán sự: mất gốc, mô phỏng, sáo rỗng, và thiếu tinh thần chống ngoại xâm của nền văn chương lúc bấy giờ...

LỜI KẾT

Sự kiện nhà văn Lan Khai mất tích

“Lịch sử không bao giờ lầm lẫn, nhà văn Lan Khai là người có công với nước”. Câu nói đó của Thiếu tướng Hoàng Mai đã khẳng định những cống hiến của Lan Khai đối với cách mạng và nền văn học nước nhà. Từ thành tựu sáng tác cho đến nhận định của các nhà văn, nhà báo tiền bối (Trần Huy Liệu, Hải Triều, Vũ Ngọc Phan...) về Lan Khai, chúng ta càng thấy tự hào về một con người, một nhà văn đáng kính đã làm trọn thiên chức của mình đối với dân tộc...

Sau sáu mươi năm đã qua, đặc biệt sự đóng góp của Lan Khai, một nhân vật lịch sử của nền văn học Việt Nam hiện đại, nhà văn đường rừng, nhà văn của phu mỏ than! Vậy mà cái chết oan khuất đầy bí ẩn của ông vẫn chưa một lần được ai lí giải, chưa một lần được một cơ quan nào làm sáng tỏ! Không một cá nhân tổ chức nào thông báo công khai nhận trách nhiệm về sự thật cái chết của nhà văn Lan Khai?

Cái chết của ông giống hệt những cái chết li kì, rùng rợn, ông đã miêu tả trong những cuốn tiểu thuyết như số phận của mình vậy. Đó là số phận hay đó là sự ghen ghét, đố kỵ, hằn thù của những kẻ vô học, bất lương đối với người lương thiện?

Một nhà văn, một con người, ngay từ thời tiền chiến, nước Việt Nam còn đang trong vòng nô lệ bởi thực dân Pháp, ông đã nổi tiếng trên văn đàn, được đông đảo độc giả xa gần mến mộ. Một con người đã hết lòng vì dân, vì nước, vì sự phát triển của nền văn học nước nhà, đã không mệt mỏi làm đẹp cho non sông bằng tấm lòng, bằng những trang văn thấm đẫm tình người, tình đời của mình.

Công trình nghiên cứu của PGS.TS Trần Mạnh Tiến - khoa Ngữ Văn, trường Đại học Sư phạm Hà Nội .

Với hơn 100 bài báo khoa học và nhiều công trình nghiên cứu lớn nhỏ như: Lý luận phê bình văn học Việt Nam đầu thế kỷ XX; Lan Khai - Tác phẩm Nghiên cứu Lý luận và phê bình văn học; Lan Khai - Lầm than; Lan Khai - Truyện đường rừng; Lan Khai - Nhà văn hiện thực xuất sắc; Lan Khai - Tuyển tập (2 tập); Lan Khai - Tuyển truyện ngắn; Đất Tuyên - Núi song diễm lệ; đặc biệt công trình: Lan Khai - Nhà văn hiện thực xuất sắc, tại “Hội thảo Lan Khai với nền văn học hiện đại” nhân Lễ kỷ niệm 100 năm ngày sinh Lan Khai do Hội nhà văn VN tổ chức ngày 27/6/2016 (công trình được cả nước chú ý).

Ông chính là người có công đầu trong việc khôi phục di sản của nhà văn Lan Khai và minh oan cho cuộc đời và sự nghiệp của một tài năng lớn.

Cho đến nay, nhà văn, nhà thơ, nhà phê bình văn học và dịch giả LAN KHAI vẫn là một Nghệ sĩ tài năng bị lãng quên?

PHẠM VŨ

(Tham khảo: Sách báo - Internet)


NGUYỄN KHẮC VIỆN

MỘT TRÍ THỨC

VIỆT NAM CHÂN CHÍNH*

Biết anh Nguyễn Khắc Viện sang năm Đinh Sửu đã 85 tuổi, lại nghe tin anh lâm bệnh, tôi lo ngại gọi điện thoại hỏi chị Khánh, em gái anh.

- Vâng, anh Viện yếu lắm rồi.

- Anh Viện nằm ở viện nào?

- Anh nằm ở nhà. Không đi bệnh viện (cười). Anh quyết tâm… ra đi.

Tôi không ngạc nhiên. Tôi vốn hiểu anh Viện. Tôi chợt nhớ câu thơ trong bài thơ tuyệt mệnh của Xuân Diệu: Tôi nhận cái này từ lâu.

Vì câu thơ đúng với anh Nguyễn Khắc Viện. Có lẽ còn đúng hơn là với anh Xuân Diệu nữa.

“Tôi nhận cái này từ lâu” anh Nguyễn Khắc Viện đã từng nói như vậy. Cách đây trên dưới 30 năm, trong một bài viết trên báo, anh Viện nói đại ý như sau: “Mới ngoài 20 tuổi, tôi đã bị bệnh lao, phải cắt 2/3 lá phổi, thế mà tôi vẫn sống và làm việc bình thường cho đến nay”. Đến nay, lúc bấy giờ là hơn 60 tuổi. Và anh tiếp tục sống và làm việc - không phải bình thường như anh nói, mà với một năng suất đáng phục - mãi cho đến hôm nay… Quả là anh sẵn sàng nhận cái này, nhận với thái độ bình tĩnh, không bị nó đè nặng lên tâm trí. Tôi hình dung anh sống sóng bước với tử thần như đôi bạn đường có lời hẹn trước lúc nào “hắn” gọi thì anh đi theo “hắn”, mà “hắn” chưa gọi thì anh vẫn ung dung làm việc… và cứ như thế hơn 60 năm! Đó cũng là một thiên giai thoại kỳ thú!

Tôi được biết anh Nguyễn Khắc Viện từ gần 70 năm trước, tôi mới vào học năm thứ nhất ở Trường Bưởi (hồi ấy mang cái tên Tây là Trường Trung học bảo hộ) thì anh Viện đã là học sinh ban tú tài bản xứ, có người bạn chỉ cho tôi: “Anh Nguyễn Khắc Viện đấy”. Anh Viện nổi tiếng là học giỏi, nên chúng tôi ai cũng mến phục, muốn biết mặt.

Đấy là một học sinh người mảnh khảnh, đúng ra là hơi gầy gò, đầu hớt tóc kiểu carré. Cái đầu ấy khiến tôi ngạc nhiên trước hết. Hồi ấy học sinh, kể cả lớp nhỏ tuổi như tôi đều để tóc dài, rẽ ngôi, có những anh còn để tóc kiểu “nhà triết học” chải lật ra sau gáy để trưng cái trán cao có vẻ thông thái: có ai như anh Viện, để tóc “kiểu trẻ con” như thế.

Người học sinh nổi tiếng ấy mặc chiếc áo dài vải trắng, đi giày vải. Anh đang đá cầu giấy với bạn, đá rất tài, bằng mu bàn chân, bằng gan bàn chân, bằng gót chân, bằng đầu gối… Hàng năm bảy phút không để quả cầu giấy rơi xuống đất (sau này, khi đã cao tuổi, cao chức, anh vẫn truyền bá trò chơi ấy).

Mấy năm sau, anh Viện tốt nghiệp đi học nơi khác, tôi tiếp tục học trung học, không có dịp gặp anh.

Bẵng đi mấy chục năm, tôi lại trông thấy anh; ấy là khi anh ở Pháp về nước, làm việc trong nước. Tôi thấy anh chẳng khác gì hồi còn học tú tài bản xứ. Tuổi tất nhiên có già đi, nhưng cái cốt cách thì vẫn xưa. Tóc có dài hơn một chút, hớt “cua” chứ không phải carré, không mặc áo dài vải trắng mà mặc sơ mi quần tây… Một đặc điểm mà tôi rất chú ý ở anh: bao giờ cũng vừa nói vừa cười, dù nói chuyện thân mật hay đứng trên diễn đàn trước đông đảo công chúng. Tôi hiểu: đó là thái độ hòa nhã của người Việt Nam, kết hợp với phép lịch sự của phương Tây, chứ không phải cái cười chiến thuật để lấy lòng thính giả vì bao giờ anh Viện cũng nói thẳng nói thật, không tìm cách tránh né nói quanh, nói khéo. Tôi nhớ có một lần anh Viện viết báo, dùng cái tỉ dụ hoa sen (lâu quá rồi tôi không nhớ rõ) làm mếch lòng một số bạn trí thức ở Thành phố Hồ Chí Minh; nhưng sau, người ta hiểu rõ sự thành thực của anh và càng quý anh hơn.

Tính cách nhân hậu, hiền hòa, khiêm nhường của anh Viện biểu hiện trong từng bước đi, lời nói. Cư trú, làm việc ở Pháp lâu như thế mà anh chẳng “Tây” chút nào, vẫn nguyên vẹn cốt cách con người Việt Nam, nói cụ thể hơn, như chúng tôi vẫn thường nói đùa với nhau: Thầy đồ xứ Nghệ.

Nhưng “Thầy đồ xứ Nghệ” ấy rất sâu, rất rộng văn hóa phương Tây. Tôi đọc những bài anh viết bằng tiếng Pháp, bản dịch Truyện Kiều ra tiếng Pháp của anh, rất khâm phục và thú vị. Phải là một người nắm vững văn minh và ngôn ngữ Pháp mới viết được như thế. Văn phong của anh Viện - khi viết Pháp văn - giản dị, trong sáng, khúc chiết, tôi nghĩ rằng anh Viện viết thứ văn Jules Michelet, Ernest Renan(1), một thứ văn “thuần Pháp”.

Vậy mà khi anh Viện được trao tặng giải thưởng “Nhà văn viết tiếng Pháp” (francophone) có tờ báo phái hữu phản đối, công kích một cách thô bạo: nào là Nguyễn Khắc Viện là cộng sản chống nước Pháp, nào là Nguyễn Khắc Viện có sự nghiệp gì cống hiến cho văn chương ngôn ngữ Pháp, chẳng qua chỉ là một dịch giả. Người viết bài báo công kích ấy đã tự mình tố cáo sự kém cỏi của mình. Y không biết rằng có những dịch giả đích thực là học giả, được lịch sử văn học thế giới đặt lên một vị trí trang trọng, và Nguyễn Khắc Viện chính là một dịch giả như thế.

Tôi không có dịp làm việc với anh Viện, nhưng chỉ một lần thôi cũng đủ cho tôi thấy và hiểu cách làm việc của anh. Ấy là khi Nhà xuất bản Ngoại văn mà anh là người sáng lập và làm giám đốc chuẩn bị cho ra trong tủ sách Nghiên cứu Việt Nam (Etudes Vietnamiennes) một tập chuyên luận về văn học Việt Nma hiện đại. Anh Viện nhờ tôi giúp cho về tư liệu và ý kiến. Anh đến nhà tôi làm việc với tôi. Tôi nói, anh nghe, không ghi chép. Khoảng độ 20 phút, tôi còn đang hăng hái trình bày, anh ngăn lại, kéo tay tôi đứng dậy và khoác vai tôi đi ra sân đi đi lại lại, có lúc anh lại bày ra trò chơi đấm đá, bảo tôi đấm để anh đỡ và dạy tôi cách đỡ, cách đấm. Quả thật ban đầu tôi không thích, nhưng sau lại thấy vui.

Tôi ngạc nhiên thấy anh làm việc như đùa, thì anh giải thích: “Đừng nên làm việc tập trung căng thẳng quá lâu. Chốc chốc phải thư giãn thì mới làm việc trường kỳ được. Tôi sở dĩ mang bệnh phổi từ mấy chục năm mà vẫn làm việc được đều đặn, bền bỉ là vì tôi không bao giờ làm việc liên tục hàng giờ”.

Anh Viện đã dạy bài học ấy cho mọi người. Chính anh gây nên phong trào tập thể dục ở Hà Nội và các tỉnh. Phương pháp luyện tập này được mọi người gọi là phương pháp Nguyễn Khắc Viện. Anh còn làm cả một cuốn phim để phổ biến phương pháp của anh chủ yếu là hít thở, thư giãn. Anh bảo tôi: “Trong những cuộc họp, nếu không phát biểu, tôi ngồi hít thở, đi đường cũng vậy, lúc nào tôi cũng tập luyện được”.

Tôi vẫn nghĩ bụng: Anh Viện sống có phương pháp, làm việc có phương pháp như vậy cho nên năng suất làm việc của anh cao là phải. Và tôi mới hiểu ra rằng tất cả những việc mà anh Viện đã làm, khi ở nước Pháp cũng như khi về Việt Nam, dù là viết báo Việt Nam tiến bước (Viet Nam en marche), biên soạn các tập Nghiên cứu Việt Nam, dù là dịch Truyện Kiều, nghiên cứu tâm lý trẻ em, hay truyền bá thể dục dưỡng sinh, tất cả những việc ấy đều ở trong một kế hoạch mà anh thực hiện từng bước, có hệ thống để góp phần xây dựng, phát triển con người Việt Nam về mọi mặt trí tuệ và thân thể, truyền thống và hiện đại làm động lực phát triển đất nước và xã hội.

Suốt cả cuộc đời, anh Nguyễn Khắc Viện tuân thủ trung thực và trung thành một Đạo Sống rất đẹp vốn là cái truyền thống muôn đời của người trí thức Việt Nam: Yêu nước lo dân.

Những cống hiến của anh Nguyễn Khắc Viện cho dân, cho nước rất nhiều, rất lớn, tôi không có điều kiện để trình bày đầy đủ, và cũng không đủ trình độ để nhận định, đánh giá. Tôi chỉ kể năm, ba điều vụn vặt, mà tôi còn giữ lại trong ký ức, về những lần giao tiếp thân mật giữa anh Viện và tôi: cho dù chỉ bấy nhiêu thôi, tôi cũng có thể khẳng định và tin cậy: Anh Nguyễn Khắc Viện là nhân cách đáng kính mến, một trí thức Việt Nam chân chính. Tôi chắc nhiều người sẽ đồng ý với tôi.

Có lúc tôi đã nghĩ ra đôi câu đối nhỏ, vui để tóm tắt thân thế sự nghiệp nhà trí thức có đóng góp không nhỏ cho dân tộc - Nguyễn Khắc Viện.

Ở Hà Nội, ở Paris, cũng vẫn khí cốt con người Hà Tĩnh

Làm văn chương, làm thể dục, đều vì tiền đồ Việt Nam .

Tháng 2 năm 1997

HOÀNG NHƯ MAI – HOÀNG KIM THƯ st

-----------------

(1) Jules Michelet (1789-1874), nhà sử học, nhà văn Pháp, tác giả bộ sách nổi tiếng Lịch sử nước Pháp (Histoire de France). Ông quan niệm về viết sử là làm sống lại một cuộc sống toàn vẹn. Văn ông giàu hình ảnh và nhiều rung cảm. Ernest Renan (1823-1892), nhà sử học Pháp, tác giả cuốn Cuộc đời Jésus.


Phụ Bản II

CÂU CHUYỆN

LÂU ĐÀI VẠN HOA

Ở ĐỒ SƠN - HẢI PHÒNG

Thông thường chiều thứ bảy nào đoàn y tế cũng đi tắm biển ở Đồ Sơn. Đồ Sơn cách Hải Phòng 22km về phía Đông Nam, nằm giữa hai cửa sông Lạch Tray và sông Văn Úc… Đây là một bán đảo có đồi núi, rừng câu nối tiếp nhau vươn ra biển giống như đầu rồng hướng ra viên ngọc Hòn Báu. Từ xưa người Pháp đã xây dựng khu Đồ Sơn thành khu nghỉ mát dành cho quan chức Pháp và giới thượng lưu người Việt. Bãi biển Đồ Sơn chia thành 3 khu, mỗi khu đều có bãi tắm, đồi núi, rừng thông yên tĩnh. Ở khu 2 có tòa biệt thự từng là nơi nghỉ mát của vua Bảo Đại, ông vua cuối cùng triều Nguyễn. Khu 3 có công trình kiến trúc nhỏ dáng dấp mô phỏng như ngôi chùa nên từ lâu thành tên gọi là Pagodon. Đặc biệt cuối bán đảo là đồi đất cao trên có khách sạn Vạn Hoa, đây là một công trình kiến trúc gỗ tuyệt đẹp nhất của Đồ Sơn.

- O -

Vào khoảng những năm 20, thực dân Pháp thường tổ chức giải xổ số ở Đông Dương, có bán vé số rộng rãi ở cả 3 quốc gia Việt, Miên, Lào. Xổ số 3 tháng hay nửa năm mới xổ một lần, giải độc đắc lớn khủng khiếp, mà theo lời các cụ già kể lại thì người trúng giải còn bị giam, bị dậm dọa suốt thời gian cả tháng trời cho hết cơn sốc rồi mới được lĩnh thưởng. Lĩnh thưởng xong, người ta còn tổ chức cả đội bảo vệ, người cố vấn... hưởng lương “Nhà nước” để bảo vệ và giúp người đoạt giải cách... tiêu tiền.

Năm ấy, vào khoảng năm 1926, 1927 gì đó, một đợt vé số Đông Dương được bán tại Hải Phòng. Cô Trần Thị Bé người huyện Thủy Nguyên, thường đi bán hàng xén ở chợ huyện, do vui bạn bè, đã mua hú họa một tấm vé số. Không ngờ tấm vé số ấy lại trúng giải độc đắc 10 vạn đồng, khi người ta còn đang tiêu tiền ở đơn vị “xèng”, thì gia tài 10 vạn đồng rơi vào tay chẳng khác nào một tiếng sét nổ bên tai và lẽ tất nhiên, nó làm cuộc sống của cô Bé đảo lộn hoàn toàn. Cô bất lực vì vừa phải giữ của, lại vừa chẳng biết tiêu tiền cách nào cho có lý. Cô đã giúp đỡ anh em, bà con họ hàng, làng xóm, cúng chùa, phát chẩn... mà vẫn không sao hết nổi một ngàn đồng.

Vốn là một cô gái nông thôn xinh đẹp, giờ lại quá giàu có, cuộc sống của cô Bé như một ốc đảo giữa sa mạc mênh mông, cô không thể lấy được ai làm chồng. Lớp con quan lại bù nhìn coi thường gốc gác nông dân của cô, lại sợ mang tiếng ham tiền mà lấy người, nên không một ai ngỏ ý. Các chàng trai ở cùng quê thì nhìn cô như nhìn người Nhà trời, cho kẹo cũng chẳng anh nào dám bén mảng. Bi kịch có thể đã diễn ra, nếu như cô không tiếp tục gặp “đại may” một lần nữa.

Trong tốp kiến trúc sư thiết kế và chỉ đạo thi công Nhà hát lớn Hà Nội (khánh thành năm 1911), có một chàng kiến trúc sư trẻ tuổi, khi đọc thấy có bài viết về cô Bé đã chủ động viết thư cầu hôn với cô. Bức thư khẳng định rằng, ngoài việc lấy anh ta, cô Bé sẽ không thể lấy được ai làm chồng tốt hơn. Anh ta nói mình đủ giàu để lấy cô Bé mà không ai nghĩ là anh ta vì tiền, đồng thời cũng đủ tài để giúp cô sử dụng khoản tiền thưởng ấy một cách có ý nghĩa nhất, trước tiên là vì dân Hải Phòng, sau đấy là vì cả nước Việt Nam. Gia đình cô Bé đã cân nhắc rất nhiều lời cầu hôn kiểu “Tây” ấy và cuối cùng đã đồng ý gả cô cho chàng kiến trúc sư này. Lâu đài Vạn Hoa được ra đời chính là bắt nguồn từ cuộc nhân duyên này.

Sau khi cưới nhau xong, giữ đúng lời hứa trong thư cầu hôn, chàng kiến trúc sư đã góp ý với cô Bé rằng phải xây một tòa lâu đài thượng hạng, tại một nơi nào đó ngay tại Hải Phòng này. Tòa lâu đài sẽ làm cho người Hải Phòng không bao giờ quên tên cô, đồng thời cũng là một món quà có ý nghĩa với thành phố sau nhiều năm nữa. Hơn thế, nó còn là nơi tụ hội để từ đó làm bước tiến cho cô Bé, trên con đường hòa nhập vào cộng đồng chính khách, quan lại Việt Nam thời bấy giờ. Được vợ đồng ý, chàng kiến trúc sư người Pháp đã hoàn chỉnh bản vẽ thiết kế và sau nhiều tháng tìm địa điểm xây dựng, hai vợ chồng đã nhất trí chọn mảnh đất cuối cùng của bán đảo Đồ Sơn để xây lâu đài.

Vạn Hoa xây dựng xong vào khoảng đầu những năm 30. Khi khánh thành, có mặt đầy đủ các viên chức cao cấp trong Phủ Toàn quyền của Pháp, vua Bảo Đại và hầu như tất cả các quan chức bù nhìn đầu tỉnh. Hai vợ chồng cô Bé đã ở tại lâu đài này cho đến ngày Cách mạng tháng Tám thành công. Khi chính quyền Hải Phòng thuộc về tay cách mạng, cả hai vợ chồng đã vội vã rời khỏi tòa lâu đài và lên tàu về Pháp. Trước khi đi, cô Bé đã để lại toàn bộ hồ sơ giấy tờ chứng minh quyền sở hữu của mình và viết giấy trao lại tòa lâu đài cho ông Nguyễn Văn Cảnh là cháu ruột của mình….

BÙI ĐẸP st.


THI SĨ VỚI GIAI NHÂN

Chúng ta thử ngồi nghĩ thầm: một vườn xuân không có một bông hoa, một cảnh non sông gấm vóc lại không có một tia sáng, một hồ biếc mà ngàn năm không có lấy một đêm trăng. Và giữa nhân loại này không tìm thấy một giai nhân? Ôi! Thượng Đế! Có lẽ nào! Có lẽ nào trên vườn trần gian này không có giai nhân được? Vì giai nhân là hoa của vườn xuân, là ánh sáng của non sông, là trăng của hồ biếc, là nàng Tiên của tất cả. Nàng tiên của mọi linh hồn.

Riêng trong đám thi nhân, giai nhân được họ tôn thờ và ca tụng hơn hết. Người ta phải lợi dụng cả cái danh nghĩa “giai nhân” để làm mồi cho đám thư sinh không ham học nữa. Ngày xưa, người chẳng đã đánh lừa một anh học trò lười rằng: “Thư trung hữu mỹ nhân như ngọc?”. Anh chàng lười mà đa tình này tưởng trong sách có mỹ nhân đẹp như ngọc thật, liền chui đầu đọc sách. Thế rồi mười năm sau anh tỉnh ngộ: anh thi đỗ và được một giai nhân con quan chánh chủ khảo chú ý. Thế rồi từ đó anh ta lấy tài thi văn của anh ra mà ca tụng “người ngọc” của anh và mở đầu một cuộc “luyện” giai nhân trong thơ.

Rồi người ta đua nhau tìm những tiếng hay, những lời đẹp để tặng giai nhân của mình.

Và mỗi buổi sáng kia, những cậu thư sinh còn dưới tuổi mười sáu đã cao giọng “kẻ sách”:

Quan quan thư cưu

Tại hà chi châu;

Yểu điệu thục nữ

Quân tử hảo cầu

(KINH THI)

Dịch

Tiếng tiếng chim thư cưu

Hỏi bên sông sâu;

Có nàng yểu điệu,

Khách quân tử cầu

(V.T.Can)

Riêng bốn tiếng “yểu điệu thục nữ” cũng đủ tả cái cốt cách của một giai nhân rồi. Can chi phải thêm “Phù dung như diện, liễu như mi” để cho người yên chí rằng: “mặt nàng” chỉ đẹp bằng hoa phù dung và “mày nàng” chỉ mềm “bằng” lá liễu. Không, “nàng” còn đẹp hơn nữa, đẹp não nùng.

“Người ta” đã giận cụ Tiên Điền Nguyễn Du ở những câu này:

… trang trọng khác vời

Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang.

Hoa cười ngọc thốt đoan trang

Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da.

...

Làn thu thủy, nét xuân sơn

Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh

“Người ta” còn đẹp lắm cơ, đẹp nhiều cơ. Không một ai nên ví “người ta” với cái gì cả. Vì chả cái gì sánh được với cái đẹp huyền ảo của “người ta”.

Núi mùa xuân có đẹp, trăng mùa thu có đầy, hoa có thắm, lá có xanh. Nhưng tất cả những cái ấy đều đẹp có hạn cả. Chớ nhan sắc của “người ta” nó mơ hồ huyền ảo biết ngần nào. Đừng ví với cái gì nữa mà phải tội.

Cứ như hai nhà thi sĩ Nguyễn Bính và Nguyễn Nhược Pháp thế mà hóm. Này nhé, “người ta” của Nguyễn Nhược Pháp chỉ có thế này:

Mê nàng bao nhiêu người làm thơ

Khiếp! Bao nhiêu người làm thơ vì “nàng”. Chắc “nàng” đẹp lắm. Đẹp hết chỗ nói. Nhưng cái chỗ “hết chỗ nói” ấy nó cho người đọc một hình ảnh mập mờ mà thích lắm, thích lắm.

Ba năm trở lại đất Hà Đông

Người cũ, cô Oanh má vẫn hồng

Tóc vẫn bỏ lơi, răng vẫn trắng,

Vẫn ngồi lơ đãng liếc qua song.

Nhưng vẫn vô tình với khách thơ

Qua đường, hai mắt ngại ngùng đưa.

Mà hai mắt ấy lâu nay vẫn

Riêng để nhìn ai trong giấc mơ.

(Nguyễn Bính)

Thôi nhé, thế là đủ rồi. Một cô gái răng trắng bóng, má hồng hồng, tóc bỏ lơi lại ngồi mơ mộng bên cửa sổ là đủ tài liệu cho một bức vẽ của nhà nghệ sĩ tài hoa rồi.

Và anh chàng nghệ sĩ của màu hoàng yến lại càng “hóm” nữa. Cứ đọc mấy “câu thơ lăng nhăng” này của anh ta, mình cũng cảm động:

Nếu không trăng

Đêm đông tôi ngăm thơ cùng gió lạnh.

Nếu không gió

Trưa hè tôi tìm vận dưới ao sen,

Mà không trăng, không gió, không ao sen.

Tôi im lặng… nhìn môi người thiếu nữ.

(V.T.Can)

Thế thôi. Không hơn một lời. Không phải nói rằng môi ấy “thắm như san hô”. Vì lắm người có biết “san hô” là cái quái gì đâu.

Cái nhan sắc của giai nhân đã huyền ảo không chừng thi nhân cũng phải tìm những vần mơ hồ mà tả. Ta hãy nhắm mắt lại mà đọc câu này:

Bóng tiên thấp thoáng trong mành,

Cỏ cây cũng muốn nổi tình mây mưa.

Rồi ta tưởng tượng, tưởng tượng.

Đây là giai nhân của Thế Lữ:

Bỗng đâu gặp gỡ tình cờ,

Cô nàng cao váy ỡm ờ đứng trông,

Tóc cô gió lửng lơ chòng

Nắng vàng rỡn cặp má hồng hồng tươi.

Đọc mấy lời ấy có lẽ còn thú vị hơn mấy câu này:

Đôi mắt xanh đắm đuối long lanh,

Như đôi ngọc huyền, sâu sa, huyền bí.

Cặp môi son đằm thắm nét anh đào.

Ai thì không biết chứ riêng tôi từ bé tôi chẳng biết “đôi ngọc huyền” và “nét anh đào” là cái quỷ gì để so sánh với “mắt nàng” cả.

LÊ TRÀNG KIỀU - LỆ NGỌC st.

Em lại đi

Em lại đi và chiều thôi buông nắng
Gió liêu xiêu từng nhánh cỏ ngập ngừng
Phiến mây xa trôi lặng lẽ về gần
Vành trăng nhẹ đầu non thấp thoáng

Chút sương mơ thả lưng chừng lãng đãng
Tiếng côn trùng lâng điệu khúc mênh mang
Gió xa đưa một phím nốt hiên ngàn
Lời hương vọng tình sâu lấp lánh

Bước chân xa đâu đó miền xuôi ngược
Em dọc dài thao thiết những nặng mang
Có phút giây thinh lặng dâng tràn
Hồn như lạc mờ xa bến vắng

Rồi năm tháng bước chân về chốn cũ
Lối cỏ mềm thương nhớ đợi em
Khúc huyền tơ vẫn lắng bên thềm
Và hương mắt ngàn xanh trầm ấm

ĐÀM LAN

BỊ ĐÔI

La Besace

(La Fables de La Fontaine)

Ngày kia, Thượng Đế bảo rằng:

“Chúng sinh trình diện Long Nhan tức thì

“Thân hình khiếm khuyết điều chi

“Nói lên, ta sẽ liệu thì sửa cho”.

Con khỉ khi ấy so đo:

“Thân tôi đẹp đẽ chẳng lo việc gì

“Mảnh mai, lanh lẹ, phương phi

“Chỉ lo mụ gấu ú ì khó coi”.

Gấu rằng: “Đừng có bác bôi

“Thân tôi duyên dáng, mặn mòi, khỏi chê

“Chú voi kia mới bề xề

“Đi đứng cục mịch, nặng nề tấm thân

“Đuôi dài thêm nữa cho cân

“Vành tai nhỏ bớt thanh tân cuộc đời”.

Con voi dè dặt trả lời:

“Cái điều chỉ trích có thời xa xưa

“Kìa anh cá mập bự chưa

“Đến con kiến nhỏ không vừa lòng ai”.

Thượng Đế khiển trách đôi lời:

“Tật mình đem dấu, tật người chê khinh

“Vai mang hai bị kình kình

“Xấu người để trước, xấu mình sau lưng”.

Rồi Ngài giải tán thú rừng

Vì con nào cũng khoe tưng thân mình...

Thanh Châu chuyển ngữ

NÀNG TIÊN CỦA TÔI

Nhớ mãi ngày xưa mới quen em

Sợ lắm nàng tiên lúc giận hờn

Khi ấy nom em sao đẹp lạ

Càng giận, ô kìa! càng thêm duyên.

*

Nhớ lắm mắt nai nhuốm lệ rơi

Lặng im đến gió cũng bùi ngùi

Đan cho tóc ấy trôi hờ hững

Vương vào quặn thắt trái tim tôi.

*

Nhớ mãi ngày xưa những lối mòn

Hoa cỏ nhoẻn cười mắt ngó nghiêng

Bước chân dan díu đan đầy nắng

Đường về là ngút ngát linh thiêng.

*

Nhớ lúc mưa rơi đẫm vạt chiều

Ôm anh, em nói, ới anh yêu

Tay anh, lạy trời, sao ấm thế

Có biết lòng anh run rẩy nhiều…

*

Nhớ sáng xuân, em dặn đến nhà

Lo lắm: nói gì với mẹ cha?

Ngại lắm bầy em thập thò ngó

Độn thổ chờ em mới… thở phà!

*

Nhớ cánh mai vàng vương trên tóc

Mỏng manh và rất đỗi dịu hiền

Bờ mi chớp khẽ, mai rơi mất

Chỉ còn ánh mắt nũng nịu sương…

*

Xuân này ta vẫn mãi bên nhau

Những chuyện ngày xưa vẫn thuộc làu

Có bao giờ em từng thủ thỉ

Cho con nghe chuyện ta ban đầu ?

LAM TRẦN

TIỄN BẠN

Người tiễn ta lên chốn ấy xa !

Mênh mông rừng núi biết đâu nhà ?

Tay nâng chén, tiễn đời ta đấy !

Bạn chớ buồn ta khi với ta

Ta với người chung ly rượu cay

Quan san bao dặm dưới sao đầy

Uống đi cho ấm lòng ly khách

Rồi trải dài thân với tháng ngày

Khi lá rụng vàng, suối cạn khô

Rửng rưng sức khỏe, cứ mong chờ

Mai kia đời có thành dâu bể

Là lúc ta thừa với nắng mưa

Người tiễn ta đi ly rượu nhạt

Đầy những ấm nồng của trái tim

Tâm tình ta chỉ đôi lời vặt

Để còn mai mốt nhớ nhau tìm.

T.P.

SẦU MƯA SÀI GÒN

Thôi thì trời cứ mưa đi

Sài Gòn xám ngắt ôm ghì nhớ thương

Làm sao quên nỗi vấn vương

Mưa chiều kỷ niệm, đoạn trường tình thơ

Ước gì tình một giấc mơ

Cho ta gặp lại duyên hờ mộng phai

Sài Gòn mưa ướt áo ai

Lạnh lùng thương nhớ tình hoài ngóng trông...!

Người đi tít tắp mịt mùng

Giận hờn ai biết mây chùng gió bay

Sài Gòn mưa mấy hôm nay

Cho dài nỗi nhớ buồn lay lắt buồn...

Bơ vơ trong cõi cô đơn

Mình em vàng võ dỗi hờn tình đau

Chiều buồn trời vẫn mưa mau

Sài Gòn nuối tiếc, tình sầu bâng khuâng !

Phạm Thị Minh-Hưng

THÁNG BẢY... MƯA

Tôi trở về đây gió lạnh lùng
Sài Gòn chiều nhạt nắng mênh mông
Tìm tên đường cũ tìm đâu thấy
Bâng khuâng một bóng, bạc tơ lòng

Đã cách người ơi mấy núi sông
Con thuyền xưa lạc bến... hư không..
Mộng vỡ tan còn đâu tưởng nhớ
Sài Gòn vẫn một nỗi long đong...

Tháng Bảy mưa buồn rơi nhạt nhòa
Phố xưa - Trường lặng lẽ - Người qua
Ngút ngàn mưa... sợi thương sợi nhớ
Xót xa tình mộng vội phôi pha.

Giọt mưa nhỏ xuống mái tôn buồn
Hoàng hôn xám ngắt giữa màn sương
Mưa giăng Tháng Bảy sầu hoen mắt
Một thuở vàng son lạc cuối đường...

Phạm Thị Minh-Hưng

Một chuyến bay lên

Kỷ niệm một chuyến du lịch Phú Yên

Không phải phượng hoàng mà cũng tới mây xanh

Chẳng phải hải âu hay đại bàng lại vượt qua bể cả

Nhìn xa xa dãy Trường Sơn với bao nhiêu cảnh lạ

Sao bỗng nhớ thật nhiều tiếng se sẻ ở hàng cau

Bỏ bụi tre lên khách sạn năm sao

Quá lạ lẫm với sơn hào hải vị

Nằm vắt tay với bao nhiêu suy nghĩ

Mình đang tìm gì khi tập tễnh tung bay

Xin gởi gió mây bao cay đắng dạn dày

Chỉ giữ lại sự kiên cường như loài hoa muống biển

Mong được thấy lũ chim về tháp nhạn

Hòa tiếng kêu cùng tiếng sóng sông Đà.

Nguyên Lê

NGẨN NGƠ

Nồng ấm lửa yêu nhạc với thơ

Thiết tha sầu mộng thắm duyên mơ

Mong chờ nặng nghĩa tình sâu thẳm

Giá lạnh hồn sương khói mịt mờ.

NGÀN PHƯƠNG

NGƠ NGẨN

(đọc ngược)

Mờ mịt khói sương hồn lạnh giá

Thẳm sâu tình nghĩa nặng chờ mong

Mơ duyên thắm mộng sầu tha thiết

Thơ với nhạc yêu lửa ấm nồng.

NGÀN PHƯƠNG

BUỒN KHÔN NGUÔI

Mùa thu theo gió về trời

Ta chơi vơi giữa dòng đời đắng cay

Ba chìm bảy nổi đọa đày

Băng ghềnh vượt thác, cơn say não nề

Hoàng hôn nhuộm tím sơn khê

Cuộc đời xóa ánh trăng thề hẹn xưa

Ta lang thang dưới màn mưa

Tình như chiếc lá vàng chưa lìa cành

Cuộc đời tựa ánh sao xanh

Với hoài không tới nên đành buông xuôi !

Mình ta với nỗi ngậm ngùi

Vỡ tan hạnh phúc, chôn vùi xuân xanh !

NGÀN PHƯƠNG

ƯỚC MƠ

Ước mơ vĩ đại, trường tồn

Chỉ còn tượng đá vô hồn buồn tênh

Cuộc đời lên thác xuống ghềnh

Mây trôi, bèo dạt, lênh đênh kiếp người

Ước mơ khao khát làm giàu

Lòng tham vô đáy biết đâu mà lường

Gây nên bao cảnh tang thương

Nay còn, mai mất vô thường - đời ta

Ước mơ phú quý, vinh hoa

Ước mơ quyền lực đều là mong manh

Là người có tử có sanh

Than ôi, tất cả đều thành hư vô.

LÊ MINH CHỬ

SUỐI ƠI !

Tiếc thương suối đẹp nên thơ

Mang mùi hôi thối bao giờ suối ơi

Kẻ nào đầu độc mi rồi

Suối đà đã chết, còn người sống sao !

LÊ MINH CHỬ

NHỚ NGƯỜI DƯNG

Ngộ ghê ! Bỗng nhớ người dưng

Nhớ ! Ơi da diết! Tưởng chừng như say

Nhớ đêm ! Rồi lại nhớ ngày

Nhớ ăn ! Nhớ ngủ ! Nhớ đầy cả Thơ

Trăng ơi ! Ta có ngây ngô

Nhặt gom mưa HẠ đợi chờ Em xa

Bóng Ta cứ ngỡ Em qua

Để quên hương sắc ngọc ngà lại đây

Trăng ơi ! Có mộng giăng đầy

Cho Ta gởi dáng thơ gầy tương tư

Ơ kìa ! Mưa HẠ hát ru

Mây giăng nỗi nhớ lãng du quên chờ

Đâu hay có kẻ thầm mơ

Nhớ người dưng ! Bỗng làm thơ tỏ tình

Tình ơi ! Tình có phiêu linh

Sao Ta ! Ta vẫn một mình không Em.

Sàigòn 4/7/17 và một chiều mưa

HẢI ÂU

TƯƠNG TƯ

Biết rằng Em của người ta

Còn Ta ! Ta chỉ thoáng qua bóng đời

Gặp nhau chợt nửa môi cười

Vài câu thơ lỡ… cho đời còn XUÂN

Em qua mấy cuộc hồng trần

Thuyền quyên lẻ bóng bước chân độc hành

Vẳng nghe năm tháng cầm canh

Nhặt gom tóc trắng dỗ dành trái tim

Nửa đời dấu lệ xa tìm

Chỉ còn chiếc bóng lặng im bên trời

Ta gặp Em mùa HẠ rơi

Mưa qua phố cũ chợt cười tha nhân

Em và Ta nào Thanh tân

Chỉ còn chút mộng nợ nần tỉnh say

Gởi trăng nỗi nhớ ngô ngây

Để quên năm tháng heo may bóng mình.

Sàigòn và những ngày mưa tháng Hạ

HẢI ÂU

CHIỀU MƯA NHỚ

Tặng Thùy Hương

Mưa rơi rơi mãi từng chiều

Hoàng hôn thấm đẫm tiêu điều không tên

Em về đường phố phai quên

Nhớ cành hoa tím anh đền ngày xưa

Mùa nầy trời vẫn còn mưa

Nhớ người năm cũ

…sao vừa

…mây bay.

HOÀI LY (7/7/2017)

ĐỪNG TRÁCH

Mến tặng anh T.Châu

Đừng trách người thơ hay nhớ nhung

Tâm hồn thường thương nhớ mông lung

Đêm với trăng khuya thầm xướng họa

Ngày ngắm hoa xinh cũng lạ lùng

Đừng trách người thơ lắm mộng mơ

Vẫn yêu dù người có hững hờ

Đem hết tương tư vào thi tứ

Dẫu biết thuyền yêu đã xa bờ

Đừng trách người thơ cứ lênh đênh

Đường trần phiêu dạt mãi buồn tênh

Một tôi cũng đã đời hiu hắt

Thì nói gì thêm chuyện lãng quên

Đừng trách người thơ gieo vận luôn

Thi ca lơ lửng giữa trời buông

Mấy vần âm điệu sầu muôn thuở

Như tự nghìn xưa khúc nhạc buồn.

HOÀI LY

7/2017

A DI ĐÀ PHẬT

A di Đà Phật đức Thế Tôn

Hào quang tỏa sáng khắp muôn phương

Rạng ngời chân lý theo nhân quả

Rũ bỏ tham sân si hại ta

A di Đà Phật đức Thế Tôn

Từ bi hỉ xả sáng tâm hồn

Khoan thai an lạc tâm ngời sáng

Từ bỏ vinh hoa vững trường tồn

A di Đà Phật đức Thế Tôn

Thương hết chúng sinh khắp cội nguồn

Thế giới tôn vinh gương Đạo PHẬT

Phật Pháp Tăng Ni mãi trường tồn

A di Đà Phật đức Thế Tôn

Tu theo Phật Tổ sáng trường tồn

Phật Pháp biển trời soi lồng lộng

Cực lạc bình an thoát luân hồi

A di Đà Phật đức Thế Tôn

Tu theo Phật Tổ sáng trường tồn

Phật Pháp biển trời soi lồng lộng

Cực lạc bình an cõi phiêu bồng.

Sài Gòn Mừng Xuân Giáp ngọ 2014

Phật Từ PHÙNG CHÍ TÂM

LỜI CHÚA

Tôi lại bước lên mấy trăm bậc đá

Lên cao, cao nữa tới ngọn Tao Phùng

Chúa vẫn dang tay đứng đó

Mừng đón đàn con giữa mênh mông

Chúa chịu đóng đinh trên Thập giá

Cho Tình yêu tồn tại đến vô cùng

Dẫu Người đã hóa thành gỗ đá

Thì lời dặn thiêng còn vọng tiếng chuông ngân

“Các con hãy yêu thương nhau mãi

Như Ta đã yêu thương các con”

Mũi Nghinh Phong trăm năm dầu dãi

Đón bước hành hương chạm tới mây vờn

Đâu phải hôm nay ngày lễ TẠ ƠN

Mà nghe xao động cả tâm hồn

Xin mượn gió giữa biển trời đất Vũng

Mang lời TẠ ƠN trên ngọn sóng hừng Đông !

Vũng Tàu thu 2007

LÊ NGUYÊN

TÌNH MUỘN

Anh thì bên ấy Em đây

Đêm khuya thanh vắng ôm đầy túi thơ

Để rồi trăn trở mộng mơ

Tình như chiếc bóng nhởn nhơ mãi hoài

Em đây sống cảnh lạc loài

Gia đình ly tán đua đòi tránh xa

Quê nhà luôn gặp phong ba

Như Anh số kiếp… Mẹ Cha không còn

Em - Anh chờ đợi mỏi mòn

Thế rồi Trời cũng chạnh lòng cảm thông

Gặp nhau chiều ấy mưa giông

Để rồi nhớ mãi… có ngông không nào ?

Bên nhau tình cảm dạt dào

Tỉ tê tâm sự khơi mào đau thương

Lặng thầm nhung nhớ yêu đương

Trải lòng lưu dấu tơ vương mộng vàng

Dẫu cho số kiếp bẽ bàng

Tâm hồn hòa hợp mơ màng chung đôi.

VŨ THÙY HƯƠNG

ƯƠM MỘNG

Thức giấc chợt nhớ đến anh

Chăn đơn gối chiếc mong manh thân gầy

Ước ao cuộc sống sau nầy

Đôi ta hạnh phúc tràn đầy SẮC XUÂN

Để quên năm tháng cô thân

Để quên năm tháng nợ nần khổ đau

Cùng nhau sống đến bạc đầu

Trăm năm tình nhớ… kiếp sau vẫn còn.

VŨ THÙY HƯƠNG


VÈ CHIM CHÓC

Nghe vẻ nghe ve

Nghe vè chim chóc

Phá hoại lúa thóc

Chim Sắc Áo Già

Rình rập bắt gà

Diều Hâu Bồ Két

Thiếu quần áo mặc

Là chim Manh Manh

Ăn ở hiền lành

Hải Âu - chim Cút

Đá nhau không phục

Chim Cuốc Tu ca

Từng đàn thướt tha

Chánh tông bầy Sếu

Cái tên chúa đểu

Là giống Đại Bàng

Bự nhất trần gian

Là chim Đà Điểu

Sắc màu dễ chịu

Chim Trĩ Hoàng Anh

Kêu động rừng xanh

Là chàng Tu Hú

Gọi vịt bằng chú

Biệt hiệu Bồng Bồng

Nuôi ở trong lồng

Chim Nhồng chim Sảnh

Đồng xa hiu quạnh

Già Đãi Bồ Nông

Giỏi lặn dưới sông

Chàng Bè vịt nước

Núi non cũng vượt

Chim Nhạn lưng trời

Nuôi để xem chơi

Chim Khuyên chim Khướu

Rừng già chẳng thiếu

Là giống chim Ưng

Lủi nhanh vô cùng

Là chim Chằng Nghịch

Lớn mồng lớn tích

Là chú Trích Cồ

Nhà nào cũng vô

Là chim Se Sẻ

Ăn chuối rất khỏe

Trau Trảu miệt vườn

Nho nhỏ dễ thương

Là chim Hút Mật

Mũ mão tươm tất

Tên gọi Chào Mào

Ai biết thêm vào

Góp phần kể tiếp

Tôi xin kể tiếp

Không ai đuổi kịp

Chà Chiện chạy nhanh

Đặc biệt màu xanh

Là con chim Két

Xấu mày xấu mặt

Là chim Cú Mèo

Chỉ thích nói theo

Đó là chim Sáo

Đêm đêm đi dạo

Chim Vạc nhà ta

Biển rộng sông xa

Chim Cò lặn lội

Cổ cong lưng gù

Không bay mập ù

Là chim Cánh Cụt

Thân hình nhỏ chút

Là loại chim Ri

Thăm hỏi rồi đi

Đó là chim Khách

Tính tình trong sạch

Là giống chim Công

Nói chuyện lòng vòng

Là chim Thầy Bói

Lúc nào cũng đói

Gõ Kiến liên hồi

Thời vận lôi thôi

Chim Quyên xuống đất

Hót ca nổi bật

Là chim Họa Mi

Mặt mũi đen sì

Đó là chim Quạ

Nghe tên còn lạ

Còng Cọc chưa quen

Nửa trắng nửa đen

Chốc Là chánh hiệu

Đứng yên không chịu

Là chim Le Le

Én lượn từng bè

Là Xuân sắp đến

Người người yêu mến

Là chim Bồ Câu

Ra vẻ sang giàu

Là chim Hoàng Hạc

Kính chào cô bác

Bè bạn khắp nơi

Xin kính vài lời

Chúc mừng sức khỏe

Chúc mừng sức khỏe.

HỒ KIỂNG - BÁ MẠNH st.


THẦY TÔI…

Thầy tôi như bụi phấn bay

Ra ngoài trời rộng bàn tay ơn thầy

Bờ vai cơm áo hao gầy

Làm sao quên được những ngày thương yêu

Gặp Thầy ngồi giữa thương yêu

Bao năm xa cách bấy nhiêu ân tình

Lời xưa vang mãi bóng hình

Cao cao vầng trán lung linh mắt nhìn

Qua đôi kính trắng thông minh

Mắt trong soi những nhục vinh ở đời

Chữ nhân chữ nghĩa làm người

Chứ đừng khinh bạc vào nơi lạc lầm

Thầy tôi sáng mãi chữ tâm

Tôi ghi khắc suốt những năm tháng dài

Cho dù bão táp thiên tai

Tôn sư trọng đạo nào phai tấm lòng.

10/6/2017

BS. DOANLINH

NỔI NIỀM

Lỡ nhịp cầu ô một cảnh đời

Rủi thay số phận đến chơi vơi

Ngày sau tái ngộ cùng non nước

Chắc hẳn tình người khó lẻ loi

LANG NGUYÊN

CUNG ĐÌNH XƯA

Nguy nga sừng sững một tòa

Khoảng xa đồi núi chính là Đế Đô

Sông Hương thuyền đậu ven bờ

Ngai vàng chúa Nguyễn cơ đồ Gia Long

Ngày nay mở cửa triều trung

Tham quan khách mãi chạnh lòng cố hương

Cổ thành trải nắng dầm sương

Chi chi rồi cũng con đường diệt vong

Cái gì tồn tại mới mong

Cái gì nghịch cảnh đừng hòng tái sinh

Ở đời nhiều chuyện bất bình

Đừng đem duyên nợ gánh tình núi sông

Trăm năm một chữ má hồng

Như Kiều gãy gánh không chồng chẳng con

Đua đòi mượn lớp phấn son

Làm cho thân xác mỏi mòn sao đang

Phải chi đừng vấp tai nàn

Thì đời hương phấn dễ dàng lập thân .

LANG NGUYÊN

ĐÀ LẠT

Hồ Xuân Hương vẻ đẹp như mơ

Hoa cỏ hai bên gió phất phơ

Sương sớm ướt màu bông rực rỡ

Mây che mặt nước cạnh bên bờ

Tham quan vịt lội quanh hồ rộng

Du khách bộ hành vui trẻ thơ

Cao vút đồi thông reo điệu nhạc

Nhìn xem cảnh vật hòa thành thơ.

QUANG BỈNH 2017

THAM QUAN

Đường đi Soài Mộc Rạch Gầm

Hai bên nhà phố vươn tầm lầu cao

Địa danh lịch sử tự hào

Có nhà lưu niệm đón chào mọi nơi

Nơi đây vang bóng một thời

Anh hùng hào kiệt rạng ngời oai linh

Hon-đa bè bạn hành trình

Đường xe lộ mới cảnh tình yên vui

Bình Đức lều quán đón mời

Sa-bô* thưởng thức mía thời giải lao

Gió mát thổi tạt mọi nơi

Hàng dừa bóng mát ru ơi dạt dào

Tâm hồn cảm nghĩ xôn xao

Sự tích oanh liệt cùng nhau tôn thờ.

QUANG BỈNH 2017

* Trái sa-bô-chê

ĐÀ LẠT MỘNG MƠ

Thiên cảnh hư vô đến ngỡ ngàng

Trầm tư tĩnh lặng Lang Biang

Trúc Lâm chiều vắng hồn thanh thản

Thổn thức chuông chùa dạ xốn xang

Sóng sánh Xuân Hương gió mát lành

La đà dương liễu ánh long lanh

Kỳ lân bông tím hương thơm ngát

Mái ngói lô xô ngàn biếc xanh

Lãng đãng cao nguyên tình thiết tha

Vàng ươm màu nắng Mi-mô-da

Nhẹ buông lời hát đong ngàn gió

Réo rắt Cam Ly ngân khúc ca

Dào dạt Đam-bri vương tiếng lòng

Sắc mây in bóng thắm trời trong

Hoàng hôn bịn rịn ôm nhung nhớ

Đà Lạt tình thơ đẹp cõi hồng.

Đà Lạt, Xuân 2002

VŨ MÃO

DREAMY ĐÀ LẠT

The natural sight was so astoundingly nil

Meditating and so quiet Lang Biang

At Trúc Lâm one’s soul was so peaceful

in the deserted evening

One’s mind was perplexed upon hearing

the pagoda bell’s fretting sound

*

The Xuân Hương lake’s waves shook

in the mild and fresh wind

The swaying willow leaves turned sparkling

The purple kylin flowers were so fragrant

Tiled roofs were billowing and mountains

and forests were bluish green

*

The indistinct highland and its so eager love

Golden sunlight spread on the Mimosa

The soft and light song shifted the mountains

and forests’ wind

At the Cam Ly fall,

one heard the melodious echo of the song

*

To the overflowing Dambri

the voice of one’s mind was attached

In the clouds’ colours was reflected a so pure and clear sky

To the twilight was attached so much regret

The rosy poetical love of Đà Lạt was so beautiful.

Đà Lạt Spring 2002

VŨ MÃO - Translated by VŨ ANH TUẤN


Không ai ngờ anh Phương bước vào nghề hội họa. Mọi người ngạc nhiên một cách thích thú khi thấy anh Phương mang đến một bức tranh tặng cho chủ nhà nhân ngày tân gia. Khi thấy chủ nhà mở lớp giấy bao ở ngoài rồi đưa lên cao cho mọi người cùng nhìn thấy. Ai cũng trầm trồ khen ngợi. Bức tranh mô tả cảnh sông Hương với cầu Trường Tiền dưới ánh nắng ban mai có bầu trời xanh biếc, cận cảnh là những khóm hoa tươi thắm. Nhìn bức tranh ai cũng khen ngợi tác giả đã đem đến cho mọi người cảm giác vô cùng thoải mái.

Trong số khách đến dự, có một ông lên tiếng:

- Tôi thấy bức tranh này không diễn tả hết vẻ đẹp của cầu Trường Tiền. Màu sắc không được hợp lắm.

Mọi người không ai đáp ứng lời phê bình của ông khách này mà chỉ phớt lờ như không nghe, không thấy. Chủ nhà đặt bức tranh lên một cái tủ sát tường để mọi người có thể nhìn thấy dễ dàng và mời mọi người vào bàn chuẩn bị ăn uống,

Rõ ràng ông thực khách kia có cái miệng “không thơm” đi phê phán bức tranh không hợp tình hợp lúc chút nào. Ông ta muốn chứng tỏ mình hiểu biết về hội họa, nhưng sau này hỏi lại ông ta không phải là họa sĩ, cũng không hề làm việc gì liên quan đến công việc vẽ vời. Anh Phương cũng ngồi vào bàn ăn và cũng không hề quan tâm đến lời phê phán vừa rồi. Anh bước vào công việc hội họa này vì sở thích và ước mơ từ nhỏ nhưng không có cơ hội, hay là duyên để thực hiện hoài bão của mình. Mãi đến nay tuổi đã về chiều, về hưu, con cái đã thành đạt và có công việc làm tốt, và có hẳn gia đình riêng để chăm sóc. Anh đi mua cọ, màu và giá vẽ rồi bắt đầu làm công việc của một họa sĩ nghiệp dư. Ai thấy anh Phương cầm cọ múa may trên khung vẽ đều trầm trồ khen ngợi:

- Ông này tìm việc làm cho tuổi già thật là “trúng bề trúng khía”

Đúng vậy, tuổi già, về hưu rồi không có việc làm. Buồn lắm. Nhiều người lớn tuổi, không tìm việc gì làm cho hết thời gian đâm ra quẩn trí sinh cáu kỉnh, dễ dàng gay gắt với vợ con. Có người hết “đo” bộ sa-lon, đến “đo” cái giường ngủ, mải miết đọc báo, đọc luôn cả phần quảng cáo không cần biết có muốn mua sản phẩm nào không, rồi đọc qua phần rao vặt, bán nhà bán đất. “Đo” ở đây là nằm dài trên canapé(1) đã rồi nằm lên giường, có khi “đo” luôn sàn gạch cho mát những khi thời tiết nóng bức. Có ông đọc tới phần quảng cáo cho người mua lãi suất không (0) phần trăm rồi càu nhàu:

- Trên đời mới thấy chỉ có ở Việt Nam bán hàng trả góp lãi suất không phần trăm!

Ông già này càu nhàu cũng phải. Chỉ có thiểu năng trí tuệ mới không biết tăng giá bán lên rồi chia nhỏ ra thành số tiền trả góp hằng tháng sau đó quảng cáo là lãi suất 0%. Cũng có ông càm ràm về cái vụ quảng cáo miễn thuế giá trị gia tăng cho khách hàng:

- Cái tiệm này làm như người dân không có tố chất thông minh nào hết mới dám dành quyền của cơ quan chức năng để tuyên bố miễn thuế giá trị gia tăng cho khách hàng.

Gần xóm anh Phương có ông già tuổi cũng “gần miền” rồi. Buổi sáng bỏ một giờ để đi tập thể dục, rồi về nhà thơ thẩn ra vào, hết đọc sách, đọc báo đến nghe nhạc, và ngồi vào máy để “chéc meo”(2). Cũng hay, ông này còn may mắn làm quen với máy vi tính. Ông cũng biết lên mạng đọc báo điện tử, lên “phây”(3) làm quen với người này người nọ. Bạn bè ông cho ông là ông già “hai-téc”(4) và đặt cho ông cái tên là “chuột ăn khoai tây”(4). Nhờ đọc nhiều nên kiến thức ông cũng rộng thêm ra. Cho nên khi ông “lắng nghe” những chương trình quảng cáo các loại thuốc thực phẩm chức năng, ông mới “thấu hiểu” rằng các “nhà” quảng cáo đã đánh lận con đen với các cơ quan y tế. Họ đã đọc trên quảng cáo cái câu nghe hoài riết thuộc lòng: “sản phẩm không phải là thuốc, không có tác dụng thay thế thuốc chữa bệnh” với tốc độ nhanh như tốc độ… ánh sáng. Một cô giáo dạy văn ở lớp 5 chắc cũng có thể cho 2 điểm với lời phê câu dài dòng cố ý làm cho câu trở nên tối nghĩa. Có lẽ các nhà quảng cáo muốn như vậy và các cơ quan y tế cũng phớt lờ không (?) điều kiện. Khán thính giả cũng không thèm để ý luôn rồi truyền khẩu từ người này sang người khác cho đó là thần dược. Nói về mặt tâm lý, một người chẳng may bị ai đó dụ dỗ mua một hộp thực phẩm chức năng về nhà uống không hết bệnh nhưng lại rất mạnh miệng đi dụ dỗ người khác mua về uống cho mau hết bệnh để lấy lại hoa hồng. Cho dù không lấy lại được hoa hồng, con người khờ khạo này cũng nói cho mọi người biết “thuốc này hay lắm tôi uống vô ăn được, ngủ được, da dẻ hồng hào nè, nè…” Chắc chắn ông ta nghĩ rằng nếu nói rõ lại câu quảng cáo: “đây không phải là thuốc, không trị được bệnh”, người ta sẽ cho là ông bị thiểu năng trí tuệ. Ông già “hai-téc” còn nói:

- Còn nữa, người ta dịch từ ngữ nước ngoài là “thực phẩm chức năng” không chính xác chút nào. Coi lại từ điển thì phải dịch là “thức ăn bổ dưỡng” chứ không làm chức năng, chức phận gì cả. Mà cũng lạ thức ăn bổ dưỡng mà lại cho bán ở nhà thuốc tây trong khi thức ăn này không trị được bệnh.

Thấy ông “hai-téc” hết phê bình chuyện này đến phê bình chuyện khác. Có người đề nghị:

- Xin nâng cấp ông này lên là ông “ba-téc” hay “bốn-téc” chứ ổng nhiều ý kiến quá…

Bữa tiệc tân gia ở nhà người bạn anh Phương còn đang rỉ rả kéo dài trong niềm cao hứng có chừng mực. Đột nhiên có người ngồi đối diện hỏi anh Phương:

- Anh ra tận nơi ngồi vẽ hay là vẽ bằng ký ức vậy?

- Dạ không vẽ tại chỗ mà cũng không vẽ bằng ký ức.

- Là sao anh?

- Đơn giản thôi. Tháng trước tôi ra Huế chơi tôi chụp mấy cảnh ở cầu Trường Tiền. Về nhà chọn tấm ăn ý vẽ lại. Khó là ở chỗ pha màu cho đúng.

- À ra vậy. Trước đây anh có học vẽ ở đâu không anh.

- Có chứ anh. Không học làm sao tôi vẽ được như thế này. Nhiều bạn tôi không biết tôi có đi học vẽ, thấy tôi có tranh tặng bạn bè, họ kháo nhau: “Nó mà vẽ cái gì!”

- Anh có học ở trường Mỹ Thuật không?

- Không! Tôi học một đàn anh ở Hòa Hưng gần chỗ tôi ở trọ. Anh ta là họa sĩ đồng thời với mấy ông thầy giáo ở trường Mỹ thuật. Lúc đó Liên Xô qua dập dìu. Anh ta vẽ tranh bán không kịp. Thấy tôi thất nghiệp anh bảo tôi đến cho anh dạy vẽ. Anh coi bộ thương tôi nên cho mượn giá vẽ, màu, cọ cứ lấy của anh mà xài. Tôi chỉ phải trả tiền khung vải do anh nhượng lại với giá bèo. Đó, rồi tôi vào nghề...

Nhưng chỉ bốn tháng sau, anh Phương tìm được việc làm phải thường xuyên đi tỉnh công tác nên phải giải nghệ. Thế rồi dòng đời trôi nổi, Khi hai con anh lớn lên có cuộc sống gia đình ổn định thì anh Phương cũng đến tuổi rửa tay gác kiếm.

Về hưu rồi anh Phương thấy sao nhàn rỗi quá. Anh ra mấy tiệm bán dụng cụ vẽ mua cọ màu, giá vẽ. Anh mua luôn sáu bảy cái khung vải đủ mọi kích cỡ. Anh tìm những tấm hình cũ về phong cảnh ở những nơi anh đã đi qua rồi dùng cọ và màu cóp-py lên khung vải. Vậy là anh đi vào con đường sáng tác nghệ thuật giống như những nghệ sĩ chuyên nghiệp. Có khác chăng là anh không có bộ râu xồm xàm, đầu cạo trọc hoặc để dài rồi cột đuôi chồn phía sau và đeo kính đen như những hiệp sĩ đười ươi bảo vệ các yếu nhân trên màn ảnh.

Anh Phương quan niệm rất thoải mái. Cứ có tác phẩm là có nghệ thuật. Nghệ thuật rất bao la phong phú biểu hiện dưới mọi hình thức khác nhau. Không có một tiêu chuẩn nào hay một quy luật nào bắt buộc người làm nghệ thuật phải tuân theo. Ngay cả trường hợp nhiều người làm thơ 7 chữ 8 câu nhưng phá cả nguyên tắc, niêm luật của thơ Đường cũng không ai phê phán gì cả. Mỗi tác giả đều có cách riêng tư để diễn tả những cảm xúc, những rung động tình cảm của mình. Có người thấy bạn mình vừa cho xem bài thơ vội phê bình liền: “ý thơ không đạt”. Tác giả cảm thấy cụt hứng, nhưng không biện bạch gì cả vì biết rõ ràng anh bạn này chưa từng làm được bài thơ nào nhưng lại thích phê bình. Có người không biết còn lên giọng “thầy”, phán búa xua: “Từ ngữ này không hay nên thay bằng từ khác”. Thật ra tác giả một bài thơ, một bài văn khi dùng từ ngữ nào đều có ý đồ riêng biệt để diễn tả tâm tư của mình. Người khác nếu không thích thì đừng đọc bài thơ đó. Nếu thật sự muốn tìm hiểu thì nên hỏi tác giả để được giải thích.

Đa số những người cao tuổi đều muốn tìm những thú tiêu khiển, vui sống quãng đời còn lại, có người viết văn, làm thơ, viết nhạc, nghiên cứu các vấn đề xã hội, về hạnh phúc gia đình để đi diễn thuyết chỗ này chỗ nọ. Chỉ tiếc là có một số người thích tìm cách chê người khác như là: “anh ta viết nhạc, ai mà hát cho”. Cái tâm lý hay chê người khác do từ cái mặc cảm muốn che đậy sự kém cỏi của mính. Chê bai trước là đòn “phủ đầu” không muốn cho người khác giỏi hơn mình.

Ở một lãnh vực khác, anh Phương có người bạn thân lâu ngày gặp lại, trao đổi đủ thứ chuyện trên đời. Khi nói về một quan niệm sống, người bạn không đồng ý và trình bày với ý kiến ngược lại. Anh Phương muốn giải thích để quan niệm của anh được rõ ràng hơn, nhưng anh bạn kia đã lên mặt “thầy” và nói: “Mầy suy nghĩ như vậy làm sao dạy dỗ con cái?”. Anh Phương thấy rõ ràng trí tuệ của anh bạn này đã bị giới hạn đáng kể. Anh kết thúc vấn đề bằng cách chuyển sang đề tài khác.

Một buổi sáng anh Phương ra quán Bà Sáu nhâm nhi một ly cà phê đá. Một người bạn cùng xóm bê một ly cà phê sang bàn anh ngồi, gợi chuyện:

- Sao, bán được tấm nào chưa, họa sĩ?

- Cho tôi xin thêm một chữ “cùi”, “họa sĩ cùi”. Có bán được tấm nào đâu, chỉ là tặng bạn bè thôi. Mình đâu phải là dân chuyên nghiệp, hơn nữa già rồi. Vẽ vời chơi để giết thời gian.

- Sao anh không đem ra phòng Trưng bày gửi bán?

- Trời! Anh nói làm tôi thẹn thùng! Đó là nơi dành cho các họa sĩ tốt nghiệp trường lớp đàng hoàng, có thương hiệu rồi. Mình làm sao bì với các bậc cao nhân đó.

- Vậy là anh vẽ rồi để đó coi chơi, không nhằm mục đích gì hết.

- Dạ đúng, tôi vẽ thời gian và… để chính mình thưởng thức…

Dương Lêh

(1) Ghế nệm dài trong bộ salon.

(2) Check mail

(3) Facebook

(4) High-tech = công nghệ cao

(5) Lấy từ chữ “mouse potato”= người ghiền máy vi tính.


Phụ Bản III

LAGI

- MIỀN BIỂN RỪNG

(tiếp theo)

Ngoại trừ bác Cả Hoài cùng gia đình đi lập nghiệp làm ruộng, làm rẫy ở Võ Đắc (nay là Đức Linh - Bình Thuận) và o Út Giao theo chồng về Xoài Minh, xứ đạo Nghĩa Yên, Giồng Ông Tố đi xuống, ngày đó cũng còn rất hẻo lánh, chỉ có một ít người cùng làng, bà con Thanh Dạ, Quỳnh Lưu cùng đi khai khẩn mà thôi.

Còn lại cô Hai Đan, bác Ba Lưu, bác Tư Khôi, cô Năm Bình của tôi trú lại ở đất Lagi “đi nghề” trên biển. Hình như các cô bác được cấp ghe thuyền, ngư cụ để đánh cá. Từ đó mỗi sớm tinh sương từng đoàn thuyền tiến ra khơi, và khi thuyền về bến các cô, bác gái, mợ, thím đều ra bãi đón cá về, chọn lựa từng loại để ngày mai đem ra chợ bán hoặc chọn cá tươi để làm nước mắm, loại nước chấm mà má tôi thích nhất nên bà thường đặt mua ở đây. Vì vậy, sau này các bác hoặc các anh chị có dịp vào Sài Gòn công tác hay đi bỏ hàng về bán thường mang một vài chai nước mắm đặc sản Lagi biếu ba má tôi dùng lấy thảo. Má tôi rất vui và cảm động. Nhất là sau một thời gian ngắn, gia đình ông bác Phạm ở Vinh Phú cũng dời nhà vào Lagi sinh sống, các o đã chuyển nghề sang bán quần áo may sẵn và các ảnh tượng về đạo Công Giáo, o Lan rất khéo léo, o làm món mắm ruốc chua rất tuyệt, cả nhà tôi ai cũng ghiền món ăn này, nhưng o nói lâu lâu mới làm được vì phải đợi mùa ruốc tới mới tươi ngon. Màu mắm chín ngấu, tím thẫm, mặn vừa phải lẫn chua chua. Khi ăn, múc ra chén nhỏ dầm ớt cay cay rồi quết với dưa chuột bào lát mỏng và một miếng cơm nóng, Trời ơi! Ngon tuyệt vời! Nhưng tiếc quá chúng tôi không còn được thưởng thức món ngon Lagi của o Lan tôi nữa, vì hiện nay o đã được chị Ngọc Loan con gái duy nhất của o bảo lãnh định cư ở Mỹ cùng với o Duyên rồi, còn o Thuyên đột ngột qua đời ở Lagi trước đó không lâu.

Buồn quá, món ngon o Lan đã thất truyền! Không biết còn người nào ở miền biển rừng biết làm mắm chua như o tôi không nhỉ?

Trở lại với miền đất Lagi, gia đình tôi còn đi về xứ này rất nhiều lần nữa, có những lúc ba tôi được nghỉ phép, ông lái xe đưa cả nhà ra thăm bà con anh em chú bác.

Nhớ những năm 11, 12 tuổi, lần đó đến Lagi tôi nhất quyết đòi ra Hòn Bà bằng được, do tánh hiếu kỳ không bỏ vì đó là một thắng cảnh của Lagi mà tôi luôn muốn đi thăm (bây giờ thì gọi là tham quan).

May sao hôm ấy, mấy bác không đi nghề đã đem ghe thuyền về đậu trên bãi sát cửa biển, bác Ba Lưu chiều ý đứa cháu gái, sửa soạn ghe bơm dầu để đưa cả nhà tôi ra Hòn Bà tham quan.

Thuyền vừa ra khỏi cửa biển một chút, sóng biển bỗng dâng cao, chiếc ghe tôi ngồi chồm lên chúi xuống gối đầu theo ngọn sóng làm tôi hoảng hồn, tưởng chừng có lúc sẽ bị hất luôn xuống biển, sợ quá tôi nhắm mắt tay bám chặt mạn thuyền, trong khi đó ba tôi và em trai tôi thì vẫn ngồi vững vàng ở đầu thuyền mặc sóng to gió lớn. Cuối cùng thuyền của chúng tôi mãi vẫn không cập bờ Hòn Bà được vì sóng biển ngày càng cao, dù cảnh đẹp đã hiện ra trước mắt, trên đó có một ngôi chùa, khách thập phương đang lễ chùa và vãn cảnh rất đông. Thuyền đành quay trở về.

Đến nhà má tôi nhìn thấy tôi phờ phạc, mặt mũi tái xanh thì đã mắng cho một trận:

- Đã nói mà không nghe, cứ đòi đi ghe ra đó cho được, con cãi má hậu quả là vậy đó.

Sau đó, tôi nằm vùi cả ngày không cơm nước gì được hết. “Thôi, từ nay không bước xuống ghe thuyền gì nữa” tôi tự nhủ thầm như vậy.

Lần lần theo ngày tháng, các bác, các cô tôi làm ăn khấm khá, xây được những căn nhà chắc chắn hơn rộng rãi hơn. Nhà của bác Lưu nằm kề sông Dinh có nguồn thông ra biển, mà những năm về trước có lúc nó cạn khô trơ ra bãi cát, người bên này Tân Lý có thể đi bộ dễ dàng qua Tân Long trên bãi cát đó. Bác Ba có lần bảo tôi xuống đi thử mà chưa lần nào tôi dám đi trên cát vì cảm thấy sợ sợ làm sao lỡ nó sụt lún thì chết. Ý nghĩ trẻ con thật ngộ!

Nhưng cũng kỳ lạ sao, những năm sau này, khi tôi đã trưởng thành và gần đây nhất khi tôi về thăm Lagi nhân các dịp tang ma hiếu hỷ trong họ hàng thì sông Dinh nơi bác tôi cư ngụ, ngày đêm nước vẫn tràn đầy, là nơi bến thuyền, ghe về đậu sau thời gian đánh bắt hải sản và tránh bão.

Tôi nhớ hình như trước năm 2011 thì ngôi nhà của bác Ba đã được cất lại thành hai căn nhà gạch khang trang một cho gia đình anh Thưởng em kế anh cả H. là linh mục phó xứ Thanh Xuân thì cây cầu Tân Lý đã xuất hiện nối bên này là Phước Hội với bên kia Tân Long.

Thế là hai ngôi nhà một tầng nằm tụt dưới gầm cầu, nhưng như để bù lại có một khoảng đất rộng trống trải thoáng mát để bắc ghế ra ngồi hóng gió mỗi chiều và cũng có thể bày tiệc thân mật ở đó, dưới chân cầu.

Tôi đã về đây và thưởng thức cảnh đêm ngày gió mát sông rộng đầy thuyền ghe về đậu san sát, chợt nhớ đến một bài thơ Thuyền về bến trong sách giáo khoa (tôi quên đề tựa chính xác của bài thơ là gì rồi).

Đối với tôi, Lagi luôn luôn là một miền đất vừa quen vừa lạ, vì vẻ quyến rũ hoang sơ và yên bình vẫn còn đâu đó, mặc dầu hiện nay Lagi đã lên thị xã, ngày một thay đổi mới tân tiến so với khi xưa rất nhiều, có thể nói là vẫn lạ lẫm trong mắt tôi.

Đến đây, tôi chợt nhớ về một kỷ niệm sâu sắc của Lagi đối với tôi khi về miền biển rừng đó. Hồi ấy, những năm sau khi Miền Nam hoàn toàn giải phóng, hình như là 1979, 1980 tôi không nhớ rõ. Năm đó ông nội tôi còn sinh tiền và còn làm việc rất khỏe mạnh, tôi thì được nhận vào phụ việc cho Trạm Y Tế phường, một hôm cô Hai Đan gửi thiệp vào Sài Gòn mời cả gia đình tôi ra dự lễ cưới anh Duy, lúc trước cũng đã tu học ở trong này, sau ra dạy học tư một thời gian rồi trở về Lagi đi nghề nối nghiệp dượng Hai đã mất rồi thành gia lập thất với một chị ca viên trong giáo xứ.

Thoạt đầu ông nội tôi ra một mình sau thấy tội ông quá và mến ông anh họ nên tôi chuẩn bị đồ đoàn, quà cáp để ra đó vào ngày sau.

Thời bấy giờ, đi từ Sài Gòn - thành phố Hồ Chí Minh đến tỉnh thành khác rất nhiêu khê, khó khăn, nhất là về một miền biển nào đó thì lại càng bị kiểm soát gắt gao hơn (khi má tôi nói là vì sợ dân chúng vượt biên lúc ấy tôi mới biết chớ trước đó tôi không nghĩ đến việc này).

Thế là với bộ bà ba giản dị, một túi hành trang nhỏ, tôi lên đường ra xứ biển, kèm theo tờ giấy phép đi đường do Công An quận cấp trong túi, cứ nghĩ đã yên tâm. Nhưng… thực tế thì không yên ổn như tôi nghĩ. Xe đò chạy bon bon bình yên vô sự cho đến khỏi Ông Đồn và gần đến Đồn 6 chỗ rẽ vào Lagi thì có một chuyện xảy ra:

Lúc ấy tôi đang đọc báo thì chú lơ xe đi lại phía tôi cúi xuống nói nhỏ:

- Cô bỏ kiếng mắt ra đi cô, chú công an xét giấy tờ đi đường thấy cô đeo kiếng sẽ bắt xe ở lại và đuổi cô xuống xe đó.

Tôi rất ngạc nhiên trả lời:

- Tôi bị cận thị mà, nếu bỏ mắt kíếng ra thì làm sao thấy đường đi.

Đến lúc đó thì chú Công An mặc áo vàng đứng ngay trước mắt tôi, mặt hầm hầm gằn giọng nói:

- Bỏ kính ra, cho xem giấy đi đường!

Tôi giật mình, vội móc túi trình ra giấy đi đường cho ông ta xem. Hắn cầm lấy, liếc qua, rồi chợt quát lên:

- Lagi làm gì có xã Tân Xuân, xuống xe, vào đồn mau!

Tôi còn đang ngớ người chưa biết tại sao thì chú lơ xe lại tới gần năn nỉ:

- Cô làm ơn xuống xe mau đi cô, không thôi ông ta bắt xe ở lại, trễ giờ tội cho hành khách nhà xe lắm cô!

Vậy là tôi phải lếch thếch xách túi đồ, đoàn xuống xe đi qua bên kia đường, bước vào Đồn Công An 6 (còn gọi là Căn Cứ 6), vừa kêu khổ thầm trong bụng. “Chết rồi, mình bị bắt vào đồn rồi, làm sao đây!”

May mắn thay, lúc vào Đồn 6, tôi gặp một vị nữ Đồn Trưởng đang ngồi nơi bàn làm việc. Tôi còn nhớ chị ấy là một phụ nữ trung niên ăn mặc bà ba đơn giản giọng nói Miền Nam bình thường không hề có chút gắt gỏng, nghiêm khắc nào (tôi cảm thấy thế).

Chị nhìn tờ giấy đi đường của tôi, rồi nhìn qua tôi ngồi trên băng ghế nói:

- Ở Lagi không có xã Tân Xuân đâu, sao giấy phép của cô lại ghi vậy, chỉ có xã Thanh Xuân thôi.

Tôi lật đật trả lời:

- Thưa chị, trước đây là Tân Xuân, mà bây giờ đổi thành xã Thanh Xuân, em không biết, vì đã lâu em bận đi làm nên không ra đây.

Chị Đồn Trưởng lại hỏi tiếp:

- Vậy bây giờ cô ta đây có việc gì?

Tôi vội đáp lời:

- Dạ em ra dự đám cưới ông anh họ con cô ở Thanh Xuân nè. Đến đây, tôi liền lấy tờ thiệp cưới từ chiếc túi lưới mang theo cho chị ấy xem, cả gói quà cưới nữa.

Chị ấy ngẫm nghĩ một lúc rồi hỏi tiếp:

- Cô có giấy tờ tùy thân gì không?

Tôi vội đưa cho chị một lô giấy tờ, mà may sao tôi đã đem theo trong hành trang. Nào là thẻ căn cước, thẻ Hội viên CTĐ, Nhân viên trạm Y Tế Phường, và thẻ Hội viên Hội Liên Hiệp Phụ Nữ Phường v.v... Lúc đó tôi nghĩ chắc chị tức cười lắm vì tôi đã gom tất cả thẻ Hội, thẻ Đoàn gì gì đều cất hết trong cái ví nhỏ và đến lúc này nó đã phát huy hiệu lực rõ rệt.

Chị lại nhìn tôi và cất giọng:

- Thôi cô đi đi, có ai hỏi thì cứ nói là Đồn Trưởng Đồn 6 cho đi.

Thật hú vía và mừng hết lớn. Tôi vội cảm ơn, chào chị và bước ra khỏi Đồn, qua bên kia đường đón xe.

Cái Đồn 6 ngày xưa đó bây giờ không còn dấu vết gì nữa, nhưng mỗi lần về Lagi trên quốc lộ 1A, tự nhiên tôi vẫn nhìn qua hướng bên trái gần vòng xoay quẹo vào thị xã và nhớ đến chị Đồn Trưởng 6 năm nào. Tôi không được biết tên chị và hình như lúc ấy trên bàn làm việc của chị cũng không có bảng tên gì cả, nhưng sau bao nhiêu năm tháng qua, tôi vẫn luôn nhớ chị và thầm cảm ơn chị đã xử sự với tôi, người con gái Sài Gòn trẻ tuổi, đầy tình người, không hề có ác cảm và nghi ngờ gì cả.

Tôi lại đeo kính cận lên mắt và băng qua đường đứng giữa trời nắng gay gắt, đón xe vào Lagi, vì có lẽ còn hơn 10km thì mới đến nơi tôi phải đến.

Lại may mắn nữa, ít lâu sau, có một chiếc xe lam trống chạy tới. Mừng rỡ, tôi gọi lớn:

- Chú ơi xe có vô Lagi không, cho cháu quá giang về với.

Chú ấy ngừng xe lại hỏi:

- Cô về đâu?

- Cháu về đường Nguyễn Ngọc Kỳ, chú biết không?

- Nhà o Lan phải không?

- Dạ phải, cô của cháu đó chú.

- Vậy cô lên xe đi, tôi đưa về đến nơi cho.

Thế là tôi về đến nhà ông Bác, mệt “ngất ngư con tàu đi”, đánh một giấc đến khoảng 3g chiều mới nhờ o tôi dắt đến nhà đám cưới. Ông nội nhìn thấy tôi thì hết hồn, vì mặt tôi còn đầy vẻ mệt mỏi, như hồn chưa tỉnh giấc, ông tôi hỏi lý do. Đến lúc ấy, tôi mới mếu máo kể lại chuyện bị giữ ở Đồn 6 tuy chỉ không đầy nửa tiếng đồng hồ mà tôi cũng làm ra vẻ quan trọng lẫn khổ sở (vì tuy đã lớn xộn mà cũng còn nhõng nhẽo với ông tôi làm ông phải dỗ dành mãi tôi mới chịu), và cả khi gặp anh Duy, tôi lại làm nũng, bắt đền lu loa khiến bà chị dâu mới cười mãi không thôi, vì tôi đổ thừa đi đám cưới anh chị mà suýt bị giam giữ vì nghi đi vượt biên. Anh họ tôi phải hứa hẹn đủ điều tôi mới để yên cho anh trong ngày trọng đại ấy.

Thật là buồn cười cho tôi ngày còn trẻ, còn là một thiếu nữ tuổi thanh xuân tươi đẹp.

Và có lẽ từ nguyên nhân này mà sau này tôi hay e ngại phải về miền biển rừng, nhưng cũng một phần là có công việc gì thì ba má tôi ra đấy với các cô, bác, anh chị, còn tôi phải trông nhà hoặc bận công tác tại cơ quan nên không thể đi được, cho đến khi ba tôi qua đời thì má tôi đi với các em tôi về ngoài đó.

Vì vậy, có lần tôi nghe anh cả H. trách là:

- Nhỏ Ly đi chơi tham quan khắp nơi mà đến nay có “hơn một thế kỷ” (sic) vẫn không về Lagi thăm bác Ba lần nào.

Nghe nói thế, tôi cảm thấy áy náy quá chừng, nên đến khoảng 2011, nhân anh Thưởng gả con gái đầu lòng, tôi vội thu xếp công việc để ra dự và tiện thể thăm hai bác Lưu luôn.

Từ đây, các đám tiệc, hiếu hỷ, vui buồn gì tôi đều theo má tôi về ngoài ấy tham dự hầu hết. Và cũng từ đây tôi lại đi về nhiều hơn nơi miền biển rừng Lagi đầy cảm mến yêu thương trong tôi từ xưa đến nay, từ thuở còn ấu thơ đến tuổi thanh niên và bây giờ là một phụ nữ trung niên.

Lagi vẫn mãi là một “Phương biển rừng” thân thương và kỳ bí của tôi, và trên những chuyến xe đi về đó, có những bạn trẻ của thế hệ 9X hôm nay đầy nhiệt huyết đã trao đổi tâm tình, kiến thức, hiểu biết, qua hành trình trong đêm cho tôi thêm yêu đời và yêu cuộc sống, yêu tuổi trẻ luôn phấn đấu quyết tâm hoàn thành mục tiêu cho tương lai đời mình như A. Nguyên, P. Quý và Q.

Cảm ơn các bạn, mà tôi đã được quen biết trên các chuyến xe Sài Gòn - Lagi, Lagi - Sài Gòn thời gian qua đã giúp tôi có nhiều cảm hứng để hồi tưởng ghi lại bút ký này.

HOÀI LY

TƯỜNG THUẬT 70 NĂM QUA

TẠI ĐỊA PHƯƠNG TÔI

Nói về quê hương mỗi địa phương có tập quán riêng.

Đình thờ Thần Hoàng Bổn Cảnh, Tiền hiền, Hậu hiền, do ban hương chức hội tề chịu trách nhiệm. Hàng năm lễ cúng “Kỳ Yên” cùng những việc quan trọng, mỗi làng “xã” có hoàn cảnh khác nhau. Xã giàu thì làm theo ngân sách tài chính của mình. Xã nghèo thì thu gọn việc cúng lại.

Mỗi năm lễ Kỳ Yên có tổ chức nhiều trò chơi, ba ngày - hát bội, cúng linh thần, ba thứ - múa lân, hội chợ, đô vật, đua thuyền, đá bóng, bịt mắt bắt dê, đập niêu, trèo cây đoạt giải.

Lễ cúng Thần linh, ban hương chức hội tề lo, nghi lễ gồm có nhiều tiết mục, học trò lễ, đào thài, chọn vở tuồng Trung, Hiếu, Nghĩa để giáo hóa dân.

Có những sự việc 70 năm nay không còn thấy nữa - lễ Tống ôn (tống khứ) những linh hồn bất hảo ra khỏi địa phương, phần lễ có tàu âm binh, quan tướng - vật sử dụng: bốn cây chuối dài chừng 1 mét kết thành bè, trên bè có thanh tre làm sườn phất giấy ngũ sắc bốn bên, trong tàu có hương đăng hoa quả, rượu thịt. Hành lễ có ông thầy phù thủy “pháp sư” đầu đội mão, vẽ mặt, mang hia, áo thụng, khăn điều dắt lưng, tay cầm thanh đao, miệng hô phong biểu vũ, tống âm binh xa khỏi địa phương, có hai thanh niên khiêng chiếc tàu đi chừng 500m thầy phù thủy đi theo, hò hét những từ tôi không hiểu, đến ngã ba dòng sông mới hạ thủy, tùy theo giờ thủy triều.

Lạ thay khi tàu trôi theo dòng nước có ai gọi tàu đi ngược dòng trở lại, tàu bên này ai gọi bên kia tàu từ từ đi qua.

Có một anh uống rượu say xỉn thấy liền gọi “Về nhà tao chơi?”. Anh về đến nhà thấy chiếc tàu ở trong mương, không có lối vào chỉ có cái bọng cho nước ra vào. Cả nhà thấy hết hồn la hoảng lên. Hương chức sở tại đến mới thông qua gia đình làm lễ tạ tội - gia đình đi mua một cái đầu heo về cúng, thầy phù thủy gọi đưa ra giữa sông, hú hồn cho gia đình.

Những người chọc phá tàu, thì bị bệnh phải cúng tạ lễ; chỉ có những mục đồng chẳng ngán ai, kêu vào lấy thức ăn rồi đốt tàu luôn. Tại sao mục đồng làm như thế mà không phạm tội? Xin thưa là vì mục đồng là cháu Thần Nông nên binh tướng không dám đụng đến. Có câu “Nhất quỷ, nhì ma, thứ ba mục đồng”.

Cơ tạo hóa xoay dòng biến đổi

Khiến nhơn sinh khổ nỗi sầu đau.

PHƯỚC HẢI tường thuật

Mạnh Thu, Đinh Hợi 2017


TRÚNG SỐ

Nghĩ cũng kỳ cục khi tự dưng lại rước vạ vào thân thế này! Nhưng ông thấy cũng vui vui khi thế vai người khác trong cuộc hành trình kiếm cơm với đôi dép mòn đến tận gót chân!

Phải thế thôi, chứ đi dép đẹp thì chắc là bán vé số khó lắm! Thậm chí, quần áo miễn đừng hôi hám, chứ ranh rách một chút thì hành nghề coi bộ cũng dễ dàng hơn. Thế là ông khoác vào người bộ bà ba chỉ chuyên để làm việc nhà, vì lâu nay ông có còn đi làm đâu sau khi vợ ông mất. Tài sản làm được suốt bao năm làm nghề thầu khoán thừa sức cho hai cha con ông sống thoải mái.

Vậy là ông lên đường! Ông cũng giả bộ quay cái nón xèo xẹo một tí cho có vẻ bụi đời. Mãi ông mới đi được cái điệu cà rề, cà rề để còn mời mọc:

- Mua tui một tấm đi chị, sáng giờ ế quá!

Ông suýt phì cười vì câu nói dối chỉ đáng mấy ngàn bạc lẻ ấy. Nhưng rồi ông vẫn cố đóng vai một người nghèo đi bán vé số để xem cái… thế sự ra sao. Có lúc ông bị mấy gã thanh niên đáng tuổi con, nạt:

- Đi chỗ khác đi ông già! Mời hoài!

Giá mà ông có thể đập vỡ mõm cái thằng xấc xược ấy nhỉ? Nhưng ông đành nín thinh khi nghiệm ra rằng, nhiều người phải hạ mình xuống sâu lắm để lượm được từng đồng cắc như thế này. Còn ông, ông đâu đến nỗi phải như thế…

Thật ra, chỉ do một phút bốc đồng mà ông muốn trải nghiệm cái cà chớn của cuộc đời mà thôi. Hôm ấy, khi vừa mở cổng, ông đã thấy một ông già héo úa nằm bệt trên lối đi, tay còn khư khư mớ vé số.

- Ông bị sao vậy?

- Chắc là tôi trúng gió ông à…

Ông giải quyết thật nhanh. Nhà chỉ có hai cha con nên khó mà chăm sóc cho ông ấy được. Ông vội vàng gọi taxi:

- Này, chú chở ông này vào bệnh viện nhé, tôi trả gấp đôi tiền cuốc xe đây. Rồi chú đưa ông vào phòng khám dùm…

Rồi ông quay qua ông nọ:

- Tôi mua hết đống vé số này, và gửi ông thêm chút đỉnh để khám bệnh. Xong việc, ông cứ gọi xe mà về, tiền chắc là không thiếu đâu…

Tự nhiên, ông nảy ra cái ý định thử đi bán vé số… xem sao!

Dĩ nhiên, ông phải đổi đôi dép của mình để lấy đôi dép cùn của ông nọ, riêng cái áo, ông cố tình cài lệch cả cúc cho ra vẻ luộm thuộm, nghèo nàn!

Đi rạc cả chân, rồi tập vé số cũng chỉ còn một tấm. Ông bã cả người, ngồi xuống vệ đường ngơi nghỉ trước khi trở về vì trời đã chang chang nắng. Có ai đó cất tiếng:

- Bác có mệt không?

Mãi, ông mới hiểu câu hỏi ấy là dành cho mình:

- Ư! Cũng hơi mệt thôi cô à!

- Bác ăn xôi nhé!

Vừa nói, cô gái vừa lôi trong cặp ra gói xôi đã nguội, phân trần:

- Thật ra, cháu định đưa gói xôi này cho ông cụ kia, thỉnh thoảng cháu vẫn gặp ông ấy, nhưng hôm nay chẳng thấy ông ấy đâu…

Suýt nữa thì ông đã khai sự thật ra rồi. Cũng vì thế mà ông bốc xôi ăn ngon lành:

- Còn một tấm, cô mua nốt nhé!

- Cháu chẳng mua vé số đâu, vì người nghèo khó trúng lắm…

- Cô mà nghèo à?

- Ba má cháu làm ruộng thì giàu với ai…

- Thì cứ mua đi, biết đâu… đổi đời!

Nghĩ sao, cô móc bóp, rút tờ bạc:

- Vâng, để cháu mua giúp ông vậy…

Họ trao cho nhau thứ cần trao đổi, rồi cô mỉm cười:

- Vậy là cháu mua rồi nhé, nhưng cháu biếu bác tờ vé số luôn nè…

Cuối cùng, thì ông phải “ôm” tờ vé số ấy. Ông không bán nó đi chỉ vì dù sao nó cũng là một trải nghiệm hay hay…

Cuối cùng, thằng Tuấn cũng tìm được cô giáo dạy kèm. Nó học vốn cũng khá, nên kèm cho nó tuy không mất nhiều công sức giảng giải, nhưng bù lại, phải tìm cho ra những bài toán khó để nó phải căng đầu ra mới tìm được đáp số. Thế là Nguyên, một nữ sinh viên trường y có thêm một đứa học trò giỏi. Điều này làm cô có thể tự lo lấy thân mình, khi ba má cô đã chết trong một tai nạn trước đó ít năm…

Bố mẹ cô chỉ có mình cô, nên tuy chân lấm tay bùn với ruộng đồng khô khan, nhưng vẫn cố lo cho cô lên thành phố ăn học. Họ yên trí rằng, rồi ra, Nguyên sẽ thành người có ích trong một xã hội còn nghèo đói mà vẫn nhũng nhiễu, tham lam. Trong một chuyến lên thăm con, họ đã chẳng kịp gặp con mình trước khi xuôi tay nhắm mắt dưới gầm xe tải…

Tang ma bố mẹ xong, Nguyên trở lại thị thành, nơi cô đã quen thuộc từ ngày bắt đầu vào lớp 10. Nay cô đang học năm thứ hai với biết bao lo toan cho cuộc sống đơn độc và đầy lo lắng. Nhưng chẳng sao, vì bố mẹ cô chẳng phù hộ cho cô là gì! Năm ngoái cô chẳng đã từng giúp mấy đứa vào giảng đường sao? Vì thế, việc dạy thêm của cô xem ra lại là con đường thênh thang cho cô biến ước mơ làm bác sĩ thành hiện thực.

Năm nay cũng thế, Tuấn là đứa thứ tư cô nhận dạy kèm. Nó học cô theo lời giới thiệu của bạn nó, thằng Toại, là đứa được cô dạy không lấy tiền công vì gia đình nó quá nghèo…

Vừa rời cái ổ chuột của Toại, cô ghé ngay đây để kèm môn toán cho Tuấn. Cô mệt muốn lả người, nhưng cái mệt mỏi ấy không sao khỏa lấp được ước muốn Tuần rồi cũng sẽ như mình, bước chân vào giảng đường thênh thang những mơ cùng ước…

Thằng Tuấn hết sức hào hứng với cái đề của cô cho. Thỉnh thoảng nó chiêu một ngụm nước với nụ cười thú vị. Có lẽ, như mọi khi, nó đang khám phá ra có ít nhất là 2 cách giải bài toán hóc búa ấy.

Nguyên thì ngắm nghía cái kệ sách mà cô thấy lần thứ nhì, vì hôm nay mới là lần thứ hai cô dạy kèm cho Tuấn trong căn nhà rộng lớn này. Căn nhà như còn thênh thang hơn khi Tuấn kể mẹ nó vì bạo bệnh mà qua đời, dưới mái ấm này chỉ còn cha con nó, với nỗi nhớ người đã khuất vẫn nghi ngút như làn hương hàng ngày bố nó thắp trước di ảnh người quá cố.

Bỗng cô chú ý đến cái gáy sách lờm xờm thòi ra trên chồng sách đủ loại. Tò mò, cô rút ra xem rồi tròn mắt ngạc nhiên. Ô! Chẳng phải đó chính là quyển sổ của cô sao? Chẳng phải những giòng chữ kia không phải là tự tay cô viết sao? Cô chỉ mang máng nhớ đã mất nó mấy năm rồi…

Lúc này thì ông Thăng, bố Tuấn cũng vừa về đến:

- Thế nào, cô giáo?

- Dạ, Tuấn học tốt lắm ạ…

Thấy cô cầm quyển sổ, ông hơi ngạc nhiên. Trong ông bỗng có cái gì rất thú vị đang diễn ra:

- Cháu có thấy quyển sổ… quen không?

- Dạ, hình như là của cháu thì phải bác ạ!

- Sao cháu biết?

- Vì đây này, ngay phía trên mặt trong của bìa trước, cháu đã ghi tên cháu…

Rồi cô rút cái bọc plastic ra, tên cô vẫn còn nguyên màu mực!

Tối hôm ấy, ông Thăng dắt hai cô cháu đi ăn cơm. Ông dành cả buổi tối hôm nay để gợi nhớ một ngày cũng đã lâu.

Hm, cái hôm bán vé số ấy thật là nhiều cớ sự! Vì ngoài chuyện được ăn gói xôi ngon chưa từng thấy, ông lại còn được uống trà đá lề đường, thứ mà có bao giờ ông động tới! Thậm chí, cô gái “bao” ông ly trà đá ấy đã ra về mà ông còn ngồi trên phiến đá vệ đường nhâm nhi cái mát rượi từ những viên đá chắc gì đã là đá “sạch” như người ta đồn thổi.

Khi ông cạn hết thứ nước tử tế ấy, cũng là lúc ông phát giác ra quyển sổ con con trên chiếc bàn đã cong lên vì nắng. Thế là ông mang về nhà, rồi ông thú vị với những giòng chữ lằng ngoằng trong ấy. Có khi chúng là một bài văn nho nhỏ nói về cha mẹ của một cô bé nhà nghèo, với những mủi lòng nhớ ơn vô hạn, khi lại là bài thơ dở dang thương cho kiếp tha hương của ai đó, có thể là của ông già bán vé số mà cô hay để dành cho phần ăn sáng.

Dĩ nhiên, trong quyển sổ ấy chẳng có lấy một chữ dành cho ông, nhưng ông thấy rõ ràng, tất cả đều có liên quan tới ông, vì chẳng phải cô bé ấy đã dành cho ông cái tình người cao cả sao? Chẳng phải gói xôi ấy, ly trà đá ấy, tấm vé số thừa ấy, và cả quyển sổ đơn sơ ấy đã khẳng quyết rằng cô chính là tâm điểm của mọi sự sao?

Thế nên, dù tấm vé ấy, như thường lệ có chút gì đặc biệt thì hệ quả nó cũng khác thường là dĩ nhiên nó phải trúng, dù chỉ trúng lô an ủi chẳng đáng là bao, thì nó vẫn thuộc về kẻ đã từng mua của ông, và phần nào, nó cũng thuộc về ông, vì ông đã đem nó về nhà mình nhiều năm về trước…

Ông kể cho thầy trò cô sinh viên Nguyên nghe với cái giọng nhát gừng, vì chính ông cũng đầy nước mắt, nói gì đến Nguyên, đứa con côi cút mà ông thấy mình phải có bổn phận bao bọc nó, vì nó làm gì còn mẹ cha, làm gì còn mái nhà…

Câu chuyện xúc động ấy còn tràn trề nước mắt hơn, khi cô bé Nguyên gào lên:

- Bố, bố…

Quả vậy, hôm nay cô đã có một người bố tuyệt vời khác, chỉ vì gói xôi cô cho đi nhiều năm về trước. Cô đã “trúng số” độc đắc dù chiếc vé số tử tế kia chỉ trùng mỗi hai con cuối cùng trong dãy số 6 con…

02.03.2017

LAM TRẦN


NGƯỜI TÌNH THỨ NHẤT

Không ai chối được rằng không yêu, nhưng nói đến yêu thì ai cũng vậy, thường có những đoạn tình vẩn vơ hết sức và vô lý là khác nữa.

Nếu ai tâm sự với anh rằng đã yêu người tình của anh ta hết cả tâm hồn thì xin anh đừng tin lời ấy. Và tôi xin mách thầm vào tai anh: chưa chắc người ta yêu được như thế đâu! Vì lời nói và ý nghĩ khác nhau mà lời nói khi đã ở trên miệng thường không giống tâm sự trong lòng.

Anh ơi! Tôi đã bước qua một quãng đời như vậy. Nó éo le gần như vô lý nhưng chính là sự thực có thể xảy ra được lắm. Và thôi thế là xong! Cả một mộng đẹp ái tình của tuổi trẻ đã tan như tiếng gót giầy nện trên hè phố, những đêm khuya vắng.

*

Những đêm ấy, Hà Nội đẹp như nở trong hoa. Nhưng tôi rất sợ những sự lộng lẫy, náo nhiệt mà lại thích những lang thang ở những hè quạnh quẽ để tìm lấy những ánh trăng xanh dịu như da người thiếu nữ ưu tư và để tự do mộng những chuyện không đâu.

Vì năm ấy tôi vừa 19 tuổi, trong tim phơi phới những viễn vọng kỳ khôi. Tôi đã nghĩ gì trong những đêm trăng suông ấy?

Thật ra, thật ra… tôi mộng đến cô áo trắng của tôi nhiều. Nói “của tôi” thì khí quá bởi vì chính ra có lẽ cô chẳng để ý chi đến tôi mà tôi cũng chưa hề dám ngỏ ý yêu lần nào cả.

Tôi không rõ tên cô. Vậy thì ta hãy tạm kêu cô là Hiên cho dễ nói chuyện vì không biết làm sao tôi rất có mỹ cảm với chữ Hiên, mặc dầu tôi thấy nó ngớ ngẩn lạ thường.

Tôi biết cô áo trắng - hay cô Hiên cũng thế - từ lâu, bởi một cớ rất giản dị là đêm nào tôi cũng đi qua phố ấy, nhưng tôi chửa hề nghĩ đến cô lần nào.

Một căn hàng tạp hóa nho nhỏ sáng lên bởi ánh một ngọn đèn điện, trà trộn giữa những nhà thấp tối vì vậy cái sáng vui ấy chỉ quanh quẩn trong gian hàng, không xóa nổi những mầu chết ở bên ngoài.

Gia đình ấy có ba người: một bà già hiền hậu chừng là mẹ, và hai người: một trai, một gái, chừng là hai con. Người con trai hay vắng nhà luôn. Có đêm tôi qua đấy đến hai giờ khuya mà còn thấy sáng đèn. Và mỗi khi một cái xe hay một người đi qua là tôi lại thấy một cái đầu - Ồ! Một cái đầu tóc hình như bạc lắm và rối bù - thò ra ngoài cánh cửa hé mở. Mà hễ người bộ hành hay chiếc xe thản nhiên đi qua là lại ném cho bà cụ một thất vọng thốt ra bằng tiếng thở dài… Cánh cửa lại từ từ khép và bên trong, tiếng tụng kinh lại bắt đầu và rõ hơn trước.

Tội nghiệp! Cứ thế có khi hết đêm mà người con trai vẫn chưa thấy về. Còn người con gái, nàng ngồi bên cạnh mẹ, rầu rĩ đưa mũi kim thêu khăn mặt bầy hàng!

Người con gái mới độ hai mươi, mà lo buồn đã sớm hái mất cả những nụ cười đáng lẽ phải nở ở trên cặp môi hồng tươi, song chỉ thấy luôn luôn ngậm miệng hay chỉ mở để se sẽ những câu ca não nuột nặng một u hoài.

Nàng thường ngồi đan hay khâu áo sau tủ hàng. Nàng có cặp mắt nhung buồn như thất vọng. Da nàng hơi xanh như vừa qua một cơn hốt hoảng. Tất cả người nàng là một vẻ buồn man mác, một vẻ buồn tê tái lây cả đến lòng người ngắm.

Bấy giờ hễ nhớ đến Hiên thì trong tưởng tượng tôi lại thu được những cảnh xưa đại khái như thế. Nhưng tôi đã để ý đến Hiên nhiều hơn mọi người trong nhà ấy. Trước kia - tôi đã nói chỉ biết mà chưa hề nghĩ đến Hiên - đêm đêm dận gót giầy qua cửa nhà Hiên, tôi nhìn Hiên cũng như tôi nhìn tất cả những người mà tôi đã gặp.

Nhưng tại sao tôi nghĩ nhiều đến Hiên và hình nàng ám ảnh tôi đến tận ngày nay, mặc dầu bóng dáng tôi chưa hề bước chân lên “bực cửa” đời nàng?

Có lẽ vì tôi thấy bà mẹ già càng ngày càng gầy yếu, người con trai càng năng vắng nhà và người con gái càng rũ rượi thêm như cành liễu úa dưới nắng hè một ngày tàn lửa.

*

Rồi chỉ còn thấy ngôi hàng ngơ ngác hai mẹ con!

Sau chỉ còn có mình nàng vì bà cụ đã yếu quá, nhọc quá không đủ sức đêm đêm ngồi đợi cửa ngóng con về nữa!

Ánh đèn điện cũng tắt đi theo người con trai và thay vào có một ngọn đèn leo lét để trên bục tủ. Một siêu thuốc lúc nào cũng sôi réo, đặt dưới chân giường. Một bức mành mành án ngữ mắt người qua lại.

Nhà ấy bây giờ đóng cửa rất sớm nhưng bao giờ cũng còn để ngỏ một cánh hình như để tỏ dấu còn thiếu người và dễ thường ý của bà cụ muốn như vậy.

Những cái tưng bừng của Hà thành kiều diễm chết cả ở ngoài kia, không lọt vào được cái ngõ hẻm tối tăm này.

Sự biến cố trong gia đình nàng làm tôi tăng thêm suy xét. Bắt đầu tôi nghĩ đến nàng, nghĩ đến nàng tha thiết lắm!

Tôi hình dung nhà nàng ra một gia đình đầm ấm, lúc nào cũng vui vẻ có bốn người. Nhưng một ngày thê thảm kia, tử thần đột nhiên đã cắt đứt mấy sợi dây đời của người cha. Còn lại ba người! Người con trai dần lớn lên và kéo được những vui qua về lấp vào chỗ trống của người cha. Nhưng người con trai ấy đã lớn lên trong một lý tưởng. Chàng dần dần xa gia đình… Rồi lại một ngày thê thảm nữa, người con trai đó bỏ những người thân yêu mà hăng hái - cùng biết bao nhiêu cái tuổi hai mươi! - đi tìm những lẽ đời chân chính, để chạy theo một cái bóng ý nghĩa của loài người. Biết bao giờ chàng bắt được cái bóng ấy? Và ngày nào chàng chưa về là nỗi đau thương còn vương vấn trong hồn mẹ và chị.

Chàng không về. Lửa hy vọng trước còn hấp hối ở lòng hai người đàn bà, bây giờ tắt hẳn.

Người mẹ ốm và người chị buồn.

Từ đây là những ngày tàn cuối cùng của cái gia đình xấu số ấy. Cửa hàng cứ hụt hàng dần, không thấy tăng lên, cũng như nước da và cặp mắt cô hàng cứ thâm quầng và tái đi dần dần…

*

Rồi không biết lòng nghĩ và xui khiến tôi ra sao, mỗi đêm tôi đã đứng nấp hàng giờ ở bên một gốc cây bàng trụi lá trước cửa nhà Hiên. Mắt tôi theo Hiên từng dáng mà nàng không biết. Tim tôi nghẹn lên, mỗi khi Hiên thở dài.

Tôi mến thương con người ấy. Vì trăm nghìn lẽ, nhưng không lẽ nào tôi biết hết nghĩa và tôi thường nghĩ lẩn thẩn như: yêu chỉ là… yêu! Mà ai đem phân chất một mùi hương, nhà thơ kia đã nói đúng, làm thơ nào tả giảng được yêu đương?

Mỗi đêm về, tôi còn thao thức mãi. Sao tôi yêu lại không đem ngỏ cho nàng hay. Vì tôi sợ nàng đang buồn chăng?

Cũng có lý. Nhưng vớ vẩn hơn là tôi không muốn để ai biết tình tôi, cả nàng nữa. Ấy cái tuổi 19 nó thường như vậy. Yêu mà không muốn nói. Bởi vậy, tình ấy chỉ như một sợi tơ mảnh, và người ta khi vào tình ái không mấy khi còn được một tâm hồn và lòng yêu trong trẻo, chưa một lần gợn.

Tình của tôi cũng tan mất tích như ta thổi vỡ một bọt xà phòng! Một đêm kia, qua nhà nàng, tôi giật mình thấy cửa đóng im ỉm và lủng lẳng đầu hiên có cái biển đề: Nhà cho thuê.

Hiên dọn nhà đi - vì ở đây buồn quá chăng - đi đến một nơi nào? Rõ khéo lẩn thẩn, tôi biết sao được!

Tôi thấy đưa từ tim lên miệng một vị cay cay và lòng tôi se lại.

Từ đêm sau, tôi vẫn đi chơi nhưng tôi tránh không đến phố ấy và tôi sợ cả những ngõ hẻm tương tự như thế. Vì không biết làm sao, hễ một vật hơi gợi cho tôi nhớ đến nàng là tôi lại thấy lòng xao xuyến lạ kỳ.

Cho đến ngày nay và cả sau này nữa, có lẽ không bao giờ tôi gặp Hiên. Tôi có cảm giác rằng: hoặc Hiên chết, hoặc sống nhưng sống một cuộc đời khác, tôi không mong gặp gỡ được.

Thế rồi cái tình yêu nhuốm ở lòng lần đầu tiên ấy tắt ngay đi và cũng quên ngay đi vì nó chẳng được thỏa mãn.

Nếu có thế mà hết thì chẳng đáng nói, chuyện hãy còn, chỉ còn một đoạn ngắn thôi nhưng nó thảm thê nhất vì nó đã làm hại một đời tôi.

Anh ơi! Tôi tưởng rằng: hình nàng đã chết ở trong lòng nhưng thật ra thì không, nó vẫn trơ ra để ngạo nghễ thời gian. Tôi không thể nào xóa được.

Chỉ ít lâu, sau khi Hiên dọn nhà đi, tôi đã yêu Bích Hà, rồi Phượng, rồi Mai, rồi Dung, rồi Julie và còn bao nhiêu thiếu nữ tuyệt đẹp khác nữa. Những khi tựa vào nhau và âu yếm: “Em đẹp quá! Anh yêu em bằng cả một tâm hồn trong trắng, cả một trái tim chưa sóng gió” sao tôi thấy lòng thắt lại, băn khoăn như ta nói dối và tê tái như khi ta thất vọng một điều gì.

Vì không phải là tôi nói, tôi tâm sự với Bích Hà, với Phượng, với Mai, với Julie mà tôi đã tâm sự với Hiên, người thứ nhất đã dạy lòng tôi biết hồi hộp, mà than ôi! nàng không biết đến tôi một lần nào!

Nàng không biết đến tôi nhưng bóng nàng đã thầm đi theo dõi suốt đời tôi như một ám ảnh.

Thì ra chính những buổi gặp đầu tiên mà không bao giờ được mãn nguyện, đã choán hết nghĩa của ái tình. Tôi đã lỡ yêu trọn đời, tình ấy với tôi như nước xuôi triều, sẽ lăn lóc dẫn nhau đi xéo nát hết những ngày xanh cho đến tuổi khóa đời mơ mộng.

TÔ HOÀI - ĐỖ THIÊN THƯ st.


Kỷ niệm 100 năm

ĐỨC MẸ HIỆN RA TẠI FATIMA

trên Đền thánh Đức Mẹ Trà Kiệu

Đêm 12.7.2017 chúng tôi đã có mặt tại Linh địa Trà Kiệu. Trời mưa tầm tã nhưng không ngăn nổi tình yêu của những người con phương xa đến với Mẹ. Sau khi ăn tối tại nhà thờ, những anh chị em phụ trách cắm hoa, trang trí kiệu, pháo hoa… cấp tốc chuyển đồ đạc lên núi (khoảng chừng 1 cây số) để làm việc. Chính lúc đó anh trưởng đoàn phải đi cấp cứu vì cơn đau bất ngờ, nhưng mọi việc vẫn diễn ra trôi chảy vì chính anh và mọi người đã chuẩn bị kỹ lưỡng cho chuyến hành hương này từ tháng 2, sau khi đi làm thiện nguyện và hành hương với Mẹ Măng Đen và Mẹ Giang Sơn. Từng bọc hàng đã được đánh số chia ra cho 5 xe 45 chỗ: nào là hoa, nào là tượng Đức Mẹ, nào là kiệu gỗ, nào là dàn pháo sáng, đèn điện… được tập trung lại để thuê xe chuyển lên núi. Các tổ chuyên môn cứ thế mà vào cuộc vừa làm vừa cầu xin Mẹ cho người anh em của mình đang chiến đấu với căn bệnh riêng của mình. Đến khuya thì mọi việc đã tạm ổn và may thay anh trưởng đoàn cũng xuất viện để sáng hôm sau cùng mọi người cung nghinh Mẹ Maria.


Tờ mờ sáng 13.7 mọi người kéo nhau lên núi: ai khỏe thì đi bộ, ai mệt thì cứ 2 người lên 1 xe ôm 10.000 đồng một chuyến, những người già cả tàn tật leo lên núi thì hơi mệt đấy nhưng ai nấy đều vui mừng khi xa xa đền thánh của Mẹ từ từ hé lộ. Cha linh hướng Giacôbê Lâm Quang Thế (Gx. Thống Nhất) và cha Bênađô Phạm Văn Vĩnh (SDD) đã ngồi tòa giải tội cho những ai cần từ bao giờ rồi.

Đúng 6g00 sáng các cha tiến ra làm phép tượng Đức Mẹ Fatima và bắt đầu cuộc rước chung quanh Đền thánh Đức Mẹ. Mọi người trong niềm vui hòa vào niềm vui rất sốt sắng cùng nhau cung nghinh Mẹ. Trong khi đó một số người tranh thủ kín nước từ giếng đổ vào những chiếc can nhựa 5, 10 lít mua dưới chân núi, có người uống tại chỗ bằng ly, có người cầm cả xô cứ thế mà uống khi chờ ly lâu quá vì chỉ có một cái.

Đoàn người từ từ tiến vào nhà thờ và dàn pháo hoa rực rỡ đón chào Mẹ bừng lên, xoay tít trong niềm vui của mọi người. Chấm dứt cuộc rước là bắt đầu thánh lễ với phần dâng lễ của quý ông đại diện cho 12 tông đồ. Đặc biệt là mọi người được tham gia thánh lễ với hai hình thức Mình và Máu Thánh Chúa. Kết lễ toàn đoàn đã nhận phép lành ơn Toàn xá.

Sau lễ một số ở lại cầu nguyện cùng Mẹ, một số chụp hình kỷ niệm, nhưng vui nhất có lẽ tranh nhau uống nước tại Giếng Đức Mẹ. Một anh thanh niên cao to, đầu trọc lóc rất vui vẻ kéo từng thùng nước dưới giếng lên rót vào các bình cho những người cần, lâu lâu lại có người xin “Cho tôi một miếng” giống như bức tượng Chúa Giêsu ngồi cạnh bờ giếng xin nước. Một số bà lại vây quanh tượng Chúa, cầm tay Ngài như muốn gửi gấm điều gì đó. Thời gian không cho phép chúng tôi ở lại lâu và mọi người phải ra về ăn sáng để chuẩn bị ra La Vang.

Anh em cũng rất tiếc khi Tượng Đức Mẹ đã làm phép - một kỷ niệm 100 năm - được để lại theo như gợi ý của cha sở, vì ngày hôm ấy và những ngày sau đó chưa thể kiếm ra kiệu để rước Đức Mẹ trên núi Bửu Châu cho các đoàn thể muốn cung nghinh Đức Mẹ. Nhưng mọi người càng mừng vui hơn vì đã biết chia sẻ cho những anh em khác đã tìm đến với Mẹ vì mỗi khi được sử dụng Mẹ lại ban ơn phúc cho nhiều người đã cất công đến với Mẹ

Kỷ niệm 100 năm Đức Mẹ hiện ra tại Fatima, chúng con không đến được với Mẹ ở Fatima thì chúng con đến với Mẹ Trà Kiệu, vì Mẹ ở đâu cũng là Mẹ trong lòng chúng con.

Chúng con cầu xin Mẹ cho thế giới Hòa Bình, người người yêu thương nhau, giúp đỡ nhau.

Chúng con cầu cho gia đình, anh em chúng con sống thuận hòa, biết chia sẻ cho nhau.

Chúng con cầu cho chính mình… qua lời kinh Mân Côi do Mẹ dạy dỗ chúng con.

Xin Đức Mẹ Fatima nhận lời chúng con.

HÀ MẠNH ĐOÀN


Phụ Bản IV

TẢN MẠN TUỔI GIÀ

Bao nhiêu tuổi là già? Câu trả lời có thể thấy ngay ở điều lệ gia nhập hội Người Cao Tuổi (còn gọi Hội Phụ Lão): sáu mươi!

Thực tế đời sống xưa nay, như thứ luật bất thành văn, phải sáu mươi tuổi mới được “phong” thọ (hưởng thọ), suýt soát số đó chỉ là“hưởng dương” thôi. Quan điểm này nay đã thay đổi. Bây giờ nghe tin ai đó “an giấc ngàn thu” trước tuổi bảy mươi, ta chép miệng cảm thán: “Sớm quá!... Còn trẻ quá!...”.

Thật vậy, bây giờ dù sáu mươi, bảy mươi (và hơn thế nữa…), đầu ta vẫn khó tìm ra sợi tóc bạc (nên hàng tháng tốn bộn tiền cho khâu… nhuộm), vẫn đi du lịch nước trong nước ngoài dài dài, vẫn nhảy đầm phây phây và ào ào lướt web!

Mới thấy cảm thương cho thế hệ tiền nhân: thời đàn ông được tự do phát huy“đặc quyền” năm thê bảy thiếp còn đàn bà “đẻ sòn sòn như gà” thì làm sao mà… thọ?

Có một nghịch lý: ngày nay tuổi tăng cao nhưng SỐNG THỌ lại không tỷ lệ thuận với SỐNG KHỎE (như lẽ ra phải thế!). Trái lại, bệnh tật nhiều hơn, nguy hiểm hơn, và đến sớm hơn. Thử đi một vòng các bệnh viện lớn mà xem: đa số bệnh nhân ở tuổi trung niên chứ đâu phải chỉ là các cụ già móm mém!

Mới trên dưới bốn mươi, bệnh tật đã lò dò đến thăm. Tưởng đến chơi chốc lát rồi đi, ai dè khoái ta quá, nên ở lì lại, nhất quyết đòi cùng ta “kết nghĩa đào viên” rồi từ đấy gắn bó với ta nửa bước không rời. Thôi thì đủ thứ bệnh quái quỷ. Không tim mạch, tiểu đường, mỡ máu… thì cũng gan, gút, K…

Vào bệnh viện tầm soát bệnh, ta thót tim, toát mồ hôi hột khi Bác sĩ nhìn vào kết quả xét nghiệm rồi phán một câu ngắn gọn, xanh dờn:

- Bệnh này phải uống thuốc suốt đời!

Ta càng run rẩy toàn thân như lên cơn sốt rét cấp tính khi Bác sĩ miệng tuyên bố “phải uống thuốc suốt đời” mà tay lại nhoay nhoáy kê toa cho ta mua vỏn vẹn chỉ có… bảy ngày thuốc!

Lúc vướng bệnh rồi càng thấy lời Phật dạy “ đời là bể khổ” vô cùng chí lý. Chỉ một hạt bụi rơi vào mắt hay mẩu gai tí teo xuyên qua da đủ hành ta lên bờ xuống ruộng, khốn khổ lao đao rồi, huống chi toàn bộ cơ quan trọng yếu bị cả một binh đoàn đột biến hung hãn tấn công.

Với ta, đau khổ nhất là chuyện… kiêng khem (giả sử ta cứng đầu không chịu kiêng thì những người thân xung quanh cũng nhất quyết bắt ta phải kiêng. Đố chạy đâu cho thoát!). Vướng vào bất cứ bệnh gì, ta cũng nghe Bác sĩ kỹ lưỡng dặn dò “Không được ăn… Phải bỏ… Phải kiêng bớt…”. Than ôi, ở đời, “ăn” đứng đầu tứ khoái, giờ phải chịu nhịn mồm bóp miệng như thế, thật “dã man như con ngan”!

Đâu chỉ mỗi chuyện ăn, ta còn phải từ bỏ cái rụp không kèn không trống tất cả mọi thứ đam mê vốn đã là thú vui, thành thói quen gắn bó mấy chục năm trong đời. Dù có hụt hẫng, “đau khổ như con hổ”, ta cũng phải ngậm ngùi răm rắp tuân thủ nghiêm túc lệnh Bác sĩ, nếu ta thực sự chưa muốn leo lên… bảng Cáo phó.

Như một vòng tròn khép kín, ta dần dần “trở về dòng sông tuổi thơ”. Đang từ người lớn, thoắt cái quay lại làm một đứa bé trống răng trụi tóc, đi phải có người dắt tay, đói phải có người pha sữa xúc cháo. Đỉnh điểm gay cấn là tình trạng như mẩu đối thoại nghe lỏm từ một phòng mạch Bác sĩ sau đây:

- Bác sĩ ơi, tôi bị bệnh nguy hiểm gì mà ngày nào cũng đi vệ sinh lúc bảy giờ sáng?

- Bác yên tâm, không phải bệnh gì nguy hiểm đâu. Chính tôi mỗi ngày cũng có thói quen đi vệ sinh lúc bảy giờ sáng đấy.

- Nhưng tám giờ tôi mới thức dậy mà…

- !!!

Ngày xưa ta là đứa bé có cha mẹ chăm sóc ẵm bồng, ngày nay ta cũng có con cháu chăm sóc và ẵm bồng ra Taxi… đi bệnh viện. Đứa bé ngày xưa đau ốm, nheo nhẻo quấy khóc để mẹ cha phải thức trắng thay nhau ôm ấp vỗ về, còn “đứa bé ngày nay” có bị bệnh tật hành hạ đến đâu cũng nên biết thân, đừng dại dột kêu ca than vãn, kẻo con cháu (vì quá xót xa thương ta) sẽ đay nghiến:

- Ai bảo ham ăn nhậu cho cố?... Ai bảo hút thuốc cho nhiều?... Ai bảo… Ai bảo…

Ừ, họa may có Trời mới biết “Ai bảo”! Chúng nó không biết, Bác sĩ không biết, ta càng không biết luôn!

Nói thế, chẳng phải ta trách móc con cháu nhẫn tâm, bạc bẽo hay thiếu thông cảm. Không, chính ta mới thiếu thông cảm với chúng đấy chứ. Chúng chẳng tệ bạc gì với ta đâu. Nếu ta ăn không ngon miệng là do khẩu vị không phù hợp món ăn, hoặc do ta quá khó tính, đâu liên can gì đến chúng? Mà quả thế thật, đúng là càng già ta có khó tính hơn: chúng làm gì ta cũng bắt bẻ, chê bai, đòi sửa đổi. Nhất là lũ con dâu con rể lại càng tệ hại quá, còn khuya mới bằng được gót chân con trai con gái của ta!

Tại sao ta ghét dòng nhạc trẻ, Rock, Hithop… giật đùng đùng chúng ưa thích mà lại muốn chúng cũng say mê nhạc xưa, nhạc vàng, nhạc cổ lâm ly bi đát ta hằng hâm mộ? Ta đã yêu thương dâu rể giống như yêu thương con ruột ta chưa mà đòi hỏi chúng phải yêu thương ta y như yêu thương cha mẹ chúng?

Có một bà bạn kia, mỗi lần gặp là lại buông một câu so sánh đầy ghen tị:

- Ngày xưa tôi nuôi được mười đứa con, bây giờ mười đứa con không nuôi nổi mình tôi.

Ta đã cố nín cười vì cái ngớ ngẩn của bà bạn. Có điểm nào tương đồng đâu mà so sánh? Mười đứa con ngày xưa (theo lời bà bạn kể) đứa nào cũng xinh đẹp như tranh vẽ, cũng mũm mĩm đáng yêu mà bà ấy vẫn tự hào dắt đi khoe làng trên xóm dưới để hớn hở nghe xóm dưới làng trên tấm tắc khen đẹp khen khôn, sao có thể đem ra so sánh với một bà già lẩm cẩm, xấu xí, nhăn nheo, ai gặp cũng chỉ buông một tiếng thở dài, một cái chép miệng cảm thán, thậm chí, như một ai đó đã nói: Chỉ muốn… nhốt vào Sở Thú?!

***

“Trẻ mãi không già” là khao khát bất tận của loài người, sau khao khát “trường sinh bất tử”. Từ ngàn xưa, vua chúa lẫn lê dân đều thế.

Ngày nay, nhờ Thẩm mỹ viện phát triển, nhờ hầm bà lằng kỹ thuật tân trang, nhờ Thực phẩm chức năng và vô số thứ linh tinh khác, ta dễ dàng “ăn gian” tuổi thật của mình. Nhưng dù vậy thì ta vẫn cứ… già! Âm thầm hay lộ liễu, ta cảm nhận rõ hơn ai hết cơ thể mình ngày một… xuống cấp.

Hình như Thượng Đế cũng phân biệt giới tính, ưu ái đàn ông hơn. Nên nếu căn cứ vào câu “Trông mặt mà bắt hình dong” để nhận định các ông qua dáng dấp bên ngoài, rất nhiều khi sẽ nhầm lẫn. Đã có nhiều bà nhiều cô bị nhầm kiểu đó. “Thấy đỏ tưởng chín” đâu lường hết nỗi bẽ bàng bên trong. Đã già thì nhất định “phong độ” phải… xuống. Ai chẳng thế? “Phong độ đích thực của đàn ông” ra sao thì ngoài ông ấy - dĩ nhiên - “không ai hiểu, chỉ một người (vợ) hiểu”!

Trái lại, với phụ nữ thì “Ai cũng biết chỉ mình ta (vờ) không biết”. Vì tuổi già nơi các bà thể hiện rõ nhất, nhanh nhất ngay ở… vòng hai. Lồ lộ trước mắt thiên hạ như thế, còn biết “ém” đi đâu? Ngẫm nghĩ lại mà ngậm ngùi tự thương mình: suốt đời ta khốn khổ vì cái vòng chết tiệt này. Từ trẻ tới già, một khi vòng hai “bỗng dưng” căng tròn phúng phính là ta đều“muốn khóc”… thét! Vòng một và vòng ba khiếm khuyết còn có cách nhồi, bơm, vá, đắp… chứ vòng hai quỷ tha ma bắt đã phình ra rồi thì cứ “trơ gan cùng tuế nguyệt”, thách thức mọi thủ thuật hút, căng, cắt, xẻo… của Bác sĩ. Nên dù có khoác lên bất cứ kiểu thời trang nào, ta cũng chỉ “trình làng” một kích cỡ… vuông vuông!

***

Tóm lại, điều đáng sợ nhất của ta, chính là tuổi già. Già tất yếu bệnh. Bệnh tất yếu chết. Và một khi ta chết rồi, tất yếu sẽ có ngay một kẻ khác nhảy xổ vào, ung dung lẫn ngược ngạo, độc chiếm vị trí hiện tại của ta. Chua chát thay, có phải giai nhân tố nữ gì cho cam, đằng này cũng chỉ là một mụ già khác nhăn nheo, bệnh hoạn và xấu xí hơn ta! (Hừ, già còn… ham hố!).

Nhưng dù sợ hay không sợ, cuối cùng, tuổi già cũng xồng xộc tìm đến ta, đố trốn được đi đâu. Vậy sao ta không “chung sống hòa bình” với nó? Đã biết tránh không được thì cứ bình tâm tĩnh tại mà đối mặt. Lo âu, phiền não chỉ khiến ta ăn không ngon ngủ không yên, cáu kỉnh, nhăn nhó… càng thúc đẩy chính cơ thể (và tâm hồn) ta “già háp” nhanh hơn.

“Biết đủ là đủ”. TUỔI NÀO CÓ HẠNH PHÚC CỦA TUỔI ĐÓ. Hãy nhìn ra xung quanh kia kìa: có nhiều người muốn hưởng tuổi già như ta mà có được đâu?

Được làm một Người Cao Tuổi chậm chạp, nhăn nheo, nghễnh ngãng… nhưng luôn lạc quan, tếu táo, yêu đời… “ chẳng khoái lắm ru” ?!

GIÁNG NGỌC (G.Đ.)

TRUYỀN THUYẾT VỀ ĐỨC PHẬT

Bước đầu tiên đi Tầm Đạo

Lúc ấy, Thái tử Tất Đạt Ta, đã được tự do, đứng một mình trong cánh rừng vắng vẻ, chàng mới suy nghĩ: “Kể từ hôm nay, ta là một Bần Đạo chính thống, không còn là một vị Thái Tử nữa. Ta không thể tiếp tục mặc trang phục của hoàng cung được”.

Sau đó, chàng gặp một người thợ săn nghèo, và đề nghị với ông ta rằng:

- Thưa ông, chúng ta có thể trao đổi y phục cho nhau được không? Tôi muốn mặc những thứ vải thô của ông đó.

Tuy rằng ngạc nhiên, người thợ săn cũng rất vui mừng đồng ý…

Bây giờ, chàng đã trở nên một người đạo sĩ bần hàn thật sự. Tất Đạt Ta bắt đầu tìm thầy để học hỏi con đường Tầm Đạo, hầu mong chấm dứt mọi đau khổ.

Chàng đi vào rừng sâu và đảnh lễ các vị Đạo Sĩ mà chàng gặp. Nơi nào chàng đi qua đều được mọi người tiếp đón niềm nở. Cho dù lúc bấy giờ, chàng ăn mặc tầm thường, nhưng tướng mạo vẫn còn khôi ngô tuấn tú. Người ta chúc mừng chàng mau được đắc cầu sở nguyện trên bước đường Tầm Đạo.

Tất Đạt Ta đi tìm học với nhiều vị thầy, nhưng chàng vẫn chưa hài lòng, vì chàng nghĩ rằng: “Những thứ họ dạy đều rất có ích, nhưng không thể đưa đến sự an lạc tuyệt đối được”. Sau cùng, chàng nghe nói có một vài đạo sĩ rất thông thái hiện đang sống ở vương quốc Magadha, nơi mà nhà vua Bimbisara hiện đang cai trị; vì thế chàng quyết định đi đến đó để tìm họ.

Một hôm chàng lội bộ ngang qua thành Rajagriha thủ đô của Magadha. Chàng đang đi đến gần cổng của cung điện. Một vị quan chức trông thấy, vội về báo cáo lại cho Nhà Vua hay biết.

- Muôn tâu Bệ Hạ, hạ thần vừa trông thấy một người đàn ông rất tuyệt vời ở trong thành phố. Tuy ông ta ăn mặc tầm thường, và đi xin ăn từ nhà này đến nhà khác, nhưng hạ thần tin chắc ông ta là một người rất đặc biệt, với gương mặt đầy nghị lực và dáng đi rất uy nghiêm. Dường như có một thứ ánh sáng kỳ diệu tỏa ra từ thân thể ông ta.

Nhà Vua nghe xong rất đỗi vui mừng, mà phán rằng:

- Vậy các ngươi hãy theo dõi người ấy… Nếu là Thần Thánh, thì khi đi ra khỏi thành sẽ biến mất; nếu là Chư Thiên thì sẽ bay lên không trung; còn nếu là Long Vương thì sẽ chun xuống đất; còn nếu là người thì ắt phải tìm chỗ ngồi nghĩ để ăn uống đàng hoàng.

Mật thám y lệnh, theo dõi bước chân của Thái Tử… Chàng không hay biết gì, chỉ lo khất thực vừa đủ bữa ăn. Rồi Ngài men theo đường cũ trở ra, để đến chân núi, và ngồi day mặt về hướng đông để thọ thực.

Chàng là một vị Đông Cung Thái Tử đương thời, ăn mặc sang trọng, mà bây giờ phải đối diện với các món ăn bình dân, tầm thường, chàng cảm thấy có phần chán ngán. Nhưng chàng kịp tự tâm suy nghĩ: “Tu hành thì phải chịu nhọc nhằn như vậy, chớ tìm đâu ra cao lương, mỹ vị mà đòi”. Rồi chàng quán tưởng mọi thức ăn trở nên ngon lành mà thọ thực.

Các thám tử trông thấy như vậy, mới lật đật trở về báo cáo lại cho Đức Vua tỏ rõ sự việc… Nhà Vua rất lấy làm hoan hỷ sai người long trọng đến mời Thái tử Tất Đạt Ta vào cung điện. Hai người nói chuyện với nhau rất là tâm đắc. Nhà Vua rất khâm phục trí thông minh và lòng khiêm tốn của chàng, nên phán rằng:

- Trẫm chưa hề gặp một người nào mà trẫm cảm thấy quý mến và tin tưởng như Ngài. Vậy, xin Ngài vị tình trẫm mà ở lại Vương Xá này, và giúp trẫm cai trị vương quốc.

Tất Đạt Ta trả lời rất lịch sự rằng:

- Tâu bệ hạ tôi đã có một cơ hội để cai trị một vương quốc rồi, nhưng tôi đã quyết tâm từ bỏ mà ra đi để tầm Đạo Lý. Tôi không còn gì để quan tâm đến sự giàu sang và quyền lực nữa. Tôi chỉ muốn tìm cho ra cái Chân Lý giải khổ cho mình và cho người khác mà thôi. Tôi xin cám ơn ân huệ của bệ hạ. Vả lại, tôi đến đây là cốt chỉ để tầm Thầy học Đạo mà thôi.

Trước những lời lẽ vững chắc như thế, Nhà Vua bèn nghiêng mình chào, và nói rằng:

- Xin chúc mừng Ngài được may mắn trên con đường tầm Đạo. Nếu sau này tìm ra được Chân lý, thì xin Ngài hãy trở về đây, mà chỉ dạy cho tôi với. Còn nếu thất bại thì Ngài cũng phải trở về đây, để chúng ta cùng nhau cai trị vương quốc này.

Tất Đạt Ta đa tạ tấm lòng tốt của Nhà Vua, rồi rời khỏi cung điện để tiếp tục con đường Tầm Sư Học Đạo của mình…

Chàng tìm đến hai vị Đạo sỹ nổi tiếng nhất trong thời bấy giờ, là Alara và Udaka mà thọ ký học Đạo…

(còn tiếp)

Thanh Châu sưu tập kể

Đọc sách giùm bạn

MỤC ĐỒNG

Tập san này được thực hiện dưới hình thức những Tuyển tập Văn thơ, mang tên “Mục Đồng”, mỗi năm ấn hành 4 kỳ, mỗi tập khoảng 120 trang khổ 16x24 cm, giá 25.000đ một tập (kể cả cước phí).

Do thấy rằng trong Giáo hội Việt Nam có một lỗ hổng lớn về văn học nghệ thuật, Lm Gioan Phêrô Trăng Thập Tự (Chủ biên Tuyển tập Văn thơ Công giáo Mục Đồng) đã tập trung năng lực vào việc tìm kiếm và quy tụ tài năng văn thơ cho Giáo hội. Linh mục đã cố gắng xây dựng một tập san văn thơ Công giáo làm không gian kết nối các tác giả và giúp cộng đồng Dân Chúa phát huy nền văn học Công giáo, nh ất là giới trẻ có thể vận dụng khả năng truyền đạt của tiếng Việt vào công cuộc truyền bá Tin Mừng cho người trí thức ngoài Công giáo thông qua những bài thơ và truyện ngắn Công giáo có giá trị nghệ thuật.

Số ra mắt của tập san đã phát hành ngày 24-4-2017. Bạn có thể xem bản PDF số ra mắt tại www.tapsanmucdong.net; www.gpquinhon.org

ĐẠI THỪA KIM CANG KINH LUẬN

Một cuốn sách mới của cô Tâm Nguyện phát hành nội bộ tặng cho các thành viên CLB Sách Xưa & Nay. Sách gồm 120 trang khổ 14x20, trong đó có khoảng 40 câu hỏi và trả lời. Chính tác giả đã lược giải quyển này để “biết đâu sẽ giúp ích cho ai đó trên bước đường tìm hiểu đạo Phật”.

HÀ MẠNH ĐOÀN

Các loại cười dịch sang tiếng Anh

Cười: (mỉm) to smile. Cười lớn: to laugh.

Nụ cười: smile. Tiếng cười: laughter, or sound of laughter.

Cười bể bụng : To be bursting with laughter.

Cười chua chát: a bitter smile.

Cười dòn: To giggle, a giggle.

Cười duyên dáng: a charming smile. Hôm ấy anh hỏi em không trả l ời mà chỉ nở một nụ cười duyên dáng: Instead of answering me the other day, you just blossomed into a pleasant smile.

Cười gằn: strained smile. Nàng cười gằn: She smiles as though it hurt.

Cười giả dối : mock smile.

Cười gượng: a strained smile.

Cười hóm hỉnh: a sly smile, a knowing smile.

Cười khanh khách: to cackle.

Cười khằng khặc : to laugh thickly.

Cười khì: Derisive smile.

Cười khiêu khích: provocative smile.

Cười khinh bỉ: to grin with contempt; a sardonic smile.

Chàng cười khoan khoái: He was grinning with delight: He grinned his delight (or satisfaction).

Cười lẳng lơ : lascivious, (lewd) smile.

Cười lơi lả: Sexy smile, inviting smile.

Cười mỉa mai: sarcastic laugh, sarcastic smile.

Cười ngạo: to laugh at someone, to laugh sardonically.

Cười nham nhở : shabby smile, rough or harsh laugh.

Cười nhạt: faint smile.

Cười nhoẻn miệng : to grin.

Cười nửa miệng : to laugh out of the side of one’s mouth.

Cười rất đểu : a nasty or dirty laugh.

Cười tinh nghịch: playful smile. Nàng cười tinh nghịch: She had a playful smile.

Cười tình: loving smile, flirting smile.

Cười toe toét : shabby smile.

Cười thầm : to laugh in (or up) one’s sleeve, to laugh in one’s beard, to laugh inwardly

Cười trắng trợn : to smirk, a smirk, an impudent smile.

Cười tức bụng : to laugh till one’s sides ache.

T ức cười, buồn cười : laughable, funny. Thật là buồn cười: It’s really funny.

Cười tủm tỉm: to hold back a laugh, to chuckle.

Cười xòa: an excusing or apologetic smile.

Cười yếu ớt : a faint smile.

Nụ cười kín đáo phảng phất trên môi nàng: A concealed smile fleeted on her lips.

Ta cười để lấp tiếng đau thương, nhưng biết đâu rằng tiếng khóc không lẫn trong giọng cười: We laugh to drown out the sound of pain, but who knows that our tears are mingling in our laughter.

 

ĐÀO MINH DIỆU XUÂN st.


HẠT CƠM THIU

T hấy bé Thảo quẹt xoành xoạch cái thìa vào lòng bát một cách tuế tóa, làm những hạt cơm văng ra tung toé, tôi nhăn mặt:

- Con nhặt từng hạt cơm lên cho ba.

Vốn được cưng chìu, bé Thảo phụng phịu:

- Có mấy hạt rơi mà ba cũng bắt con nhặt, để lát mẹ quét nhà là sạch thôi mà.

- Không được, phải nhặt lên, Thảo. Con có nghe lời ba không?

Thấy tôi nghiêm giọng, nghiêm mặt, cô con gái không dám tủng hủng nữa, ngồi xuống nhặt từng hạt cơm. Vợ tôi vẻ không vui:

- Anh sao thế? Bắt ne bắt nét con bé.

- Phải tập cho nó biết quý từng hạt gạo chứ. Dạy con phải dạy từ những nhỏ nhặt nhất, đừng có phiên phiến quá sau rồi hỏng. Có phải ăn những hạt cơm thiu mới biết bát cơm ngon lành nó quý giá đến thế nào.

Bé Thảo nhảu giọng:

- Cơm thiu thì ai mà ăn hả ba?

- Có đấy con ạ. Không phải chỉ một lần, mà ba đã phải ăn đến ba lần rồi đấy.

Câu nói được ghìm lại trong cổ họng đúng lúc. Nhắc đến điều này là trong lồng ngực tôi lại nhói lên. Bởi mỗi lần phải ăn những hạt cơm thiu ấy, là một lần ghi khắc một dấu ấn không thể quên trong đời tôi.

Lần thứ nhất, cũng là lần đau đớn nhất. Ấy là thời điểm trọng đại của đất nước. Ký ức tôi không ghi nhớ được gì nhiều hình ảnh của những ngày đùng đoàng bom đạn, lúc ấy tôi mới khoảng 6, 7 tuổi. Chỉ nhớ rõ nhất, có một bữa cơm dở dang, mà mỗi người trong gia đình tôi phải bê theo bát chạy xuống hầm khi có tiếng máy bay ì ì vọng tới. Tôi chậm chân hơn mọi người vì còn quay lại gắp thêm một miếng thịt. Và chỉ bằng một khoảnh khắc gián đoạn ấy đã chia cắt tôi và gia đình bằng một tiếng nổ chát chúa và tôi không còn biết gì nữa. Không biết tôi đã ngất đi trong bao lâu, chỉ mang máng nhớ, khi tỉnh dậy, tôi kinh hoàng bởi bao gạch đá lấp gần hết thân mình, muốn khóc gọi ba mẹ nhưng cũng không còn đủ sức. Bản năng sinh tồn đã cố đẩy tôi nhoai dần ra khỏi đống gạch. Trời tối sẫm, lạnh và đói, tôi quờ quạng sao đụng phải chiếc bát, trong ấy còn sót vài hạt cơm. Hẳn nó đã bị văng cùng tôi, cố nhét những hạt cơm ấy vào miệng, vị chua lờm lợm làm tôi muốn ụa ra. Nhưng cái đói đã thắng, Sau đó tôi lại thiếp đi dưới một mảnh tôn. Rồi tôi được cứu bởi những người hàng xóm. Họ thật ngạc nhiên khi thấy một đứa trẻ lại có thể sống sót sau sự chấn động thư thế. Khi ấy, tôi mới biết, trên đời không còn ai là người thân của tôi. Vào tuổi ấy, tôi đâu đã đủ cảm nhận nỗi bất hạnh ấy lớn đến thế nào, chỉ biết oà lên khóc, khóc vì sợ thì đúng hơn.

Đã không rơi vào cái chết nghĩa là phải đối mặt với sự sống. Bằng sự cưu mang của bà con lối xóm, tôi nhích dần qua thời gian. Nhưng họ cũng chẳng cưu mang mãi được, khi chính bản thân họ cũng đang rất khốn khó, thế là tôi thành một đứa trẻ lang thang. Sức vóc chẳng được là mấy, nên tôi nhập bọn cùng một lũ cũng tương đương, khi thì xin ăn, khi thì quanh quẩn ở những nơi hàng quán, chực những người khách đứng lên là xô tới húp vét cặn thừa. Một hôm, do cơn sốt trong đêm trước, tôi chẳng tranh nổi, cứ bị gạt ngã văng ra, người lớn chả ai buồn để ý, họ còn mải xua đuổi lũ ruồi nhặng chúng tôi. Tôi mệt quá, lê vào một góc chợ thỉu đi. Đêm đến, khi cơn sốt dài đã dứt, bụng đói cồn cào, nước dãi tứa ra, tay chân lẩy bẩy, tôi quáng quàng đi tìm cái ăn. May mà các chú bảo vệ không chú ý, nên tôi lọt lại trong khu chợ đã đóng cổng. Lần mò mãi, tôi đụng phải một cái bọc lylon, Vội và mở ra, trong đó là một nắm cơm đã bốc mùi mốc nặng, tôi cuống quýt phủi lớp men màu gạch của “vị cứu tinh”, rồi cho vào mồm trệu trạo nuốt. Đó là lần thứ hai tôi phải ăn những hạt cơm thiu. Sau này, mỗi lúc nhớ lại, không hiểu sao cơ thể có những lúc lại chấp nhận được những loại khuẩn trùng kinh khủng thế? Quả là một điều khó hiểu của thuyết tự nhiên. Biết bao người, nhà cao cửa rộng, ăn ngon ngủ ấm, được tẩm bổ chăm sóc đầy đủ, thì lại cứ hay bệnh nọ tật kia. Còn lũ mái hiên lòng phố dãi dầu chúng tôi thì cứ lùi lũi mà đi qua, có chút ốm đau nào thì tự khắc khỏi, ăn còn chưa có, nói gì đến thuốc. Tóm lại một câu là “Trời để sống” vậy.

Lớn hơn tí chút, đã có thể kiếm sống bằng một vài công việc, không dư dả gì, chỉ đắp đổi qua ngày được đã là tốt. Lần hồi tôi cũng trở thành một thanh niên cứng cáp. Thế rồi, sau một cái vỗ vai, tôi đi theo một loại hình công việc, mà hiệu quả của nó phần nhiều phụ thuộc vào cái gọi là vận may. Câu thành ngữ “Ngậm ngải tìm trầm” có lẽ cũng chưa đủ để diễn tả hết những nỗi nguy nan nhọc nhằn của công việc này. Nhưng sức hút về giá trị của sản phẩm thì đủ át hết những lo sợ, ngại ngần. Chỉ cần từ hai đến ba lần gặp may, thì sản nghiệp trong tay cũng gọi là đủ để đổi đời. Chính vì vậy mà những ai dấn thân vào công việc này sẵn sàng mặc lòng đánh đổi, có khi là cả tính mạng.

Cuộc sống vốn là một chuỗi lòng vòng ân oán, may rủi, được mất. Và rất nhiều khi chỉ vì một giá trị vật chất tầm thường, mà con người ta dễ dàng ra tay loại bỏ nhau. Không có con đường dẫn đến thành công nào mà không đầy rẫy những gian truân, nguy ngại. Một trong số ấy lại có thể đến từ bạn đồng hành. Hạnh phúc và bất hạnh đôi khi chỉ cách nhau một tích tắc. Tiếng reo hò mừng rỡ chưa kịp tròn mồm, thì tôi bỗng có cảm giác đau điếng phía sau đầu, và loạng choạng gục xuống.

Một lần nữa, số phận tôi lại tìm đến câu “Trời để sống”.

Cho dù khi tôi có lại được nhận thức thì xung quanh tối đen và cảm giác mình đang ở trên một vùng ẩm ướt. Định thần một lúc, tôi nhớ ra mọi chuyện và hiểu mình đang ở trong một tình cảnh như thế nào. Việc cần thiết trước nhất là rà soát lại những cơ năng của cơ thể. Chân tay cử động bình thường, trong người cũng không có triệu chứng gì khó chịu, chỉ có phía sau đầu vẫn còn đau nhức. Rất may là cú đập không đủ mạnh nên chỉ gây choáng ngất. Tôi cố gắng lần mò leo lên cây dó, cũng là cái cây mà lúc ban ngày tôi tìm thấy ổ trầm. Leo lên được một chạc cây khá vững, tôi tựa người thở dốc. Dù không muốn, nước mắt tôi vẫn lặng lẽ rơi. Còn bao chua chát, cay đắng mà cuộc đời này còn dành tặng cho tôi nữa. Và để tồn tại được một kiếp người, tôi sẽ còn phải trả giá những gì nữa đây? Một đêm chập chờn thức ngủ, chập chờn mộng thực, chập chờn sống chết. Ngày tiếp đến, tôi bị lạc trong rừng, và lần thứ ba trong đời, những hạt cơm thiu lại bám lấy tôi. Dù đã nhớt nhợt, nhưng dù sao có chất gạo vẫn tốt hơn lá rừng. Nuốt những hạt cơm tủi cực ấy, tôi thấy thương mình quá. Vì đâu nên nỗi? Lầm lũi giữa cây lá, chim muông, giữa lặng thinh không có bóng người, tiếng người, tôi chợt nghĩ, thôi thì ở lại với rừng, rừng nuôi thì sống, rừng không nuôi thì chết vậy. Tôi có vùi thân nơi đây thì cũng không để khổ để nợ cho ai mà. Thế giới con người đã khuất xa, chắc sẽ chẳng còn ngọn roi gió bão nào nữa. Ấy thế nhưng đâu phải cứ muốn là được, dù cho điều ước muốn ấy có sơ giản đến đâu. Một người dân tộc thiểu số đi đào măng đã đưa tôi trở lại thế giới người.

Ít lâu sau, mọi người thấy ở một góc phố, nhỏ nhoi một ít vật dụng sửa vá xe, một thanh niên bước vào tuổi tam thập, ít nói, cần mẫn với công việc. Ai biết đâu chính sự cần mẫn ít nói ấy đã dúi vào tay tôi một bàn tay mềm mại. Lòng trời vẫn rộng, lòng đời vẫn mở, lòng người vẫn vui. Ừ thì việc đến cứ đến, còn nhận được thì cứ nhận, còn yêu được thì cứ yêu, cuộc sống vẫn còn những điều cho ta đáng trân trọng.

Có vợ rồi có con, cuộc sống tất bật với bao điều tươi mới, tôi chẳng còn có dịp giở lại những trang đời rách tướp ấy. Nếu không có việc răn dạy bé Thảo hôm nay, thì tôi đã như quên hẳn những năm tháng xót xa của mình. Nhưng nhớ cũng chỉ để nhấm nháp riêng mình thôi, chẳng bao giờ tôi kể những chuyện ấy cho vợ con nghe. Để làm gì? Vì sự thương cảm hay mặc cảm cũng đều là không tốt. Dẫu sao thì tất cả cũng đã qua rồi. Con người chỉ có một đường tiến lên phía trước, có ngoái lại chăng cũng chỉ là một chút vọng âm. Để biết đôi chân mình đà từng có lúc…Thế thôi.

ĐÀM LAN


Truyện ngắn

CON GÁI NỮ DANH HÀI

Nắng hạ đổ lấp loáng trên mặt đường. Lớp nhựa hình như đen hơn, bóng nhẫy và mềm nhũn dưới bước chân người qua lại. Cái nóng hầm hập đuổi theo chúng tôi bén gót. Mồ hôi tươm ướt áo. Tôi ngây ngất trong cơn say nắng, bước liêu xiêu, uể oải sau chân Ngọc Bội. Hai đứa lầm lũi đi, mệt nhọc, căng thẳng như bị lưu đày. Chợt nhỏ bạn reo lên:

- Tới rồi!

Như bắt được vàng, tôi cũng mừng rỡ hỏi:

- Tới rồi hả?

Vàng chúng tôi bắt được là ngôi nhà lá thấp lè tè ở ven đường. Mấy chùm hoa Trúc Đào hồng thắm bên cổng rào không thể xóa đi vẻ nghèo nàn của mái lá. Ngôi nhà này mang đầy mặc cảm bên những căn hộ nhiều tầng sang trọng. Trông nó tựa như một người tiều tụy quỳ gối trước những lực sĩ cường tráng đang đứng trên bục cao.

Ngọc Bội đứng sát bên rào. Nó mở sổ tay xem lại địa chỉ rồi nhìn lại bảng số nhà đang treo trên vách, reo lên:

- Đúng rồi!

Tôi thở phào nhẹ nhõm, Ngọc Bội gọi to:

- Cô Ba ơi… Cô Ba!

Từ trong nhà, một gã nhóc “chui ra” rồi nheo nheo mắt nhìn chúng tôi rồi chẳng biết vì sao hắn lại “chui trở vào”. Liền đó, một người đàn ông đứng tuổi đi ra, cũng nheo mắt nhìn chúng tôi:

- Hai cô tìm ai?

Ngọc Bội cười ngất:

- Trời ơi, dượng Ba! Dượng nhìn không ra con hả. Con là Ngọc Bội nè.

- Khuôn mặt ông ngơ ngơ ngẩn giây lâu:

- Ờ… Ngọc Bội nào?

Trong lúc tôi hết vía vì sợ lộn địa chỉ thì nhỏ bạn lại cười toe toét:

- Ba con là Hai Sang, anh ruột của cô Ba, vợ dượng đó.

Ông dượng vỗ đùi đánh bốp:

- Chúa ơi! Nhớ rồi! Nhớ rồi! Anh Hai Sang… Cháu đây sao, mau lớn quá, ai mà nhớ nổi.

Ngọc Bội cười lỏn lẻn:

- Tại con bận học, phải chờ đến nghỉ hè mới về thăm cô dượng. Nhưng mấy năm rồi cứ phải học thêm nên…

Sợ hai dượng cháu cứ mừng mừng tủi tủi mà quên nắng đổ lửa trên đầu, tôi nhắc khéo:

- Ở đây nắng nóng cũng không thua gì thành phố hén dượng!

Nhớ ra, ông vội mở cổng rào:

- Vào nhà đi hai cháu!

Không giống nơi khác, ở đây, muốn vào nhà thay vì bước lên thềm thì lại phải bước xuống tam cấp. Cửa chính tựa như miệng hang há rộng chờ nuốt chửng ai đó. Vào nhà, cái nóng lập tức biến mất vì vẻ sạch sẽ, ngăn nắp bên trong. Đúng là nhà sạch thì mát. Đồ vật đơn sơ, không có gì sang trọng nhưng mỗi thứ biểu hiện tính cách của chủ nhà: Sạch và gọn! Điều đó làm cho ý nghĩ coi thường của tôi khi mới nhìn thấy bên ngoài đổi thành cảm tình với gia chủ. Nhà trước có hai chiếc ghế dựa đặt đối diện nhau, giữa là một cái bàn gỗ tạp đã cũ. Nó được phủ lên mặt một tấm ny-lông cũng không còn mới. Một cái bàn viết bằng thiếc dầy sơn xanh cũng đã phai màu. Chiếc khăn trải bàn nền xanh dương kẻ ô trắng, phân biệt từng hoa văn màu vàng trên ấy. Chiếc đèn bàn xinh xắn nằm một góc, lặng yên bên một chậu xương rồng gai góc đang kiêu hãnh nâng bổng một nụ hoa trắng vừa he hé. Ô cửa sổ nhỏ mở ra ngay chỗ đó. Ngoài song, thấp thoáng những nhánh lá sơ-ri xanh ngăn ngắt lay động. Cạnh tủ quần áo là chiếc bàn con. Trên đó, một chậu cá kiểng đang an vị. Mấy chú cá bảy màu đang tung tăng bơi lội. Chúng lượn vòng quanh nhánh san hô bé tí và chiếc chong chóng xoay tít đang dẫn ô-xi và nước. Tấm mành sọc trắng và xanh ngăn đôi gian trước và nhà bếp. Dượng Ba dẫn hai đứa ra nhà sau. Chỗ này bề bộn hơn nhưng vẫn mát rượi nhờ cây cối bên ngoài lọc bớt cái chói chang, giữ nắng trên những vòm cao nhánh lá. Dượng Ba bảo chúng tôi đặt túi quần áo lên chiếc giường nhỏ rồi ra sau rửa mặt.

Nước mát lạnh. Tôi thích thú chườm một ít nước lên tóc rồi vuốt ngược ra sau. Mấy sợi tóc ngắn cũn cỡn, uốn kiểu Hồng Kông của tôi được dịp nằm mẹp xuống nghỉ mệt. Ngọc Bội mỉm cười:

- Tính gội đầu hả nhỏ?

- Mát ghê nơi! Bây giờ mà được nhảy vô lu ngâm thì tuyệt vời.

- Cứ tự nhiên!

Giọng gã nhóc ban nãy khiến tôi giật mình. Hắn đang đứng gần một cái chuồng chim câu xinh xắn. Tôi nhún vai:

- Hổng dám vậy đâu, chú bé!

Ngọc Bội cười ngặt nghẽo:

- Anh Dương lớn hơn tụi mình một tuổi mầy ơi. Bé với tí gì,

Thấy tôi sượng sùng, Dương cười dễ dãi:

- Không sao! Lâu lâu anh được nhỏ lại đôi chút cũng thích.

Tôi đến bên anh, nhìn vào hai chú chim vàng vàng xanh xanh đang mổ thóc:

- Chim gì đẹp quá vậy anh Dương?

- Yến Phụng đó em.

- Tên đẹp quá nhỉ! Nó hót có hay không?

- Hình như nó không biết hót mà chỉ kêu nhưng giọng âm vang, ríu rít, vui tươi lắm!

Khi chúng tôi vào nhà thì cô Ba đã về rồi. Đó là một người đàn bà nhỏ nhắn, gầy gò và không đẹp nhưng có vẻ hiền hậu. Vừa trông thấy chúng tôi, bà đã kêu lên:

- Cháu đó hả Ngọc Bội? Mau lớn dữ. Trông cháu xinh đẹp hẳn lên.

Bà nắm tay tôi:

- Còn ai đây Ngọc Bội?

- Dạ, là Hải Lý, bạn cháu. À, Hải Lý là con của đào Dư Hương đó cô Ba.

Đã có không biết bao nhiêu lần tôi đổ quạu vì cách giới thiệu của Ngọc Bội. Vậy mà nó vẫn chứng nào tật nấy. Ngọc Bội hãnh diện vì bố là nghệ sĩ chứ tôi thì ngược lại. Tôi không muốn ai biết mình là con của đào Dư Hương. Bởi vì mẹ tôi chỉ đóng những vai hài. Lúc còn bé, tôi không chú ý đến những điều này nhưng lớn lên, tôi chợt nhận ra những vai mẹ đóng chỉ là vai phụ. Đã vậy, mỗi lần mẹ xuất hiện trên sân khấu là chỉ để chọc cười. Tôi không thích như thế. Tôi muốn mẹ hát. Nỗi đau mơn man sẽ theo âm điệu len lỏi vào lòng khán giả. Nó sẽ ghi lại một ấn tượng khó phai nơi người xem.

Trong khi tôi bực bội vì lời giới thiệu thì cô Ba lại hân hoan ra mặt. Bà xiết chặt bàn tay tôi, giọng hồ hởi:

- Vậy sao! Ôi, cháu là con của đào Dư Hương hả? Quý hóa quá! Cô rất thích mẹ cháu!

Bà lăng xăng dọn bàn chuẩn bị bữa ăn. Tuy đơn sơ chỉ có mắm và rau nhưng ngon miệng lạ. Bông súng dòn xốp, dưa leo ngòn ngọt, rau dừa the the, rau răm cay cay, rau quế thơm thơm. Tất cả các vị hòa trộn vào nhau, chan một ít nước mắm kho với cá lóc và tép bạc, tạo nên một loại thức ăn độc đáo. Tôi no căng bụng mà vẫn còn muốn tiếp tục thêm chén nữa. May là Ngọc Bội nhắc khéo:

- Mắm và rau ngon quá mà anh Dương ăn ít xịt vậy?

Dương mỉm cười không nói. Ánh mắt tinh nghịch hướng về phía tôi và cậu Kha, em út. Hình như anh muốn bảo:

- Nhường cho hai kẻ háu ăn kia.

Tôi vội gác đũa. Dượng Ba bảo:

- Cháu ăn thêm nữa đi cháu. Hết thì chiều cô Ba mua món khác. Nhà gần chợ, lo gì!

- Dạ, con no rồi.

Cô Ba nhớ chuyện cũ:

- Mẹ cháu thích món này lắm! Về đây lần nào cũng đòi ăn bún nước lèo.

Tôi ngạc nhiên hỏi:

- Ủa, mẹ con có về đây nữa hả cô?

- Khi ba mẹ con mới cưới nhau, hai người thường dắt nhau về đây mỗi độ Thanh Minh. Chừng sanh con, có lẽ vì quá bận con nhỏ lại đi hát nữa nên chỉ có ba con về tảo mộ.

Chiều. Cô Ba và anh Dương đưa chúng tôi ra vườn, vòng qua một đoạn đường đất ngắn đến khu nghĩa địa hoang phế. Cô Ba chỉ vào hai cái mả đá quét vôi trắng nổi bật giữa những nằm mộ đất lùm lùm. Cũng có dăm ba cái được xây bằng xi măng nhưng xám xịt, cũ kỹ. Cô Ba giải thích:

- Đây là nơi an nghỉ của ông bà nội con. Năm nào ba con cũng về cúng. Năm nay không hiểu sao lại biệt tăm. Tội nghiệp! Bà con ở đây biết đó là mộ của cha mẹ chồng đào Dư Hương nên cũng quý lắm. Họ giữ gìn cẩn thận, không để mả sụp lở. Cỏ mọc là nhổ bỏ liền. Tháng trước, chị Tám xóm này làm nhà còn dư chút nước vôi, chỉ sai thằng Dương, con cô ra đây quét lên hai ngôi mộ nầy.

Ngọc Bội chắc lưỡi:

- Không ngờ cô Dư Hương được mọi người yêu thích đến thế!

Tôi cứ ngỡ có dăm ba người đứng tuổi thích mẹ mình. Nào ngờ khi cùng cô Ba trở về, tôi phải ngạc nhiên trước sự ái mộ của khán giả quanh đó. Họ kéo tới chật nhà cô Ba chỉ để xem mặt… con gái đào Dư Hương. Nhiều người tốt bụng còn đem biếu tôi mấy trái ổi chín, dăm ba quả xoài, mấy trái dừa lửa… Ai cũng khen mẹ tôi “diễu” có duyên, chọc cười vỡ bụng. Họ còn cho biết trong kỳ bình bầu danh hài yêu thích do báo Sân Khấu tổ chức, họ sẽ chọn mẹ tôi là danh hài trong năm. Rôm rả nhất là khán giả con nít. Chúng làm như tôi có… ba đầu sáu tay, mắt mũi khác thường. Chúng cứ thập thò ngoài cửa, bàn tán ỏm tỏi:

- Chị ấy giống đào Dư Hương quá trời!

- Con không giống mẹ thì giống ai? Không lẽ giống… má mầy.

- Hỗn hả mậy? Coi chừng tao đập phù mỏ bây giờ.

Đứa khác thì bảo:

- Sao chỉ hiền quá trời! Lớn lên chắc hát không bằng mẹ đâu.

Ôi thôi đủ thứ chuyện về mẹ và tôi mà chúng tưởng tượng ra. Trước đây, tôi không hài lòng về cách chọn vai diễn của mẹ. Tôi xấu hổ khi thấy mẹ xuất hiện trên sân khấu với dáng vẻ một “cô hề”. Mẹ ca rớt nhịp hoặc trẹo bản họng. Đôi khi mẹ còn mặc quần ống cao, ống thấp, vẽ râu dê, mặc đồ đàn ông, khóc như còi xe lửa rú… Nói chung, nét nhu mì, hiền hậu, thông minh của mẹ biến mất. Dưới ánh đèn màu, mẹ thành một người khác, một người tệ hại làm sao ấy. Dù tôi biết rằng đời thường và sân khấu khác xa. Sân khấu tái hiện khung cảnh, sinh hoạt tâm lý đời thường. Nhưng không hẳn người thể hiện điều đó lại mang bản chất ấy. Một nghệ sĩ thủ vai kép độc đâu phải là một người tàn nhẫn. Một cô đào lẳng đâu phải là một kẻ chẳng ra gì. Mỗi nghệ sĩ làm sống lại một cuộc đời nào đó. Hạnh phúc và khổ đau và qua đó đưa ra những bài học mà con người phải ngậm đắng, nuốt cay mới có được.

Còn mẹ tôi, sân khấu và đời thường như chỉ là một, Lúc nào mẹ cũng nhìn đời bằng ánh mắt khôi hài. Và làm gì, mẹ cũng pha trộn ít nét hài hước.

Một hôm, ba đang trồng mấy khóm hoa trước nhà thì mẹ đi tập tuồng về. Bà gọi cổng:

- Có ai ở nhà không? Cho tôi hỏi thăm.

Tưởng ai, ba vội chạy ra mở cổng. Thấy vợ, ông phì cười, đưa tay bẹo má bà. Mẹ lại hỏi:

- Anh rảnh không anh?

Ba ngạc nhiên:

- Rảnh, chi vậy em?

Mẹ đáp tỉnh queo:

- Anh ra sau rửa tay giùm em!

Lần khác, sau khi ăn trưa xong, mọi người bật ngửa ra ghế, uể oải nhìn chén đĩa bề bộn, mẹ bỗng nháy mắt tình tứ với ba:

- Anh ơi!

- Gì?

Ba có thói quen như thế. Vừa ăn xong, ba lười nhúc nhích, kể cả việc nói chuyện.

- Anh à!

Ba gắt một tràng dài, trái với lệ thường:

- Nói gì nói phứt ra đi “Anh ơi, anh à” hoài, bực cả mình.

Mẹ bảo tôi:

- Ba quạu vẫn đẹp trai như thường,

Ba khoái chí, tủm tỉm cười. Mẹ đế thêm:

- Có chồng đẹp trai khổ lắm con ơi! Chồng xấu dễ xài hơn.

Ba nhịp nhịp chân ra chiều phê tận mây xanh. Bỗng mẹ kéo ghế ngồi sát bên ba:

- Anh ơi! Anh thương em hôn?

Cả tôi và ba đều bật cười. Ba bảo:

- Thương!

- Thương để đâu?

- Ý chừng mẹ muốn bảo để trên đầu đây mà

- Mệt quá hà. Bà hỏi hoài con nó cười bây giờ.

- Em lo sợ chớ bộ! Biết anh có thương em thật hay không? Anh chứng minh đi?

- Bằng cách nào?

- Rửa chén!

Trong nhà, mẹ giễu không nói gì. Đằng nầy đi chợ, mẹ cũng giỡn. Ghé một quầy trái cây, mẹ hỏi người bán hàng:

- Cam ngọt hay chua vậy chị?

- Dạ, ngọt lắm!

- Ngọt thì ăn không ngon đâu. Tôi có bầu, thèm chua gần chết!

Người bán vội nói:

- Cũng có trái chua chua.

- Vậy sao? Lựa cho tôi một ký đi chị.

Mẹ làm tôi phát sợ. Không biết mẹ trên sân khấu và mẹ đời thường có giống nhau không? Chẳng lẽ ở mẹ, không lúc nào nghiêm túc? Tôi không thích mẹ lúc nào cũng vui vẻ, đùa nghịch như chúng tôi. Mẹ phải là mẹ trang nghiêm, gần mà xa, xa mà gần gũi. Phải có một khoảng cách vừa đủ để phân biệt mẹ và con. Nhưng mẹ không như thế. Mẹ hồn nhiên, dễ tính một cách rất… hài, như trong vai diễn.

Vì vậy, tôi thường tìm cách rời xa mẹ một chút. Tôi sợ sẽ có một lần nào đó tôi tỏ ra thiếu kính trọng mẹ và mẹ sẽ biết được. Tôi thường lấy lý do bận học để không cùng đi phố với mẹ. Mùa hè, tôi xin phép mẹ đi du lịch đó đây. Không bao giờ mẹ từ chối tôi điều gì. Nhờ vậy, tôi đã theo Ngọc Bội về quê nội chơi. Được nghe cô Ba bày tỏ quan điểm khi tôi thổ lộ với người những điều mình nghĩ ngợi, trở trăn. Cô cầm lấy tay tôi ôn tồn bảo:

- Sao cháu lại nghĩ thế? Được thủ vai nào đâu quan trọng bằng việc mình “nhập vai” được hay không? Có thể hiện thành công tâm lý, cử chỉ của nhân vật hay không? Nếu đóng vai “mùi” mà cháu không khóc được thì sao? Còn được phân vai “hài”, nếu không có năng khiếu chọc cười liệu có đứng vững chín mười năm như mẹ cháu hay không? Theo cô, vai hài cũng tựa như nước sốt cần phải có để chan vào dĩa sườn lăn bột chiên giòn, như rau ghém trong món gỏi gà. Có nghĩa là một thứ phụ thôi nhưng rất cần thiết. Thiếu nó, vai chánh cũng trở nên đơn điệu. Sao cháu không nghĩ rằng nó tựa như hồ để gắn những viên gạch xây thành những lâu đài nguy nga tráng lệ. Cháu không thấy là nụ cười giúp cho con người khỏe ra, đẹp hẳn lên hay sao? Mẹ cháu là người tạo ra nụ cười, sản sinh những liều thuốc cần thiết cho cuộc sống, làm thư giãn cơ thể mỏi mệt vì công việc. Lẽ ra, cháu phải hãnh diện, tự hào vì mẹ cháu là một danh hài mới đúng.

Tôi bồi hồi xúc động. Sao tôi lại nông cạn đến thế không biết! Cô Ba nói đúng. Trong cuộc sống đầy khó khăn, vất vả, nụ cười sẽ góp phần đẩy lùi buồn chán. Có thể ngắn ngủi nhưng cũng đủ để ta vui sống. Tôi ân hận vô cùng vì đã xem thường mẹ. Những bộ quần áo đẹp tôi mặc, những đôi giày xinh xắn, những chuyến du lịch tốn kém… đều có được từ mẹ. Vậy mà…

Tôi cảm ơn nhỏ Ngọc Bội vô cùng. Nó đã đưa tôi từ chốn phồn hoa về vùng quê yên ả. Tôi được hít thở không khí trong lành, được gặp những người chân thật, đáng quý. Gió đồng nội đã thổi sạch vết ô nhiễm trong tim óc tôi. Cho tôi nhận ra sự cần thiết của mẹ và vai hài mà bà thường thể hiện. Dù rất thích nơi nầy, nhưng sáng mai khi sương khuya còn đọng trên lá cỏ, tôi sẽ quay về thành phố. Tôi sẽ ôm chầm lấy mẹ mà nói rằng:

- Mẹ ơi! Con yêu mẹ lắm! Sau này, con sẽ đi theo con đường mà mẹ đã chọn. Con muốn trở thành một nữ danh hài mẹ ạ!

NGUYỄN THỊ MÂY


*****************************

Kỳ họp tiếp theo của CLB sách Xưa & Nay sẽ diễn ra vào lúc 9:00 ngày 09/9/2017 lúc 9giờ tại nhà thờ Tân Sa Châu, số 387 Lê Văn Sỹ, phường 2, quận Tân Bình.

Bài viết cho bản tin nội bộ xin gửi về:

hamanhdoan69@yahoo.com

hoặc liên hệ với Hà Mạnh Đoàn -  0937 108489

Các bản tin trước có thể xem tại:

www.diendan.songhuong.com.vn

www.giaimakinhphat.com

www.sachvatranh.com

www.newvietart.com

www.vandanviet.net

www.hoamai-aus.org.au

*****************************

MỤC LỤC

Vài chi tiết về kỳ họp ngày 08.7.2017… ............ Vũ Thư Hữu ... 01

Một chuyện vui vui khi đi mua sách, liên quan tới

1 cuốn sách tưởng rẻ mà mắc những vẫn rất đáng chơi ....... Vũ Anh Tuấn ... 05

Có tận thế không? (tập 11) ......... Lm. Joseph Nguyễn Hữu Triết ... 09

Kinh Vô Tự .......................... Tâm Nguyện ... 29

Những mắt xích trong sợi dây xích thời gian ............. Thúy Toàn .... 39

Lan Khai, nghệ sĩ tài năng bị lãng quên? ............. Phạm Vũ ... 46

Nguyễn Khắc Viện, một trí thức Việt Nam chân chính ... Hoàng Kim Thư st. ... 56

Câu chuyện Lâu đài Vạn Hoa ở Đồ Sơn-Hải Phòng ........... Bùi Đẹp st. .... 62

Thi sĩ với giai nhân ........... Lệ Ngọc st. ... 65

Em lại đi (thơ) .......................... Đàm Lan ... 69

Bị đôi (thơ - La Besace) ............... Thanh Châu chuyển ngữ .... 70

Nàng tiên của tôi (thơ) ..................... Lam Trần .... 71

Tiễn bạn (thơ) ....................................... T.P. ... 72

Sầu mưa Sài Gòn (thơ) ............ Phạm Thị Minh-Hưng .... 73

Tháng Bảy… mưa (thơ) ............ Phạm Thị Minh-Hưng .... 74

Một chuyến bay lên (thơ) ................. Nguyên Lê ... 75

Ngẩn ngơ - Ngơ ngẩn (thơ) .......... Ngàn Phương .... 75

Buồn không nguôi (thơ) .............. Ngàn Phương .... 76

Ước mơ (thơ) ...................... Lê Minh Chử .... 77

Suối ơi ! (thơ) .................... Lê Minh Chử .... 77

Nhớ người dưng (thơ) ........................ Hải Âu ... 78

Tương tư (thơ) ................. Hải Âu ... 78

Chiều mưa nhớ (thơ) ................... Hoài Ly .... 79

Đừng trách (thơ) ......................... Hoài Ly .... 80

A Di Đà Phật (thơ) .................... Phùng Chí Tâm ... 81

Lời Chúa (thơ) ............................... Lê Nguyên ... 82

Tình muộn (thơ) ........................ Vũ Thùy Hương .... 82

Ươm mộng (thơ) ............... Vũ Thùy Hương .... 83

Vè chim chóc (vè) ........... Bá Mạnh st. ... 84

Thầy tôi… (thơ) ............. Bs.Doanlinh .... 86

Nỗi niềm (thơ) .................... Lang Nguyên .... 86

Cung đình xưa (thơ) ................ Lang Nguyên .... 87

Đà Lạt (thơ) .................. Quang Bỉnh .... 88

Tham quan (thơ) ............ Quang Bỉnh .... 88

Đà Lạt mộng mơ (thơ) ................ Vũ Mão .... 89

Dreamy Đà Lạt (thơ) ........... Vũ Anh Tuấn dịch .... 90

Người vẽ thời gian .......................... Dương Lêh ... 91

Lagi - miền biển rừng (tt & hết) ................... Hoài Ly .... 99

Tường thuật 70 năm qua tại địa phương tôi ............ Phước Hải .. 107

Trúng số ............................. Lam Trần .. 109

Người tình thứ nhất ........................ Đỗ Thiên Thư st. .. 115

Kỷ niệm 100 năm Đức Mẹ hiện ra tại Fatima

trên Đền thánh Đức Mẹ Trà Kiệu ............... Hà Mạnh Đoàn .. 121

Tản mạn tuổi già .................................. Giáng Ngọc (GĐ) .. 125

Truyền thuyết về Đức Phật:

Bước đầu tiên đi Tầm Đạo .... Thanh Châu sưu tập kể .. 130

Đọc sách giùm bạn: Mục Đồng

Đại Thừa Kim Cang Kinh Luận ....... Hà Mạnh Đoàn . 133

Các loại cười dịch sang tiếng Anh ....... Đào Minh Diệu Xuân st. .. 135

Hạt cơm thiu ................. Đàm Lan .. 137

Con gái nữ danh hài ................. Nguyễn Thị Mây .. 142

|  101 |
 102 |
 103 |
 104 |
 105 |
 106 |
 107 |
 108 |
 109 |
 110 |
 111 |
 112 |
 113 |
 114 |
 115 |
|  116 |
 117 |
 118 |
 119 |
 120 |
 121 |
 122 |
 123 |
 124 |
 125 |
 126 |
 127 |
 128 |
 129 |
 130 |
|  131 |
 132 |
 133 |
 134 |
 135 |
 136 |
 137 |
 138 |
 139 |
 140 |
 141 |
 142 |
 143 |
 144 |
 145 |
|  146 |
 147 |
 148 |
 149 |
 150 |
 
|  101 |
 102 |
 103 |
 104 |
 105 |
|  106 |
 107 |
 108 |
 109 |
 110 |
|  111 |
 112 |
 113 |
 114 |
 115 |
|  116 |
 117 |
 118 |
 119 |
 120 |
|  121 |
 122 |
 123 |
 124 |
 125 |
|  126 |
 127 |
 128 |
 129 |
 130 |
|  131 |
 132 |
 133 |
 134 |
 135 |
|  136 |
 137 |
 138 |
 139 |
 140 |
|  141 |
 142 |
 143 |
 144 |
 145 |
|  146 |
 147 |
 148 |
 149 |
 150 |
 
Netadong.com thiết kế