Hiện có 24 người xem / 2518873 lần xem
         info@sachvatranh.com       84 (0) 1 222 929 703        

VÀI CHI TIẾT VỀ KỲ HỌP NGÀY 12/3/2016

CỦA CÂU LẠC BỘ SÁCH XƯA & NAY

Mở đầu phiên họp, như thường lệ, Dịch giả Vũ Anh Tuấn đã giới thiệu với các thành viên hai cuốn quý thư “một tương đối cổ, một còn rất kim”. Cuốn tương đối cổ là một cuốn bằng Pháp văn về một tác giả hơi đặc biệt là Đức Giám Mục J.B. Tòng của Địa Phận Phát Diệm. Cuốn sách là một cuốn tường thuật của một tờ báo nổi tiếng bằng Pháp văn tờ: “Tương Lai xứ Bắc Kỳ” (L’Avenir du Tonkin) mang tựa đề là “Hai bài Diễn thuyết của Đức Giám Mục J.B. Tòng”. (Deux Conférences de S.E. Mgr J.B. TÒNG). Cuốn sách khổ 15x22, dày 62 trang, được in ở nhà in Ngô Việt Viễn ở Nam Định vào năm 1941 (76 năm trước). Nội dung cuốn sách là hai bài Diễn thuyết của Đức Cha Tòng, bài đầu mang tựa đề là “Đi tìm Chân lý” (En quête de la Vérité), và bài thứ nhì mang tựa đề là “Việc Giảng Phúc Âm ở Đông Dương từ những ngày đầu” (Evangélisation de l’Indochine depuis ses débuts), và cuối cùng là phần phụ lục tựa đề là “Bài Thuyết giáo về Chúa Ki Tô Vua” (Sermon sur le Christ-Roi). Cả hai bài diễn thuyết được viết rất hay, nhất là bài về việc Giảng Phúc Âm ở Đông Dương từ những ngày đầu là cả một kho tài liệu cho những nhà nghiên cứu lịch sử, vì Đức Cha Tòng viết từ việc năm 1550 (Thế kỷ 16) một LM Dòng Dominicain người Bồ Đào Nha là LM Gaspard de la Croix đã tới Cao Miên (Căm Bốt) và Nam Kỳ. Bài thứ nhất được Đức Cha Tòng đọc ngày 1 tháng 12, năm 1937 tại Hà Nội, và bài thứ nhì được Ngài đọc ngày 8 tháng 12, năm 1938 ở Thái Bình nhân dịp lễ Tưởng Niệm 100 năm các Thánh Tử Đạo ở Annam. Cả hai bài Diễn thuyết cung cấp nhiều thông tin quý giá cho những ai nghiên cứu về Đạo Công Giáo ở Việt Nam. Cuốn sách thứ nhì được giới thiệu là một cuốn sách được xuất bản trong kỳ Hội Nghị Quốc Tế Giới thiệu Văn Học Việt Nam ra Nước Ngoài được tổ chức từ ngày 5 tới ngày 10 tháng 1, năm 2010. Cuốn sách mang một cái tựa đề hơi kỳ kỳ là “THƯ MỤC TÁC PHẨM VĂN HỌC VIỆT NAM ĐƯỢC DỊCH RA NƯỚC NGOÀI”. Sở dĩ người viết nói cái tựa đề hơi kỳ kỳ vì, theo thiển ý của người viết, thì tựa đề này thiếu chữ “tiếng” vì đúng ra thì phải là “ĐƯỢC DỊCH RA TIẾNG NƯỚC NGOÀI” thay vì “RA NƯỚC NGOÀI” như trên sách. Người viết có được mời chính thức tham dự Hội Nghị này, nhưng do bận việc gia đình nên đã không đi được, và đã giới thiệu hai thành viên khác của CLB Sách Xưa và Nay đi thay, nên tuy không đi nhưng đã được Ban Tổ Chức gửi tài liệu vào cho. Cuốn Thư Mục dày 422 trang chứa đựng một DANH MỤC (bằng tiếng Việt) CÁC TÁC PHẨM VĂN HỌC VIỆT NAM ĐƯỢC DỊCH RA CÁC THỨ TIẾNG và gồm 21 tiểu mục, mỗi mục là một thứ tiếng, và có tên tác phẩm, tên tác giả, tên dịch giả, nhà xuất bản, năm in vv… Ví dụ như tiếng Anh có tổng cộng 51 tác phẩm, tiếng Ấn Độ có 3 tác phẩm, tiếng Ba Lan có 6 tác phẩm vv… Tiếng Anh và tiếng Pháp có số lượng tác phẩm được dịch bằng nhau là 51 tác phẩm cho mỗi thứ tiếng. Còn các thứ tiếng còn lại thì số lượng tác phẩm dịch thuật ít hơn.

Một danh mục thứ nhì của sách là DANH MỤC SÁCH VĂN HỌC VIỆT NAM DỊCH RA TIẾNG NƯỚC NGOÀI CÓ TẠI THƯ VIỆN QUỐC GIA VIỆT NAM gồm tổng cộng 119 TÁC PHẨM.

Danh mục thứ ba của sách là DANH MỤC SÁCH VĂN HỌC NƯỚC NGOÀI DỊCH RA TIẾNG VIỆT CÓ TẠI THƯ VIỆN QUỐC GIA VIỆT NAM gồm tổng cộng 653 tác phẩm.

Danh mục thứ tư và là danh mục chót là DANH MỤC SÁCH NƯỚC NGOÀI DỊCH RA TIẾNG VIỆT CÓ TẠI THƯ VIỆN KHOA HỌC TỔNG HỢP THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH gồm tổng cộng 130 tác phẩm.

Cuối cùng là phần Phụ Lục từ trang 182 tới trang 422 mang tựa đề là VĂN HỌC VIỆT NAM QUA CON MẮT NGƯỜI NƯỚC NGOÀI gồm 19 bài viết của các tác giả của các nước viết.

Cuốn sách là một kho tư liệu thích thú cho những người yêu sách như người viết, đồng thời trong phần 51 tác phẩm dịch ra Anh ngữ được đưa ra trong danh mục và được trưng bày sau đó, người viết có được 4 tác phẩm, nên cũng thấy vui vui.

Sau phần giới thiệu sách của Dịch giả Vũ Anh Tuấn, anh Nhựt Thanh đã lên nói về Tết và các tiết mục như Cúng Giao Thừa, Đưa Ông Táo vv… Sau anh Nhựt Thanh, anh Dương Lêh lên nói về Thơ Yết hậu và nói về Câu Hò Miền Nam trong tác phẩm Hương Rừng Cà Mau của cố nhà văn Sơn Nam. Tiếp lời anh Dương Lêh, anh Bá Mạnh lên hát một bài của cố tác giả Hồ Kiểng. Sau anh Bá Mạnh, anh Thanh Châu, với “tiếng hát át tiếng bom” đã lên hát tặng các thành viên bài Huế Sài gòn Hà nội của Trịnh Công Sơn. Anh Thanh Châu hát xong, anh Võ Kim Cương lên nói về một cuốn sách viết về Triều Nguyễn mà anh mới có. Tiếp lời anh Võ Kim Cương, bà Tâm Nguyện lên nói về đề tài Phật tại Đường, ý muốn nói là Cha Mẹ ở trong nhà và con cháu thay vì lo làm việc tông đồ và cúng bái, nên lo ngay cho chính cha mẹ mình trước. Kế đó bà giới thiệu một lương y chữa ung thư rất giỏi tại Bạc Liêu, và đưa tặng các thành viên bản sao một bài viết về lương y đó để các thành viên tùy nghi liên hệ nếu cần. Bà Tâm Nguyện nói xong, Bs Doan Linh lên ngâm tặng các thành viên bài thơ “Vì yêu người làm thơ”. Sau Bs Doan Linh, chị Thùy Hương lên hát tặng các thành viên bài “Hương Giang thương nhớ”. Chị Thùy Hương hát xong, thành viên Kim Sơn lên đưa đề nghị về việc hạn định thời gian nói chuyện của mỗi thành viên, để những người khác cũng có cơ hội phát biểu.

Dịch giả Vũ Anh Tuấn thông báo, trong kỳ họp vào tháng 5, để kỷ niệm 10 năm thành lập, CLB Sách Xưa và Nay sẽ có một cuộc “Triển lãm các tác phẩm của các thành viên” ngay trong ngày họp, và mời tất cả các thành viên tham dự với mọi dạng tác phẩm, đã in, cũng như còn ở dạng bản thảo.

Buổi họp kết thúc vào lúc 11g15 cùng ngày, và các thành viên vui vẻ ra về, hẹn sẽ gặp lại nhau trong kỳ họp tới…

VŨ THƯ HỮU


VÀI CHI TIẾT VỀ MỘT BỘ BÁO CỔ

BẰNG PHÁP VĂN RẤT HAY

CỦA NHỮNG NĂM 30 THẾ KỶ TRƯỚC

Cách đây hai hôm, một bà bạn, là chị một nhà chơi sách rất nổi tiếng thời trước năm 75, mang lại định nhường cho tôi một bộ báo tương đối cổ bằng Pháp văn của ông ta để lại. Vì đã “hết hai mươi tuổi lần thứ tư”, tôi từ chối không chịu mua thêm gì nữa, trừ những thứ tôi thật ưa thích. Bà ta năn nỉ nhờ tôi xem có ai thích thì nhường lại giúp. Tôi nhận lời giúp bà và giữ cuốn sách lại. Trong hai ngày có bộ báo trong tay, tôi đã để thời giờ lướt qua bộ báo và thấy nó cực hay, nên muốn giới thiệu qua bộ quý thư đó với những ai đang nghiên cứu về Việt Nam học trong những năm ta bị Pháp đô hộ. Bộ báo gồm 18 số liên tục từ số 1 tới số 18. Theo lời người có thì bộ báo chỉ ra được có 18 số, nên tạm coi là đủ. Tuy nhiên về việc này thì chẳng có gì chứng minh được là đúng hay sai. Bộ báo là một loại học báo mang tên là Nguyệt san Đông Dương Học Đường (L’Ecole Indochinoise - Revue mensuelle) được in năm 1934 (82 năm trước). Bộ báo được viết bằng Pháp văn, và chỉ có một số hình vẽ quảng cáo, còn thì là toàn bằng chữ không có hình ảnh chi cả. Mỗi số dày 32 trang và như vậy cả bộ dày độ 580 trang, và trong khi đọc lướt qua, người viết mới chợt thấy bộ báo hay quá, và có nhiều bài viết có ích về mặt nghiên cứu quá. Thế là người viết bỏ ra thêm 6 tiếng đồng hồ để đọc kỹ hơn và xin giới thiệu sau đây những bài báo đáng ghi nhớ của bộ báo tương đối cổ này.

Bộ báo có những bài viết rất quý hiếm như bài viết về “Nghề In ấn ở Đông Dương từ những ngày đầu” – Bài “Những Lời Khuyên về Ngành Sư Phạm” – Tiểu sử và sự nghiệp của nhà văn Pháp thế kỷ 17 Corneille – Tiểu sử và sự nghiệp của nhà văn Pháp thế kỷ 17 Racine – Bài thơ của tác giả Pháp thời thuộc địa J. Riquebourg viết về Tết – Bài viết về “Việc thăm hỏi trong những ngày Tết” của cụ Nguyễn Phan Long viết bằng tiếng Pháp, một thứ tiếng Pháp rất chuẩn, rất hay, khiến Tây thật phải khen – Bài viết về Tết của nữ tác giả thuộc địa Pháp ký tên là Bà Vassal – Bài viết Hà Nội của người b ả n xứ của tác giả thuộc địa H. Simard – Bài viết về Huế của Toàn Quyền P. Pasquier – Bài viết về Huế của tác giả thuộc địa Jean d’Esme – Bài viết về Hải Phòng của tác giả thuộc địa nổi tiếng Maspéro – Bài viết về Chợ Lớn của Bác sĩ Cognacq – Bài viết về “Nấu Cơm” của tác giả thuộc địa Ch. Gosselin vv…

Trên đây chỉ là một số bài viết của 7, 8 số đầu, nếu tìm trong tất cả 18 số thì chắc còn nhiểu bài viết hấp dẫn khác. Một trong những điểm đáng ghi nhớ là “không hiểu tại sao mà tất cả các tác giả Pháp viết về Đông Dương thời thuộc địa đều bị bỏ ra khỏi tất cả các loại tự điển văn học đương đại của Pháp, kể cả những tên tuổi cây đa cây đề như Maspéro, Jean d’Esme, Jean Marquet, L.Cadière, R.Crayssac, Henri Cordier, Paul Doumer, A.Landes, R.Cabaton, Paul Boudet, René Bourgeois, Barquissau, E.Gaspardone, Coedès, Abel des Michels, vv…

Ngoài ra những tác phẩm của những người Việt viết bằng Pháp văn như cụ Nguyễn Phan Long, ông Nguyễn Tiến Lãng, Ông Cung Giụ Nguyên vv… đều trở nên rất quý hiếm. Thế mà rải rác trong bộ báo này lại có những bài viết bằng Pháp văn của các tác giả đó.

Cuối cùng, sau khi đã hạ bớt giá, người viết cũng đã tìm được cho bộ báo quý một nơi cư ngụ an toàn tại một trong những tủ sách cổ lớn nhất Miền Nam, thậm và chí nhất Việt Nam bây giờ của một người bạn, vì ít ra thì người bạn này cũng biết sử dụng bộ báo quý và đọc và tham khảo, để lại viết ra nhiều bài viết bổ ích khác, và như vậy, bộ báo cũng được sống đời sống bình thường của nó…

Trích Hồi Ký 60 năm chơi sách, chương VI

VŨ ANH TUẤN

Đây là hình hộp sữa thông dụng 82 năm trước, y như sữa con bò cười bây giờ. Điều đáng chú ý là địa chỉ của hàng bán ở trên đường Mac Mahon (tên một Thống chế Pháp) được người Việt mình âm thành “Đường Bạc Má Hồng” nay là đoạn đường ra phi trường Tân Sơn Nhất mang tên Nam Kỳ Khởi Nghĩa và Nguyễn Văn Trỗi.

THÔNG ĐIỆP LAUDATO SI’

CỦA ĐỨC GIÁO HOÀNG PHANXICÔ VỀ

“CHĂM SÓC NGÔI NHÀ CHUNG”

Bản dịch của L inh mục Aug. Nguyễn Văn Trinh

(Tiếp theo số 11 8 )

II. VẤN ĐỀ “NƯỚC”

27. Những dấu chứng khác cho hoàn cảnh hiện tại nằm trong liên hệ với việc phung phí tài nguyên tự nhiên. Chúng ta biết rõ rằng, không thể nào giữ được mức độ hiện hành của việc tiêu thụ nơi các nước đã phát triển và các tầng lớp giàu trong xã hội, nơi thói quen xài phí và thải đi, đạt tới mức chưa từng có. Sự bóc lột hành tinh đã vượt quá mức, đến độ chúng ta không thể giải quyết được vấn đề nghèo đói.

28. Nước sạch là một vấn đề mang ý nghĩa hàng đầu, vì đó là điều tất yếu cho đời sống con người và gìn giữ hệ sinh thái của trái đất và nước. Những nguồn nước ngọt cần cho lãnh vực sức khỏe, đất đai nông nghiệp và kỹ nghệ, Trong một thời gian dài, việc dự trữ nước tương đối ổn định, hiện tại rất nhiều nơi phải đặt vấn đề vì vượt quá sự dự trữ, đưa đến những hậu quả nặng nề trong thời gian ngắn cũng như dài hạn. Nhiều thành phố lớn, cần đến những khối nước lớn để sử dụng, cũng phải đau khổ vì sự cạn kiệt nguồn nước, không đủ xài trong thời gian khủng hoảng. Việc thiếu nước diễn ra đặc biệt tại Phi Châu, nơi phần đông dân số không thể tiếp cận với nước uống hay phải chịu đựng những thời gian hạn hán, gây khó khăn cho việc sản xuất lương thực. Trong nhiều quốc gia, có nước dư thừa nhưng đồng thời lại có những quốc gia thiếu nước trầm trọng.

29. Một vấn đề đặc biệt trầm trọng, đó là hằng ngày có quá nhiều người chết, chính là do phẩm chất nước mà dân nghèo sử dụng. Các bệnh tật từ nước là do các vi khuẩn và những chất hóa học gây nên. Tiêu chảy và bệnh dịch tả liên kết với công tác vệ sinh không đầy đủ và tiêu thụ nước không được sạch, đó là động cơ rõ ràng đưa đến đau khổ của các em bé, phải bị chết sớm. Các mạch nước ngầm ở nhiều nơi bị ô nhiễm do các hoạt động tạo cặn bã do nông nghiệp và công nghiệp, nhất là trong những vùng đất không có luật lệ và kiểm soát đủ. Chúng ta không chỉ nghĩ đến rác thải của các xí nghiệp. Các thứ thuốc giặt và sản phẩm hóa chất mà dân chúng sử dụng nhiều nơi trên thế giới, trút đổ vào các dòng sông, ao hồ và biển cả.

30. Trong khi phẩm chất nước được sử dụng ngày càng thêm dơ bẩn, nhiều nơi có xu hướng tư hữu hóa nguồn nước có hạn này; đến độ nước trở thành nguồn hàng hóa và phải chịu luật thị trường. Trong thực tế, tiếp cận nước uống được bảo đảm là quyền nền tảng và phổ quát của con người, vì nó giúp cho con người được tồn tại và đó là điều tất yếu cho việc thực hiện quyền con người. Thế giới này mang một tội lớn lao đối với người nghèo vì không cho họ tiếp cận nguồn nước uống, điều này có nghĩa là họ bị cướp đi quyền sống, đó là quyền nền tảng cho phẩm giá bất biến của họ. Lỗi lầm này phần lớn là do việc sử dụng tài chính quá ít để chăm sóc đám dân nghèo khổ nhất đủ nước uống và vệ sinh. Thêm nữa, việc phung phí nước không những trong các nước công nghiệp, nhưng ngay trong các quốc gia đang phát triển, có được nguồn dự trữ. Điều này cho thấy, vấn đề nước uống một phần cũng là do vấn đề giáo dục và vấn đề văn hóa, vì thiếu ý thức sự trầm trọng trong thái độ liên hệ bất bình đẳng.

31. Việc thiếu nước trầm trọng gây nên việc gia tăng giá các lương thực và của các sản phẩm phải gắn liền với việc sử dụng nước. Một vài tham luận đã cảnh cáo khả năng thiếu nước trầm trọng trong vài thập niên tới, nếu như không cấp bách hành động. Gánh nặng môi trường có thể gây thiệt hại cho hàng tỉ người, chúng ta có thể thấy trước việc kiểm soát nước của những công xưởng lớn sẽ trở thành nguồn xung khắc chính yếu trong thế kỷ này[23].

III. VIỆC MẤT DẦN SỰ ĐA DẠNG SINH HỌC

32. Những nguồn tài nguyên của trái đất là đối tượng khai thác dựa theo quan niệm của công nghệ và hoạt động thương mại và sản xuất, đưa đến kết quả ngay trước mắt. Việc mất mát rừng rậm và thảo mộc đồng thời đưa đến việc đánh mất các giống loài, trong tương lai có thể là những nguồn quan trọng nhất, không những để nuôi dưỡng, nhưng còn để chữa lành bệnh tật và còn cho nhiều phục vụ đa dạng khác. Nhiều giống loài chứa các gen, là những nguồn tài nguyên cho các phận vụ chủ yếu, có thể giải quyết nhu cầu của nhân loại trong tương lai hay giúp giải quyết một vấn đề môi trường nào đó.

33. Người ta không suy nghĩ đủ về nhiều giống loại được xem như “tài nguyên” hữu ích và quên rằng chúng chứa đựng những giá trị đặc thù. Mỗi năm mất đi hàng nghìn loại cây cối và thú vật, mà chúng ta không còn khả năng nhận ra, cả con cái của chúng ta cũng chưa thấy được, hoàn toàn mất đi vĩnh viễn. Phần đông chúng chết là do hoạt động một cách nào đó của con người. Vì lỗi lầm của chúng ta, mà hàng ngàn giống loài không còn tôn vinh sự hiện hữu của Thiên Chúa, cũng không trao lại cho chúng ta sứ điệp của chúng. Chúng ta không có quyền làm như thế.

34. Có lẽ, chúng ta bất an khi cảm nghiệm về cái chết của loài động vật có vú hay của một loài chim, chỉ vì chúng thường xuất hiện trước mắt chúng ta. Nhưng, các cây nấm, tảo, các con sâu, côn trùng, rắn rít và biết bao nhiêu loại vi sinh lại rất cần thiết cho hoạt động tốt của hệ thống sinh thái. Nhiều giống loài nhỏ bé, thường không được con người chú ý, lại giữ một phận vụ cơ bản để tạo sự cân bằng một vị trí. Thật sự, con người phải can thiệp khi hệ thống địa lý bước vào một tình trạng nguy cấp, nhưng ngày hôm nay, mức độ can thiệp của con người, trong một thực tại đa dạng như thiên nhiên có một mức độ, việc can thiệp của con người lại đem đến nhiều tai họa, đến độ hoạt động của con người ở mọi nơi luôn kèm theo những nguy hiểm. Thường xuất hiện những vòng xấu lẩn quẩn khi có sự can thiệp của con người để giải quyết một khó khăn nào đó, nhưng rồi hoàn cảnh tiếp tục tệ hại hơn. Tỉ như nhiều loại chim và côn trùng đã chết đi do các phân bón nông nghiệp được công nghệ sản xuất và sử dụng trên đồng ruộng, thật thì chúng hữu ích cho đồng ruộng và việc biến mất của chúng lại bị thay thế bằng một sự can thiệp khác của kỹ thuật, có thể lại đưa đến các hậu quả tai hại khác. Cũng thật đáng ca tụng và kinh ngạc trước cố gắng của các nhà khoa học và kỹ thuật, cố tìm cách giải quyết các vấn đề do con người làm ra. Nhưng nếu nhìn vào thế giới, chúng ta phải xác nhận, mức độ can thiệp của con người thường là để phục vụ cho tài chính và tiêu thụ, đã làm cho thế giới chúng ta đang sống bớt phong phú và mất đi vẻ đẹp, luôn bị hạn hẹp lại và xáo trộn, trong khi sự phát triển kỹ thuật và mức tiêu thụ tiếp tục vượt qua bất cứ một ranh giới nào. Xem ra, khi chúng ta cố gắng tạo một vẻ đẹp không thể thay thế được, thì lại tạo một thế giới khác hẳn do chính tay của con người.

35. Khi phân tích một bản khảo cứu về ảnh hưởng của môi trường, người ta thường chú ý đến hiệu quả của đất đai, nước và không khí, nhưng lại không có một nghiên cứu cẩn thận nào về hiệu quả của sự đa dạng sinh học, tỉ như việc biến mất vài loại hay nhóm thú vật hay cây cối, gần như việc biến mất này không quan trọng. Xa lộ, các văn hóa mới, những hàng rào sắt, rào chắn và những việc xây dựng khác dần dần chiếm hữu không gian sống và đôi khi cũng ngăn cản, làm cho bầy thú không còn nơi để di chuyển hay di trú, như thế sẽ đưa đến nguy cơ: các thú vật này sẽ bị tiêu diệt. Cũng có sự tương đối - như việc tạo hành lang sinh học - có thể giảm hậu quả việc xây cất này, cũng chú ý đến và lo lắng trong một số quốc gia. Khi gia tăng một số loại vì nhu cầu thị trường, người ta đã không chú ý đến hình thức tăng trưởng của chúng, để giảm bớt sự dư thừa quá mức và bỏ qua việc mất thăng bằng trong hệ thống sinh học.

36. Việc chăm sóc hệ thống sinh học phải có một cái nhìn vượt trên điều thấy ngay trước mắt, nếu người ta chỉ tìm năng suất kinh tế nhanh và dễ dàng, thì không ai thực sự chú tâm đến việc bảo vệ. Giá phải trả cho những tai hại do dửng dưng ích kỷ gây nên, còn cao hơn lợi ích kinh tế có thể đạt được Trong trường hợp biến mất hay những tai họa nặng nề cho vài loại, chúng ta sẽ nói về giá trị vượt trên cả sự tính toán của chúng ta. Như thế chúng ta sẽ trở thành những chứng nhân thinh lặng cho sự bất công nặng nề, khi một số người cho rằng họ sẽ được lợi lộc quan trọng khi phải trả cho phần còn lại của nhân loại, hiện tại cũng như tương lai, những phí tổn quá cao cho việc tàn phá môi trường.

37. Nhiều quốc gia đã có những bước tiến trong việc bảo vệ có hiệu quả ở nhiều nơi và nhiều vùng - trên đất và cả nơi đại dương - nơi cấm mọi sự can thiệp của con người, thay đổi diện mạo của chúng hay làm sai lệch hình dạng nguyên thủy của chúng. Trong việc bảo vệ đa dạng sinh học, các nhà chuyên môn nhấn mạnh đến sự cần thiết, phải chú tâm đến những vùng có nhiều giống loài quí hiếm để bảo vệ. Nhiều nơi cần phải chăm sóc đặc biệt vì ý nghĩa to lớn cho hệ thống sinh thái toàn cầu hay vì có những dự trữ nước quan trọng và bảo đảm cho những hình thức khác của sự sống.

38. Chúng ta nêu một tỉ dụ về sự đa dạng của buồng phổi hành tinh, được trình bày bằng vùng sông Amazon và vịnh Kongo, hay những vùng có đầy nước và các băng hà. Chúng ta biết ý nghĩa của những địa điểm này cho toàn thể hành tinh và cho tương lai nhân loại. Hệ thống sinh thái của các rừng nguyên sinh ở nhiệt đới có sự đa dạng sinh thái lớn lao, mà gần như con người không thể biết hết được, dù vậy khi các rừng rậm này bị cháy rụi hay bị tàn phá để phát triển nông nghiệp, thì trong vài năm không biết bao nhiêu loài sẽ bị biến mất, khi các vùng này biến thành những sa mạc khô cằn. Thêm nữa, người ta cũng biết, khi nói về những vùng này, bắt buộc phải đưa đến một hành động quân bình thật tế nhị, vì không quên rằng những lợi lộc tài chính khổng lồ cho toàn cầu, với luận điệu lo lắng cho các nơi này, có thể đi ngược lại chủ quyền của các quốc gia đó. Thực sự cũng đã có ý tưởng “toàn cầu hóa vùng Amazone: những ý tưởng như thế duy chỉ có lợi về mặt kinh tế cho những các cơ quan siêu quốc gia”[24]. Phải đánh giá cao trách nhiệm của các cơ quan quốc tế và các tổ chức xã hội dân sự, cảm thông với dân chúng và hoạt động có tính chất phê phán - khi sử dụng cả áp lực hợp phán - để mỗi chính quyền mang trách nhiệm không thể chuy ể n nhượng để bảo vệ môi trường cũng như các tài nguyên thiên nhiên của quốc gia mình, mà không bán cho những cơ quan chỉ tìm lợi lộc bất chính địa phương hay quốc tế.

39. Việc thay thế những cánh rừng nguyên sinh bằng những vùng trồng cây khác, thường chỉ là độc canh, sẽ không trở thành đối tượng cho việc phân tích thích đáng. Thực vậy, việc thay thế này có thể gây ảnh hưởng trầm trọng cho sự đa dạng sinh học, thường không đón nhận loại cây mới được trồng. Ngay cả những vùng ẩm ướt, bị biến thành vùng đất canh tác, cũng mất đi sự đa dạng sinh học mà chúng đã chứa chất. Trong vài vùng ven biển, việc đánh mất hệ thống sinh thái do các vùng đầm sú gây nhiều lo lắng.

40. Các đại dương không những chứa đựng một phần lớn lượng nước của hành tinh, nhưng có cả một phần lớn sinh vật thật đa dạng, trong số đó chúng ta chưa biết được nhiều và chúng đang bị hăm dọa vì nhiều lý do. Mặt khác, cuộc sống trên sông, ao hồ, biển cả và đại dương, chu cấp lương thực cho phần lớn dân số trên trái đất, sẽ bị tai họa do việc đánh bắt cá không bị kiểm soát, tạo nên việc sa sút nhiều giống loài. Thêm nữa người ta đang phát triển nhiều cách đánh bắt cá có chọn lọc, tàn phá một phần lớn giống loài bị bắt. Đặc biệt, các sinh vật biển gặp nguy hiểm mà chúng ta không suy nghĩ đến, như một số sinh vật nổi được biết đến, tạo nên những thành phần quan trọng cho chuỗi lương thực biển khơi và thuộc về những loài phục vụ cho lương thực cho chúng ta.

41. Khi chúng ta khảo sát các đại dương thuộc vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới, chúng ta sẽ gặp các tảng san hô, được xem như các rừng nguyên sinh trên trái đất, vì chúng là nơi có hằng triệu loài trú ngụ, trong đó có cá, cua, hào, sứa, tảo và nhiều loại khác. Nhiều rừng san hô ngày hôm nay bị khô cằn hay đang nằm trong tình trạng bị tiêu diệt dần: “Ai đã biến thế giới dưới lòng đại đương trở thành nghĩa địa dưới nước không có sự sống, không còn màu sắc gì cả?”[25]. Hiện tượng này phần lớn là do việc làm ô nhiễm nơi đại dương như hiện tượng phá rừng, độc canh trong nông nghiệp, rác thải do công nghiệp và những phương pháp hủy hoại của việc đánh bắt cá khi sử dụng Cyanure và thuốc nổ. Hiện tượng này càng bị làm gia tăng do nhiệt độ trong đại dương càng tăng cao. Những điều này giúp chúng ta nhận thức, tất cả việc tấn công vào thiên nhiên cũng sẽ đưa đến hậu quả, ngay lúc đầu chúng ta không thấy được, nhưng những hình thức sử dụng tài nguyên sẽ đưa đến cái giá phải trả là sự tàn phá, cuối cùng sẽ đi đến đáy của đại dương.

42. Cần phải đầu tư nhiều để có thể hiểu việc gìn giữ hệ thống sinh thái tốt đẹp hơn và phân tích hiệu quả những thay đổi quan trọng của môi trường. Vì tất cả tạo vật đều liên kết với nhau, cần phải đánh giá chúng với tình yêu và thán phục, và tất cả như những hữu thể mà chúng ta đều cần đến. Mỗi mảnh đất đều có một tránh nhiệm phải chăm sóc cho gia đình này. Vậy cần phải lo lắng để gìn giữ các giống loài mà chúng đang cho trú ngụ, phải triển khai một chương trình và chiến thuật để chăm sóc đặc biệt các giống loài, đang trong tình trạng bị hủy hoại.

(còn tiếp)

(Đã được Lm. Aug. Nguyễn Văn Trinh cho phép phổ biến)

CON TRÂU

của NGÀI QUY SƠN

Ngài Quy Sơn (771-853) từng học với nhiều Thiền Sư nổi tiếng. Năm 15 tuổi, Ngài học Kinh Luận Tiểu Thừa và Đại Thừa. Đầu tiên đến núi Thiên Thai tham học với hai Đại Sư Vô Trước và Thế Thân. Ngài cũng có gặp hai dị nhân trong làng Thiền là Hàn Sơn và Thập Đắc. Ba năm sau lại đến học với Tổ Bách Trượng và ở lại hầu Tổ suốt 20 năm. Một lần, Tổ Bách Trượng cử nguời đi khai sơn. Tổ đưa ra một chiếc bình, bảo “không được gọi chiếc bình là chiếc bình, ai đáp đúng sẽ được phái đi”. Có một vị Tăng nói: “không thể gọi là khúc cây”. Ngài Quy Sơn đá chiếc bình rồi bỏ đi. Vậy mà Ngài lại được phải đi.

Việc Tổ chọn một người đá chiếc bình cho đi khai sơn cũng không có gì quá khó hiểu. Khi đưa ra vấn đề, Tổ đã giăng sẵn một cái bẫy. Người biết rằng “không thể gọi chiếc bình là chiếc bình”, vẫn cố gắng tìm một tên khác để gọi, chứng tỏ cái tâm ham làm thầy đã lộ rõ. Ngược lại, hành động đá chiếc bình của Ngài Quy Sơn chứng tỏ Ngài chẳng cần chức thủ tòa, chính vì vậy mà được phái đi. Vì rõ ràng bao năm người tu vào núi để học gì, chẳng phải là để học bỏ Tham, Sân, Si là những thứ luôn gắn liền với phàm phu từ bao đời hay sao? Người còn Tham Danh chắc chắn cái Tham Lợi cũng vẫn còn đó. Nếu cho làm trụ trì hay làm chủ cả một hòn núi chẳng phải là cái họa tiềm ẩn cho Đạo hay sao?

Sinh thời Ngài Quy Sơn có một câu nói nổi tiếng mà giới Tu Thiền nào cũng đều biết, đó là: “Sau khi lão tăng trăm tuổi, đến dưới núi làm con trâu. Hông bên trái viết năm chữ: “Quy Sơn Tăng Linh Hựu”.

Đa phần người luận bàn đều cho rằng Ngài Quy Sơn biết trước kiếp tới. Riêng tôi thắc mắc: Tại sao một người tu hành cả một đời, làm tới chức Thủ Tòa, đào tạo biết bao nhiêu bậc tu hành, chẳng lẽ không có công đức hay phước đức? Ít ra kiếp sau cũng phải làm Thánh hay thành Thần Tiên, hưởng phước an nhàn, tại sao lại sinh vào kiếp Trâu là loài khổ sở nhất trong đám thú nuôi mà con người khi mang nợ sâu dày với ai thì hẹn “kiếp sau làm thân trâu, ngựa để báo đền” chứng tỏ ai cũng biết những gian khổ mà hai con vật này phải gánh chịu.

Thật vậy, trong rất nhiều chủng loại gia súc mà con người thuần hóa để giúp việc hay làm thực phẩm như: Chó, mèo, heo, gà, trâu, bò, lừa, ngựa thì Trâu và Ngựa là hai loài thú khổ nhất. Những con kia thì chẳng những không bị hành hạ, lại không phải làm gì mà còn được cho ăn, vỗ béo, khi lớn lên mới giết thịt. Riêng Trâu và Ngựa thì trước khi già, bị giết thịt thì còn phải vắt kiệt sức để phục vụ cho chủ.

Ngựa thì bị đóng móng đau đớn, bắt mang hai miếng che hai bên mắt để chỉ được nhìn thẳng phía trước và bị bắt kéo xe để chở người hoặc hàng hóa. Ngày xưa, khi chưa có tàu bay, thiết giáp thì con ngựa là phương tiện duy nhất để vận tải vũ khí, đạn dược, tiếp tế, để chở tướng, quân xông ra chiến trường. Lúc nào cũng bị thúc vô hông hay bị những lằn roi đau điếng để phải xông lên giữa lằn tên, mũi đạn. Nếu may mắn thoát chết vì tên bay, đạn lạc thì khi chủ tướng qua đời cũng “da ngựa bọc thây”! Đúng là sống khổ, chết càng khổ!

Con trâu thì bị xỏ dây vô mũi để bị đau mà không dám chống cự khi bị dắt đi. Bị tròng cái ách vô cổ để bắt lội sình cày, bừa nặng nhọc. Tới mùa thu hoạch thì chở lúa về nhà. Thời chưa có máy gặt, máy tuốt lúa còn phải đi vòng quanh sân phơi để đạp cho hột lúa rớt ra khỏi bông! Vậy mà đâu có bao giờ được khen thưởng, trái lại, lúc nào cũng bị quất bằng những cây roi đau điếng khi bùn sình lầy lội quá, kéo cày chậm chạp! Làm lụng cực nhọc mà chẳng được ăn gì ngoài mớ cỏ tươi hay rơm khô! Đã vậy chỉ có một hàm có răng, nên việc nhai cũng có ngon lành gì! Lúc được cho thì ăn vội ăn vàng, khi nào thảnh thơi, không có làm việc thì mới ợ lên, nhai lại! Chưa hết, khi chết tấm thân còn bị tận dụng không sót thứ nào. Thịt thì nấu, nướng, chiên xào, ăn không hết thì làm khô để ăn dần! Da thì bịt trống. Sừng thì làm lược, tiện con cờ. Xương cũng bị làm sạch rồi chế đồ thủ công mỹ nghệ! Quả thật là vô cùng khổ sở khi sống cũng như lúc chết, không có loài thú nào khổ hơn con trâu nữa! Vậy thì sao người cả đời tu hành, trai giới như Ngài Quy Sơn lại bảo rằng khi trăm tuổi Ngài sẽ trở thành con trâu dưới núi?

Nhưng thắc mắc đó được giải tỏa khi tôi đọc Quy Sơn Cảnh Sách. Thật vậy, ai có hiểu Lý Nhân Quả thì cũng thấy trong đó toàn những lời cảnh báo cho những bậc Xuất Gia tu hành mà bất cứ ai nhập môn cũng đều phải học. Hẳn là Ngài Quy Sơn cũng đã tận mắt chứng kiến lối sống của những kẻ lợi dụng chùa chiền, vì đâu phải đâu ai Xuất Gia cũng đều ý thức đúng về con đường tu hành? Trước hết phải kể là hầu hết đều vì mến mộ Phật qua những gì được nghe thuyết pháp, nên Xuất Gia đầu Phật là nghĩ rằng hy sinh cuộc đời để phụng sự cho Phật. Nhưng Phật thì đã nhập diệt đã mấy ngàn năm thì phụng sự cách nào? Cuối cùng chỉ là phụng sự cho việc Chùa, kêu gọi bá tánh quy y cho đông trong khi có nhiều vị bản thân còn chưa đọc kỹ một bộ Kinh cho thấu đáo. Trong khi bá tánh phải cung phụng để các vị tu hành, để rồi có đắc quả đi nữa thì chỉ bản thân người tu được nhờ.

Ai cũng biết câu: “Ông tu, ông đắc, bà tu, bà đắc” thì việc hưởng dụng của bá tánh tránh đâu khỏi trả? Đã vậy, con số thật sự mến mộ Phật chưa hẳn đã nhiều bằng số kẻ thấy vô Chùa chỉ cần hy sinh đầu tóc, khoác lên người chiếc áo Cà sa là được ăn trên ngồi trước, khỏi phải vất vả lao động để kiếm sống, mọi thứ đã có người lo, lại nhân danh Phật mà được điềm nhiên ở nhà cao, cửa rộng, cơ ngơi hoành tráng mà những người làm ăn chân chính, dốc sức một đời, sở học mênh mông cũng không tạo nổi! Khi cái Tâm tu hành đã không có thì những người đó sẽ xem Chùa là nơi để có cuộc sống nhàn hạ, nên tìm mọi cách quảng bá về Phật, về sự cứu độ của Ngài để bá tánh càng ngưỡng mộ, càng đến Chùa thì lộc cũng theo đó mà đến. Chính vì vậy mà càng ngày chúng ta càng thấy những thông tin về cảnh trái tai, gai mắt diễn ra nơi cửa chùa do chính những kẻ mang hình tướng đệ tử của Phật gây ra, mà nhiều người chỉ biết lắc đầu ngao ngán cho rằng “thời mạt pháp”!

Tu hành theo Phật đâu chỉ là ăn mặc, đi, đứng, ngồi, nằm giống như Phật, mà chủ yếu là phải biết Phật đã Tu như thế nào để theo đó mà làm. Theo Ngài Quy Sơn, người tu đã bỏ cha mẹ, hàng xóm, láng giềng, bỏ hết mọi nghĩa vụ đối với gia đình, với đất nước thì lẽ ra phải công phu tu niệm, xa hẳn trần tục để cầu mong được giải thoát.

“Đối với cha mẹ thì không cung phụng ngọt ngon. Đối với thân quyến cố nhiên rời bỏ, xa cách. Đối với đất nước không có khả năng bình trị. Đối với gia tộc bỏ hết nghĩa vụ thừa kế. Xa làng, bỏ xóm, bẩm thụ Phật Pháp với bổn sư. Như vậy lẽ đáng trong thì siêng về công phu khắc niệm, ngoài thì bủa ra đức tính hòa bình, xa hẳn trần tục, kỳ vọng giải thoát”.

Thế nhưng một số người đã làm ngược lại:

“Sao lại mới bước lên phẩm bậc của giới pháp mà đã tự thị ta đây là vị Tỳ Kheo. Dùng của thí chủ, ăn của thuờng trụ, không biết xét kỹ vì sao có của ấy, lại bảo rằng lẽ tự nhiên là phải hiến cúng. Ăn rồi xúm đầu huyên náo chỉ nói toàn chuyện tạp của thế gian, thừa dịp vui thích, không biết chính cái vui ấy là nguyên nhân của sự thống khổ. Bao kiếp xa xưa đem thân theo trần cảnh, chưa từng phản tỉnh, thì giờ mất mát, năm tháng lần lữa, hưởng dụng càng nhiều, thí lợi càng lắm, hết năm này qua năm khác mà không nghĩ đến chuyện rời bỏ. Chất chứa càng nhiều chỉ bảo trì xác huyễn mà thôi…”.

Vừa bước vào cửa Chùa, mặc pháp phục đã thấy mình là Tỳ Kheo, là đệ tử của Phật. Tự cho phép mình hưởng dụng của thí chủ, cho là đương nhiên như thế. Rõ là chưa phân tội, phước. Đã vậy còn không giữ tròn Giới Luật, không chịu học hỏi Giáo Lý Thượng Thừa. Giáo Lý còn chưa hiểu thì Diệu Pháp làm sao mà khế ngộ để có thể truyền đạt cho bá tánh?

“Đức Phật trước tiên thiết chế Giới Luật là để bắt đầu mở mang cho sự ngu muội. Phép tắc uy nghi sạch như băng tuyết. Đình chỉ là giữ. Hành động là phạm. Nguyên tắc ấy kềm thúc sơ tâm, điều mục đầy đủ, chương tiết minh bạch. Giới Pháp này đổi bỏ tồi tệ. Pháp tịch giảng giải Luật Tạng mà chưa hề học hỏi thân cận thì đối với Thượng Thừa là giáo lý liễu nghĩa làm sao có khả năng khảo cứu rành mạch? Nên thật đáng đau tiếc là để một đời trôi đi một cách trống rỗng, sau này hối hận cũng khó mà đuổi kịp. Giáo Lý chưng từng để dạ thì diệu pháp không nhân đâu mà khế ngộ”…

Nhưng những người đó tự cho mình là tăng sĩ của núi rừng, giữ y tánh cũ, rồi do không thuộc, không hiểu pháp nên không có gì để hướng dẫn cho người sau, rồi khi bị chỉ trích lại còn trách người, sân si khi bị cật vấn!

“Vậy mà có ai cảnh giác thì liền bảo ngay rằng ta đây là tăng sĩ rừng núi. Quả là kẻ chưa bao giờ nghe nói đến sự hành trì của Phật huấn dụ, nên chỉ có một chiều hướng là tánh vẫn còn y nguyên. Cung cách như vậy là vì sơ tâm biếng nhác, nên ham muốn xấu xa y như thói cũ, dần dà theo đời hóa thành quê kệch. Thế rồi bất giác mà lóng cóng già yếu, nhưng gặp việc thì đối diện như tường vách. Hậu học thưa hỏi thì không có lời tiếng chi để hướng dẫn. Có nói cũng không liên hệ gì với kinh điển, và bị khinh thì bảo hậu sinh vô lễ, sân tâm nổi giận, lấn át tiếng người…”

Với Ngài Quy Sơn, người đã thật tâm tu hành thì:

“Giã từ song thân, quả quyết chí khí, khoác mặc pháp y là ý muốn vượt lên cho ngang đến chỗ nào nữa kia, sớm tối suy nghĩ như vậy thì đâu có thể chơi đùa cho qua mất thì giờ. Trong lòng tự kỳ hẹn cho mình phải làm trụ cột của Phật Pháp, làm gương mẫu cho tương lai, thường xuyên tự nguyện như vậy mà chưa hẳn đã phù hợp phần nào với sự Xuất Gia.

· Nói thì phải liên hệ với kinh điển, bàn thì phải dựa vào sự kê cứu về xưa. Hình dáng đĩnh đạc, chí khí cao nhã.

· Đi xa thì phải nhờ bạn tốt để luôn luôn lọc sạch tai mắt. Trú ở thì cần chọn bạn hiền để thường thường nghe điều chưa nghe. Nên ngạn ngữ đã nói, sinh ta là cha mẹ, tác thành ta là bạn bè. Gần gũi người hiền thì như đi trong sương móc, tuy không ướt áo mà lúc nào cũng thắm đượm; quen thân kẻ ác thì lớn lên thêm kiến thức độc ác, sớm tối làm ác, ác báo đã bị ngay trước mắt mà chết rồi lại phải chìm đắm, làm cho thân người một khi mất đi vẫn khó mà khôi phục.

· Nếu muốn tham Thiền học đạo, vượt bỏ ngay của ngõ phương tiện thì phải tâm hợp Thiền Tông, cứu xét tinh yếu, quyết trạch thâm áo, khải ngộ chân nguyên bằng cách tham vấn sâu rộng với liệt tiền giá, gần gũi thân thiết với các bậc thiện tri thức. Thiền Tông như thế này thiệt khó mà nắm được chỗ nhiệm mầu của nó, nên phải khẩn thiết vận dụng cái tâm một cách tinh tế và chin chắn mới ngay trong khả năng này mà đốn ngộ chánh nhân, mới làm thềm bậc tiến dần trong sự siêu thoát phiền não…”.

Biết rằng không dễ gì chỉ qua vài lời nói mà đã lay chuyển được người khác, Ngài Quy Sơn đã khẩn thiết đến độ “phủ phục mà cầu”, mong người tu học nên đọc kỹ những lời Ngài nêu ra để bỏ đi những tính nết cũ mà nên nhìn các bậc thượng thặng để học hỏi.

“Cảm thương than thở, đau đớn như cắt tim gan, làm sao có thể phong gói lời nói, nên phải cảnh giác để sách tiến cho nhau. Điều đáng tủi hận là chúng ta cùng sinh vào thời gian cuối cùng của thời đại Phật Pháp tương tự cách xa thời đạo của Phật. Phật Pháp lơ thơ, lòng người đa số biếng nhác, nên phải trình bày sơ lược cái thấy chỉ như ống dòm trời để khuyên bảo người hậu học. Nếu không loại bỏ được tính nết kiêu căng thì quả thật khó mà thay đổi cho nhau…

Xin phủ phục mà cầu mong các vị hãy nổi dậy cái chí khí quyết liệt, mở ra cái hoài bão cao xa, hết thảy mọi sự động, tĩnh đều nhìn lên các bậc thượng thặng, đừng tự ý sống theo những thói hư hèn…

Hãy đọc kỹ bài văn này để luôn cảnh giác sách tiến, cưỡng lại mà tự tìm chủ tế, đừng thuận theo tánh tình con người của mình”.

Người đã ý thức con đường tu hành, đã tu hành nghiêm chỉnh mới có thể nhắc nhở người khác thì đâu thể nào coi thường Nhân Quả để hết kiếp phải làm thân trâu ngựa? Qua đó, ta thấy CON TRÂU mà Ngài Quy Sơn đề cập không phải nói về kiếp sau của chính Ngài, mà là để nhắc cho những người Xuất Gia mà không chịu tu hành nghiêm chỉnh, không biết rằng đã nhận của ai bát cơm, chén thuốc thì lúc nào đó phải trả lại, vì Nhân Quả không mất. Đừng tưởng mang sắc áo tu hành là đương nhiên được quyền hưởng dụng của cúng thí!

Tổ Quy Sơn cũng là truyền nhân của Đại Thừa. Thuộc nhánh của Nam Nhạc Hoài Nhượng, và Nam Nhạc Hoài Nhượng là đệ tử của Lục Tổ Huệ Năng. Đọc Kinh Đại Thừa và những luận giải của những Tổ Đại Thừa, ta thấy đa phần là những lời cảnh báo, hoặc hướng dẫn con đường tu Phật rất là chi tiết để người tu từng bước hiểu rồi hành theo mà thâm nhập vào Đạo, tự mình hành trì để được Giải Thoát, thay vì trước kia vẫn cầu xin Phật “Độ” cho vì hiểu lầm về Phật và quyền năng của Phật. Vậy mà gần đây có khuynh hướng vận động dẹp bỏ Kinh Đại Thừa, cho đó là “Kinh ngụy tạo, không phải do Phật giảng”. Theo tôi, chính những người đứng ra vận động đã chứng tỏ bản thân cũng chưa đọc hết những lời Phật dạy. Thật vậy. Đọc “NHỮNG NGÀY và NHỮNG LỜI DẠY CUỐI CÙNG CỦA ĐỨC PHẬT của Phật Giáo Nguyên Thủy, ta thấy có ghi rõ là khi nghe những lời của người khác nói liên quan đến Đạo thì…” Không tán thán, không hủy báng, mà đem so sánh với Kinh, đem đối chiếu với Luật, nếu chúng phù hợp với Kinh, tương ứng với Luật, thời các ngươi có thể kết luận: “Chắc chắn những lời ấy phải là lời dạy của Đức Thế Tôn và các vị Tỳ Kheo ấy đã lãnh giáo chơn chánh. Này các Tỳ Kheo, như vậy là Đại Giáo Pháp thứ Tư, các ngươi hãy thọ trì”.

Tiểu Thừa dạy GIỚI ĐỊNH HUỆ, TỨ DIỆU ĐẾ, BÁT CHÁNH ĐẠO. ĐẠI THỪA cũng bao nhiêu việc đó, còn chi tiết hơn. Như vậy Đại Thừa sai chỗ nào? Chưa đọc hết Kinh DIỆU PHÁP LIÊN HOA. Chưa hiểu về Con Đường Độ Sinh mà Kinh giải thích. Chưa hiểu gì về “cảnh giới bất nhị”. Chưa hiểu thật nghĩa của Chúng Sinh, Phật, Bồ Tát lại cho rằng Đại Thừa bịa thêm nhiều Bồ Tát, Phật. Như vậy, phải chăng chính những người đứng ra vận động dẹp bỏ kinh Đại Thừa chưa có sự hiểu biết đúng về Truyền Thừa, là điều rất quan trọng trong Đạo Phật, nên không thể tiếp thu được những ích lợi do Đại Thừa phổ biến? Cụ thể là Kinh VỊ TẰNG HỮU THUYẾT NHÂN DUYÊN và QUY SƠN CẢNH SÁCH nói trên, rất lợi ích không thể chối bỏ cho những bậc Xuất Gia, vì không phải ai cũng hiểu Lý Nhân Quả để sợ. Không biết rằng Nhân Quả không phải chuyện đùa, tuy không có người ghi nhận mà mảy may cũng không bỏ sót. Chính vì vậy mà những người không hiểu cứ bình thản lợi dụng hình tướng tu hành, khuyến khích Phật Tử làm những điều không hề được dạy trong Đạo Phật chân chính để mình ở giữa lợi dụng danh nghĩa đệ tử nhà Phật mà vô tư hưởng lộc. Đến lúc trả, phải “mang lông đội sừng” có hối thì cũng đã muộn!

Do vậy, theo tôi, chẳng những bản thân người phản đối Kinh Đại Thừa đã không được lợi ích, vì cố ý bỏ ngoài tai những lời nhắc nhở, giáo hóa của Chư Vị Giác Ngộ, mà việc cố tình tìm cách ngăn trở không cho người khác đọc để hiểu mà khỏi vi phạm, thì rõ ràng đang làm trái ý Phật. Không thực hành lời Ngài dặn ở Đại Giáo Pháp Thứ Tư cần thọ trì. Giáo Pháp còn chưa nắm vững thì liệu như thế có phải là người tu hành nghiêm túc? Tôi tin rằng nếu có hiểu lý Nhân Quả thì hẳn các vị sẽ không dám xem thường, bởi đó là một lỗi lầm không phải nhỏ, vì cố tình ém dấu Chánh Pháp vậy.

Tháng 12/2015

Tâm Nguyện


Phụ Bản I

ĐỌC SÁCH

TRIỀU NGUYỄN VÀ LỊCH SỬ

CỦA CHÚNG TA

Võ Kim Cương

Đó là tên cuốn sách do Tạp chí Xưa và Nay phối hợp NXB Hồng Đức ấn hành (tái bản lần thứ 3, tháng 4/2013). Tạp chí Xưa và Nay là cơ quan ngôn luận của Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam. Cuốn sách là tuyển tập các bài viết của các nhà nghiên cứu về Lịch sử Việt Nam dưới thời các Chúa Nguyễn và Triều Nguyễn (tạm gọi chung là Nhà Nguyễn). Thời kỳ này bắt đầu từ khi Nguyễn Hoàng thực hiện lời khuyên của Trạng Trình “Hoành Sơn nhất đái vạn đại dung thân” vào phía Nam Đại Việt năm 1558 đến khi vua Bảo Đại thoái vị với câu nói nổi tiếng: “Thà làm dân một nước độc lập còn hơn làm vua một nước thuộc địa” năm 1945, tổng cộng 387 năm. Trong thời gian đó có 9 đời Chúa Nguyễn (từ 1558 đến 1802), 13 Hoàng đế Nhà Nguyễn (từ 1802 đến 1945). Trong 13 vị vua này có 4 vị là Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức là vua trong giai đoạn độc lập và thịnh trị (1802 – 1862), 9 vị còn lại làm vua dưới quyền Đại Pháp (1862 – 1945). Trong 9 vị vua ở giai đoạn này có ba nhà vua yêu nước là Hàm Nghi, Thành Thái, Duy Tân đã bị thực dân Pháp bắt đày đi xa xứ.

Tất cả có 41 bài viết, không kể bài mở đầu của nhà sử học Dương Trung Quốc. Nội dung các bài viết liên quan đến quá trình lập quốc như việc Nguyễn Hoàng và cuộc Nam tiến, và cai trị như về quan hệ với Pháp, Nhà Thanh và các nước khác, chính sách quốc phòng và vệ quốc, pháp luật và chính trị, phát triển kinh tế, vấn đề di dân, địa lý và lãnh thổ… và các quan điểm nghiên cứu. Có thể nói nội dung rất phong phú, khách quan, toàn diện, có nhiều sử liệu quý và chi tiết mà “dân ta” - là những người không chuyên về lịch sử - chưa được biết. Đó là các tài liệu có được từ châu bản ấn phẩm của Nhà Nguyễn, các tư liệu từ kho lưu trữ của Pháp, hay các phát hiện mới từ di sản văn hóa lịch sử trong dân gian mà khi đất nước hòa bình thống nhất mới có điều kiện phát hiện, tiếp cận.

Khi đọc cuốn sách này tôi có ba vấn đề quan tâm:

1. Nhìn nhận lại vai trò lịch sử của Triều Nguyễn đối với Dân tộc.

Về vấn đề này Nhà sử học Dương Trung Quốc nhận định: “Lịch sử thành văn của trọn một thiên niên kỷ vừa qua, giới sử học chúng ta đã quan tâm nhiều và chủ yếu đến một lịch sử giữ nước mà chưa thật quan tâm đứng mức đến một lịch sử dựng nước” (tr.5).

Và: “Sự đánh giá công bằng, khách quan của đời sống đương đại sẽ làm sáng tỏ vai trò của các chúa Nguyễn, chúa Trịnh và các vị vua triều Nguyễn vốn mang một thời nặng mặc cảm gắn liền với những biến động tiêu cực như chia cắt Đàng Trong - Đàng Ngoài, thù địch và tiêu diệt “cách mạng” Tây Sơn, đàn áp khởi nghĩa nông dân và cuối cùng là “cõng rắn cắn gà nhà”, bán nước và làm tay sai cho thực dân đô hộ. Bối cảnh chính trị của cuộc cách mạng “phản đế - phản phong” cùng lập trường đấu tranh giai cấp và cải tạo xã hội chủ nghĩa đã kéo dài sự đánh giá một sắc màu tiêu cực về nhà Nguyễn” (tr. 316).

Theo ý tôi thì nhà sử học phải độc lập với chính trị, phải khách quan ghi chép, xác nhận và phản ảnh các sự kiện lịch sử đúng với sự thật. Lịch sử là sự thật khách quan, trường tồn. Còn việc nhìn nhận, đánh giá sự thật ấy, sử dụng sự thật ấy có thể tùy con mắt (hay lập trường) của các thành phần xã hội, các giai cấp. Những nhìn nhận, khai thác các sự thật này có thể khác nhau và tùy thuộc vào con người cụ thể và sẽ thay đổi theo sự biến đổi của xã hội, và do đó nó chỉ tồn tại trong thời gian ngắn.

Nhà Nguyễn đã có công rất lớn đối với dân tộc là mở cõi về phía Nam, nhưng có thể có một số người nào đó, không thấy bản chất của chế độ phong kiến là thôn tính lẫn nhau thì sẽ cho đó là xâm lược. Còn Pháp chiếm và thống trị Việt Nam, thì theo tinh thần dân tộc đó là cuộc xâm lược, là tội ác, còn theo quyền lợi một số người khác thì đó là khai hoá v.v… Bản thân sự nhìn nhận khác nhau về vai trò của Nhà Nguyễn cũng là một sự thật lịch sử.

2. Những tài liệu lịch sử được các tác giả tham khảo.

Nghiên cứu lịch sử quan trọng nhất là các cứ liệu. Xem phần tài liệu tham khảo cuối mỗi bài viết có thể biết được thông tin về các tài liệu lịch sử. Đáng chú ý là các bài viết thường đưa ra các nhận định trên cơ sở các cứ liệu cơ bản sau đây:

1/ Quốc sử quản Triều Nguyễn có 4 tài liệu:

(1) Đại Nam Thực lục tiền biên

(2) Đai Nam Nhất thống chí

(3) Đại Nam Thực lục chính biên

(4) Đại Nam liệt truyện.

2/ Nội các Triều Nguyễn có 2 tài liệu:

(1) Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ

(2) Đại Nam hội điển sự lệ.

3/ Bộ Giáo dục và Thanh niên Việt Nam cộng hòa 1 tài liệu:

Minh Mệnh chính yếu (1974)

4/ Nhóm Nghiên cứu Lịch sử Sài Gòn 2 tài liệu:

(1) Quốc triều chính biên,

(2) Gia định thành nhất thống chí ( 1972)

Còn lại là tài liệu của các cá nhân trong và ngoài nước như Lê Quý Đôn, Phan Huy Lê, các nhà truyền giáo, các nhà thám hiểm, và một số nhà nghiên cứu nước ngoài khác. Các tài liệu này có lẽ đã được dịch và xuất bản bằng tiếng Việt. Những người yêu lịch sử nhưng không biết tiếng Hán, Nôm có điều kiện tiếp cận các nhóm tài liệu chính kể trên.

3. Về tên húy của chúa Nguyễn.

Tôi được biết một số dòng họ người Kinh ở Đàng Trong đã bị đọc chệch khỏi âm Hán - Việt là do phạm húy như Vũ đọc thành Võ, Hoàng đọc thành Huỳnh, kể cả một số từ thông dụng như “phúc” đọc thành “phước”, “nguyên” đọc thành “nguơn” (ví dụ: nguyên soái thành nguơn soái). Tất cả đều cùng một gốc chữ Hán, nhưng phát âm hai cách. Nói “phạm húy” là đối với dân còn chính chúa thì đâu sợ phạm húy, nhưng trong tập sách này lại có bài: “Võ Vương Nguyễn Phước Khoát…” có lẽ viết như thế không phù hợp. Cũng như không thể viết Nguyễn Hoàng thành Nguyễn Huỳnh hay Nguyễn Phúc Nguyên thành Nguyễn Phước Nguơn vậy.

Có một điều thú vị là Đàng Trong được tính từ sông Gianh trở vào, vậy mà tại sao vùng Nghệ An, Hà Tĩnh cũng có rất đông người họ Võ (không viết là Vũ như ở Bắc Bộ).

Tháng 3/2016

VÕ KIM CƯƠNG

NHỮNG CUỐN SÁCH VĂN HỌC NGA,

NHÀ VĂN HỒNG DIỆU TẶNG

Gặp nhau trong Đại hội IX Nhà văn Việt Nam mới đây, nhà văn Hồng Diệu chúc mừng tôi vừa khánh thành được Nhà lưu niệm “Văn học Nga ở Việt Nam” trên cơ sở bộ sưu tập và giữ gìn các hiện vật của cá nhân tôi trong suốt những năm tháng cuộc đời mình. Anh lại hứa sẽ đóng góp thêm với Nhà lưu niệm một số sách liên quan đến Văn học Nga anh có từ thuở học trò còn lưu giữ trong tủ sách gia đình. Vừa bước sang năm mới ít ngày qua điện thoại anh mời tôi đến chơi, nhân thể nhận sách anh biếu đã chuẩn bị sẵn.

Hồng Diệu vẫn ở khu tập thể cơ quan trong một ngõ trên phố Ông Ích Khiêm, ngay ngã tư đầu phố Đội Cấn giáp với phố Lê Hồng Phong, từ giữa phố Đội Cấn chỗ tôi ở đến anh đi xe chỉ mươi phút. Tôi hối hả đi ngay, tới nơi được Hồng Diệu mời vào phòng khách, chưa kịp pha nước mời anh đã vội mang sách từ gác xuống. Anh bảo bước đầu mới soạn ra được năm cuốn cũ nhất, đôi khi vẫn đọc đi đọc lại cất riêng một chỗ. Cả năm cuốn sách đều có bút tích anh ghi lại từ thuở anh còn là cậu học sinh phổ thông với tên họ cha sinh mẹ đẻ là Đỗ Văn Thuận, chưa được mang bút danh cây bút Hồng Diệu mà mọi người nhiều năm qua đã quen thuộc.

Cuốn sách đầu tiên trong số này: Những mẩu chuyện nước Ý của Mac-xim Gooc-ki, do Nguyễn Thụy Ứng dịch và giới thiệu, NXB Văn Hóa, Hà Nội 1958 (khổ 13x19, 284 trang, in 2580 cuốn). Trên trang bìa giả trong sách có bút tích cho biết: “Những ngày cuối cùng của một năm học. Xuân Trường 5.59) và chữ ký Đỗ Văn Thuận. Tôi hỏi được Hồng Diệu trả lời: “Đấy là em, lúc đó vừa học hết lớp 8 trường phổ thông Nam Định”. Giở qua các trang tôi còn thấy chữ ký Đỗ Văn Thuận trên đầu mỗi chương (27 chương) và chốt ở cuối dòng cuối cùng của sách. Hồng Diệu tâm sự: “Em rất yêu thích Maxim Gorki. Trong văn học thế giới em yêu thích nhất hai nhà văn lớn: Maxim Gorki và Vichto Huygô”. Có lẽ vì thế cả năm cuốn sách anh tặng lại tôi đều là tác phẩm của Maxim Gorki hoặc viết về Gorki.

Cuốn sách thứ hai trong số này là Truyện ngắn tuyển tập Maxim Gooc-ki, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội 1957. Cuốn sách ra sau Đại hội lần thứ nhất Hội Nhà văn Việt Nam và NXB của Hội vừa được thành lập, ấn hành vào tháng 9, 1957. Truyện ngắn tuyển tập gồm 8 truyện của Macxim Gorki do tám nhà văn Việt Nam dịch qua bản dịch tiếng Pháp: Thụy An, Huy Ánh, Trần Dần, Bùi Hiển, Nguyễn Viết Lãm, Nguyễn Thành Long, Nguyễn Văn Sỹ, Linh Tâm…

Trước đó, năm 1956, để kỷ niệm 20 năm mất của văn hào Macxim Gorki (1868-1936), các nhà văn tên tuổi như Phan Khôi, Nguyễn Tuân, Nguyễn Thành Long, Tế Hanh, Nguyễn Xuân Sanh, Cao Nhị, Phạm Hổ đã tham gia dịch một tuyển tập gồm 9 tác phẩm truyện ngắn và thơ văn xuôi của Macxim Gorki ra một cuốn sách có tên là Mac-xim Gooc-ki Thơ Truyện tuyển tập với lời giới thiệu của nhà văn Nguyễn Đình Thi, do NXB Văn Nghệ từ chiến khu mới về tiếp quản Hà Nội ấn hành. Cuốn sách in phát hành vào tháng 6 năm 1956, không in số bản chung mà lại ghi số có in 81 bản giấy đặc biệt không bán. Bìa Tuyển tập thơ truyện chữ trắng nâu trên nền vàng chanh, năm sau dùng in lại tương tự cho Truyện ngắn tuyển tập, có ghi thêm cho biết tên người trình bày là họa sĩ Vũ Lập. Tôi đã có trước cuốn Thơ Truyện tuyển tập này còn mang cả chữ ký của nhà văn Nguyễn Tuân ngoài bìa và 2 dòng chữ viết tay Nguyễn Tuân để lại ở trang nhất bên trong, có cả con tem chân dung M.Gorki, hẳn là cũng do nhà văn dán thêm vào kỷ niệm. Sách này tôi được nhà báo Đỗ Quang Hạnh, con trai thứ hai nhà văn Đỗ Quang Tiến, tặng lại ngày 27 tháng 3 năm 2013.

Cuốn Mac-xim Gooc-ki – Truyện ngắn tuyển tập, trên bìa giả bên trong còn bút tích: “Nam Định tháng 6.1960” và chữ ký Đỗ Văn Thuận. Hồng Diệu cho biết là: “Năm ấy em vừa học xong lớp 9 phổ thông”. Anh đã bỏ tiền tiết kiệm tích cóp từ tiền ăn học của bố mẹ cho mua cuốn sách với giá bìa 2100 đồng lúc đó, cũng như năm trước, khi học xong lớp 8 đã bỏ 2150 đồng mua cuốn Những mẩu chuyện nước Ý.

Cũng tháng 6 năm đó Hồng Diệu còn mua lại tập sách cũ Vài đoạn lý luận văn nghệ trích diễn văn của Maxim Gorki đọc ở Hội nghị Văn học Liên Xô năm 1934, do Văn Thiên (bút danh của nhà văn Hoài Thanh, tác giả Thi nhân Việt Nam nổi tiếng từ trước cách mạng) dịch. Tập sách Vài đoạn lý luận văn nghệ mỏng, chỉ hơn một tay sách, in trên giấy tre nứa đen thui, mỏng mềm như giấy ăn, bìa in chữ đen có ghi chú: “Tài liệu nước ngoài”, NXB Văn nghệ, 1950 tại Việt Bắc kháng chiến. Khi trao cho tôi, tập sách được đóng thêm 2 tờ bìa mới màu vàng photocopy. Nhà văn Hoài Thanh bấy giờ cùng với thế hệ các nhà văn tên tuổi từ trước cách mạng đi kháng chiến, như: Nguyễn Tuân, Ngô Tất Tố, Nguyễn Huy Tưởng, Thế Lữ, Nguyễn Xuân Sanh, Tố Hữu, Nguyễn Đình Thi, Xuân Diệu, Huy Cận… vừa đứng ra thành lập Hội văn nghệ Việt Nam, ra báo chí Văn nghệ, Nhà xuất bản Văn nghệ, tập họp phong trào, thúc đẩy việc xây dựng nền văn học cách mạng mới… Một trong những nhiệm vụ các ông đặt ra là “truyền nghề”, xây dựng lực lượng sáng tác trẻ nối tiếp. Nhiều ông đã viết các tài liệu, hoặc sưu tầm hệ thống tài liệu của ông cha, của các bậc thầy văn nghệ sĩ nước ngoài dịch ra làm các bài học cho lớp trẻ trau dồi tay nghề… Cuốn Vài đoạn lý luận văn nghệ do Văn Thiên (Hoài Thanh) dịch nằm trong tủ sách ấy.

Hai cuốn còn lại trong số 5 cuốn sách Hồng Diệu trao cho tôi: M.Gorki. Đời sống và sự nghiệp văn học gắn liền với cuộc vận động cách mạng Nga 1905, NXB Nghiên cứu, Hà Nội 1956, của giáo sư, nhà nghiên cứu, nhà văn Hoàng Xuân Nhị, và cuốn Để tìm hiểu Gooc-ki của nhà giáo Từ Ngọc (Nguyễn Lân), NXB Thanh niên, Hà Nội 1958. Cả hai cuốn cũng đều còn bút tích “Nam Định, hè 60” và chữ ký ĐV Thuận (Hồng Diệu)

Như lời tâm sự của Hồng Diệu đã nhắc đến ở trên, anh rất yêu mến văn hào Nga Macxim Gorki, qua 5 cuốn sách anh trao góp vào Nhà lưu niệm “Văn học Nga ở Việt Nam” gợi cho tôi nhiều suy nghĩ liên hệ. Tôi có thể khẳng định một điều là có thật cái điều ảnh hưởng văn học Nga đối với đời sống sáng tác của các nhà văn ta, chỉ qua một thí dụ ở cây bút Hồng Diệu. Tình yêu với Gorki nói riêng và văn học Nga nói chung có phần đã tác động hình thành con đường văn nghiệp của nhà văn Hồng Diệu sau này. Từ một cậu học sinh tỉnh lẻ, Đỗ Văn Thuận nay anh đã trở thành một nhà nghiên cứu, phê bình văn học có bút danh Hồng Diệu được bạn đọc mến mộ.

Tốt nghiệp trung học phổ thông, Hồng Diệu vào bộ đội, được bộ đội cho đi học các trường quân sự khác nhau và Học viện quân sự nước ngoài, tốt nghiệp trở thành kỹ sư, từng phục vụ trong Bộ tư lệnh Thông tin, và rồi do bộc lộ khiếu văn chương, anh được phiên chế về Tạp chí Văn nghệ Quân đội, trưởng thành thành cây bút nghiên cứu, phê bình, phụ trách cả bộ phận đó, phụ trách thêm phần văn học nước ngoài của tạp chí. Bạn đọc biết đến hàng trăm bài viết phê bình, nghiên cứu văn học đặc sắc, về sau đã được tập hợp ra thành bốn, năm cuốn sách: Nhà văn trang sách (1993), Phía sau dòng chữ (1997), Người lính – nhà văn (1998-2003), Qua văn hiểu người (2005), Tiếng thơ thời đại (2007). Hồng Diệu còn là tác giả nhiều công trình biên khảo, dịch thuật nữa. Và đặc biệt trong mấy năm gần đây anh đã hoàn thành một công trình nghiên cứu biên khảo đồ sộ, bộ Từ điển thơ Đường, xuất bản lần đầu dầy tới trên dưới nghìn trang khổ lớn. Năm 2015, Từ điển thơ Đường được bổ sung chỉnh lý, tái bản lần thứ nhất, lần này số trang đã lên tới 1408 trang, với hàng vạn từ mục và phần phụ lục dầy công, có niên biểu các đời vua nhà Đường (21 đời), có niên biểu các sự kiện tiêu biểu của thơ Đường (91 trang); thư mục nghiên cứu, bình luận, giới thiệu và tuyển dịch thơ Đường ở Việt Nam (36 trang, 60 công trình của các tác giả, dịch giả khác nhau cùng 3 tên sách của chính tác giả); 5 bản đồ Trung Quốc đời Đường; và 8 trang ảnh, trong đó có cả ảnh bia mộ nhà thơ đời Đường Vương Bột (649-676), sang thăm cha làm thái thú trong thời Bắc thuộc ở Việt Nam, gặp bão đắm thuyền chết ở cửa biển, có mộ mới được tác giả phát hiện năm 2015 ở đất Nghệ An.

Hồng Diệu còn khoe, một hai năm nữa anh sẽ cho tái bản sách lần thứ hai. Lần tới này tác giả Hồng Diệu còn bổ sung thêm nhiều mục từ, bộ sách sẽ dày lên tới hai nghìn trang có lẻ.

Thúy Toàn

NHÀ TÂM LÝ HỌC TÀI BA NGUYỄN DU

VỚI HAI KỊCH TÁC GIA PHÁP:

PIERRE CORNEILLE VÀ JEAN RACINE

PHẠM ĐAN QUẾ

K hi kể lại câu chuyện về nàng Kiều, Nguyễn Du không những đã tăng miêu tả và kể chuyện theo đường dây tâm lý, trong đó hệ thống sự kiện hành động không phải là yếu tố thúc đẩy dòng tự sự vận động mà chính là tâm lý nhân vật sẽ quyết định mạch tự sự. Ông đi sâu vào tâm lý để xây dựng hình tượng nhân vật, những con người có cá tính riêng không lẫn được với những nhân vật khác.

Chính qua việc kể chuyện theo đường dây tâm lý, ta sẽ thấy giữa Nguyễn Du và hai nhà viết kịch nổi tiếng người Pháp thế kỷ 17 là Pierre Corneille (1606 - 1684) và Jean Racine (1639 - 1699) có một sự trùng hợp khá độc đáo về cách mô tả tâm lý nhân vật của mình.

A. Thứ nhất là sự trùng hợp giữa hai nhân vật chính của Nguyễn Du và Corneille, giữa Thúy Kiều và Don Rodrigue, nhân vật chính trong vở bi kịch nổi tiếng Le Cid.

Nếu Truyện Kiều là tác phẩm nổi tiếng nhất của Nguyễn Du thì Le Cid là vở kịch nổi tiếng nhất của Corneille. Nhân vật chính là Don Rodrigue, con trai Don Diègue, yêu nàng Chimène, con gái của Don Gormas, là hai đại thần dưới triều vua Don Fernand ở Tây Ban Nha. Hai họ đã thỏa thuận về việc cưới xin sắp đến, thì việc bất hòa xảy ra do hai quan đại thần này tranh nhau chức quan thái phó cho thái tử. Don Gormas không được chọn, đã sinh sự và ra tay tát Don Diègue. Rodrigue đã phải hy sinh chữ tình, quyết giữ tròn chữ hiếu, trả thù cho cha, chàng đã giết Don Gormas, cha của người tình.

Như vậy Kiều và Rodrigue đều phải đắn đo giữa tìnhhiếu để thực hiện một hành vi ý chí, hy sinh tình cảm của mình. Các nhà tâm lý thường chia một hành vi ý chí làm bốn giai đoạn:

(1) Xác định mục đích

(2) Cân nhắc điều hơn lẽ thiệt, đấu tranh tư tưởng diễn ra quyết liệt nhất

(3) Quyết định để chọn một phương cách chấm dứt mọi phân vân lưỡng lự

(4).Thực hiện để hoàn thành hành vi ý chí.

Ta hãy thử xem.

a. Hành vi ý chí của nàng Kiều khi phải bán mình chuộc cha đã được Nguyễn Du diễn tả trong 8 câu được chia làm 4 ý rành mạch, mỗi giai đoạn 2 câu liên tiếp như sau:

Giai đoạn 1 , Kiều tự đặt ra mục đích dưới dạng một câu hỏi:

0599. “Sao cho cốt nhục vẹn tuyền.

“Trong khi ngộ biến tòng quyền, biết sao?”

Giai đoạn 2 , Kiều tự vấn và đắn đo cân nhắc mà cũng là tự hỏi:

0601. “ Duyên hội ngộ, đức cù lao,

“Bên tình bên hiếu, bên nào nặng hơn?”

Giai đoạn 3 , nàng quyết định hy sinh tình yêu cho tròn chữ hiếu với chữ để là bỏ, bỏ lại, gác lại những lời thề nguyền với chàng Kim:

0603. “Để lời thệ hải minh sơn,

“Làm con trước phải đền ơn sinh thành”.

Giai đoạn 4, thực hiện hành vi ý chí, bán mình chuộc cha:

0605. “Quyết tình, nàng mới hạ tình:

“- “Rẽ cho để thiếp bán mình chuộc cha!”

Nguyễn Du khéo ở chỗ khi đề cập đến tìnhhiếu đều rất có lớp lang thứ tự: Ở giai đoạn 1, nói hiếu trước (cốt nhục vẹn tuyền) tình sau (ngộ biến tòng quyền), ở giai đoạn 2 và 3 thì tình sẽ phải hy sinh đứng trước đều in nghiêng (Duyên hội ngộ, Bên tình, Để lời thệ hải minh sơn). Còn bên hiếu đứng sau để được nhắc đến ở câu cuối giai đoạn 4: bán mình chuộc cha!

b. Trong sách tâm lý, các nhà nghiên cứu Pháp thường nêu ra đoạn độc thoại của nhân vật chính Rodrigue trong vở kịch Le Cid làm dẫn chứng. Trong cảnh độc thoại này, Corneille đã để cho vai anh hùng của mình lưỡng lự khá lâu. Cũng như nàng Kiều của chúng ta phải đắn đo giữa tình và hiếu, Rodrigue phải thực hiện một hành vi ý chí là: Hy sinh ái tình của mình với nàng Chimène khi phải thách đấu với cha nàng - người đã làm nhục cha mình - để bảo vệ danh dự gia đình. Nhà bi kịch cổ điển Pháp đã dành 60 câu thơ trong Scène VI. Don Rodrigue để miêu tả tâm lý của chàng cũng qua 4 giai đoạn trên. Trong cảnh độc thoại này của Rodrigue, tác giả đã dành 30 câu thơ cho giai đoạn 2 mà chàng phải lưỡng lự cân nhắc nhiều trước khi lựa chọn, trong khi 3 giai đoạn kia mỗi giai đoạn chỉ có 10 câu (Chúng tôi có dẫn ra cụ thể cả nguyên văn tiếng Pháp và bản dịch thành thơ của dịch giả Hoàng Hữu Đản để minh chứng ở cuối quyển Thế giới nhân vật Truyện Kiều).

c. Trong bốn giai đoạn trên thì giai đoạn 2 phải suy nghĩ lợi hại thiệt hơn, lật đi lật lại vấn đề - cuộc đấu tranh tư tưởng diễn ra quyết liệt nhất - là dài hơn cả, nhưng với trường hợp Thuý Kiều, vì sao không cần phải dài dòng qua nhiều đắn đo suy tính, như với chàng Rodrigue. Sự xung đột mãnh liệt trong tâm hồn Rodrigue được diễn tả bằng 30 câu, dài bằng cả 3 giai đoạn kia cộng lại. Chàng hiệp sĩ phương Tây có ý thức đầy đủ và mạnh mẽ về cá nhân với nhiều khát vọng tự do nên phải dành nhiều thời gian để cân nhắc. Còn nàng Kiều của chúng ta theo nề nếp đạo đức phương Đông, với căn bản của nền giáo dục Khổng Mạnh nghiêm khắc quân sư phụ, Thuý Kiều bao giờ cũng phải đặt nhiệm vụ với gia đình lên hàng đầu (hiếu đứng trước tình). Nàng nhanh chóng đi đến quyết định hy sinh chữ tình cho chữ hiếu, mà không phải có quá nhiều lý luận để đắn đo, và mỗi giai đoạn đều chỉ có hai câu.

d. Nguyễn Du và Corneille quả là những nhà tâm lý học, đã viết theo sự mách bảo của bản năng, của thi hứng chứ không nhất thiết phải ý thức được đầy đủ qua bốn thời kỳ như các tâm lý gia sau này sẽ phân tích.

B. Thứ hai là sự trùng hợp trong cách trình bày tâm lý giữa hai nhân vật chính của Nguyễn Du và Racine. Nếu Truyện Kiều của Nguyễn Du được nhân dân ta đặt bằng tên nhân vật chính thì vở kịch của Racine cũng vậy, nàng Andromarque được lấy làm tên cho tác phẩm miêu tả cuộc đời nàng. Andromaque là vở kịch đã được Racine sử dụng cốt truyện trong tác phẩm của các nhà thơ cổ đại một cách độc đáo về hình ảnh nàng Andromaque, người vợ góa của Hector. Nhưng ông đã không chỉ miêu tả một người mẹ dịu dàng, một người vợ chung thủy, mà hình ảnh Andromaque còn bộc lộ giá trị nhân đạo mà Racine thường đặt vào các nhân vật nữ tích cực của ông. Ðó là người phụ nữ có nhận thức sâu sắc về giá trị con người, có đạo đức cao cả, có tinh thần xả thân vì nghĩa vụ và chống đối lại những bất công của bọn vua chúa chuyên chế.

a. Trong cảnh Thuý Kiều trao duyên, lúc đầu nàng cố gắng giải thích thuyết phục, tường thuật sự việc, trình bày lý lẽ nên giọng thơ điềm đạm, chậm rãi… Nàng dặn lại em:

0741. “…Mai sau dù có bao giờ,

“Đốt lò hương ấy, so tơ phím này.

0743. “Trông ra ngọn cỏ lá cây,

“Thấy hiu hiu gió thì hay chị về.

0745. “Hồn còn mang nặng lời thề,

“Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai.”

Nghĩ đến Kim Trọng cùng Thuý Vân đốt hương gảy đàn để tưởng nhớ đến mình, Kiều tưởng như hồn mình sẽ hiện về trong gió hiu hiu thổi mà oan hồn của mình vẫn mang nặng nỗi đau chưa trọn lời thề và chỉ xin em một chén nước để thêm nghĩa, thêm tình:

0747. “Dạ đài cách mặt khuất lời,

“Rảy xin chén nước cho người thác oan.”

Lời trao duyên biết bao tha thiết, Thuý Kiều nói với Thuý Vân nhưng đến cuối, có lúc nàng như mê đi không còn biết mình nói với ai. Trong lúc tình cảm đến độ lâm ly, Kiều như tự nói với mình trong câu độc thoại:

0749. “Bây giờ trâm gãy bình tan,

“Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân!”

Để rồi, một cách như vô thức, nàng buông mình trong một cơn mơ, chuyển sang nói với Kim Trọng đang ở tận Liêu Dương xa xôi:

0751. “Trăm nghìn gửi lạy tình quân.

“Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi.

0753. “Phận sao phận bạc như vôi!

“Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng.

0755. “Ôi Kim lang! Hỡi Kim lang!

“Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!”

Giọng điệu về sau càng trở nên hối hả, để cuối cùng vỡ oà trong tiếng nấc nghẹn ngào, nàng ngã ra bất tỉnh:

0757. “Cạn lời hồn dứt máu say,

“Một hơi lặng ngắt đôi tay giá đồng…”

b. Trong vở kịch Andromarque của Racine, nàng Andromarque cũng có lúc đang nói chuyện với Pyrrhus, kẻ thù của chồng nàng, bỗng quên hẳn Pyrrhus để chuyển sang nói chuyện với Hector, người chồng đã khuất.

Có một câu trong vở kịch tóm tắt nội dung là: Oreste aime Hermione, mais elle aime Pyrrhus, qui aime Andromaque, qui aime encore le souvenir de son mari, Hector, tué pendant la guerre de Troie (Oreste yêu nàng Hermione nhưng nàng lại yêu Pyrrhus. Pyrrhus yêu Andromarque nhưng nàng lại còn yêu kỷ niệm về Hector, người chồng của nàng đã bị giết trong cuộc chiến thành Troie).

C. Nguyễn Du và Corneille cùng Racine đã gặp nhau vì những cây bút lớn đều nắm chắc những diễn biến có quy luật tâm lý của con người và đều đi sâu vào tâm tư tình cảm của nhân vật, họ đã nhập vai, hoà làm một với nhân vật của mình. Quả là những tư tưởng lớn gặp nhau!

(Theo Thế giới nghệ thuật Truyện Kiều

NXB Thanh Niên – 2013)

15 NĂM TRỊNH CÔNG SƠN

TRỞ VỀ “CÁT BỤI”

Ướt M i: Cuộc tao ngộ Trịnh Công Sơn & Thanh Thúy


Năm 1958, lúc trọ học tại Sài Gòn , tình cờ, T rịnh C ông S ơn được nghe tiếng hát của một ca sĩ chỉ mới 16 tuổi, người Huế: Thanh Thúy (sinh năm 1943) , người ca sĩ có dáng dấp mảnh mai và mái tóc dài buông lơi trên đôi vai gầy trong tà áo dài. Giọng ca trầm buồn và phong cách trình diễn của Thanh Thúy đã gây cho TCS một ấn tượng đặc biệt. Từ đó, ông ngưỡng mộ giọng hát này và theo lời ông thuật lại: “...đêm nào tôi cũng lò dò đến các phòng trà để nghe Thanh Thúy hát. Dần dần hình bóng Thanh Thúy đã ăn sâu vào trong tôi lúc nào không biết. Nói yêu Thanh Thúy thì cũng chưa hẳn bởi tôi mặc cảm nghèo và vô danh, trong khi Thanh Thúy là một ca sĩ đang lên, kẻ đón người đưa tấp nập. Biết vậy, nhưng tôi không thể không đêm nào thiếu hình ảnh và tiếng hát của nàng...”.

Một buổi tối, TCS cùng một vài người bạn đến Mỹ Cảnh, một nhà hàng nổi tiếng của Sài Gòn, để nghe Thanh Thúy hát. Ngay trong đêm nhạc đó, TCS đã viết một mảnh giấy nhỏ đề nghị Thanh Thúy hát bài Giọt mưa thu của Đặng Thế Phong . Khi hát theo đề nghị đó, do có tâm sự riêng ( lúc này mẹ cô đang bệnh - mẹ cô mất 1 năm sau ) cô đã không kiềm chế được cảm xúc, cứ để cho tình cảm tràn đầy, cô vừa hát vừa khóc.

“Phải có một nỗi tuyệt vọng nào đó khởi đầu để tôi không ngừng dan díu với những giọt nước mắt của đời làm của cải riêng tư. Eva ăn trái cấm và sự sống thành hình. Tôi e cũng đã từng nuốt những giọt nước mắt để biết tận tình nói về những giọt nước mắt kia” .

(Trịnh Công Sơn, Sđd, NXB Trẻ, 2003, tr.16)

Sau đó, TCS đã sáng tác ca khúc Ướt mi. Theo lời thuật của nhạc sĩ: “...Khi hoàn thành, tôi nắn nót chép lại thật kỹ càng và luôn mang theo bên mình chờ có dịp tặng nàng. Với sự nhút nhát của tuổi trẻ, tôi không dám đưa tặng ngay mà phải chờ khá lâu mới có cơ hội. Một hôm tôi đánh bạo, tìm một chỗ sát sân khấu, dự định khi nàng vừa dứt tiếng hát là tôi sẽ đứng lên đưa luôn. Đã mấy lần định làm vẫn không kịp. Nàng vừa cúi đầu chào khán giả là đã có người chực sẵn rước đi ngay. Cái đêm định mệnh mà tôi quyết tâm an bài đã thành công. Khi cầm bản nhạc trong tay, nghe mấy lời lí nhí của tôi, nàng chỉ thoáng nhìn tôi một chút rồi quay vào hậu trường. Đêm đó, tôi nôn nao không ngủ được... Mãi đến hai tuần sau, khi tôi sắp tuyệt vọng vì mỏi mòn chờ đợi thì một đêm kia, khi bước lên bục diễn, dàn nhạc dạo khúc mở đầu thì nàng ra dấu cho dàn nhạc tạm im tiếng để nàng nói vài lời: Thưa quý vị! Đêm nay Thúy sẽ trình bày một tác phẩm rất mới của một nhạc sĩ rất lạ tặng cho Thúy. Đó là nhạc phẩm Ướt mi của tác giả Trịnh Công Sơn. Hy vọng đêm nay sẽ có sự hiện diện của tác giả để Thúy được nói vài lời cảm ơn. Nói xong, nàng quay sang ban nhạc, đưa bản nhạc của tôi cho họ dạo nhạc bắt đầu. Nàng cất tiếng hát...”.

Tiền bản quyền của ca khúc Ướt mi mà Nhà xuất bản An Phú đã trả cho nhạc sĩ là 5.000 đồng. Theo thời giá năm 1956, một lượng vàng có giá khoảng hơn 1.000 đồng.

Một năm sau, năm 1959, một lần nữa, Trịnh Công Sơn viết một bài khác, cũng để tặng người đã hát bài hát đầu tiên của mình. Bóng dáng người nữ ca sĩ nhỏ nhắn đêm đêm sau s uất hát hấp tấp bước vào ngõ tối trên đường Cao Thắng trở về nhà với mẹ. Đó là ca khúc ‘ Thương một người ’ như để chia sẻ trên đôi vai cô ca sĩ trẻ sớm gánh chịu nỗi nhọc nhằn.

Tiếng hát Thanh Thúy đã từng được mệnh danh là “Tiếng Hát Liêu Trai ” trong suốt thập niên 60 và đã ngự trị trên các làn sóng phát thanh cũng như truyền hình tại miền Nam Việt Nam và trở thành một ngôi sao trên các sân khấu Đại nhạc hội cũng như phòng trà. Sau 1975, Thanh Thúy sang định cư tại Hoa Kỳ và vẫn tiếp tục đi hát cho các trung tâm băng nhạc tại hải ngoại cũng như trung tâm băng đĩa của chính bà (Tp.HCM cũng có diễn viên Thanh Thúy và ca sĩ Thanh Thúy - nên Thanh Thúy của TCS được gọi là Thanh Thúy Hải ngoại).

Thanh Thúy qua ca khúc trữ tình, lãng mạn của nhiều nhạc sĩ tài danh được mô tả bằng tiếng hát lơ lửng với khói sương, nhấp nhô cùng sóng nước, đam mê theo cung bậc, thì thầm với kẻ tình si, du dương trong tĩnh lặng, vỗ về với yêu thương.

Thi sĩ Nguyên Sa viết: “Thanh Thúy là nữ ca sĩ được ngợi ca nhiều nhất trong văn, trong thơ. Thi sĩ Hoàng Trúc Ly, nhà văn Mai Thảo, nhà thơ Viên Linh, nhà văn Tuấn Huy, triết gia Nguyễn Văn Trung. Bởi vì Thanh Thúy chính là người yêu trong mộng của cả một thế hệ, trong đó có những nhà văn, nhà thơ bén nhạy bắt được cảm xúc riêng tư mà diễn đạt cái khách quan mênh mông trong cái chủ quan, riêng lẽ sống thực và chân thành... Trịnh Công Sơn những ngày đầu đời đã viết Ướt Mi cho Thanh Thuý”.

TRỊNH CÔNG SƠN

- “CÁT BỤI” TUYỆT VỜI (1/4/2001 – 2016)

Ngày 1-4 năm 2001 nhạc sĩ tài hoa của đất nước, người con thân yêu của Huế đã về cùng cát bụi! Mồng 1 tháng Tư là ngày Cá tháng Tư ( còn được gọi là ngày nói dối, ngày nói khoác hay là tạo hóa đùa trêu… nên TCS mới đi xa đúng vào ngày này ).

Hạt bụi nào hóa kiếp thân tôi

Để một mai vươn hình hài lớn dậy

Ôi cát bụi tuyệt vời/ Mặt trời soi một kiếp rong chơi

Hạt bụi nào hóa kiếp thân tôi

Để một mai tôi về làm cát bụi

Ôi cát bụi mệt nhoài

Tiếng động nào gõ nhịp không nguôi…

(Cát Bụi – Trịnh Công Sơn)

“Không có gì có lý hơn ngồi uống trong quán Trịnh, nghe bài hát Trịnh trong một chiều biển hoang vắng gió nồm như thế này!”. Quán Trịnh, cách gọi của bạn tôi là một phát hiện thú vị về Trịnh Công Sơn. Vâng, có Nhạc Trịnh, Phố Trịnh, nên cuộc đời cũng có rất nhiều Quán Trịnh.

Trịnh Công Sơn có giọng hát rất hay, nhưng rất buồn: “Chiều nay em ra phố về. Thấy đời mình là những quán không…”. Ấy là tâm linh, tâm cảm của người nhạc sĩ. Còn trên khắp các phố thị, thôn quê trong cả nước, các quán Trịnh bao giờ cũng đông khách. Ở miền Nam trước 1975 đã có rất nhiều quán mang tên các ca khúc TCS như Da Vàng, Hạ Trắng... Sau ngày giải phóng, quán Trịnh phát triển ra các tỉnh thành miền Bắc.

Các Quán Trịnh không chỉ lấy chữ của Trịnh để đặt tên quán, mà đã mời cả Trịnh Công Sơn làm “tiếp thị” cho họ. Năm 1995, tập đoàn rượu nổi tiếng Martell trong chiến lược mở thị trường sang Đông Nam Á của mình đã chọn TCS làm “sứ giả”! Một người bạn thân của Trịnh kể rằng, nhân kỷ niệm 280 năm thành lập Martell, ông Patrick chủ hãng sang Sài Gòn đã trực tiếp đưa giấy mời TCS sang Châu Âu làm khách quý của tập đoàn Martell. Dịp đó TCS đến Luân Đôn cùng với những người nổi tiếng, các hoàng tử trên thế giới làm khách quý của Martell, được mời sang Anh dự cuộc đua ngựa ở thành phố Liverpool do hãng Martell bảo trợ và sang Pháp tham quan lò rượu Martell, uống rượu Martell không mất tiền.

Quán Trịnh còn mở sang thị trường du lịch. Hiện nay nhiều điểm du lịch ở Tp.HCM có quảng cáo ca nhạc TCS. Ở khu du lịch Bình Quới I, có “ Nhà lưu niệm Trịnh Công Sơ n”. “Cõi đi về” này dành riêng cho Trịnh lúc đầu mang tên “Hội quán Hội Ngộ” theo sáng kiến và nhạy bén thị trường của SaiGonTourist.


Hội quán Hội Ngộ nay là Nhà lưu niệm Trịnh Công Sơn (ảnh trái)

Tấm ảnh lớn, đầy tâm trạng của nhạc sĩ ngay lối vào (ảnh phải)

Đây là nơi dành cho Sơn nghỉ ngơi, sáng tác, gặp gỡ bạn bè, công chúng… Ở Hội Quán này đã mấy lần triển lãm tranh Trịnh, và anh thường xuyên đến đây để giao lưu với những người mến mộ. Khách du lịch đến Khu du lịch Bình Quới đều ghé Quán Trịnh để xem tranh do nhạc sĩ vẽ, trực tiếp anh đàn hát, trò chuyện cùng anh v.v… Khi nhạc sĩ TCS rời “cõi tạm”, thì Hội Quán trở thành nhà lưu niệm trưng bày các kỷ vật, tác phẩm hôi họa, âm nhạc, những hình ảnh, tư liệu, các đồ dùng hàng ngày của nhạc sĩ… để phục vụ người mến mộ. Hội quán Hội Ngộ (Nhà lưu niệm TCS) đã trở thành địa chỉ du lịch hấp dẫn ở Bình Quới!

Mới đây, UBND tỉnh Thừa Thiên Huế đã đồng ý xây dựng một Khu lưu niệm Trịnh Công Sơn ở Huế và giao cho Hội Văn nghệ tỉnh thực hiện. Đây cũng là một hình thức tạo nên một điểm du lịch mang tên Trịnh. Ậm ạch hai năm rồi, Khu lưư niệm TCS vẫn chỉ dừng trên giấy. Mọi người cứ mong có một cõi TCS như thế…

Trịnh Công Sơn là thiên tài âm nhạc Việt Nam thế kỷ XX

Di sản âm nhạc TCS là vô giá, mãi mãi là niềm tự hào của người Việt Nam. TCS vẫn đi về trong lòng người mỗi ngày. 15 năm Trịnh Công Sơn về “với cát bụi”, đã có hàng chục cuốn sách viết về anh, cuốn văn học mới nhất là tập bút xuất sắc “Cây đàn lia của Hoàng tử bé” của nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường. Âm nhạc Trịnh ngày càng lay động chiều sâu tâm thức hàng chục triệu người. Đã là người Việt, từ già đến trẻ không ai không hát Trịnh, không gia đình nào không có trong nhà một băng hay đĩa nhạc Trịnh… Sống trong đời sống cần có một tấm lòng. Để làm gì em biết không? Để gió cuốn đi. Để gió cuốn đi

Không chỉ ở Việt Nam, âm nhạc Trịnh Công Sơn cũng ngày càng chinh phục thế giới. Ngay từ năm 1972, TCS đã được vào Đĩa Vàng ở Nhật Bản với bài Ngủ đi con, trong Ca khúc Da vàng, qua giọng hát Khánh Ly, phát hành trên 2 triệu đĩa. TCS có tên trong từ điển Bách khoa Pháp “Encyclopédie de tous les pays du monde”. Hiện nay nhạc Trịnh đã có mặt tại nhiều nước Châu Á, châu Âu, Châu Mỹ… Có một chàng trai người Đức mang họ Trịnh luôn cùng với bạn bè hát TCS; Có một cô gái Nhật Bản năm nào cũng sang Việt Nam để viếng mộ Trịnh, có nhà nghiên cứu phương Tây John C.Schafer cũng đam mê viết cả cuốn sách Hiện tượng Trịnh Công Sơn…

Đặc biệt, ngày 3-2-2004, tại trụ sở Liên Hiệp Quốc ở New York đã công bố “Giải thưởng Âm nhạc hòa bình thế giới” (WPMA). Sáu tên tuổi âm nhạc nổi tiếng thế giới được giải thưởng lần này là Bob Dylan, Conuntry Joe & the Fish, Hary Belafonte, Joan Baez, Peter, Paul & Mary và Trịnh Công Sơn. WPMA tôn vinh những người đã đem âm nhạc của mình cống hiến cho cuộc đấu tranh vì hòa bình và nhân đạo trên thế giới. Đây là sự kiện âm nhạc quốc tế lớn nhất Việt Nam từ trước tới nay!

Kể từ ca khúc đầu tiên “Ướt mi” công bố năm 1959, trải 40 năm sáng tác, Trịnh Công Sơn đã để lại gia sản trên 600 ca khúc lay động lòng người. Người ta chia ca khúc Trịnh thành “ba dòng”: Dòng trữ tình, dòng phản chiến và dòng giải thoát bản ngã! Lý thuyết là thế, nhưng tôi nghĩ dưới góc nhìn “hòa bình và nhân đạo” thì hầu như ca khúc nào của Trịnh cũng là vút lên từ tận cùng sâu thẳm của tình yêu cuộc sống và nỗi đau phận người. Đó chính là tầm cao, sự vĩnh cửu của âm nhạc Trịnh.

Nhưng phải nói dòng ca khúc phản chiến, ca khúc vì hòa bình của Trịnh Công Sơn đã góp một sức nặng lớn lao trong cuộc chiến đấu của nhân dân ta vì hòa bình và thống nhất Tổ Quốc. H.P. Ngọc Tường cho rằng: “...Từ năm 1966, trong vòng 10 năm, TCS là nhạc sĩ phản chiến duy nhất ở “miền Nam”. Nhạc sĩ yêu nước thì có nhiều người, nhưng nhạc sĩ phản chiến duy nhất chỉ có một”. Những bài hát trong các tập Ca khúc Da Vàng và Kinh Việt Nam, không mô tả chiến tranh, mà vạch ra những vết sẹo chiến tranh: Mẹ cầu cho em. Tuổi xanh đừng biến mất… Tiếng hát TCS là tiếng hát đòi được sống, đòi được làm người, đòi được hưởng hạnh phúc trên đất nước thanh bình: Yêu quê hương nước mắt lưng tròng. Người con gái ngồi mơ thanh bình… Người con gái chợt ôm tim mình. Trên da thơm vết máu loang dần… những ca khúc Chỉ có em, Chưa mất niềm tin, Người con gái Việt Nam da vàng, Kinh Việt nam, Đại bác ru đêm, Gia tài của Mẹ… luôn xoáy vào lòng người vết thương nhân loại, cất lên như tiếng kinh cầu nguyện cho số phận con người, nên có sức cuốn hút, tập hợp con người đứng lên chống chiến tranh rất lớn:

Đại bác đêm đêm dội về thành phố

Người phu quét đường dừng chổi đứng nghe

(Đại bác ru đêm)

Không chỉ “phản chiến”, âm nhạc Trịnh Công Sơn ở Sài Gòn trước ngày 30-4-1975 còn công khai rất nhiều bài hát về nỗi khát khao thống nhất đất nước: Huế-Sài Gòn-Hà Nội quê hương ơi sao vẫn còn xa… Việt Nam ơi còn bao lâu. Những con người ngồi nhớ thương nhau…. Ngày mai đây những con đường Nam-Bắc nở hoa… Ngày vui lớn sẽ qua trăm cầu… Mẹ dâng miếng cau mẹ dâng ngọn trầu… (Huế-Sài Gòn-Hà Nội).

Trịnh Công Sơn đã cùng bè bạn hát vang ở Sài Gòn ca khúc Nối vòng tay lớn loan tin thống nhất đất nước đến mỗi gia đình!

Mỗi ngày tôi chợt ngồi thiệt yên

Chợt nghĩ quê hương, nghĩ lại mình

Tôi chợt biết rằng vì sao tôi sống

Vì đất nước cần một trái tim…

Nhiều năm sau chiến tranh, Trịnh Công Sơn vẫn ám ảnh về nỗi đau chiến tranh và khát vọng hòa bình. Ca khúc Huyền thoại mẹ là một trong những bài hát hay nhất về mẹ anh hùng trong cuộc chiến đấu, hy sinh của dân tộc ta vì hòa bình và thống nhất đất nước. Sau giải phóng 1975, sinh viên học sinh miền Nam phải đi đào mương, làm thủy lợi khắc phục tàn tích chiến tranh, TCS đã làm ca khúc để động viên họ: Em ở nông trường, em ra biên giới/ Có những bước chân đi không về… Có tình yêu lớn bao trùm mọi thành kiến mới thấu hiểu được lòng người. TCS viết về mùa thu Hà Nội hay da diết: Hà Nội mùa thu/ Cây cơm nguội vàng/ Cây bàng lá đỏ/ Nằm kề bên nhau/ phố xưa nhà cổ/ mái ngói thâm nâu… là một trong những bài hát hay nhất về Hà Nội. Anh viết nhạc cho thiếu nhi Em sẽ là mùa Xuân của mẹ… cũng được trẻ em cả nước hát mấy chục năm nay .

Ca từ trong nhạc Trịnh Công Sơn là những áng thơ tuyệt tác. Đó là nhận xét của rất nhiều người. Nhà phê bình văn học Hoàng Ngọc Hiến gọi ca từ của bài hát Đêm thấy ta là thác đổ của TCS là là một trong những bài thơ tình hay nhất của thế kỷ 20. Ca từ cũng là một phần làm nên sức mạnh trường tồn của âm nhạc Trịnh. Bởi thế mà nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo, khi làm tập sách: “Trịnh Công Sơn - Một Cõi đi về” đã chọn in riêng trên 60 ca từ của Trịnh, in thành những bài thơ. Cách làm đó làm cho độc giả dễ nhận ra chất thơ bi tráng và sâu thẳm trong ca từ của Trịnh. Câu ca từ nào cũng là câu thơ hiện đại, ám ảnh:

Nghe bao nỗi đau trên hai bàn tay (Tôi đang lắng nghe)

Dưới vành nôi mọc từng nấm mộ

(Có một dòng sông đã qua đời)

Sống trong đời sống cần có một tấm lòng

Để làm gì em biết không

Để gió cuốn đi…( Để gió cuốn đi)

Ngày sau sỏi đá vẫn cần có nhau… (Diễm xưa).

Trịnh Công Sơn có hàng ngàn câu thơ viết ra từ cõi tâm linh, từ sự chiêm cảm của kiếp người. Ca khúc Trịnh là thế giới hiện sinh, cũng chính là tư tưởng Phật Giáo hiện hữu trong máu của anh. Huế là đất Phật. Trịnh bảo: “Huế và đạo Phật ảnh hưởng sâu đậm trên tình cảm thời thơ ấu của tôi”. Trịnh lại bảo: “Bậc thượng thừa của hiện sinh chính là ông Phật”. Những chữ như ‘hư vô’, ‘hư không’, ‘cõi đi về’, ‘Đóa hoa vô thường’, ‘ở trọ’, ‘cát bụi’ v.v... là ngôn ngữ Phật thường xuyên xuất hiện trong ca từ Trịnh: Con chim ở đậu cành tre/ Con cá ở trọ trong khe nước nguồn/ Tôi nay ở trọ trần gian/ Trăm năm về chốn xa xăm cuối trời… những lời ca đó là triết học, là nhân sinh thăm thẳm. Thật là những câu thơ thần linh!

LỜI KẾT

Ướt Mi ” là ca khúc do Trịnh Công Sơn sáng tác năm 1958, được Nhà xuất bản An Phú ấn hành tại Sài Gòn năm 1959. Có tài liệu cho rằng đây là tác phẩm đầu tay của Trịnh Công Sơn, nhưng theo lời nhạc sỹ kể lại thì trước đó ông đã sáng tác một số bài như Sương đêm, Chơi vơi.

“Rất nhiều bài hát đã được viết trước bài Ướt mi nhưng riêng bài Ướt mi thì tồn tại như một số phận của nó và của tôi” (Trịnh Công Sơn, Người hát rong qua nhiều thế hệ, NXB Trẻ, 2003).

Do đó, có thể coi đây là tác phẩm đầu tiên của TCS được công bố năm 1959, trải 40 năm sáng tác, TCS đã để lại gia sản trên 600 ca khúc lay động lòng người.

Âm nhạc Trịnh Công Sơn là âm nhạc vì con người nên ở lại mãi với hồn người, không biên giới, “cao hơn mọi thành kiến trên đời “(chữ của Anh Ngọc). Giải thưởng Âm nhạc hòa bình thế giới của Liên Hiệp Quốc là sự tôn vinh ở tầm cỡ thế giới về Di sản âm nhạc của Trịnh. Đây cũng là sự tôn vinh một nhân cách sống và bản lĩnh sáng tạo của một thiên tài âm nhạc. Với trên 600 ca khúc của TCS để lại là một phần của Di sản văn hóa Huế, tồn tại mãi với thời gian…

Tình khúc “Ướt Mi” - Trịnh Công Sơn

Ngoài hiên mưa rơi rơi/ Lòng ai như chơi vơi

Người ơi nước mắt hoen mi rồi/ Đừng khóc trong đêm mưa

Đừng than trong câu ca...

Buồn ơi trong đêm thâu/ Ôm ấp giùm ta nhé

Người em thương mưa ngâu/ Hay khóc sầu nhân thế

(Thanh Thúy khi hát “Giọt Mưa Thu” đã khóc sướt mướt)

Tình ta đêm về/ Có ấm từng cơn mơ em chưa...

(TCS chớm yêu Thanh Thúy)

Mưa lạnh lùng rơi rớt giữa đêm về/ Nghe não nề...

Mưa kéo dài lê thê những đêm khuya/ Lạnh ướt mi

Ai còn buồn khi lá rớt trong một cuối đông...

Ngoài hiên mưa rơi rơi/ Buồn dâng lên đôi môi

Buồn đau hoen ướt mi ai rồi/ Buồn đi trong đêm khuya

Buồn rơi theo đêm mưa

Còn mưa trong đêm nay/ Lòng em buồn biết mấy

Trời sao chưa thôi mưa/ Ôi mắt người em ấy

Từ đây thôi mờ/ Nước mắt buồn mi em ngây thơ...

PHẠM VŨ

(Tham khảo: Sách báo – Internet)

HAI CUỐN TIỂU THUYẾT

CỦA NGUYỄN BÍNH

- Những mối tình rất tiêu biểu cho tác giả “Lỡ bước sang ngang”.

- Nhiều chi tiết có liên quan đến tiểu sử được tiết lộ.

- Mấy bóng dáng bè bạn.

Nhiều nhà thơ nổi tiếng thời tiền chiến thường đồng thời có viết văn xuôi. Thâm Tâm đã viết Thuốc mê; Trần Huyền Trân đứng tên sau các tiểu thuyết Sau ánh sáng, Bóng người trên gác kinh; Anh Thơ có Răng đen. Về phần mình, Nguyễn Bính từng cho in nhiều kỳ trên báo rồi in thành sách hai tác phẩm tương đối dài hơi là Ngậm miệngHai người điên giữa kinh thành.

Ngậm miệng (N.M. - tròn 100 trang) là một thứ tiểu thuyết độc thoại. Nhân vật xưng tôi trong truyện tự kể lại mối tình của mình với một cô gái tên là Oanh. Nhưng đó là tình yêu một phía, tình yêu không được đáp lại. Thậm chí người con trai cũng chưa một lần dàn mặt trò chuyện với người mình yêu. Hết đứng đón để được thấy bóng dáng của nàng, chàng lại qua nhà đêm tối, trời mưa cũng đứng gần nhà nàng, chờ trong nhà… tắt đèn. Giận dỗi vì bất lực, hai lần chàng bỏ đi. Lần lên Thái Nguyên rồi ốm tương tư đến gần chết. Lần vào tận đồng đất Nam bộ xa xôi. Nhưng đi xa ít lâu chàng lại về trong tuyệt vọng. Vì Oanh vẫn không hề đoái hoài. Đúng ra, Oanh không thể gọi là một nhân vật trong N.M., đơn giản là vì Oanh không tự thân xuất hiện. Phần đầu tác phẩm, có đoạn tả Oanh đi lấy chồng, khiến tôi đứng nhìn mà xiết bao đau đớn. Nhưng đó không phải cảnh thật mà chỉ do chàng yêu quá, ngồi tưởng tượng ra. Gần cuối truyện có chương Động phòng hoa chúc dạ, tả ngày cưới của hai người nhưng chẳng qua cũng là câu chuyện ở trong giấc mơ, khi một mình chàng thi sĩ đang lăn lóc ở nơi phương trời xa lạ nằm mơ rồi vẽ ra trong đầu. Cuối truyện, tôi giận dữ nói với một người bạn: Nếu bây giờ tôi gặp Oanh, câu đầu tiên của tôi là bảo với nàng rằng: “Oanh ơi! Oanh có biết không? Quả thật tôi không yêu Oanh một tí nào cả”.

Hai người điên giữa kinh thành Hà Nội (HNĐGKTHN) dài hơn (139 trang) và có vẻ nhiều chất tiểu thuyết hơn. Hai nhân vật chính trong truyện là Tuấn và Điệp. Cả hai là những thi sĩ trẻ, nhưng đã trải qua nhiều đau đớn trên đường tình ái, nên rất bi quan mỗi khi bàn về phụ nữ. Theo Điệp và Tuấn “linh hồn họ đục như bùn và lòng họ đen như than” (họ đây là phụ nữ nói chung!). Một lần, chán quá, hai người nghĩ ra trò chơi kỳ cục: mua hoa xuống nghĩa trang thành phố - bấy giờ là nghĩa trang P.T. ở gần Bạch Mai - để xem có cô gái trẻ nào mới chết thì… đặt hoa lên mộ. Từ đó, cả Tuấn và Điệp đều hết lòng yêu Hoàng Lan, cô gái mà họ không hề biết mặt và đã chết từ mấy tháng trước. Điều này khiến bạn bè của họ như thi sĩ Trần, Quang… đều bảo họ điên. Tình cờ, một lần xuống mộ, hai chàng gặp mẹ và em gái Hoàng Lan. Họ mời Tuấn cùng Điệp đến chơi, rồi về gia đình trọ luôn thể. Nhưng đang sống trong mộng, bỗng nhiên một lần Điệp bắt gặp trong tấm gối cũ của Hoàng Lan - mà chàng thường gối - một xấp thư và ảnh. Hóa ra, trước khi chết, Hoàng Lan đâu phải trong trắng như Điệp đã tưởng. Báo tin cho Tuấn biết chuyện này mà lòng Điệp đau như dao cắt.

Đương thời, mối tình si của Nguyễn Bính với một cô gái tên Oanh ở Hà Đông đã được nhiều người chứng kiến. Trong hồi ký Những gương mặt, ở bài viết về Trúc Đường, Tô Hoài kể: “Một hôm, vào lúc chập tối, đương đi ở phố Hàng Bông, Nguyễn Bính bấm tôi: Oanh đấy! Oanh đấy! Tôi nhìn sang bên kia hè. Trời ơi! Oanh! (…) Một cô gái mặt tròn như chiếc bánh đúc, chít khăn sa-tanh đen kiểu các cô bán cau khô, hàng xén chợ tỉnh. Mà cái chàng “khách thơ” Nguyễn Bính đâu có quen biết gì người ta cho cam! Hình như chỉ biết là con một ông ách ông quản gì đó ở Hà Đông. Thế mà cứ rối cả lên”. Nhưng ở đây, chúng ta không bàn đến chuyện Oanh xấu hay đẹp, Oanh có yêu Nguyễn Bính hay không. Điều quan trọng hơn đối với người nghiên cứu lịch sử văn học: con người Nguyễn Bính bộc lộ qua mối tình này ra sao.

Nếu sự vắng bóng của Oanh trong N.M. có vẻ làm hại tới tác phẩm về mặt tiểu thuyết, thì để bù lại, nó tạo ra một khoảng trống để buộc Nguyễn Bính khai thác bản thân tỉ mỉ hơn. Qua thiên truyện này, ta được đọc những trang ông tự kể về quê quán ông (làng Thiện Vinh, có “thổ sản” rau cần và chuyên nghề làm bún), gia cảnh ông (mẹ mất sớm, thiếu người chăm sóc, lúc nào cũng cảm thấy “bị chôn sống giữa một gia đình hiu quạnh như bãi tha ma”). Lá thư nhân vật xưng tôi gửi cho ông anh Hữu Cương - có thể hiểu là thư Nguyễn Bính gửi cho nhà viết kịch Trúc Đường - là một đoạn tự bạch thành thực và cảm động. Trong khoảng 8 trang sách, Nguyễn Bính đã nói gần như đầy đủ về mình và gia đình mình. Ngoài ra, trong nhiều trang sách, người ta bắt gặp những ý tứ mà sau này Nguyễn Bính sẽ đưa vào thơ. Chẳng hạn, ở trang 22 tiểu thuyết N.M., Nguyễn Bính viết: “Tôi phụng thờ nàng hơn các vị tăng ni phụng thờ Đức Phật, tôi tôn sùng nàng gấp mấy lần người ta tôn sùng một tôn giáo. Tôi luôn luôn tụng kinh vì nàng, nhưng là tụng kinh ân ái”. Đọc đoạn này, người ta không khỏi nhớ tói mấy câu kết bài Lời yêu đương:

Ai yêu như tôi yêu nàng

Họp nhau lại, họp thành làng cho xinh

Chung nhau dựng một trường đình

Thờ riêng một vị thần linh là nàng

Điều này, người ta cũng thấy rõ trong tiểu thuyết HNĐGKTHN.

Tuy nhiên, điều cần nhấn mạnh ở HNĐGKTHN là ở chỗ khác.

Theo nhà thơ Hoàng Tấn cho biết, Nguyễn Bính thường tự nhận tiền thân của mình là bướm, và từng lấy bút hiệu là Điệp Lang. Trong thơ ông, mô-típ con bướm nhởn nhơ phong tình thường trở đi trở lại. Nhân vật Điệp trong HNĐGKTHN có nhiều nét nhang nhác con người Nguyễn Bính hàng ngày: cũng lối dễ xúc động “trông người con gái nào cũng thấy đẹp”, “gặp người con gái nào cũng nói ầm cả lên là yêu tha thiết yêu mặn mà”; cũng những cảm giác sâu nặng về truyền thống, vừa nhìn rặng hoa hòe điểm chấm vàng đã nhớ ngay chuyện ngày xưa sĩ tử đi thi.

Vậy đã rõ Điệp chính là Nguyễn Bính. Thế còn Tuấn, và Trần, Quang, hai người bạn làm thơ khác?

Theo chúng tôi tìm hiểu, Tuấn ở đây chắc chắn là hình ảnh của Thâm Tâm. Tên thật của Thâm Tâm là Nguyễn Tuấn Trình, thì chữ Tuấn chắc rút ở đấy ra, đấy là một lẽ. Lẽ thứ hai quan trọng hơn: Tuấn ở đây, cũng như Thâm Tâm ở ngoài đời, đều là loại người khắc khổ, nhìn đời một cách bi quan. Đặc biệt, Tuấn cũng từng yêu một cô gái trẻ, tên là Khánh, trong tình yêu cũng xen vào hình ảnh những bông hoa ti-gôn “dáng như tim vỡ”, rồi cô gái cũng bỏ đi lấy chồng, khiến Tuấn đời đời ôm hận. Tóm lại, toàn là chi tiết mượn từ đời riêng Thâm Tâm, trong đó có mối tình Thâm Tâm với T.T.KH. Còn Trần, thì không ai khác, là Trần Huyền Trân. Bộ ba Nguyễn Bính - Thâm Tâm - Trần Huyền Trân gắn bó với nhau từ hồi viết Tiểu thuyết thứ năm báo Bắc Hà, một mối gắn bó mà Nguyễn Bính từng mô tả “Không đào viên kết nghĩa - nhưng cũng thành tam anh”. Vả chăng, thời tiền chiến nếu có một thi sĩ nào mà thơ “điêu luyện, cổ kính, đẹp như một bức tranh Tàu”, như Nguyễn Bính tả trong HNĐGKTHN, thì người đó phải là Trần Huyền Trân. Sau hết, còn ai là Quang, một người bạn nữa của Tuấn và Điệp, chỉ hiện ra với mấy nét thoáng qua trong tác phẩm? Tác giả cho biết “Quang có gia đình êm ấm ở Hà Nội, nhưng lại thích đi giang hồ. Giang hồ đây chỉ có nghĩa là đi liêu biêu, nay đây mai đó để được làm thơ nhớ quê hương, nhớ mẹ, nhớ chị, nhớ tình nhân và nhớ hết mọi người”. Đây nữa, là chi tiết “thân hình anh to nhớn như voi, nhưng tính khí lại như đàn bà, rất hay khóc”. Tổng hợp lại, chúng tôi ngờ Quang đây chính là Quang Dũng, một cây bút đã khởi nghiệp ngay từ những năm 1943-1945, dù lúc ấy chưa được ai biết tới nhiều, trừ nhóm Bắc Hà.

Ngoài tiểu thuyết, Nguyễn Bính còn viết truyện ngắn. Một nhà nghiên cứu cho biết năm 1944, trong thời gian ở Sài Gòn, Nguyễn Bính có truyện ngắn Không đất cắm dùi in ở tờ báo Thanh niên Đông Pháp, được báo này tặng giải nhất trong một cuộc thi. Trước đó, hồi nhà thơ đang ở Hà Nội, tác phẩm văn xuôi ký tên Nguyễn Bính in rải rác trên các báo cũng có khá nhiều. Bản thân chúng tôi mới sưu tầm được một truyện ngắn độc đáo của Nguyễn Bính mang tên Nước hồ sen. Tác giả đề rõ mình viết truyện này ở đền Yên Phú, Hà Đông và cho in năm 1940.

Nhưng hãy trở lại với N.M. và HNĐGKTHN, ngoài giá trị tự thân, cả hai cuốn tiểu thuyết này là những tài liệu quý, giúp ta hiểu thêm Nguyễn Bính và bạn bè cùng làm văn nghệ đương thời. Chúng xứng đáng có mặt trong một Toàn tập Nguyễn Bính nghe nói đang được chuẩn bị.

VƯƠNG TRÍ NHÀN - HOÀNG KIM THƯ st.

THÁP EIFFEL

BIỂU TƯỢNG CỦA NƯỚC PHÁP

LÊ THÁI

(Reader’s Digest)

Tài năng xuất chúng của một kỹ sư Pháp tạo nên một kiệt tác vĩnh cửu cho kinh đô ánh sáng Ba Lê.

Tháp Eiffel là một kiến trúc vĩ đại nhứt thế giới?

Nhiều người đã nghĩ như vậy. Nhưng cũng có nhiều người nghĩ tới Taj Mahal, tới Giáo đường Saint Paul, tới Empire State hoặc những kiến trúc danh tiếng khác. Tuy vậy, đa số vẫn chấp nhận tháp Eiffel là một kiến trúc hết sức đặc biệt.

Ngọn tháp danh tiếng - có dáng chữ A - đứng sừng sững một cách đơn độc là biểu tượng của thành phố Ba Lê, tượng trưng cho Pháp quốc. Nhưng trước khi được nhìn nhận và thán phục, tôn trọng, tháp Eiffel đã có một thời kỳ bị nhạo báng, chê bai, thù ghét.

Năm 1880, Pháp vừa quên được cuộc chiến nhục nhã Pháp Phổ và tìm lại được ngôi vị cao quý của mình. Năm 1889, Pháp tổ chức một cuộc triển lãm cộng đồng, đưa ra những phương tiện mới về kế hoạch Hòa bình lâu dài. Một bức tranh to lớn về ngọn tháp Eiffel cao 300m được trưng bày.

Chánh phủ đã mở cuộc đấu thầu về cái tháp vĩ đại sẽ được thiết lập trên Champ de Mars, giữa trường võ bị quốc gia và sông Seine, bảy trăm đồ hình được gởi tới. Đồ hình của Gustave Eiffel được chọn.

Lúc đó, Eiffel được 53 tuổi và là một kỹ sư danh tiếng đã từng xây một đập nước ở Nga, một xưởng kỹ nghệ ở Bolivia, một đền thờ ở Manila, những nút chặn ở kinh Panama, một nhà ga xe lửa ở Budapest, những chiếc cầu ở nhiều quốc gia. Ngoài ra, ông cũng có xây những hải cảng, và những chiếc cầu dành cho xe lửa qua thung lũng nguy hiểm. Nhưng ông chỉ thích thú nhứt công việc dựng tháp và lấy tên ông đặt cho công trình này.

Khởi công xây cất

Việc đào móng xây tháp bắt đầu ngày 28-1-1887. Trước đó một tuần Ba Lê náo động hẳn lên vì một tuyên ngôn phản đối:

“Chúng tôi: những nhà văn, họa sĩ, nhà điêu khắc, kiến trúc sư, những người yêu tha thiết sự toàn vẹn của thành phố Ba Lê tuyệt vời phản đối với tất cả sự phẫn nộ và sức mạnh của chúng tôi, phản đối sự thiết lập phi lý và quái đản tháp Eiffel…!!

Những nhà phê bình còn gán cho tháp Eiffel những cái tên tồi tệ, thô bỉ như khối sắt kiêu ngạo, bộ xương ô uế, viên thuốc nhét hậu môn vv… Họ không tiếc một lời chê bai nào nhưng không ai nhìn đến khía cạnh chuyên môn và kỹ thuật tinh xảo trong việc xây cất tháp này.

Việc đào móng phải sâu đến 46 bộ trên mặt đất gần sông Seine và 16 bộ dưới lòng sông và phải mất đến 5 tháng. Dựng sườn thứ nhứt cao 189 bộ, nối liền với bốn cái chân mất 9 tháng. Tất cả đều bóng láng và nằm ở những vị trí nhứt định thật chính xác. Tất cả các lỗ đinh ốc đều đứng và bắt cứng, chặt chẽ. Từng thứ nhì cao gấp hai nhưng nhỏ hơn và chỉ mất có 4 tháng.

Khi các cây đà sắt trên đỉnh cao gần 748 bộ được bắc lên, nhiều nhà phê bình lại lên tiếng chỉ trích sẽ khó đứng vững nếu có địa chấn. Thử tưởng tượng nó sụp đổ xuống sẽ gây tai hại như thế nào cũng đủ rởn tóc gáy. Và cả thành phố lại một phen nghẹt thở khi ngọn tháp được trổ nóc để xây thêm một từng nữa.

Từng thứ ba được thiết lập trên cao độ 906 bộ. Đây là từng chót của tháp. Nhưng ông Eiffel lại xây thêm trên từng chót đó một ổ nhỏ dành làm phòng riêng cho ông. Nơi từng thứ tư ngoài dự liệu này, ông Eiffel tiếp các du khách, các nhà nghiên cứu về khí động học (aero dynamic) và ngắm nhìn phong cảnh chung quanh thành phố (có thể nhìn trong khoảng 50 dặm).

Đo cho thật chính xác, tháp Eiffel cao 986 bộ (300 thước 65). Chót tháp là một mặt bằng phẳng nhỏ phơi trần như một sân thượng có một chỗ để cắm cột cờ, một cột thu lôi và một vòng lan can bao bọc. Chiếc đinh vít cuối cùng được đóng vào ngày 30-9-1889, hoàn tất việc xây cất chiếc tháp khổng lồ này.

Hôm sau, ông Eiffel mời 50 tu sĩ lên tận cái phòng nhỏ như ổ chim của ông trên từng chót vót để cử hành một nghi lễ hoàn tất. Nhưng các tu sĩ đã thối chí khi nghe ông nói sẽ phải trèo thang chớ không sử dụng thang máy.

Hầu hết đã lần lượt bỏ cuộc dọc đường. Cuối cùng chỉ có 20 tu sĩ bền gan trèo được 1585 bực thang để vào phòng đó. Ông còn phải leo lên đỉnh tháp (1710 bực) thượng cờ tam tài của nước Pháp lên. Liền khi đó, từ từng thứ hai, 21 phát đại bác nổ lên chào mừng với những tiếng reo hò vang dậy khắp nơi.

Ông Eiffel kiêu hãnh tuyên bố:

- Chỉ có nước Pháp là quốc gia duy nhứt trên thế giới có cột cờ cao hơn 300 thước.

Sáu tuần sau, tháp được mở cửa tiếp du khách. Nhưng thang máy vẫn chưa được sử dụng. Tính ra có 29.922 người tò mò đến xem trong tuần lễ đầu.

Theo thống kê thì kiến trúc này gồm có 15.000 miếng sắt với nhiều kiểu mẫu khác nhau họp thành hai triệu rưỡi đinh vít, bù lon và vật dụng linh tinh khác.

Một vài con số

Cho đến khi tòa nhà chọc trời Chrysler ở Nữu Ước được cất lên (cao 1.040 bộ), tháp Eiffel là một kiến trúc cao nhứt thế giới. Trong vòng 40 năm, người ta ghi nhận:

- Một cơn bão mạnh (111 dặm 1 giờ) đập mạnh vào ngọn tháp đẩy nó nghiêng đi một chút, cách đường thẳng đứng 4,7 inches (khoảng 1 tấc rưỡi).

- Vào tháng giêng trời lạnh chiều cao của tháp co lại khoảng hơn 1 tấc.

- Cứ 7 năm, trọng lượng của tháp tăng lên khoảng 45 tấn.

- Trọng lượng 8.918 gallons sơn dùng để sơn tháp xấp xỉ 200.000 thước vuông Anh. 30 người thợ trèo lên các từng tháp để quét rửa phải làm việc suốt 8 tháng mới xong và sử dụng một số lượng bàn chải khổng lồ.

- Khi chiếc thang máy đầu tiên được sử dụng vào tháng 5-1889 (sau này tháp có 4 thang máy) có 23.202 du khách viếng tháp trong một ngày.

- Số du khách được ghi nhận trong năm là 1.968.287 người.

- Trên phương diện người kỹ sư, ông Eiffel hài lòng nhứt là được ngồi… đếm đầu du khách. Trên phương diện kinh tế, ông được họ thưởng gần 6 triệu quan (số tiền này bằng 3 phần tư số tiền xây tháp vì hợp đồng ký với ông không phải chỉ để xây tháp mà còn để tu bổ trong vòng 20 năm).

Sử dụng vào quân sự

Đến năm 1903, Eiffel khuyến khích Gustave Ferrié dùng tháp thí nghiệm hệ thống điện báo dùng cho quân sự. Cuộc thí nghiệm đã thành công rực rỡ. Năm 1904, trên tháp đã liên lạc được với quân đội ở cách đó 250 dặm. Rồi một đêm tháng 9 năm 1914, đài truyền tin trên tháp đã giúp ngăn chặn kịp thời cuộc đổ bộ tấn công vào mặt trận La Marne. Do đó, đài được coi là trạm gác của nước Pháp.

Một công trình bất hủ

Khế ước đầu tiên chánh phủ Pháp ký với ông Eiffel kéo dài đến năm 1926. Nhưng vào năm 1919, nhà cầm quyền nhớ ơn ông nên kéo dài thêm 20 năm nữa. Lúc đó ông đã 87 tuổi nhưng vẫn còn mạnh khỏe, nhanh nhẹn. Năm 89 tuổi ông được yêu cầu đem vương miện Hoàng tử lên cái ổ chim trên đỉnh tháp. Ông chỉ chết sau ngày sinh nhựt thứ 90 của ông 8 ngày.

Điều làm dân Pháp đau lòng hơn hết là khi Đức chiếm Pháp, đài truyền tin trên tháp bị bọn phát xít phá hủy, lá cờ tam tài cũng bị chúng hạ xuống. Mãi đến ngày Ba Lê được giải phóng (năm 1944), một lính Pháp đã được lịnh trèo lên cắm lại lá cờ tam tài.

Đến năm 1957, đài truyền hình Pháp được đặt trên đỉnh tháp. Các chuyên viên cho là lá cờ có thể làm trở ngại kỹ thuật phát hình. Mọi người cũng không còn được dịp tự do thưởng thức công trình đặc biệt của Eiffel nữa.

Cho đến những năm gần đây chiến dịch quảng cáo rầm rộ cho tháp được tái phát động (có lẽ do sự xuất hiện tháp kiểu Eiffel ở Nhựt). Năm 1972 có trên 3 triệu du khách đến viếng tháp. Số này tính ra đông gấp đôi số du khách viếng viện bảo tàng Louvre, gấp năm lần du khách viếng cuộc triển lãm ở Arc de Triomphe.

Những chuyện bên lề

Đã nhiều lần, các thể thao gia và các tay săn chuyên nghiệp tìm cách trèo khơi khơi ngoài hông tháp, không cần sử dụng các bực thang hoặc thang máy. Một con voi cũng đã được kéo lên tháp rồi một người đã đi xe đạp từ trên xuống.

Một phi công đã tính làm chuyện phi thường, lái phi cơ chui qua những khung tròn nhưng đã thất bại, chết thảm. Một thợ may cũng đã liều lĩnh nhảy từ đỉnh tháp xuống để vừa quảng cáo một loại áo có thể làm dù vừa làm áo mưa của anh sáng chế. Kết quả anh thợ may cũng bị chết thảm.

Một chuyện động trời hơn nữa là tay đại bịp Victor Lustig đã dám bán tháp cho những người mua sắt vụn (sẽ kể đến trong một bài khác).

Ngày nay, “Người thiếu phụ của Champ de Mars” vẫn còn tồn tại và là một công trình vĩ đại, tuyệt luận đã đem lại lợi ích không ít về phương diện tài chánh và vật lý. Tuy đã có một vài việc sửa chữa nhưng không quan trọng. Điều đáng chú ý là không một con đinh vít nào phải thay cả.

Tháp Eiffel vẫn cao ráo, mảnh khảnh như lúc mới ra đời. Dưới mắt người Pháp nó là biểu tượng của nước Pháp. Và nó sẽ tồn tại mãi mãi như là Một Định mệnh đã gắn liền với dân tộc Pháp.

Bs. NGUYỄN LÂN-ĐÍNH st.


Phụ Bản II

TẾT & TẾT VIỆT NAM

Khi tôi nói tôi viết về Tết Việt Nam để ghi lại một nét về phong tục Việt Nam mà tôi là một công dân ở Saigòn đã chứng kiến thì có người hỏi anh có so sánh với Tết của người Trung Hoa không? Về phần nầy, nếu Tết Việt Nam có giống với Tết của Trung Hoa cũng là lẽ đương nhiên thôi vì Việt Nam ta bị Trung Hoa dô hộ gần 1.000 năm. Nhưng về phần nầy tôi cũng lạm bàn thêm một chút. Trong giảng khóa về khảo cổ học, dựa trên các hình chạm trổ trên trống đồng Đông Sơn (Thanh Hóa), giáo sư Vũ Khắc Khoan có nói tới học giả Goloubew (Pháp) nghiên cứu giống người Dayak ở đảo Bornéo và người Mường ở thượng du Bắc Việt của Việt Nam, cả hai cùng gốc giống Lạc Việt là Anh-đô-nê-giêng. Tới nay, cảnh sanh hoạt tang lễ của người Dayak và Mường vẫn còn giống như cảnh điêu khắc trên trống đồng. Người Dayak tới Bornéo bằng đường thủy. Giáo sư Ngữ học Lê Ngọc Trụ thì cho rằng người Mường là người Việt vì tiếng nói giống nhau nhưng âm nặng nhẹ khác nhau. Ta nói “Gạo”, người Mường nói “Gậu” vì vùng núi giọng nặng hơn vùng đồng bằng. Người Mường là một bộ phận người Việt trốn sự đô hộ của Trung Hoa cả ngàn năm và mất liên lạc với người Việt ở đồng bằng. Không biết có phải khi nói về khảo cứu qua hình khắc trên trống đồng Đông Sơn mà giáo sư Khoan (trường Đại học Văn khoa - Saigòn) nói luôn đến dân Lạc Việt tới định cư ở lục địa Châu Á từ phía Nam sông Hoàng Hà trở xuống hay giáo sư nào tôi không nhớ rõ. Hiện nay vết tích dân Việt còn, đó là vùng Bách Việt ở Nam Trung Hoa. Người Trung Hoa là dân Hán từ phía Bắc tràn xuống, tới thời vua Vũ nhà Hạ họ mới vượt được sông Hoàng Hà xuống phía Nam ở vùng sông Vị là nơi hẹp nhứt. Ở đó vua Vũ được trời ban cho Lạc Thư là sách kinh điển về văn minh Việt tộc. Tết Việt Nam và Trung Hoa nếu giống nhau thì đó là người Hoa học của người Việt hay có ảnh hưởng qua lại giữa Việt Hoa cũng nên. Việc nầy bàn đến chắc chắn sẽ tốn nhiều công sức và giấy mực lắm nên tôi không bàn đến.

Về Tết Việt Nam, mỗi năm cứ sau 20 tháng chạp âm lịch thì không khí Tết bắt đầu. Trong các quán, ngoài nhang đèn ra còn có mứt gừng, mứt bí, mứt dừa và thèo lèo. Thèo lèo là những thỏi kẹo mè đen, mè trắng, đậu phọng nhỏ bằng ngón tay và ngắn hơn ngón tay trỏ của người lớn một chút với các hột trứng chim là hột đậu phọng được bọc bột hay đường màu trắng và hơi cứng. Năm 2016 nầy tôi không thấy bày bán. Người ta cũng bán món cò bay ngựa chạy để đưa ông Táo về trời. Đó là tấm giấy có vẽ hình cò bay và ngựa chạy với ba cây nhang và vài tấm giấy tiền vàng bạc. Hình như ở miền Bắc thì đưa ông Táo bằng cá chép. Nhiều nhà đã bắt đầu lau cửa, cửa kiếng… cạo sơn hay chà giấy nhám vào các cửa sắt để sơn lại. Có nhà còn quét vôi lại tường nhà hay tường rào… Sau ngày 23 tháng chạp thì có hiện tượng người ta xách nhang, đèn, rượu, thịt, bánh, trái đi tảo mộ. Tục tảo mộ của người Việt là 25 tháng chạp, nhưng ngày nay, để tranh thủ không nghỉ ở cơ quan, người ta tổ chức đi tảo mộ vào ngày thứ bảy hay chúa nhựt sau rằm tháng chạp.

Cũng từ 25 tháng chạp trở đi không khí Tết đã rộn lên, chợ bán nhiều hoa, điểm bán hoa tự phát rộ lên làm cảnh quang thành phố tươi hẳn lên. Lúc nầy, nhà nhà rửa nhà, sơn nhà. Chiều 30 tháng chạp, đường phố tươi hẳn lên, vệ sinh cũng được dọn sạch sẽ.

Sáng mùng một tháng giêng là ngày mùng một Tết, đi ngoài đường, từ người lớn đến trẻ em đều mặc quần áo mới cả. Nhiều nhà đóng cửa đưa nhau về nội hay ngoại. Mùng một Tết cha, mùng ba Tết thầy. Nhà nào còn cụ già, con cháu đông thì họ tề tựu về cúng kiến, chúc tụng nhau và ăn uống vui vẻ. Tựu họp đông như vậy thì trò cờ bạc cũng diễn ra. Trẻ em thì chơi lô tô hay lắc bầu cua, người lớn thì đánh bài sáu lá còn gọi là cắc tê…

Ngày mùng hai thì láng giềng tới thăm nhau. Tới thì đốt nhang cắm lên lư hương và lạy ông bà. Ngày nay thì chỉ còn xá thôi chớ không lạy như xưa nữa. Tới nhà nào cũng được mời mứt bánh, uống trà. Trẻ con thì được cho tiền lấy hên gọi là lì xì.

Sanh hoạt trong nhà thì sáng sớm cúng mứt, bánh trên bàn thờ và các trang thờ. Trưa cúng cơm, chiều cúng cơm trên bàn thờ. Hễ cúng thì có kiến. Trên các trang thờ đều có cúng mứt bánh cả. Tối thì cúng mứt bánh. Tới trưa mùng bốn là đưa ông bà. Tết chấm dứt. Tuy nhiên ngày nay nhiều nhà đưa ông bà vào ngày mùng ba Tết vì trước 1975, ở miền Nam, công chức đi làm vào ngày mùng bốn nên đưa ông bà vào ngày mùng ba cho tiện. Nay đã thành thói quen rồi.

Việc ăn Tết của Việt Nam ta thì thế nào? Nên giữ hay nên bỏ? Diễn tiến Tết thì:

Ngày 30 tháng chạp thì cúng rước ông bà, tối cúng rước ông Táo, nửa đêm lúc 12 giờ khuya hay không giờ ngày mùng một Tết thì cúng giao thừa. Sau khi cúng giao thừa xong, cả nhà ngồi quanh để coi xẻ dưa cầu may. Dưa đỏ tươi là mừng năm mới đầy may mắn. Ngày nay, trái dưa nào cũng đỏ cả nên việc xẻ dưa không còn nữa. Ngày nay giao thừa có đốt pháo bông nên coi pháo bông xong thì cúng nước, dọn vật cúng xong thì niềm vui Tết cũng no rồi nên đi ngủ mà thôi. Ngày xưa, khi cúng giao thừa thì nhà cửa đã vén khéo, trang trí đẹp, mọi người không còn gì bận tâm nên chăm chú vào việc vui Tết. Đèn sáng, khói hương nghi ngút tỏa lên như tới tận trời, tiếng pháo mừng xuân nổ dòn… Mọi người nhìn vô bàn cúng như có cái gì thiêng liêng phảng phất. Cúng xong, mọi người như còn nuối tiếc cái không khí thiêng liêng của phút giao thừa. Người cao niên thì còn muốn bói xem năm mới địa phương mình có gặp điều lành, làm ăn phát đạt chăng, các cụ còn nấn ná ngồi ở hàng tư uống trà để lắng nghe cầm tinh xuất thế, đó là tiếng con vật gì kêu đầu tiên. Nếu nghe tiếng chó sủa là mừng vì tiếng sủa “Gâu! Gâu!...” cũng giống như tiếng “Giầu! Giầu!...” vậy.

Nhà ở thành phố, nhiều nhà không có sân, không có cổng rào nên người ăn mày hễ thấy mở cửa thì xông vô xin, có khi vô hẳn trong nhà, đuổi không ra, phải cho tiền mới ra. Đó là điều không hay vì sáng ngày đầu năm, ai cũng muốn người có tên tốt hay giàu có hay có chức có quyền vô nhà để lấy hên. Không biết có phải vì vậy mà ngày nay nhiều người có xu hướng sau khi cúng giao thừa xong thì người ta đi chùa lễ Phật và hái lộc đầu năm rồi về nhà, coi như chính mình xông đất cho nhà mình.

Tục xông đất chỉ là mê tín dị đoan, tuy vậy, người ăn mặc lôi thôi tới nhà, dẫu là ngày thường người ta vẫn thấy kém vui nên tục xông đất không có gì đáng nói. Thôi thì sáng mùng một Tết để con cháu tới nhà ông bà, anh em tới nhà lẫn nhau là ổn. Cách đi chùa hái lộc, thường thì tới chùa lạy Phật, ai cũng bỏ một ít tiền cúng dường rồi sau đó hái lộc, có khi lấy trái cây cúng trên bàn Phật hay ra sân chùa hái bông, bẻ nhánh cây… đem về. Sự việc nầy có khi là một sự mua bán cũng nên. Nếu tránh việc người không ưng ý xông đất, ta đi dạo phố Tết độ vài mươi phút rồi về nhà là ổn.

Ngày nay với nhu cầu coi TV, nhà hẹp, người ta không dựng bàn thờ nữa nhưng với nhà đông anh em, có người thờ rồi thì ta không thờ nữa là lẽ đương nhiên. Nếu có thờ ông Địa, ông Thần Tài (dưới đất), Phật… trên một cái trang hẹp trên cao thì ta cũng nên lập một cái trang để thờ ông bà để ngày giỗ, Tết có chỗ cúng vái cho trang nghiêm. Làm như vậy, ta giữ được phong tục cổ truyền của dân tộc, ta tự hào về nét riêng của ta. Sách “Thời đại Hùng Vương” của Văn Tân, Nguyễn Linh, Lê Văn Lan, Nguyễn Đổng Chi và Hoàng Hưng ghi: “Một đặc trưng của Văn hóa Lạc Việt trong thời đại Hùng Vương là tục thờ cúng tổ tiên và anh hùng cứu quốc”.

Tôi thấy cũng cần lạm bàn ra ngoài việc Tết một chút đó là cúng rước, đưa ông bà. Nhiều người cho rằng cúng gì cũng phải có một mâm đất đai tức là cúng chỗ ăn chỗ ở. Cúng rước ông bà vào trưa 30 Tết thì cúng đất đai là được nhưng cúng cơm trưa mùng một Tết và đưa ông bà mà cúng đất đai thì vô lý vì lẽ khi cúng đất đai người ta thường vái: “Nay tôi kiến một mâm cho đất đai viên trạch, mời quý vị về ăn uống và phò hộ vong linh ông, bà tôi về nhậm lễ cúng và ăn uống”. Cúng cơm trưa mùng một Tết thì cho rằng đó là lễ cúng cơm đầu tiên của năm mới, đó là lễ cúng trọng đại nên phải có mâm đất đai. Từ chiều mùng một trở đi thì cúng cơm không cần cúng đất đai nữa. Nhưng mùng bốn Tết cúng đưa ông bà mà cúng đất đai là vô lý vì ông bà đang ở trong nhà ra đi thì đâu cần mấy ông đất đai làm gì.

Những người đưa ông bà vào ngày mùng ba Tết, vì trùng với cúng Việt Lề nên họ không bày cúng đất đai. Họ chỉ bày một bàn ở giữa nhà với mấy chén cháo và một con gà luộc để nguyên với một dĩa gỏi để cúng. Trên bàn thờ thì bày cơm, canh với bánh Tét hay bánh chưng để đưa ông bà. Như vậy, có người đưa ông bà không cúng đất đai. Theo tôi các lễ cúng trong bốn ngày Tết không cúng đất đai cho đỡ phiền. Vả lại, cúng gì ta cũng cúng ông Địa, theo tôi đó là ông Thần cai quản vùng đất đó, cúng ông Địa tức là cúng đất đai. Giữa ông Địa và năm tên thổi kèn đánh trống của vua Tần Thỉ Hoàng thì ai lớn hơn? Có lẽ ông Địa có bề thế lớn hơn.

Giữ truyền thống dân tộc nhưng ta cũng cần thích nghi với hoàn cảnh sống hiện tại. Ngày nay cuộc sống khó khăn hơn xưa, không phải tháng giêng là tháng ăn chơi nữa. Mọi người tranh thủ làm để kiếm sống nên Tết, nhiều gia đình tổ chức đi chơi cũng phải. Do đó, ăn Tết cũng cần được cải biến nhưng vẫn giữ bản sắc dân tộc.

Tôi cũng ghi nhận việc ăn Tết không cùng ngày với Việt Nam là Cambodia ở cạnh Việt Nam ta. Họ ăn Tết vào tháng ba âm lịch. Ngày tết thì do ông sư ở chùa coi mà họ gọi là ông Lục. Ngày Tết có thể là đầu tháng như năm nay hay giữa tháng, cuối tháng tùy năm. Trước Tết ba ngày, họ có cúng đưa ông Táo mà họ gọi là ông Trại. Tới ngày Tết (giống như ngày 30 Tết của ta), chiều đỏ đèn họ cúng rước ông Táo. Sau đó thì cúng rước ông bà. Giờ rước ông bà cũng do ông Lục coi. Nhà nào có bàn thờ thì dọn cơm canh lên bàn thờ, nếu không thì dọn lên một cái bàn để giữa nhà rồi lên đèn, đốt nhang cúng rước. Họ không đốt giấy tiền vàng bạc gì cả. Rước ông bà xong thì thôi chớ không cúng giao thừa giữa đêm như ta. Ba ngày Tết họ không cúng gì và sanh hoạt như ngày thường nhưng họ có đi chùa làm lễ tắm Phật. Nước thì được nấu ở nhà với lá cây tạo thơm hay cho dầu thơm vô rồi đem vô chùa để lên bàn Phật, sau khi sư tụng kinh xong thì lấy nước đó tắm Phật tức là rải nước thơm đó lên tượng Phật. Sau đó lấy nước còn dư đem về nhà để tắm các cột nhà là xong. Tới ngày thứ ba thì cúng đưa ông bà, trên bàn cúng, ngoài cơm canh bánh trái còn có một chiếc thuyền làm bằng vỏ cây chuối, trước mũi là người đàn bà bơi, sau lái là người đàn ông chèo. Trong thuyền có để gạo, muối, bánh trái và mấy đồng bạc thiệt. Khi lễ cúng ở bàn thờ xong, mọi người đem chiếc thuyền ra bờ sông để xuống sông rồi xô đi. Như vậy là lễ Tết chấm dứt.

Thử nhìn sang Tết ở Tây phương, cụ thể là ở Mỹ, theo lời kể của một sinh viên du học ở Mỹ năm năm: gần tới lễ NOEL 25-12, dân Mỹ quét dọn, sơn, trang trí máng cỏ để mừng lễ Giáng sinh. Ngày NOEL, có nhà sau khi đi nhà thờ, họ họp nhau thành từng nhóm bạn bè ăn mừng tại nhà hay ra nhà hàng, chỉ một ngày thôi. Sanh hoạt trở lại bình thường nhưng trang trí mừng Noel vẫn giữ nguyên.

Tới ngày Tết 01-01 thì chủ yếu là gia đình sum họp. họ tề tựu tại nhà ăn uống vui vẻ nhưng cũng chỉ một ngày thôi. Có người thì du di xin nghỉ phép từ Noel tới Tết 01-01 để đi du lịch, có lẽ đây là khuynh hướng chung đấy. Nhìn chung, việc chuẩn bị ăn tết, các dân tộc đều chuẩn bị từ vài ngày đến cả tuần nhưng nội dung thì không giống nhau. Thôi thì phong tục ai nấy giữ. Việt tộc thì có truyền thống thờ kính tổ tiên nên việc tảo mộ, rước và cúng ông bà như vậy cũng tốt.

Cả năm không ăn uống gì, ăn ba ngày Tết liệu có thấm vào đâu! Do đó, theo tôi, các tục lệ cúng giữ trọn ngày mùng một Tết. Từ mùng hai trở đi, sáng ta cúng nước bằng mứt bánh, bánh tét hay bánh chưng thì cắt dây để trên dĩa trên bàn thờ. Trưa, chiều, tối thì không cúng nữa. Các cụ có đói thì ăn bánh. Nếu có rảnh, tối ta cúng mứt bánh để sau đó đem xuống nhâm nhi uống trà cho vui. Tới mùng ba đưa ông bà là xong. Như vậy con cháu được tự do đi chơi, đi du lịch. Ngày mùng hai, đi chúc Tết láng giềng và bà con các nơi. Tục nầy giữ thì tốt nhưng có lẽ ta không có thì giờ để đi. Nhà ở thành phố san sát nhau, ta tới ai, bỏ ai? Dừng lại ở nhà nào? Thôi thì ta chỉ tới bạn bè thân thiết và người láng giềng thường lui tới mà thôi. Ngày xưa, ở cùng xóm thường có quan hệ bà con với nhau hay quan hệ nghề nghiệp nhưng yếu tố nầy ngày nay ở thành phố hay cận thành phố đã mất. Nhà ở cạnh nhau nhưng người làm cơ quan nầy, người làm cơ quan kia, người làm nghề nầy người làm nghề nọ, lệ tới nhau chỉ làm phiền nhau thôi chưa kể là tới nhà người ho lao lờn thuốc cũng ngại lắm. Thôi thì cứ tùy nghi không nên ràng buộc.

Tóm lại, Tết ta vẫn giữ tục cúng, đưa, rước ông Táo, ông bà nhưng cúng cơm trưa và chiều chỉ cúng ngày mùng một thôi.

Ngày mùng một Tết gia đình sum hợp, mùng hai trở đi thì sanh hoạt tự do. Nếu có tới mừng tuổi ông bà thì tới bạn thân thôi chớ không cần tới từng nhà láng giềng. Mùng ba đưa ông bà là xong.

Ta cũng có thể du di cho tới rằm tháng giêng để nay hẹn tới nhà người nầy, mai tới nhà người kia để liên hoan Tết cho vẹn tình với nhau.

Quận Tư-Khánh Hội-Saigòn 23-02-2016

(Ngày 16 tháng Giêng Bính Thân)

NHỰT THANH

MÙA GIÁNG SINH

Một bài thơ lỡ bị bỏ quên trong dịp Giáng Sinh vừa qua

của CLB Bình Thạnh (Tây Ninh)

giao lưu với CLB Sách Xưa & Nay.

Ta có duyên với Chúa sao giao lưu nơi đất Chúa ?

Quá ngỡ ngàng nghe câu chuyện ngày xưa

Điểm tô văn thơ “câu lạc bộ sách” kế thừa

Sài Gòn xưa và nay tuyệt vời mười năm chẵn

*

Giọng nói dịu dàng từng câu văng vẳng

Rất ngọt ngào nơi đất Chúa thân yêu

Có bài thơ lưu loát nhớ thương nhiều

Có tiếng hát chan hòa tình đất nước

*

Sống lành mạnh ta cùng nhau tiến bước

Anh thấy vui trong ánh mắt với nụ cười

Nhìn Thánh giá lòng tin sáng rạng ngời

Cất giọng ngâm nguồn thơ cùng một ý

*

Đến đây mới thấy con người chân thiện mỹ

Văn hóa trong lành như trăng sáng lòng ta

Noel năm nay tình thơ bằng hữu giao hòa

Đón Giáng sinh trong mùa thơ tươi thắm

*

Em nhớ đó, đến với thơ anh càng say đắm

Gieo rắc ân tình cho trọn kiếp cầm ca

Buổi giao lưu hai câu lạc bộ rất đậm đà

Tình thân thiết nơi giáo đường ta tôn kính

THANH NHÀN - CLB Thơ Xã Bình Thạnh

Tháng 12-2015

NHỚ ĐẤNG SINH THÀNH

Mẹ cha là tất cả ai ơi !

Dù đã về bên cõi vĩnh hằng

Vẫn theo con từng bước từng giây

Nhiều câu chuyện kể về mẹ cha

Cũng là bao bọc chở che con mình

Mấy ai đền hết công ơn sinh thành.

QUAN THÚY MAI

12-5-2013

ĐƯỜNG VỀ NHÀ ANH

Đường về nhà anh có hoa thơm trái ngọt

Có mẹ già xem dâu như con gái thân yêu

Trong những ngày chung sống đại gia đình êm ấm

Anh chị em nhường nhịn, con cháu thuận hòa

Cũng có lúc gay gắt, rồi cũng qua mau

Rồi anh đi xa, vẫn nếp nhà như thế

Cuộc đời là vô thường, ta biết thế mà thôi.

QUAN THÚY MAI

06-6-2013

MỘNG ẢO

Ôi ! em vẻ đẹp thiên thần

Long lanh như mắt hứa thầm yêu thương

Chênh chao cảnh sắc vô thường

Càng xây mộng ảo, càng vương vấn sầu

*

Biết bao lý thuyết tô màu

Bao người theo đuổi mà đâu thấy gì ?

“Bánh vẽ” tuy đẹp, ích chi

Chỉ có “bánh thật” giúp khi đói lòng

*

Thiên đường có thật hay không ?

Biển đời vời vợi mênh mông vô bờ…

Ảo mộng mãi mãi là mộng ảo

Mơ ngắn dài rốt cuộc vẫn là mơ

LÊ MINH CHỬ

LỌ TRO

Vào chùa thấy có lọ tro

Hỏi ra mới biết “quan to” thuở nào

Ngày xưa chức trọng, quyền cao

“Lộc” đâu cứ thấy ào ào chảy vô

Vững vàng xây dựng cơ đồ

Giàu sang có số, cơ hồ “Trời ban”

Tưởng rằng mãi mãi bình an

Giờ đây cũng đống tro tàn mà thôi

LÊ MINH CHỬ

LÊN ĐỀN ĐẦU XUÂN

Đầu xuân lên đền thánh

Nghe tiếng hát dịu dàng

Nghe lời kinh ấm áp

Nghe tiếng vọng yêu thương

*

Đầu xuân lên đền thánh

Bỗng thấy mình thơ ngây

Như mùa xuân xưa ấy

Lên đền mẹ dắt tay

*

Đầu xuân lên đền thánh

Thầm lặng những mong cầu

Xin ơn thiêng đổ xuống

Cho hạnh phúc thắm màu

*

Xin cho mùa xuân mới

Niềm tin tỏa thơm hương

Năm Đức tin thắp sáng

Ơn Chúa tràn muôn phương

12/3/2016

BS. DOANLINH

TẾT QUÊ

Dán đôi câu đối đầu năm

Một đời ngẫm ngợi sâu đằm lòng ta

Bánh dầy trời rộng bao la

Bánh chưng mặt đất vuông mà có nhân !

Suối mênh mông, tết tinh thần

Giữa thời hiện đại trong ngần tết quê

“Giấy rách phải giữ lấy lề

Dẫu cho nát giỏ bờ tre vẫn còn…”

Thảo thơm thanh thản tâm hồn

Tranh gà, tranh lợn cội nguồn kết tinh

Làng quê không khí thanh bình

Muôn đời giếng nước mái đình, mảnh trăng

Chở che khí hậu mùa màng

Chở che sông núi vững vàng năm canh

Trong câu lục bát an lành

Sắc hồn dân tộc thắm tình đào mai…

12/3/2016

BS. DOANLINH

SÓNG DẬP GIÓ VÙI…

Chiều nay mưa thảm gió sầu

Ngoài hiên trắng xóa

          Giọt ngâu ngậm ngùi

Đường đời vạn nẻo ngược xuôi

Thời gian trầm lắng

             Chưa nguôi nỗi buồn

Lặng nhìn đếm hạt mưa tuôn

Hoàng hôn tím thẫm

             Đêm buông lạnh lùng

Ngoài kia giông bão mịt mùng

Con chim mỏi cánh…

            Gảy cung nhạc lòng

Phím tơ tắt lịm hoài mong

Ngàn muôn cách trở

             Người không quay về

*

Mưa giăng xóa ánh trăng thề

Mưa giăng giá buốt…

           Tái tê ngõ hồn

Niềm đau

           nghèn nghẹn dập dồn

Từ lâu,

Ta cố vùi chôn

Thế mà…

Mưa nguồn chớp bể phong ba

Sóng xô gió cuốn…

            Sương sa phũ phàng

Ngoài kia…

           nửa mảnh trời tang

Mây đen trùm phủ

          bẽ bàng xót thương

*

Cách xa nhau

         mấy dặm đường

Cách xa biết mấy

        Trùng dương… thẫn thờ

Còn gì đâu

Để đợi chờ

Còn gì đâu

        Để ước mơ một ngày

Tạnh mưa nắng ấm quang mây

Con chim ríu rít

             Mê say thỏa nguyền

Bên đèn

          Vui cảnh đoàn viên

Gió hòa khúc nhạc

          Giao duyên tuyệt vời…

NGÀN PHƯƠNG

THƠ… THƠ…

Thơ là mộng

          Là trăng, là gió thoảng

Là gấm hoa, nhung lụa, tóc buông dài

Là lẽ sống, tình yêu

          Là tất cả

Của con tim…

          ngàn kiếp vẫn u hoài

Thơ là nắng, là mây

           Là sóng biển

Là núi cao,

           Thung lũng suối êm trôi

Là nụ hồng chớm nở

           chạm bờ môi

Là khúc nhạc

           Tương tư và bất diệt

NGÀN PHƯƠNG

CỎ MỀM CHO EM

Ngắt một ngọn cỏ mềm
Run em cài lên ngực
Mầm xanh như bật thức
Ánh cỏ mềm lung liêng

Em mơn man nhánh cỏ
Mùa vui mắt ngoan hiền
Con chuồn chuồn đưa nhẹ
Cảnh mỏng mềm chung chiêng

Xanh trải dát chân đồi
Mướt ran như gọi mời
Bàn chân em thấm nhẹ
Ập òa vạt sương đêm

Ban mai kìa nắng tỏa
Long lanh nhánh cỏ mềm
Nghe như nghìn nốt nhạc
Tâm hồn em bay lên

Có đàn chim không vội
Vẽ một vòng chao nghiêng
Cánh rung như khẽ gọi
Lòng trời em xanh thêm

ĐÀM LAN

HOA NÀO ĐẸP NHẤT

- Nghe vẻ nghe ve nghe tôi đọc vè

Cái thứ hoa hòe là hoa Ngẫu Hứng

Hoa không chịu đứng tên gọi Giả Quỳ

Sống lâu cực kỳ là hoa Vạn Thọ

Nở chưa đúng ngọ là hoa Mười Giờ

Nở giữa ao hồ hoa Sen hoa Súng

Người đời ca tụng đích thực hoa Hồng

Gần gũi nhà nông hoa Gạo hoa Lúa

Sáng tươi chiều úa là hoa Phù Dung

Hoa thơm khắp cùng hoa Lan hoa Sứ

Ban đêm lo ngủ là hoa Nở Ngày

Chẳng chút hương bay phải chăng hoa Giấy

Ngày tết mới thấy hoa Mai hoa Đào

Hè đỏ rực màu là hoa Phượng Vĩ

Luộc ăn hết ý hoa Bí Rợ Vàng

Đón mùa xuân sang thêm nàng hoa Cúc

Thứ hoa Dâm Bụt nở đẹp hàng rào

Hái phải dùng sào là hoa So Đũa

Nhìn mặt trời múa là hoa Hướng Dương

Xin chớ xem thường canh hoa Điên Điển

Sắc màu lưu luyến hoa Tím Bằng Lăng

Khó ai sánh bằng đó là hoa Huệ

Nhiều loài vô kể là hoa Phong Lan

Cúng Phật trên bàn hoa Bông Trang Trắng

Dạn dày mưa nắng hoa Mướp trên giàn

Trắng thơm nhất làng chánh tông hoa Bưởi

Nhìn không được ngửi là hoa Mồng Gà

Lấy chồng xứ xa là hoa Thiên Lý

Đi không để ý gặp hoa Cỏ May

Đụng tới rụt tay là hoa Mắc Cỡ

Nửa đêm mới nở phải nói hoa Quỳnh

Trị bịnh tài tình là hoa Thược Dược

Rụng đầy mặt nước biệt hiệu hoa Tràm

Khác tên Việt Nam Layơn lạ hoắc

Đẹp mày đẹp mặt thứ hoa Tường Vi

Trả tiền rồi đi là hoa Mua Trắng

Nói năng sổn sẳng chính hoa Loa Kèn

Trôi nổi từng quen Lục Bình hoa tím

Không cần trang điểm có hoa Móng Tay

Trà thơm, hương bay là hoa Nhài ướp

Coi chừng gai xước tránh hoa Xương Rồng

(Vọng cổ) Sanh để nối giòng là một giống hoa biết nói

biết kêu biết gọi biết chào biết hỏi

biết cười biết nói là giống hoa… ơ… Người!

Tôi yêu suốt đời là hoa Trinh Nữ

Vừa thô vừa bự hoa Chuối trong vườn

Nho nhỏ dễ thương là hoa Cau Trắng

Thích ở đồi vắng màu tím hoa Sim

Không sắc lặng im người kêu hoa Đá

Kiếm tìm vất vả là giống hoa Tình

Hoa yêu hòa bình, hoa trong nòng Súng

Tôi đang lúng túng mời bạn kể thêm.

- Ai thấy cũng thèm đó là hoa Hậu

Không ở trong chậu đó là hoa Dừa

Người nào cũng ưa đó là hoa Sữa

Không cần chọn lựa thích hoa Sống Đời

Xinh đẹp tuyệt vời là hoa Ngũ Sắc

Hoa nằm trước mặt là hoa Đồng Tiền

Xem thấy dáng duyên hoa Tai, hoa Liễu

Nũng nịu mềm yếu hoa Dây Tơ Hồng

Nên vợ nên chồng là nhờ hoa Cưới

Cuộc đời mát rượi Cúc Trắng, Cúc Hồng

Mềm mại như nhung đó là hoa Nấm

Màu xanh không đậm là loại hoa Bèo

Nhiều kẻ chạy theo là hoa Ngọc Nữ

Bên hoa Bất Tử có hoa Trường Sinh

Duyên dáng đẹp xinh là hoa Chuỗi Ngọc

Quyết tâm rèn học nên hoa Trạng Nguyên

Bên hoa Đỗ Quyên là hoa Thạch Thảo

Thường hay kiêu ngạo là chị Mẫu Đơn

Đánh giá thua hơn Tóc Tiên chẳng kém

Chọn chồng thường ném quả hoa Tú Cầu

Bất kể sang giàu là Sử Quân Tử

Xong làn đám cưới Xác Pháo nổ giòn

Tiệc tùng vui ngon là tôi kết thúc

Kính chúc bà con dồi dào sức khỏe.

Đầu Xuân Bính Tuất 2006

HỒ KIỂNG – NGÔ BÁ MẠNH

QUY NHƠN

Quy Nhơn đẹp quá phải không em?

Quy Nhơn ngường ngượng mỗi chiều êm

Bàn tay mềm nắm bàn tay mạnh

Bước lạ bềnh bồng những phố quen

*

Quy Nhơn tóc dài như sóng đêm

Ru anh êm ái giấc mơ hiền

Mai kia sông núi mình quang rạng

Dành trọn đời anh để ngắm em

Quy Nhơn hoa đào trên nét môi

Nên lời em hát cũng hồng tươi

Nở ra phơi phới niềm vui nụ

Sáng giữa lòng anh những đóa cười.

*

Quy Nhơn lên trường mỗi sớm mai

Anh ra núi lớn nối sông dài

Bao giờ hai nửa trăng về một

Em có so bì ai nhớ ai ?

Ngày xa Quy Nhơn ngày dài thêm

Quy Nhơn hun hút phía mây chìm

Chiều xưa còn đọng trên Gành Ráng

Chút nắng vàng phai áo lụa mềm ?

*

“Quy Nhơn chiều chiều thấy tủi thân

Nụ hôn thầm gởi gió về Nam…”

Anh ngoài sông núi xa lồng lộng

Hướng một phương trời nhớ Tuyết Vân !

Thiếu Khanh

(Nghìn Xưa Để Lại)

CÙNG BẠN THƠ CA

Nói ra thật quá nực cười

Xuân về Tết đến mà lười làm thơ

Nhìn xem cây cảnh ngẩn ngơ

Rồi thì hồi tưởng mộng mơ bao điều

Mồng một con cháu khá nhiều

Đến thăm chúc tụng biết điều làm sao

Thăm chồng van vái tiêu dao

Nén nhang tưởng niệm biết bao nỗi lòng

Giờ đây ghi lại vài dòng

Gọi là tâm sự lòng vòng đầu năm

Cuộc đời sống có bao lăm

Chung vui bè bạn hỏi thăm chúc mừng

Hội thơ sôi nổi tưng bừng

Ngày càng vọng tiếng lẫy lừng khắp nơi

Mong sao con cháu vui chơi

Ông Bà Cha Mẹ xả hơi bạn bè

Lâu lâu nâng cốc rượu chè

Hứng lên tổ chức hội hè vui thay

Cầu mong luôn gặp điều may

Giao lưu Thơ Nhạc mê say Vè Chòi.

Năm Bính Thân-Tháng Giêng

Vũ Thùy Hương

NỖI LÒNG CỦA MẸ

Tặng con Thân Vũ

Con tôi nay đã lớn rồi

Mà sao lo lắng như hồi bé thơ

Trời nắng luôn sợ bụi dơ

Mưa rơi nước ngập ngẩn ngơ công trình

Lái xe thì sợ thình lình

Bao người chạy ẩu làm mình nguy nan

Sinh ra mong mỏi bình an

Lớn hơn tí nữa vái van điều lành

Đến khi con đã trưởng thành

Lo âu đối tượng nhưng đành giả ngơ

Giờ đây mẹ quá bơ vơ

Vẫn luôn suy nghĩ ước mơ Phật Trời

Cầu mong con cháu vào chơi

Gia đình hòa hợp đầy vơi nghĩa tình

Kéo lê kiếp sống một mình

Mẹ luôn van vái an bình cháu con.

Tháng Giêng Bính Thân

Vũ Thùy Hương

VẠN NẺO SƠN KHÊ

Mới có quen nhau chỉ mấy lần

Mà sao cảm thấy rất tình thân

Nụ cười vui vẻ duyên hoa thắm

Lời nói thanh tao đẹp cõi trần

Bỗng chốc tâm tư đà quyến luyến

Giờ đây trí não vẫn bâng khuâng

Thời gian thấm thoắt thêm vương vấn

Vạn nẻo sơn khê chẳng mấy gần !...

Thanh Châu

TÌNH NỒNG THẮM

Chở nhau rộn rã niềm vui

Ngồi trên xe đạp thuận xuôi dòng đời

Bên nhau nói chuyện vui cười

Hòa cùng vận chuyển với người chung quanh

Thấy xe phản ứng cho nhanh

Thong dong nẻo trống khi phanh kẹt đường

Lối đi phải biết nhịn nhường

Bảo vệ hạnh phúc cho trường tồn lâu

Có anh trước, có em sau

Đôi ta âu yếm ôm nhau trọn đời!...

Thanh Châu

KÈO NÀI

Con đứng lên đi, đứng lên đi

Chỉ mấy hạt mưa lấm bên lề

Có chi làm phiền ta như thế

Có chi cản được bước phiêu du.

*

Cứ mãi ngồi quanh chốn bịt bùng

Làm sao rồi thấy được mùa xuân ?

Làm sao có thể qua eo núi

Tìm về con suối nước ngọt trong ?

*

Sau này con nếm trải cuộc đời

Mấy khi vui hưởng trọn thảnh thơi

Mấy khi an nhàn trong tháp biếc

Nghĩ suy, rồi hãy nhập cuộc chơi !

*

Con đứng lên mau, đứng lên mau

Kìa trời quang đã úa đường chiều

Hãy đi cho chân không mỏi gối !

Hãy về cho xóm nhỏ reo vui !

*

Hãy nhớ cuộc vui vẫn lẫn sầu

Hạnh phúc có mãi mãi bền lâu

Chính ở con tim còn tha thiết

Với giòng đời thấm đẫm gửi trao.

*

Hãy gửi cho mây gánh nặng lòng

Hãy gửi cho hoa những bâng khuâng

Ngân nga trong đêm câu thơ cũ

Khẽ cười cho mỗi nhớ mông lung !

*

Con đứng lên đi, đứng lên đi

Chút ít mưa thôi, có sá gì

Chút ít buồn trong đời sẽ tới

Chỉ là mưa nhỏ, chỉ ngô nghê !

LAM TRẦN (07.12.2013)

DẤU CHÂN XƯA

Ai gởi cho tôi bài thơ buồn

Bài thơ thương nhớ, giọt mưa tuôn

Một ngày cuối hạ mùa ly biệt

Quên lời ước hẹn đã vấn vương…

 Phạm Thị Minh-Hưng

SEN HỒNG

Ơ kìa một búp Sen hồng
Cánh xinh rạng rỡ hương nồng dưới trăng
Mơ màng tắm ánh nguyệt hằng
Em là ước mộng hoang đàng tình tôi

Tháng Giêng bát ngát chơi vơi
Có ai hò hẹn rối bời giấc mơ
Hồn tôi quá đỗi ngu ngơ
Bàng hoàng viết vội vần thơ dại khờ...

Sen ơi sao nỡ hững hờ
Tình tôi cánh bướm lạc bờ trăng sao !
Sen hồng em, đóa thanh cao
Ru tình mộng ảo lao đao đá buồn...

Tình tôi bát ngát mưa nguồn
Mơ hồ ngọt lịm ngõ hồn giăng tơ...
Xuân về một cõi trời thơ
Tình Sen ấp ủ... bơ vơ, muộn màng

Phạm Thị Minh-Hưng

ĐỪNG BẮT TRÁI TIM

LẶNG CÂM

Cánh cửa vẫy gọi bầu trời

Lá nói rì rào với gió

Kiến đi tha mồi về tổ

Gặp nhau vội vã gật đầu

Từng nhịp ngắn dài thành câu

Người tù nói bằng tiếng gõ

Con người cần ăn cần thở

Nhưng còn cần gấp trăm lần

Được chia niềm vui nỗi nhớ

Đừng bắt trái tim lặng câm

LÊ NGUYÊN

CƠN MƯA ĐẦU MÙA

Lại được nghe tiếng mưa trên mái ngói

Những hạt mưa đan chéo đuổi theo nhau

Mưa vỡ òa chợt ngập ngừng bối rối

Thấm vào lòng có rửa được niềm đau

Như người thân trở về không lối hẹn

Mà có khi ta là kẻ vô tình

Mây từ phương xa tận đầu rừng cuối biển

Làm hạt mưa cho đất khát khao xanh

LÊ NGUYÊN 2002

CHIẾN SĨ VIỆT NAM (1)

Tay súng tay gươm vẹn chữ tòng

Gương người chiến sĩ khắp tây đông

Anh hùng Lê Lợi lừng danh sử

Liệt nữ Trưng Vương rạng má hồng

Đã tỏ lòng trung cùng đất nước

Từng đem chí cả với non sông

Ai ơi tiến bước luôn theo bước

Dân tộc Việt Nam vẫn giống dòng.

LANG NGUYÊN

(1) Giải nhì “Báo Thời Đại” Hà Nội 2015

CHƠI THƠ

Ngán nỗi thơ Đường kén khách chơi

Giao lưu xướng họa bạn cùng thời

Tâm tư gởi trọn trong trang sách

Trí óc mãi tìm ngoài cuộc đời

Trau chuốt câu thơ vừa ý đẹp

Chọn lừa từ ngữ đạt câu lời

Tám câu bảy chữ không trùng lắp

Đối chỉnh cho câu thật tuyệt vời.

LANG NGUYÊN

THƠ ĐƯỜNG LUẬT

Họa vần bài “Chơi thơ” của thi sĩ LANG NGUYÊN

Quả thật Đường thi lựa bạn chơi

Họa thơ đối chữ cổ kim thời

Thi nhân đâu phải ai đều thích

Gieo câu tám bảy mãi trong đời

“Giai nhân tàng ẩn thư trung” đẹp

Văn chương lưu giữ mấy nghìn lời

Cảm xúc theo mùa xuân thu lại

Chọn lọc sao cho đến tuyệt vời

HOÀI LY

SINH NHẬT TÔI

Tặng riêng nhà thơ Lang Nguyên

Một đời cô đơn tôi cô đơn

Sáu bảy năm qua buồn nhiều hơn

Gió thổi ngang trời lòng lạnh giá

Mưa mùa thu xuống ngập đường trơn

*

Một đời cô đơn tôi cô đơn

Trăng cũng dường như biết tủi hờn

Vườn khuya lá trút bao phiền muộn

Một bóng bên thềm thấm cô đơn

*

Một đời cô đơn tôi cô đơn

Trăm năm nào ai tỏ nguồn cơn

Sáu bảy thu vàng tôi quạnh quẽ

Vàng son một kiếp đã héo mòn

*

Một đời cô đơn tôi cô đơn

Nỗi niềm lặng lẽ gửi trên non

Tôi giấu tình tôi vào đêm tối

Mộng ước ngày thơ buổi trăng tròn

*

Một đời cô đơn tôi cô đơn

Người nơi chốn cũ nay có còn

Nhìn sương hoa cỏ thầm nhớ đến

Thôi, kể làm gì thuở trăng non

08/10/2015

HOÀI LY

SỐNG VUI

Nhẩm tính đã tròn tuổi bảy mươi

Cuộc đời lận đận vẫn vui cười

Gia đình mạnh khỏe thăm kính Phật

Con cháu bình an đi vui chơi

Thắng cảnh mỗi nơi đều đa dạng

Sách vở học hành cũng đến nơi

Đất nước mở mang khu du lịch

Xóa đói giảm nghèo không bỏ lơi

QUANG BỈNH

SỐNG KHỎE

Thấm thoát bảy mươi niên tuổi đời

Lòng luôn rạng rỡ nụ cười tươi

Bạn bè thi phú tình thân mến

Con cháu gia đình đã ổn ngơi

Sáng ngày thể dục luôn luyện tập

Tối đến giao lưu với bạn mời

Làm thơ học nhạc cần niêm luật

Đến bến trăm năm cũng tới chơi

QUANG BỈNH

NƯỚC MẮT

Thượng đế đem mầm xanh

Gieo trên khắp hoàn cầu

Nhưng lại tưới nước không đều

Nên có chỗ thành rừng sâu rậm rạp

Lại có nơi thành sa mạc xác xơ

Thượng đế đã sinh ra đủ mọi giống nòi

Nhưng lại khóa chúng trong vòng tròn sinh thái

Có loài hiền lành gặm cỏ

Có loài chuyên xé thịt moi gan

Rồi Thượng đế lại phải sinh ra

Vào phút chót muộn màng

Nước mắt

Để xót thương cho những giống loài xấu số

Phải chăng cũng là sự công bằng của Thượng đế

Khi đã sinh ra nhiều hơn nước mắt cho chính loài người

Bởi họ là chúa tể muôn loài

Nhưng cũng là nạn nhân trong chính họ

Thượng đế đã sinh ra sức bình sinh và trí tuệ

Cài đặt trong khắp mọi người

Nhưng tình thương lại không được tưới đều

Nên có kẻ trở thành thánh nhân

Có người trở thành quỷ dữ

Trong vòng sinh thái riêng

Nước mắt đã ngập tràn lịch sử

Để xót thương thân phận yếu mềm…

VÕ KIM CƯƠNG

TRONG NHÀ

Non sông dù đã thay

Mặt người thì vẫn cũ

Đi hết một vòng đời

Lại gặp mình thuở nhỏ

*

Chim ưng ăn thịt vịt (*)

Người xưa đã thế à ?

Nhìn cõi lòng con cháu

Biết cội nguồn ông cha

*

Danh dự là tài sản

Cha giữ, dành cho con

Con chỉ lớn, chỉ khôn

Khi sống vì người khác

*

Bảo con, con chẳng hiểu

Dạy cháu, cháu chẳng nghe

Đành mình nói với mình

Chán rồi, không nói nữa…

Điền Trì 1998

Trần Nhuận Minh

(*) Lời Trần Khánh Dư, danh tướng đời Trần

IN THE HOUSE

Although the homeland has changed

Man’s face remains the same

Going through a life circle

One again met one in one’s infancy

*

The hawk eats duck (1)

Were ancient people also like that ?

Looking at the offsprings’ heart

One knows the source of ancestors

*

Honour is the property

I keep for you my child

You’ll only grow up and become wise

When living for other people’s welfare

*

Telling you, you don’t understand

Teaching my nephew, he doesn’t

           want to listen and obey

I had to talk to myself

I’m so fed up and I don’t want to talk anymore…

Điền Trì 1998

Trần Nhuận Minh - Translated by Vũ Anh Tuấn

(1) Words by Trần Khánh Dư, famous general under the Trần dynasty.

NHÀ THƠ VÀ KẺ TRỘM

Nhà thơ ngủ thường mở toang các cửa

Buộc lỏng bốn dải màn vào bốn chùm sao

Ông không biết đêm đêm những tên đầu trộm

Qua cửa nhà ông đều lặng đứng cúi chào…

Bồ Hòn 6-1989

Trần Nhuận Minh

THE POET AND THE THIEF

The poet often sleeps with doors wide opened

Binding loosely the four mosquito-net bands

on four clusters of stars

He doesn’t know that every night, the thieves

That go across his house, always stand in silence

to bow down and salute…

Bồ Hòn 6-1989

Trần Nhuận Minh - Translated by Vũ Anh Tuấn

QUẢNG NGÃI

CÓ TÊN CẨM THÀNH

Điều cần thiết và lý thú tìm hiểu vì sao thành Quảng Ngãi được gọi là Cẩm Thành?

Theo Đại Nam Nhất Thống Chí và những người cao tuổi còn sống, thành Quảng Ngãi hình vuông, chu vi khoảng 2.000m, cao 4m, có 3 cửa: Đông, Tây và Bắc; bên trên các cửa là vọng lâu mái cong, xung quanh thành có hào rộng 20m, sâu 4m bao bọc, vào trong thành phải đi qua các cổng xây bằng gạch cuốn, có lan can hai bên. Trong thành có nhiều đường ngang dọc mà con đường nối liền cửa Tây tới cửa Đông là một trong những con đường chính. Hai bên con đường này là những dinh thự, phía Nam đường (trọng yếu nhất) là hoàng cung, về sau có thêm dinh công sứ Pháp, phía Bắc đường là dinh các quan lại Nam triều. Cũng ở phía Bắc, trước nhà dây thép (tức sở Bưu điện) có vườn hoa trồng nhiều loại hoa cây cảnh như tùng, thiên tuế, trắc bá diệp…

Cho tới trước tháng 8 năm 1945, nội thành Quảng Ngãi vẫn còn như một khu rừng xanh mịt, những loài cây hình thành ba tầng cao thấp. Tầng cao là các cây dầu lai, chim chim, gòn, xoài, tầng giữa có mù u, sầu đông, mít; tầng thấp có mận, khế, nhãn, đặc biệt có rất nhiều nhãn lồng dầy cơm… Các tầng cây lá đó từng loài có những sắc độ lục diệp khác nhau: xanh sẫm, xanh ngắt, xanh non tơ, xanh ửng vàng, xanh phớt bạc. Ẩn hiện giữa trùng điệp các gam màu xanh trong mùa hoa trái là những chùm hoa xoài màu trắng nhụy vàng, hoa chim chim màu đỏ đậm, những chùm trái sầu đông tròn thon màu thiên lý nhẹ, trái mù u hình màu xanh sẫm, trái dầu lai hình bánh xe màu xanh non… Cả một mảng màu thiên nhiên dưới nắng và gió chiều chuyển động nhẹ nhàng, lấp la lấp lánh, gợi nên những mỹ cảm nhẹ và lắng sâu.

Vùng tỉnh lỵ cũng như khắp tỉnh Quảng Ngãi trước kia có ngót 50 nghề thủ công, nhưng tuyệt nhiên không có nghề dệt gấm. Vậy mà thành Quảng Ngãi cũng mang tên Cẩm Thành và cả vùng tỉnh lỵ Quảng Ngãi được gọi là Cẩm Thành xứ.

Phải chăng vị “tao nhân mặc khách” nào đó của Việt Nam, đứng trước cảnh đẹp thiên tạo và nhân tạo của thành Quảng Ngãi, đã có rung cảm thẩm mỹ như nhà thơ Đường xưa, liên tưởng tới một bức gấm khổng lồ mà đặt cho nó cái tên Cẩm Thành để sau đó cả vùng tỉnh lỵ tọa lạc trên xã Chánh Lộc cũng được gọi là Cẩm Thành xứ và cuối cùng được nhân dân Quảng Ngãi coi là biểu tượng của tỉnh mình.

Cẩm Thành thi hứng

(Thơ đường luật của Thường Quân)

Về đã hai phen với Cẩm Thành

Toàn vùng thu gọn một khung tranh

Bên này Thiên Ấn trời soi núi

Đằng nọ Phê Vân bút dựng gành

Trà Khúc trầm đầu rồng tắm mát

Vệ Giang in dáng nước hòa xanh

Dành riêng Quảng Phú ngồi trường mộng

Thiên chức hoa rừng quả xứng danh

BÙI ĐẸP st.

TÔI KHÔNG BAO GIỜ

PHẢI CAI THUỐC LÁ

LẦN THỨ HAI !

Ngồi trong quán cà phê, anh bạn già lâu ngày mới gặp lại rút gói ba số mời tôi một điếu. Anh bật lửa châm điếu thuốc cho mình, rồi đưa bật lửa cho tôi. Tôi thổ thổ đầu lọc điếu thuốc xuống mặt bàn, nói:

- Tôi sẽ không bao giờ phải cai thuốc lá lần thứ hai!

Anh bạn thở một hơi khói thuốc, vỗ đùi, khẳng định:

- Phải. Tôi cũng vậy. Vợ con nói gì thì nói. Tôi cứ hút.

Tôi nói:

- Có lẽ không có gì dễ dàng và hấp dẫn bằng chuyện cai thuốc lá nhỉ?

Anh bạn phì hơi thuốc, trợn mắt:

- Dễ sao được! Cực thấy mẹ chớ hấp dẫn cái nỗi gì?

- Không dễ và hấp dẫn sao có nhiều người cai thuốc lá đến hàng chục lần?

Tôi hỏi:

- Thậm chí có người cai cả trăm lần. Cứ cai được năm bẩy bữa nửa tháng lại hút lại… rồi cai lại. Có người cai được vài ngày lại hút lại. Rồi cai tiếp. Phải hấp dẫn lắm người ta mới cai nhiều lần vậy chớ.

Anh bạn nhìn tôi lom lom:

- Ông cai được mấy lần?

- Một lần!

- Rồi ông định bao giờ… cai tiếp?

Anh bạn cười cười hỏi.

- Tôi đã nói không bao giờ cai lần thứ hai mà.

Anh bạn ngửa mặt nhả khói thuốc với đôi mắt mơ màng:

- Ừ, tôi nhớ hồi ở chung đơn vị, ông đã đốt một ngày một gói Pall Mall. Từ đó đến nay trên 45 năm, ông phải đốt hai gói một ngày chớ cai làm sao được. Thôi, chết cho chết. Chẳng còn bao lâu nữa, còn sống ngày nào cứ hút cái đã.

- Cho đến năm 1983, tôi hút thuốc lá được trên hai mươi năm - 21 năm. Từ trước năm 1970 đã “tăng đô” mỗi ngày một gói. Sau năm 1975 làm gì có Pall Mall nữa. Ngày trước chê Ruby Quân Tiếp Vụ, đến sau 75 có được Ruby Quân Tiếp Vụ mà hút đã là thần tiên.

Anh bạn cười:

- Chỉ có thuốc đen Mai, Hoa Mai, và Dalat khét lẹt và đắng khé cả cổ. Hút mà nhớ và thèm Bastos Xanh. Tôi nhớ dường như khoảng năm 1978 xuất hiện “Du Lịch có cán”. Đó là thứ thuốc điếu sang trọng thời bấy giờ.

- Thuốc ngoại nhập lậu thì có Samit và Jet cũng phổ biến, tôi góp thêm. Nhưng lúc bấy giờ mình làm nông dân ở vùng kinh tế mới, làm gì có tiền mà hút mỗi ngày một gói “thuốc có cán!” Ngay cả Mai và Hoa Mai hay Dalat bao giấy lẹp xẹp mà anh nói đắng khét cả cổ cũng đã không có mà hút. Thuốc chỉ được Thương Nghiệp bán phân phối mỗi hộ mỗi tháng vài gói. Trước khi đưa thuốc cho mình, họ xé đầu gói thuốc ra, để mình khỏi mang đi bán lại cho “con buôn”. Thật là một thời man rợ! Vài gói thuốc đen một tháng thì có đâu đủ hút, nói chi bán lại. Mình phải mua thêm thuốc bán chui bên ngoài. Và thời đó nhiều nơi xuất hiện loại thuốc chui bỏ bao nylông 20 điếu, có trời biết đó có phải lá đu đủ khô hay không! Tôi hút bị đắng cổ và ho. Giận quá, bèn nghĩ chuyện bỏ thuốc lá.

Anh bạn hất hàm:

- Rồi có bỏ không? Bỏ được mấy ngày?

- Hút mỗi ngày một gói thuốc suốt 21 năm, làm sao nhất đán nói bỏ là bỏ ngay được! Phải bỏ từng bước chớ.

- Ông bỏ được… mấy bước? Anh bạn cười cười.

Tôi vẫn vân vê điếu thuốc ba số giữa hai ngón tay mà chưa châm lửa. Tôi kể: “Thoạt đầu, tôi đặt ra cho mình một quy luật: không mua thuốc cả bao nữa, mà mua từng điếu. Thèm một điếu thuốc mà phải đi bộ từ nhà tôi ra tới chỗ cô bán thuốc lá lẻ ngoài đường, mỗi ngày hơn mười lần đi về như vậy cũng khiến mình thấy bất tiện và thử thách sự kiên nhẫn lắm chớ, nhất là những ngày mưa gió. Sai con đi hoài thì nó cằn nhằn. Rồi ra tới nơi chỉ mua một điếu thôi, cô bán thuốc lẻ cũng không vui. Vì sự bất tiện như vậy, tôi rút lại mỗi ngày chỉ hút ba điếu thuốc. Buổi sáng đi uống cà phê, tôi mua luôn một lần ba điếu. Điếu thuốc đầu ngày hút khi uống cà phê. Anh biết Ba Hoàng không? Ba Hoàng dân Đại Lộc…”

- Đâu phải dân Đại Lộc thì ai cũng biết nhau. Nhưng tôi Tiên Phước mà. Mà sao lại nói qua chuyện Ba Hoàng? Ba Hoàng Đại Lộc rồi sao?

“Anh ấy chết từ mấy năm nay rồi.” Tôi tiếp ngay trước khi anh bạn kịp bực mình vì câu chuyện đầu Ngô mình Sở của tôi. “Tôi hỏi anh về Ba Hoàng, vì Ba Hoàng là người uống cà phê mà không hút thuốc lá. Lần nào gặp nhau ở quán cà phê ngoài đường lộ tôi cũng chê uống cà phê mà không hút thuốc lá là không thưởng thức hết hương vị tuyệt vời của hai thứ đó kết hợp với nhau. Hớp một ngụm cà phê nóng và rít một hơi thuốc lá, như anh làm nãy giờ, thì mới cảm nhận hết sự sảng khoái đã đời chớ. Nên tôi dành điếu thuốc đầu ngày để hút khi uống cà phê. Sau bữa ăn sáng thì không hút thuốc. Hai điếu thuốc còn lại dành để “tráng miệng” cuối hai bữa ăn trưa và tối. Ngoài ra trong ngày tôi không hút một điếu thuốc nào nữa. Còn thuốc đâu nữa mà hút!”.

- Nhưng có ai mời thì ông có hút không? Anh bạn hỏi có chút mỉa mai.

- Có, tôi đáp. Nhưng tôi cũng đặt ra cho mình một quy luật nữa, chủ yếu là để thử thách “cái gan” của mình: Ngoài ba điếu thuốc “trong biên chế”, ai mời thì tôi cũng nhận, hút “xã giao”, nhưng chỉ cho phép mình hút ba hơi. Và dập tắt điếu thuốc. Không hút đến hơi thứ tư.

Anh bạn bỗng “ớ” lên một tiếng và bật cười:

- Phải rồi. Năm nào đó có lần gặp ông về Sài Gòn, anh em nói chuyện với nhau trong quán cà phê, mời ông điếu Du Lịch có cán, ông chỉ hút vài hơi và dụi tắt điếu thuốc gần như còn nguyên khiến tôi rất phật lòng và… tiếc! Nhưng lâu rồi cũng quên. Bây giờ ông nói tôi mới nhớ lại và hiểu tại sao.

- À, vậy thì bây giờ tôi xin lỗi anh…

- Rồi ông bỏ thuốc được bao lâu thì hút lại? Nhưng nãy giờ ông nói chuyện mà quên chưa châm lửa kìa. Hút đi… cho thơm râu.

Tôi lấy gói thuốc ba số của anh, bỏ điếu thuốc vào trong gói.

- Chỉ vì sự bất tiện, và làm phật lòng anh em bè bạn như vậy, tôi ghét quá… bỏ thuốc lá luôn từ đó, tôi kết luận.

- Ông nói đùa hay nói giỡn? Anh bạn sắp vất m ẩ u thuốc cháy gần tới “cán”, nhưng nghe vậy dừng tay, nhìn tôi chăm chăm, và hỏi như thể nghe tôi nói chuyện khôi hài.

- Đó là năm 1983, tại Phương Lâm, tôi đáp. Và bây giờ là 2016. Ba mươi ba năm. Tôi không bao giờ phải cai thuốc lá lần thứ hai.

Thiếu Khanh

Ghi thêm: Có lẽ chỉ khi không còn hút thuốc nữa anh mới (có thể) nhận ra mình không những không romantic chút nào mà... rất là nhẫn tâm, và có lỗi với người... nằm cạnh mình bao nhiêu năm qua, phải chịu đựng... cái miệng và hơi thở “dã man” của mình!

Nói yêu vợ mà vẫn tiếp tục hút thuốc, có lẽ đó là một nghịch lý hiển nhiên nhất của người đàn ông mà anh ta không tự ý thức chăng?


Phụ Bản III

MỘT THIÊN TÀI PHÁT MINH BỊ BỎ QUÊN

FERNAND FOREST CHA ĐẺ XE HƠI

MÀ KHÔNG CÓ MỘT CHIẾC ĐỂ SỬ DỤNG

HUYỀN CHÂU

Sanh ra trong nghèo khổ, sáng chế trong nghèo khổ

và chết trong nghèo khổ.

Cách đây 35 năm, ngày 21-3-1939, một bà già nghèo khổ cùng cực đã chết một cách âm thầm buồn tủi tại Neuilly. Bà là góa phụ của một người đàn ông đã mang lại cho nền kỹ nghệ thế giới hàng triệu tỷ bạc: Fernand Forest.

Có bao người hiện đang lái xe hơi phom phom qua các nẻo đường biết Forest là ai?

Nếu tò mò tìm hiểu, tra tự điển Petit Larousse, người ta thấy ghi vỏn vẹn:

“FOREST (Fernand), nhà phát minh Pháp (1851-1914) đã chế ra máy nổ 4 thì”.

Thật đáng buồn biết bao cho thiên tài đó. Mọi tiện nghi vận chuyển hiện tại đều do ông phát minh ra. Ấy vậy mà rồi có mấy ai nhớ đến, tên ông chỉ còn lưu lại tại công trường nhỏ ở Grenelle (Pháp).

Forest sanh ngày 13-10-1851 tại Clersmont-Ferrand, trong một gia đình dệt thảm. Ông được cho đi học rất muộn tại trường Frères de Thiers nhưng chỉ được 3 năm, chưa có được bằng tiểu học, đã phải dở dang vì gia đình quá nghèo. Dù vậy, sau nầy, ông vẫn viết được 2 quyển sách Les Moteurs do Lafitte xuất bản và Les Batteaux automobiles do Dunod ấn hành.

Tới tuổi 15, Fernand Forest vào học tập sự cơ khí với Douris, mất trọn 3 năm.

Năm 18 tuổi, Forest đến Clermont, vào làm thợ máy cho xưởng Baconnet từ 1869 đến 1871.

Sau đó Forest đến Ba Lê lần lượt làm công ở nhà máy Cail rồi Thomas set Noel et Cie. Chính tại 2 nhà máy chế tạo máy móc, Forest đã để tâm trau dồi tài năng và dốc chí học hỏi.

Năm 1874, Forest lại chuyên về sửa chữa máy may và nông cơ.

Từ 1875 đến 1880, một thời gian dài nghiên cứu phát minh, mặc dầu phải chạy ăn từng bữa, ông làm việc cực nhọc với vợ và 6 đứa con: Louis, Fernand, André, Henri, Marcel và Pierre, ông đã chế ra cái máy đầu tiên nhưng vì quá nghèo không tiền để xin cấp bằng sáng chế.

Năm 1901, trong cuộc triển lãm xe hơi, 135 trên 136 chiếc chứng minh rõ ràng việc sáng chế của Forest vậy.

Nhưng hỡi ôi! sanh trong nghèo khổ, Forest vẫn hoàn nghèo.

Cũng vì không tiền, Forest phải dẹp xưởng nhỏ bé ở bến Rapée và mặc dầu lúc đó, sau khi Đức dành quyền phát minh, Pháp lên tiếng phản đối, Forest đã được viện Hàn Lâm Khoa học tặng Bắc đẩu bội tinh, ông không còn gì hết phải mở một tiệm sửa chữa tồi tàn trên đường đến Suresne.

Cho mãi đến ngày 12-4-1914 trong mít tinh ở Monaco dưới quyền chủ tọa của hoàng tử Albert, Fernand Forest được một mình lái chiếc ca nô máy mang tên là Gazelle do chính ông sáng chế. Chiếc ca nô đang lướt phăng phăng, bỗng dưng chậm lại, chòng chành. Việc gì vậy? Trục trặc máy móc? Không, mà chính trái tim Forest đã ngưng đập. Nhà phát minh máy nổ 4 thì đã chết vì sung sướng!

Năm 1931, nhờ một nhà báo phát giác, người ta được biết Fernand Forest đã để lại một người vợ góa. Bà đã 76 tuổi. Bà đang đói khổ. Người ta mở lạc quyên để giúp đỡ. Song bà đột nhiên bỏ đi và mãi đến năm 1939, bà đã lìa đời âm thầm trong ghèo khổ cực cùng.

Người ta đã quên bà góa phụ đó cũng như đã quên Forest. Và, ai sáng chế ra bộ chế hòa khí (carburateur)? Chính Forest! Máy từ điện và bu-gi, ai phát minh? Chính Forest! Hệ thống nguội? Cũng do Forest! Không một bộ phận nào của loại máy nổ là không do ông sáng chế.

Nhưng hỡi ôi? thiên tài phát minh đó không hề có được một chiếc xe hơi.

Không một tài phiệt kỹ nghệ nào làm giàu nhờ phát minh đó nghĩ đến việc tặng Forest một chiếc xe. Và tất cả đã quên ông, quên cả gia đình ông… vì họ chỉ mải mê đếm bạc! Than ôi! nhân tình thế thái!

ĐÀO MINH DIỆU XUÂN st.


TÌM LẠI

TUỔI THANH XUÂN

Dương Lêh

Không biết có phải theo phong trào hay sao mà lúc này thấy nhiều ông già cổ lai hy trong nước hoặc Việt kiều bon chen về Việt Nam cưới vợ, có ông lại cưới vợ “nhí” cỡ 20, 21 tuổi mới là “đã đời Vân Tiên”! Hình như nhờ khoa học tiến bộ nên cái tuổi 70 bây giờ không còn cổ lai hy nữa mà phải nói là “cổ lai… có nhiều lắm”. Có người cho rằng câu “thất thập cổ lai hy” là do ông Khổng Tử nói về sự thành đạt trong cuộc sống sau một loạt câu: “Tam thập nhi lập”, “Tứ thập nhi bất hoặc”…, thật ra, câu nói dành cho người 70 tuổi này lấy từ câu thơ trong bài “Khúc giang” của Đỗ Phủ:

Tửu trái tầm thường hành xử hữu

Nhân sinh thất thập cổ lai hy (1)

Tuổi hiếm hiện nay có lẽ phải lên đến 90. Tốt thôi! Đàn ông già cả tội gì sống đơn độc một mình, cần phải có một người tri kỷ, làm bầu bạn sớm hôm. Bởi thế cho nên các ông tiến thêm một bước đồng thời cố níu lại thời trai trẻ của mình bằng một hành động hết sức cụ thể là… cưới vợ.

Tin vui đầu tiên đến với ông Năm Phiếu là chuyện ông bạn già của ông có cái tên hơi ngồ ngộ là Tĩn (giống như cái tĩn đựng nước mắm hồi xưa). Không hiểu cha mẹ ông hồi mới sinh ông nghĩ sao mà đặt cho ông cái tên dở ẹc như vậy. Hay là hồi xưa cha mẹ ông sợ đặt tên đẹp quá sẽ bị quỉ thần bắt, có nghĩa là đứa nhỏ không nuôi được, chết yểu. Không chỉ gia đình nhà ông Tĩn đặt tên xấu háy cho con, mà có nhiều gia đình khác đặc biệt là ở trong miền Nam này và nhứt là ở các tỉnh vùng sâu vùng xa cũng thường đặt tên con như vậy. Ngay cả cái tên của ông Năm cũng cũng kỳ khôi. “Phiếu”. Nghĩa là gì? Phải chăng giống như người ta thường nói “phiếu thức ăn”, “phiếu thức uống” ở mấy cửa hàng ăn uống hồi xưa? Nói chung ông Năm thấy tên mình không hay, không giống như tên mấy đứa bạn hồi ở trung học, nào là “Cường”, là “Minh”, là “Kiệt”… tên đứa nào cũng thấy hay hay. Riêng tên ông Năm thấy hơi kỳ kỳ, Tuy nhiên suốt thời gian tuổi trẻ cho đến lúc trưởng thành, Ông Năm chịu đựng riết rồi cũng quen. Bạn bè chọc ghẹo miết, cũng tới lúc chán.

Đến lúc kết bạn với ông Tĩn, ông Năm cảm thấy được an ủi vì ở thế hệ của ông chắc chắn có nhiều người phải cưu mang những cái tên đặc biệt nhiều khi không có trong từ điển tiếng Việt. Đúng ra những cái tên xấu háy này nên chỉ để gọi ở nhà, còn trên giấy khai sanh thì nên dành cho con cái những cái tên cho thanh nhã một chút.

Không riêng gì về việc dùng chữ nghĩa lạ lẫm để đặt tên cho con cái, qua đọc sách, đọc báo, ông Năm biết lõm bõm thêm về ngôn ngữ học, ông thấy hiện nay người ta dùng từ ngữ rất mới mẻ. Giống như sáng nay ông Năm xem TV nghe anh chàng tuổi trẻ đọc tin tức dùng từ ngữ “yên ả” thay vì nói “yên tĩnh” như người ta hồi nào tới giờ thường nói. Ông Năm cũng từng thấy trên báo chí, người ta dùng từ ngữ “thi thoảng” thay vì “thỉnh thoảng”, “ồn ã” thay vì “ồn ào”, “yên ắng” thay vì “im vắng”. Khi phát âm mấy từ ngữ này ông Năm thấy giống như đang bị nói ngọng. Nói về từ ngữ “ồn ã” thì từ “ã” phải viết dấu ngã theo quy luật về kép lấp láy và với từ ngữ “yên ả” thì từ “ả” phải viết dấu hỏi. Vậy hai từ “ả” và “ã” này khác nhau như thế nào, ông Năm chịu thua, ông Năm dự định sẽ đi hỏi một nhà ngôn ngữ học nào đó để xin lĩnh giáo.

Cái tin ông Tĩn cưới vợ có phần làm cho ông Năm Phiếu phải ngạc nhiên: “Cha nội này đâu được giàu có như mấy đại gia mà đi cưới vợ?”. Ông hỏi bà Sáu, người đưa tin, cũng là vợ của một người bạn đã qua đời cách đây gần cả chục năm rồi:

- Ông Tĩn lấy Việt kiều hả?

- Không phải đâu, người nước trong.

- Tiền đâu ổng cưới, mà cưới ai vậy.

- Em vợ của ông chủ tiệm hàn điện, chỗ ổng làm việc.

- Em vợ mà đem gả chồng, coi chừng nghèo ba năm.

- Đàn ông mấy anh chỉ được cái nói bậy, nói bá láp.

Rồi bà Sáu nói tiếp:

- Cô này bốn mươi mấy rồi tại duyên số chậm chạp, chờ đợi hoài như nắng hạn chờ mưa ở Bến Tre, không thấy ai đến rước, gặp ông Tĩn này cũng tốt quá rồi.

- Hồi nãy tôi hỏi tiền đâu ổng cưới đây?

- Dễ ợt, làm bữa cơm nhẹ nhẹ là xong.

- Sao ông chủ tiệm không làm rình rang cho cô em vợ của mình.

- Trời ơi! Ông Tĩn đã hơn 70 rồi. Sống với nhau chừng mười, mười lăm năm nữa là “đứt chến”, có gì là vinh quang mà làm um sùm trời đất?

Ông Năm lại hỏi:

- Sao cô đó không đợi kiếm Việt kiều mà lấy?

- Cô cũng có ý chờ đợi đã lâu nhưng không ai đưa lối, không kẻ dẫn đường, biết làm sao?

- Thôi, tốt quá rồi. Chỉ sợ gân cốt ổng còn đủ hay không, chứ bà kia tôi đoán có lẽ còn sung sức lắm.

- Mấy anh chỉ lo nghĩ lôi thôi. Ở tuổi này người ta cưới nhau, sống với nhau như bạn bè tri kỷ…

Cũng được, nếu người phụ nữ này chịu sống với ông Tĩn với tư cách một người bạn tri kỷ cho tới ngày ông Tĩn lên thiên đường thì hay lắm. Hy vọng tới lúc đó bà Tĩn vẫn còn “ngon cơm” được ở trên đưa lối dẫn đường cho bà một mối duyên lành cuối đời nữa thì hay biết mấy. Biết đâu được, thời buổi bây giờ y tế phát triển, khoa học tiến bộ, ăn uống đầy đủ cho nên cũng có được những phụ nữ đã U70 vẫn còn hơ hớ hồi xuân. Có nhiều bà ra công viên tập thể dục buổi sáng ăn mặc như đi dạ hội, mặt đầy son phấn như chuẩn bị lên sân khấu làm “lai-sô”.

Tình trạng mấy bà trước giờ “ở vậy”, nay nôn nao muốn tìm đức lang quân từ các nước hồi hương cưới vợ. Ông Năm biết có một bà trẻ vừa qua 50 cái xuân xanh đang náo nức trông chờ. Tình cờ có người giới thiệu một ông Việt kiều nhưng rủi thay ông này xí trai quá. Cao ráo nhưng lại có cái lưng còm, ốm teo. Mặt mày nhăn nhúm, móm xọm, răng cỏ thiếu thốn pha màu vàng đen lẫn lộn vì hút thuốc thở ra như ống khói tàu Titanic. Gặp ông Năm cô than thở:

- Em hết cửa chọn lựa rồi anh Năm ơi!

- Không sao đâu, xấu người đẹp nết, ổng tử tế với em là được rồi.

- Phải chi ổng được bằng anh tám phần thôi, em cúng tạ heo quay liền.

- Anh thiếu chiều cao, không thấy sao?

- Đúng vậy! Sao hồi trước tới giờ anh không ráng cao thêm giùm chút?

- …

Mới đây dân cư mạng có đăng hình một đại gia 74 tuổi cưới một cô gái mới hai mươi mốt tuổi. Đúng là đáng tuổi cháu kêu bằng ông. Ông đại gia hình như chả cần quan tâm đến vấn đề này. Giống như một ông bạn già của ông Năm đã chết rồi từng tuyên bố:

- Mấy ông già vô bia ôm mà cứ nghĩ mấy em phục vụ đáng tuổi con cháu mình thì thà đừng vô, đừng rớ tới mấy em gà móng đỏ này. Đã vô rồi thì cứ thoải mái vui chơi, “cái nào ăn thì ăn, cái nào cúng thì cúng”.

Có người thấy đại gia kia cưới vợ còn nhỏ tuổi quá, nên thắc mắc:

- Không biết hai người một già một trẻ có tình cảm gì với nhau như thế nào mà có thể về sống chung với nhau?

Một cư dân mạng nào đó có vẻ rành đời “còm-men”:

- Cái này là trâu già quá nhiều tiền của đi mua cỏ non về gặm, hay là già mà còn ham trống bỏi, đến khi chán đi mua đám cỏ non khác về gặm hay mua cái trống bỏi khác mà chơi. Cần gì tình với cảm.

Một cư dân mạng khác nói về cô gái:

- Sau khi tan hàng với đại gia đó, cô gái này làm gì cũng có một số vốn về lo cho ông bà cha mẹ, sau đó tiếp tục làm lại cuộc đời với một đại gia khác, nếu đại gia sau này dễ dãi không quan tâm đến việc cô gái đó “đã qua sử dụng”…

Cái chuyện một ông già lớn tuổi, một thân một mình, muốn cưới một người phụ nữ để được chăm sóc lúc chiều tà bóng xế, theo ông Năm rất bình thường, miễn là đừng nên có chuyện ông già phải làm công việc ngược lại là chăm sóc sức khỏe cho người phụ nữ đó. Đây là lý do mà mấy ông già muốn cưới người phụ nữ phải nhỏ hơn ông ta chừng hai ba chục tuổi cho chắc ăn. Nhưng như ông đại gia 74 tuổi nói lúc nãy thì chênh lệch quá. Giống như ở bên Ấn Độ, con gái vị thành niên 13, 14 tuổi bị cha mẹ bắt gả chồng. Một xứ sở được coi như là một cường quốc về công nghệ thông tin lại có những địa phương còn lạc hậu đến như vậy.

Còn nói rằng các ông già độc thân đó muốn kiếm một người phụ nữ để làm bạn tri âm cho đỡ phải sống cuộc đời còn lại có phần thê lương ảm đạm, ông Năm thấy coi bộ khó! Khó là vì nếu muốn hai người trở thành tri kỷ, ít ra phải có trình độ văn hóa ngang ngửa với nhau, cùng gần gũi trên nền tảng học vấn. Như vậy, một ông già 70 muốn cưới bà vợ để làm bạn tri kỷ trong lúc tuổi già thì ông phải cưới một người phụ nữ có tuổi tác xấp xỉ các ông. Hoàn toàn khó kiếm! Mà nói cho cùng các ông già cũng không muốn cưới bà vợ cũng già như các cụ ông. Lỡ sau khi ở với nhau vài năm bà già khăn gói lên thiên đường trước, thế là “uổng công xúc tép nuôi cò…”. “Cò” này không phải ôm cầm sang thuyền khác mà cò sẽ bay về cõi vĩnh hằng. Ngược lại, nhiều bà ở tuổi U70 dù đang “ở vậy” cũng chẳng muốn lây chồng làm chi nữa cho mệt, sợ gia đình, bà con, hàng xóm hay con cái chê cười. Trong khi đó ở nước ngoài, ngay cả thành phần Việt kiều, con cái khi thấy cha, mẹ già nua đang sống một mình đều khuyến khích khi thấy mấy ông bà này có được bạn trai hay bạn gái về sống chung, chưa cần nói đến việc cưới hỏi. Bởi vậy các đấng mày râu cao tuổi cố gắng tăng tốc đua về Việt Nam cưới vợ. Chuyện này đã xảy ra với một người bạn cùng “prồ-mô”(2) với ông Năm hồi thời trung học. Được biết anh chàng này tuổi hạc đã 72 về đây cưới vợ hồi tháng trước, hiện đang làm thủ tục đưa nàng bay qua đầu mấy giàn khoan 981, 982 để về bên kia bờ Thái Bình Dương. Cô này ước chừng 50, chưa từng bước chân lên một chiếc xe bông nào hết. Có lẽ anh bạn thấy nàng cô đơn như vậy nên đã ngỏ lời cầu hôn và được cô này chấp thuận trong ba mươi giây. Anh bạn của ông Năm phút chốc biến thành “ân công” và được nhà vợ rất mực thương yêu. Anh chàng cũng đã tạo ra một “công đức” to lớn là cặm cụi làm thủ tục đưa nàng về Mỹ. Cô dâu này đã được đổi đời, và chừng hai chục năm sau cô bê lần lượt nguyên đại gia đình của cô sang Mỹ.

Bây giờ tới phần ông Năm Phiếu, thiệt tình không phải ông thấy mấy người bạn cùng trang lứa đang ở trong tình trạng độc thân kéo nhau đi cưới vợ mà ông nôn nao, ham muốn. Ông còn bà xã, khá nhỏ tuổi hơn ông và vẫn còn làm việc để nuôi hai người cao tuổi này trong căn hộ vắng vẻ vì con cái đi làm ăn xa hết trơn. Ông Năm cũng ngồi tính nhẩm ông bà sẽ còn sống chung với nhau mươi mười lăm năm nữa, sau đó nếu bà có làm cánh cò bay về bên kia thế giới thì ông Năm vẫn tiếp tục sống một mình chờ tới lượt cất cánh bay sau. Lúc bấy giờ xấp xỉ chín chục rồi, sức lực đâu mà bước thêm bước nữa?

Dương Lêh

(1) Uống rượu nợ là chuyện bình thường vẫn xảy ra.

Đời người sống tới 70, xưa nay ít có .

(2) Khóa học

TÌM VỀ CỘI NGUỒN DÂN TỘC

MỘT VĂN BẢN VỀ NGUỒN GỐC DÂN TỘC

CÓ TRƯỚC LĨNH NAM CHÍCH QUÁI

NGUYỄN ĐIỂN

Nguồn gốc rực sáng với hào quang thần thoại và huyền thoại, có lẽ dân tộc nào cũng vậy.

Ngô Sĩ Liên, dựa vào những lời truyền tụng trong dân gian, mà sau này được sưu tập trong “Lĩnh nam chích quái”, để lập nên ký Hồng Bàng thị trong “Đại Việt sử ký toàn thư”, chắc hẳn tin vào những truyền thuyết đó. “Truyền thuyết 100 trứng” trong “Lĩnh nam chích quái” kể rằng “Long Quân lấy Âu Cơ rồi đẻ ra một bọc, cho là điều bất thường, vứt ra cánh đồng; qua bảy ngày, bọc vỡ ra một trăm quả trứng, mỗi trứng nở ra một con trai, mới đem về nhà nuôi. Không phải bú mớm, các con tự lớn lên, trông đẹp đẽ kỳ dị, người nào cũng trí dũng song toàn, người người đều kính trọng cho là triệu phi thường “Vũ Quỳnh, người đã đề tựa cho “Lĩnh nam chích quái” viết: “Lĩnh nam liệt truyện sao không khắc vào đá, viết vào tre mà chỉ truyền tụng ở ngoài bia miệng. Từ đứa trẻ đầu xanh đến cụ già tóc bạc đều truyền tụng yêu dấu, lấy đó làm răn, tất là có quan hệ tới cương thường, phong hóa, ôi! há đâu phải điều lợi nhỏ!”.

Các chuyện nói về nguồn gốc dân tộc đều nhấn mạnh sự cao quý của nguồn gốc đó, nguồn gốc thần linh, nguồn gốc “Tiên Rồng”. Kiều Phú, Đỗ Hoàng Giáp năm Hồng Đức thứ 6 đời Lê Thánh Tông (1475), đồng tác giả với Vũ Quỳnh, trong Hậu tự của “Lĩnh nam chích quái” viết: “Than ôi! Trời đã sai chim huyền điểu sinh ra nhà Thương thì ắt có chuyện trăm trứng nở thành con trai chia trị Nam quốc, truyện họ Hồng Bàng không thể mất được”.

Rõ ràng là chuyện “nguồn gốc trăm trứng” đã được lưu truyền rộng rãi. Nhưng có lẽ không phải chỉ “ở ngoài bia miệng” như Vũ Quỳnh nghĩ. Theo “Lục độ tập kinh” trong “Khương Tăng Hội toàn tập”, tập I, do Lê Mạnh Thát dịch, cuốn kinh này cũng có “chuyện 100 trứng” như trong “Lĩnh nam chích quái”. Câu chuyện như sau: Có một bà già giữ ruộng vườn cho một nhà giàu, đến bữa ăn trưa, gặp một Sa môn, bèn lấy phần cơm của mình cúng cho vị sa môn ấy, với một cành hoa sen, nguyện sau này mình sẽ có 100 người con như vị đó. Khi chết đầu thai làm con gái một phạm thí (người đi tu) ở rừng. Người cha giao cho việc giữ lửa. Một hôm vì ham chơi, lửa tắt, phải xuống làng xin lửa. Người có lửa bảo phải đi quanh nhà ba vòng, bèn đi và mỗi bước mọc một hoa sen, vua thấy lấy làm lạ, cho cưới về. Mãn ngày đủ tháng, bèn sinh 100 trứng. Hầu phi tần thiếp không ai là không ghét, lấy cây chuối khắc hình quỷ, phủ tóc và bùn dơ lên để trình vua. Còn 100 trứng, đem bỏ trong một chiếc bình, đóng kín, thả trôi sông. Đế Thích thấy thế, xuống đóng dấu. Vua nước hạ lưu con sông vớt được chiếc bình, mở ra thấy 100 trứng, giao cho 100 người đàn bà ấp. Đủ ngày tháng 100 trứng nở thành 100 người con trai. “Có trí tuệ bậc thượng thánh, không dạy mà biết, nhan sắc hơn đời, tướng đẹp ít có, sức mạnh trăm người” (truyện 23)

Khương Tăng Hội là ai? Tổ tiên ông người gốc Khương Cư (Sogdiana), một tỉnh của đế quốc Ba Tư cổ đại, thủ phủ là Samarkand, nằm trên con đường Tơ Lụa, nhưng đã mấy đời ở Ấn Độ. Cha Khương Tăng Hội vì buôn bán lại di cư sang nước ta và sinh sống ở Giao Chỉ. Cha của Khương Tăng Hội đến Giao Chỉ chỉ có một mình (kỳ phụ thân thương cô, đi vu Giao Chỉ). Hội sinh khoảng năm 200 (vì cha đi buôn có một mình, chắc là lấy một cô gái Việt). Năm 15 tuổi cha mẹ mất. Cư tang xong, 18 tuổi Hội xuất gia và được “ba vị thầy” dạy dỗ cẩn thận về cả 3 tạng kinh Phật giáo tiếng Phạn, tiếng Việt và tiếng Hán cùng với sáu kinh Nho giáo, “Thiên văn đồ vĩ, phần lớn biết hết, giỏi ăn nói, lanh việc viết văn”. Trong ba vị thầy này hiện nay đã có thể biết chắc một người là Mâu Tử.

Đến năm 247, Khương Tăng Hội sang Kiến Nghiệp, kinh đô của nước Ngô của Ngô Tôn Quyền truyền giáo. Đáng chú ý là “Lục độ tập kinh” ghi rõ là “Sa môn Khương Tăng Hội dịch” nghĩa là Hội đã phải căn cứ vào một bản kinh nào đó để dịch ra chữ Hán. Thời ấy các kinh Phật dịch ra chữ Hán thường là từ tiếng Phạn hoặc Bali. “Lục độ tập kinh” không phải dịch từ tiếng Hán vì lẽ hiển nhiên đã có một nguyên bản bằng chữ Hán thì cần gì Khương Tăng Hội phải dịch nữa!

Chỉ có kinh Avadànasataka bằng tiếng Phạn và bản dịch “soạn tập bách duyên kinh” của Chí Khiêm, người sống đồng thời với Khương Tăng Hội là có chi tiết “một bọc thịt”, kể chuyện vợ một trưởng giả giàu có mang thai, sinh ra một “nhục đoàn” (bọc thịt). Vị trưởng giả buồn rầu, đến chỗ Đức Phật hỏi tốt xấu. Đức Phật bảo phải dưỡng dục bọc thịt đó, 7 ngày sau sẽ thấy. Đúng 7 ngày, bọc thịt nở ra thành 100 người con trai lớn lên 100 người này xuất gia, chứng quả Alahán.

Chuyện vừa kể khác hẳn với chuyện 23 trong “Lục độ tập kinh”.

Nếu chuyện “nhục đoàn” trong Avadànasataka có thể là nguồn gợi cảm để Khương Tăng Hội sáng tác ra truyện 23 trong “Lục độ tập kinh” thì Hội chắc chắn phải dựa vào truyền thuyết dân gian về nguồn gốc dân tộc ta mà sau này “Lĩnh nam chích quái” đã ghi lại. Hoặc là các thầy của Hội đã dạy Hội một bản kinh tiếng Việt dựa theo truyền thuyết đó để Hội dịch ra chữ Hán như hiện có. Dù sao đi nữa thì chí ít “truyền thuyết 100 trứng” đã tồn tại và lưu hành trước khi Khương Tăng Hội ra đời.

Có thể coi đây là “văn bản” đầu tiên và trước (prototype) của “Lĩnh nam chích quái” chăng?

Hoàng Chúc st

Ghi chú:

· Đại Việt sử ký toàn thư, bản Chính Hòa in năm 1697, Ngô Sĩ Liên viết năm 1479.

· Lĩnh nam chích quái: Tựa của Vũ Quỳnh 1492, Hậu tự của Kiều Phú 1493.

MỘT NỤ CƯỜI

BẰNG 10 THANG THUỐC !

Đ.Q

(Theo Avantages, 11/1996)

Ở đâu có tiếng cười thì ở đấy có mùa xuân. Và nói đến mùa xuân người ta nghĩ ngay đến cái đẹp, cái gì đó đầy sức sống. Cười là đặc tính của con người và những nụ cười ở những thời điểm khác nhau trong cuộc sống có tác dụng tích cực đối với sức khỏe. Kinh Thánh dạy rằng: “Sự hoan hỉ kéo dài cuộc sống”. Nhà văn François Rabelais cũng không ngần ngại khẳng định rằng: “Những người vui vẻ luôn luôn khỏe mạnh”.

Mặc ai nói ngả nói nghiêng, nụ cười vẫn là nhu cầu thiết yếu như ăn uống. Bác sĩ Mazas cho rằng nụ cười xuất hiện giữa tháng tuổi thứ hai và thứ sáu. Đứa trẻ chỉ có thể cười khi nó ngạc nhiên (đôi khi lo lắng: cười mếu) hoặc cảm thấy an tâm. Sự an tâm rất cần thiết. Đứa trẻ luôn luôn lo lắng và phải chịu những tác nhân kích thích mới không thể cười bằng thích. Chính vì thế, đứa trẻ thường cười nắc nẻ trước những điều đã thấy trong quá khứ nay được nhắc lại để làm nó an tâm. “Trước chòm pháo bông mà nó thấy lần đầu tiên, đứa trẻ kinh ngạc và bật khóc”, bác sĩ Mazas nói. Nhưng nếu thấy lần thứ hai, nó lại cười. Trong khi cười, sự hiện diện của cha mẹ hoặc người thân xung quanh làm nó an tâm. Sự hiện diện đó tạo thành yếu tố “an toàn” cần thiết. “Khi người mẹ giơ cao con vật lên rồi giả bộ thả xuống, đứa trẻ cười ngặt nghẽo bởi vì cha mẹ nó ở đó làm nó an tâm”. Khi bị một người lạ cù léc, thay vì cười, đứa trẻ cảm thấy lo âu và có thể bật khóc! Tuy nhiên, ở người lớn, nụ cười cũng rất cần thiết khi ngạc nhiên, căng thẳng và quyết định công việc. Và sau khi cười, ta có cảm giác rất thoải mái, nhẹ nhàng!

Được khỏi bệnh vì những trận cười

Người ta có thể khỏi bệnh vì những trận cười ngặt nghẽo không? Có thể khẳng định là có! Câu chuyện khó tin của Norman Cousins chứng minh điều đó. Norman Cousins bị viêm khớp đốt sống gây cứng liền khớp, bệnh thường bộc phát ở cột sống làm vôi hóa các dây chằng. Sau khi theo phương pháp điều trị cổ điển không có kết quả và nghe những lời thuyết phục về những tác dụng tốt của liệu pháp cười, ông quyết định tự chữa trị theo phương pháp của Marx Brothers. Ông thuê một căn phòng ở khách sạn để an tâm cười thoải mái và lạ lùng thay, đợt chữa trị đã có kết quả. Ông nói: “Tôi đã khám phá ra rằng 10 phút cười thật lớn làm dịu đi các cơn đau, có công hiệu gây mê và ít nhất đem lại cho tôi một giấc ngủ dài hơn hai giờ đồng hồ”. Sau vài tuần lễ điều trị bằng liệu pháp cười, bệnh thuyên giảm hẳn nên Norman Cousins kết luận: “Cái cười sinh ra một trạng thái tinh thần có thể biểu lộ các cảm xúc thiết thực khác”. Cách đây vài năm, tạp chí The Lancet có nêu trường hợp này để các nhà khoa học suy nghĩ về những tác dụng tích cực của liệu pháp cười. Đối với các nhà chuyên môn thuộc Viện tâm thể (psychosomatique) ở Paris, cái cười của các bệnh nhân bị trầm cảm là giai đoạn đầu tiên trong quá trình chữa bệnh.

Cười làm phát triển cơ!

Cười làm ta rung chuyển từ đầu đến chân. Đây là một khám phá của bác sĩ Henri Rubinstein, khoa thần kinh thuộc bệnh viện Saint-Joseph ở Paris. Hiệu quả đầu tiên của liệu pháp cười là chống cảm giác đau và làm mất stress! Nó cho phép vùng não dưới đồi, trung tâm kiểm soát nằm dưới bộ não, lan truyền trong toàn bộ cơ thể từ các endorphine não (morphine tự nhiên) tới các chất làm dịu và chống đau. Từ đó, tiếng cười làm nảy sinh cảm giác thoải mái. Sự thanh thản và khuây khỏa càng lớn vì cái cười làm rung chuyển toàn bộ cơ bắp. Các cơ mặt co lại, lỗ mũi nở ra. Không khí đến từ phổi “đánh” các dây thanh của ta rồi đi qua miệng. Cơ hoành co lại theo từng trận cười. Các cơ bụng làm tăng gấp ba hoặc bốn lần sự trao đổi hô hấp, làm giảm sự căng cơ và sự co cứng là nguyên nhân của chứng đau lưng và sự vôi hóa cột sống.

Các cơ bụng co lại tạo ra một sự xoa bóp tuyệt vời. Theo bác sĩ Rubinstein thì đây là một phương thuốc chống táo bón rất tốt! Vui cười là một môn thể dục luyện tập bụng, tạo ra một sự nhào trộn ở ruột làm cho những nhu động ruột trở nên dễ dàng. Người xưa thường đem sự hài hước vào bữa ăn để giúp cho sự tiêu hóa dễ dàng hơn… Khi gan và phổi hoạt động nhiều hơn, tỷ lệ mỡ trong máu sẽ giảm xuống. Đó là một biện pháp tuyệt vời để phòng chống chứng xơ vữa động mạch.

Sự thư giãn từ đầu tới chân

Bác sĩ Christophe Flatet ở Paris ghi nhận: “Điều xảy ra trong ta trong khi cười trái ngược với điều xảy ra khi bị stress. Trong khi cười, toàn bộ cơ bắp được thư giãn. Từ đó, ngạn ngữ có câu: “Một phút cười bằng 45 phút thư giãn”. Một cái cười ngặt nghẽo là một sự lắc lư thật sự làm tiêu tan trạng thái căng thẳng tinh thần. Những người mất ngủ nên tạo ra những trận cười thoải mái trước khi chui vào giường vì giấc ngủ sẽ đến nhanh hơn. “Trong lúc cười phá lên, mạch máu giãn nở làm nảy sinh cảm giác hạnh phúc. Người ta có thể làm giảm trạng thái căng thẳng hoặc trầm cảm nếu cười ít nhất 30 phút mỗi ngày”, bác sĩ Rubinstein nói. Thật đáng sợ khi thời gian cười của mỗi người giảm xuống từ 20 phút/ngày trong năm 1930 còn 6 phút/ngày trong năm 1980, và ngày nay còn thấp hơn. Bác sĩ Rubinstein giới thiệu một kỹ thuật hô hấp rất đơn giản cho những người thích cười: hít vào trong 2 hoặc 3 giây, ngừng thở từ 5 đến 10 giây và cuối cùng thở ra đứt quãng từ 5 đến 10 giây. Nếu mọi người trong nhóm cùng cười thì lại càng thú vị hơn nữa.

Cười theo sự sắp xếp

Người ta không dễ dàng cười theo sự sắp xếp! Một số diễn viên hài chuyên nghiệp đã nghĩ tới việc đưa sự khôi hài và kịch vui vào bệnh viện. Lịch sử của “cái cười y học” bắt đầu năm 1986, khi Michael Christensen, một anh hề chuyên nghiệp, quyết định cống hiến tài năng của mình để chọc cười các bệnh nhân (đặc biệt là trẻ em). Anh đã len lỏi vào các phòng bệnh trẻ em thuộc Trung tâm y tế Columbia Presbyterian ở New York để phục vụ các bệnh nhi. Anh thành công ngay lập tức! Các bệnh nhi bắt đầu tìm lại được nụ cười.

Được đào tạo ở “trường Charcot” (trường đào tạo diễn viên hài), Caroline Simonds, một phụ nữ Mỹ, đã đưa liệu pháp cười vào nước Pháp và biểu diễn ở đầu giường những em bé bị bệnh ung thư và bệnh bạch cầu ở bệnh viện Paul-Brousse de Villejuif, 4 năm sau, bệnh viện tuyển dụng 17 diễn viên hài chuyên nghiệp để phục vụ bệnh nhân.

Nếu cái cười không chữa được những bệnh nặng thì ít ra nó cũng là một phương pháp chuyển hóa tốt. Nó làm giảm những cơn đau thể xác trong một chừng mực nào đó, giúp các bệnh nhi chịu nằm viện và giảm bớt căng thẳng trong quan hệ với nhân viên điều dưỡng và các thầy thuốc. Đó là cách trao đổi lý tưởng giữa thầy thuốc và bệnh nhân. “Chọc bệnh nhân cười, bác sĩ Olivier Mazas ghi nhận, tự nó là một liệu pháp!”. Điều đó sẽ hình thành mối quan hệ gắn bó và tin cậy lẫn nhau giữa thầy thuốc và bệnh nhân, một điều kiện cần thiết cho sự thành công trong việc điều trị. Quả là “một nụ cười bằng 10 thang thuốc”.

ĐỖ THIÊN THƯ st.


Phụ Bản IV

TẤM ẢNH THỜ

Ông già chết giờ nào, cả nhà không rõ chính xác. Chỉ biết nửa đêm, bà già dậy, lần mò xuống bếp rót nước uống, lúc lần mò quay lên, nghĩ sao không biết thay vì đi thẳng về phòng mình, bà già lại rẽ vào phòng ông già. Phòng ngủ của ông bà không lắp cửa, chỉ che tấm màn vải gấm, thêu hình rồng bay phượng múa sặc sỡ rất đẹp. Chắc bà muốn kiểm tra xem ông già có quên đắp chăn không, khi đang bị bệnh hô hấp.

Rờ cánh tay ông già lạnh ngắt, bà hốt hoảng la lên, cho con cháu bật dậy.

Con trai không hổ mặt trưởng nam, lập tức đứng ra điều hành mọi việc. Lau rửa, thay đồ cho ông già, gọi điện thoại báo tin cho hai đứa em, chuẩn bị giấy tờ để sáng ngày ra Phường khai tử, liên hệ với công ty mai táng, cắt đặt người tiếp khách, hậu cần… Tất cả đều khoa học, nhanh chóng, hiệu quả chẳng khác đang điều hành nhân viên ở công ty.

Nên chưa đầy một giờ sau, ông già đã sạch sẽ, lịch lãm và sang trọng trong bộ complet màu cà phê sữa (của con trai trưởng), áo sơ mi vàng chanh (của con rể), cổ thắt cà vạt đỏ và chân mang giày da nâu bóng loáng (đều của con trai thứ), đã chễm chệ yên vị trên cái phản kê giữa phòng khách.

Bình hoa tươi lấy từ lẵng hoa mà thằng bồ của cô cháu ngoại ông già vẫn cúc cung dâng tận tay cô hai ngày một lần. Trái cây lúc nào cũng chất đầy tủ lạnh, tuy nhiều trái đã dập nát, thâm s ì và rỉ nước vì để lâu ngày nhưng có dĩa trái cây đầy lù lù là được. Vì xét cho cùng, xác chết có ăn được đâu, con cháu lại càng không rớ tới thứ đặt đầu hòm ấy. Thế thì nó còn tươi tốt hay hư thối có hề chi?

Chỉ hơi phiền một điều: không có bát nhang lẫn cây nến, thẻ nhang nào.

Bà già cằn nhằn:

-Tao đã hối tụi bay từ tháng trước rồi, phải mua sẵn. Nhà có người già lại bệnh nặng, “đi” bất ngờ lắm… Tụi bay có đứa nào nghe đâu? Giờ thì…

Bà già giống y đa số các bà già khác trên đời: nói dài, nói dai, nói dở! Có một câu đó mà nhai suốt, như người ta nhai suynh-gôm! Đến khi con dâu bực quá, nạt:

-Má im đi! Đang lúc tang gia bối rối mà má còn làm cho rối tung lên thêm...

Thì bà già mới im thin thít. Chắc bà đang ân hận vì cái lòng hẹp hòi, ích kỷ của mình. Ừ, người ta vẫn nài xin “trong lúc tang gia bối rối có điều chi sơ s uất, xin quý vị miễn thứ…”, người dưng nước lã còn rộng tình miễn thứ cho nhau, huống chi bà già là ruột thịt trong nhà, sao cứ bắt bẻ?

Nhưng xác chết nằm kia không có nén hương cho ấm áp, thấy lạnh lẽo tội nghiệp làm sao! Trong lòng bà già bất nhẫn, xót xa quá thể. Nhưng xót hay không xót thì cũng phải chờ sáng mai, con dâu mới ra chợ mua được. Nửa đêm thì chợ ở đâu? Giá các siêu thị hay cửa hàng thời trang, ăn uống vẫn sáng rực ánh đèn mở cửa thâu đêm suốt sáng kia cũng có bán mấy thứ ấy thì con dâu có tiếc công gì mà không đi mua về ngay? Sở dĩ nghe mẹ chồng nhắc nhở hoài mà chưa mua chỉ vì con dâu kiêng cử chút xíu thôi. Bố chồng đang sống sờ sờ (dù sống bệnh), ai lại vội vã đi vác bát nhang về để sẵn, muốn trù ẻo à? Đấy, nguyên do chỉ có thế. Bà già không hiểu nỗi lòng con dâu, cứ chì chiết riết, hỏi sao con dâu bình tĩnh nổi mà không điên tiết lên, phải mắng cho vài câu? Với lại, có ngờ đâu ông già thầm lặng bỏ đi lúc đêm khuya, không thèm vẫy tay tạ từ ai một tiếng? Chậc! Mắt mũi già nua kèm nhèm, ban ngày ban mặt còn vấp té, mà ông già lại lò dò đi về miền hạnh phúc lúc trời đất tối tăm, không biết có vấp té bươu đầu mẻ trán không đây? Thương ông ghê!

Đến chuyện rửa ảnh thờ mới càng rắc rối: giờ mới biết hóa ra ông già không có tấm ảnh riêng nào, chỉ có mấy tấm chụp chung với gia đình: tấm ngồi cạnh bà già nhưng là chụp từ ngày mới cưới nên nước ảnh đã ố vàng, mờ tịt; tấm đang lúi húi xới gốc chậu cây bên góc vườn với cháu nội; tấm nhe hai hàm trụi lủi cười thật vui trong sinh nhật cháu ngoại… Đó cũng là tấm bà già ưng ý nhất. Bà bảo: nhìn ông già cười hồn nhiên lắm, hiền hậu lắm, đẹp lão lắm.

-Má sao vậy? Chẳng lẽ để lên bàn thờ hai hàm răng trụi lủi này?

-Thì đúng là từ lâu răng ba mày trụi lủi thật mà.

-Thật cũng không được! Má lẩm cẩm quá. Người ta nhìn vào cười cho.

-Mắc gì cười? Bàn thờ để trong nhà mình chứ có để nhà người ta đâu…

-Thôi, má im đi. Đang lúc tang gia bối rối mà má còn làm cho rối tung lên thêm...

Con dâu lại nạt và bà già lại im thin thít. Không hiểu con dâu có uy lực gì hay vì lời nhắc nhở hàm chứa bi thương ấy làm mẹ chồng chột dạ, nhận ra cái quá đáng của mình?

Cuối cùng, con trai cũng chọn được tấm ảnh. Chụp trong bữa cơm trưa của cả nhà nhưng lúc đó ông già đang nhìn thẳng ống kính, mặt mũi trang nghiêm như một VIP chính hiệu. Chẳng ai thắc mắc tại sao đang ăn mà bộ dạng ông già “hình sự” thế? Cái áo pyzama màu vàng lợt (nên lâu ngày đã giông giống màu cháo lòng), cổ sờn mép mà ông già đang mặc chỉ là chuyện nhỏ như cọng cỏ (không phải nhỏ như con thỏ đâu, con thỏ bự chảng hơn cọng cỏ nhiều!). Thợ rửa ảnh lồng complet, cà vạt vào mấy hồi, dễ ợt!

***

Nhìn tấm ảnh ông già phóng lớn đặt trang trọng trước đầu quan tài, bà già chỉ muốn… cười! (Nghe trái khoáy nhỉ, nhưng viết vậy mới thích hợp, vì đám ma thì đương nhiên phải khóc rồi, còn gì… kỳ lạ nữa?). Cái ông già trong ảnh sao lạ hoắc lạ huơ, như đã biến thành một người bá vơ nào đó.

“Không phải ông chồng mình” , bà già muốn phản đối mà không có can đảm, chỉ dám lẩm bẩm một mình như thế, vừa đủ nghe thôi kẻo con dâu lại mắng cho cái tội làm rối thêm cái tang gia đang lúc bối rối.

Đúng thế thật, cả đời làm ruộng lam lũ, ông già chưa bao giờ khoác vào người bộ cánh sang trọng kia. Luôn luôn ông mặc áo bà ba đen đã bạc phếch lưng và quần xắn móng lợn ống cao ống thấp, bàn chân to bè có hai ngón cái nghiêng qua dòm nhau, lúc nào cũng đẫm bùn phèn. Sau ngày mảnh đất quê giải tỏa làm dự án du lịch, hai ông bà về Thành phố sống với con trai, thì quần áo của ông có “lên đời” cũng chỉ là bộ pyzama.

Người trong ảnh không phải là ông già, cũng có nghĩa người đang nằm trong quan tài kia chỉ là một người dưng nào đó thôi, còn ông già chắc đang lang thang dạo chơi đâu đó một lúc. Mà đã không phải là ông già thì cớ gì bà già phải buồn thương, khóc lóc?

Phải cười chứ, đúng không?

Nhưng khi bước vào căn phòng vẫn dành riêng cho ông già thấy trống hoác, cái giường đã được khiêng đi đâu mất, bà già lại rớt nước mắt, lại buồn, lại thương… Không, đúng là ông già chết thật rồi, đang nằm trong quan tài ngoài kia nghe tiếng kèn trống đùng đùng đến nhức óc. Không thể phủ nhận sự thật ấy. Bà già chỉ phủ nhận tấm ảnh thờ thôi.

Bà cứ tiếc sao con trai và con dâu không chọn ảnh nào khác, nếu là tấm ông già đang hả toác miệng cười, khoe ra hai hàm trống trơ trống trất, càng hay. Vì trong ngày sinh nhật cháu ngoại đó, ông già đang vui hết mình, hồn nhiên như trẻ con, trông phảng phất một diễn viên đóng vai tiên ông nào đó. Tấm đó, ông già mặc bộ pyzama sờn mép cổ, màu vàng lợt (đã lâu ngày nên ngả sang cháo lòng), là bộ ông già thích mặc nhất “vì nó mát”, ông bảo.

Bà già muốn được nhìn thấy ông thật gần, thật nguyên vẹn như lúc sống, để thấy lòng ấm áp như ông vẫn đang sống, đang hiển hiện trong nhà, với bà. Không phải là một ông VIP mặc complet xanh lịch lãm, thắt cà vạt đỏ sang trọng mà lạ hoắc lạ huơ, nhìn vào không chút xao lòng.

“Ông vẫn thích mặc pyzama mà, phải không?”. Bà già thầm hỏi.

Và ông già trong ảnh, nháy mắt với bà: “Bà giả nai hoài, biết còn hỏi. Không thích thì thích gì, tôi chỉ có hai bộ pyzama chứ mấy?”.

GIÁNG NGỌC (GĐ.)

NGƯỜI

 

Tèo nhớ mãi cái ngày nó giả gái, lua xua bắt chuyện với thằng Nghệch, khiến thằng này mất cảnh giác, để anh bà con của Tèo là Tí chôm mất cái xe mới mua cách đó chừng một tuần. Nghệch khóc sưng cả mắt, vì cái xe nó có được là do thằng Hào - bạn nó - cho vay tiền để mua. Thằng Tèo còn giả bộ chia buồn, rồi dắt Nghệch đi uống nước giải sầu. Hành động nghĩa hiệp ấy đánh tan mọi nghi ngờ rằng “anh bạn” Tèo chính là đồng phạm trong cái vụ ăn cắp xe hôm ấy.

Tối đến, Tèo tới nhà Tí để lấy phần của mình. Mẹ kiếp! Thằng Tí ranh ma chỉ chia cho nó khoản tiền vừa đủ để nó ăn xài và chích choác cho chỉ một ngày. Nó viện cớ, xe không thể bán đi vì sợ người ta nhận diện. Nên nó sơn lại mầu khác, cùng đục lại số dưới gầm xe, rồi để…xài!

- Mày phải biết, tao đâu biết sơn, nên phải nhờ người ta! Đục số cũng thế, tao phải bỏ tiền túi ra mới làm được nhé!

Tèo chán cái kiểu liền anh liền chị như thế, nhưng không bằng lòng thì lấy đâu ra tiền mà…chích! Nên nó rồi cũng lầu bầu mà gật đầu lấy từ tay thằng đểu cáng kia mấy tờ bạc rách!

Thằng Hào cũng tức lắm! Nó biết chính tụi Tí-Tèo diễn tuồng mà thôi, nhưng xe là của thằng Nghệch chớ có phải của nó đâu mà chõ mõm vào? Đau ở chỗ, là thằng Nghệch vay tiền nó để mua xe mà hành nghề xe ôm, rồi trả dần từng tháng cho nó. Giờ xe không có, lấy gì Nghệch trả nợ. Hào chép miệng:

- Thôi! Thí mẹ hết cho cả lũ mày đi, mệt quá!

Mà thật! Nó chẳng thèm qua lại với cái xóm ấy nữa, dù rằng lý do thật sự mà nó cho thằng Nghệch vay tiền, chỉ vì nó… thương thầm Nghênh - em gái Nghệch. Nó lại chép chép cái môi mỏng dính của nó:

- Hào ơi là Hào! Mày rõ là ngu! Ngu quá thể…

Chuyện ấy xảy ra khá lâu rồi, đến nỗi Hào quên cả Nghênh có một bên má lúm đồng tiền nữa kìa. Đến nỗi nó lấy được cô vợ còn xinh hơn người trong mộng xưa kia của nó. Vậy mà một hôm, thằng Tèo gõ cửa nhà nó:

- Mày kiếm tao làm gì?

- Thì mày cho tao vào nhà đã…

Thấy cái mặt nhăn nhăn nhó nhó của Tèo, Hào vào nhà trong, dắt con chó bự gần bằng nó ra, xích vào khoen móc khóa cổng. Nó giả tảng:

- Mẹ! Thế trộm nó mới sợ mày ạ!

Thằng kia, mặt xanh lè, hai đầu gối đập vào nhau như ông lão sắp chết. Nó khép nép đi bên cạnh Hào, cứ như là con núp bóng cha.

Tèo ngồi lọt thỏm vào cái ghế to như của ông trời. Nhìn nó thật thảm hại trong cái ghế khổng lồ ấy.

- Sao? Mày muốn gì? Giọng thằng khốn Hào có vẻ xấc xược.

- Tao…

Tèo gãi gãi cái đầu vốn hói của nó… Nó thấy thật bất tiện khi hỏi vay tiền của thằng nhà giàu này. Nó nuốt nước bọt một cách khó khăn. Ơ! Ai như dì Thắm từ trong đi ra.

- Giới thiệu với mày, đây là vợ tao! Hào giới thiệu. Rồi chợt nhớ ra chuyện gì, nó nói tiếp:

- A hả! Tao quên Thắm là dì của mày. Vậy là mày phải gọi tao là chú nhé…

Quả là láo! Dù chuyện ấy là rõ mưởi mười mươi. Thắm ẻo ẻo hỏi Tèo:

- Cháu cần gì cứ nói! Chú ấy tốt lắm đấy!

Cực chẳng đã, Tèo đành khai thật về mục đích chuyến… quấy rầy này:

- C…c…hú…ú…dì ạ! Tại cái thằng Tí lâu nay “bệnh” quá! Tự nhiên nó đòi cháu trả nợ cho nó, trong khi cháu có nợ nần gì nó đâu!

- ...

- Chỉ thỉnh thoảng nó cho cháu vài chục lẻ để….ch…h…ích…thôi! Mà nó lại kể là cháu nợ. Rồi nó qua nhà cháu, đòi bắt… vợ cháu về nếu không đưa tiền cho nó. Thật là khốn nạn! Có hôm, nó còn đánh cả mẹ cháu chảy cả máu mũi….ch…ú…ú…dì ơi!

- Rồi sao?

Tèo quay về phía Thắm:

- Thì dì cho cháu mượn tiền trả cho thằng khốn kia dì ạ!

- A! Thì ra chúng mày tử tế quá đi mất. Chẳng thằng nào vừa! Hm…

Hào chen vào, rồi nói tiếp:

- Mày mà trả nó cả kiếp cũng không xong, vì cái túi tham chẳng bao giờ có đáy nhe mày! Tao chẳng dính vào!

Mặt thằng Tèo xám còn hơn tro tàn. Thắm nhẹ nhàng nói với chồng:

- Hay anh cho nó mượn mấy cái rựa bổ củi ngoài kia. Mình đâu có xài đến đâu mà!

Chẳng là lúc này nhà Hào xài bếp gaz, nên không cần bổ củi nữa! Hào “đá” giò lái:

- Để làm gì?

- Thì để phòng thân anh à!

- Phòng cái gì mà phòng, khi cái mặt nó không còn chút máu kia kìa?

Ngẫm nghĩ một lúc, Hào a lô cho ai đó…

Một lúc sau, Nghệch xuất hiện trước cửa. Nó ngạc nhiên khi thấy thằng Tèo trong nhà Hào

Hào tường thuật câu chuyện thú vị ấy cho khách. Anh chàng này nghe như chuyện bình thường, chẳng có gì phải giật mình. Nghệch thủng thỉnh hỏi vợ chồng Hào:

- Rồi tụi mày kêu tao làm gì?

- Mày tuy chưa trả nợ xong cho tao cái vụ xe bị mất, nhưng tao cũng muốn có ý kiến của mày về vụ thằng… Tèo này!

- Ơ! Tùy vợ chồng mày thôi, chứ tao trên răng dưới dép thì “nô he”, nghĩa là không có ý kiến. Tuy nhiên, tao chỉ tiết lộ một tin cho vợ chồng mày nghe…

- Gì?

- Mày có biết, sợi dây chuyền Thắm bị ai giật ngoài công viên hồi xưa không? Giọng nó rắn lại thấy rõ!

- Ai? Thắm lập bập.

- Thằng này che mắt cho thằng kia giật chứ còn ai nữa!

- Sao bây giờ mày mới nói?

- Chậc! Vì tao chán đời, nên kệ mẹ mọi thứ mày ơi!

Không khí đặc lại. Thằng Tèo cúi gằm mặt xuống đất. Thằng Nghệch bỏ về. Thằng Hào ngó vơ vẩn lên trần nhà, nhìn cái quạt xoay xoay, đều đều.

Riêng có “dì” Thắm có vẻ nghĩ ngợi. Đôi mày cong của “dì” nhăn lại…

LAM TRẦN 27.06.2015

• “nô he”= no hair, ý nói không có tiền!

THẰNG NHÓC

Histoire d'un Enfant

của Alphonse Daudet

LÊN LỚP

Ông Tổng giám thị với xâu chìa khóa, đang đứng chờ đợi chúng tôi ở cửa quán cà phê.

“Ông Serrières ạ! - Người mang xâu chìa khóa nói chuyện với ông bạn già của tôi, mà mấy ly rượu đã làm cho chếnh choáng say - Ông sẽ lên lớp buổi cuối cùng. Ông Hiệu Trưởng và tôi sẽ đến bàn giao lớp học người thầy mới”.

Thế rồi, vài phút sau, ông Hiệu Trưởng, ông Viot, và người thầy mới, trịnh trọng bước vào lớp học. Tất cả học sinh đều đứng dậy chào.

Ông Hiệu Trưởng giới thiệu tôi với học sinh bằng lời lẽ thân mật, kế đó, ông đọc một bài diễn văn ngắn gọn đầy phong cách… Rồi ông bước ra, theo sau là ông Serrières, ông Viot đi sau cùng. Ông ta không đọc diễn văn, nhưng mà xâu chìa khóa cứ dữ dằn khua, “cà-reng, cà-reng, cà-reng”, với đầy vẻ hăm dọa, đến đỗi các em học sinh phải bịt tai, mà gục đầu xuống bàn trốn, và đến chính người thầy mới cũng rất hoang mang lo ngại.

Vừa khi cái xâu chìa khóa ghê gớm đó bước ra ngoài, những gương mặt tinh anh trẻ thơ mới dám ngẩng lên. Những cặp mắt trong sáng, còn sợ sệt cứ nhìn vào tôi, trong khi những giọng nói thì thào đang chạy quanh các bàn.

Một thoáng lo lắng qua, tôi chậm chạp bước lên bục giảng. Tôi bèn đảo mắt nhìn quanh, rồi làm nghiêm gõ thước xuống bàn mấy cái mà bảo:

- Chúng ta bắt đầu học tập đi, các em.

Như vậy đó, mà Thằng Nhóc đang khởi sự giờ dạy học đầu tiên.

Những đứa học sinh nầy rất ngoan ngoãn. Chúng nó không bao giờ quậy phá, và tôi thì rất thương chúng nó. Bởi vì người ta vẫn đọc được tâm hồn ngây thơ của chúng nó qua cặp mắt…

Tôi không bao giờ phạt vạ chúng nó cả. Ích lợi gì mà phải phạt vạ loài chim. Khi mà chúng nó líu lo to quá, tôi chỉ có việc bảo: “Im lặng!”. Liền đó, bầy chim của tôi nín thinh,… ít ra cũng được năm phút. Đứa lớn nhất chỉ mới có 11 tuổi đầu. Tôi hỏi bạn phải làm gì đây với tuổi mười một. Ông Serrières đã tự hào với ngọn roi. Còn tôi, thì không dạy chúng bằng roi. Tôi cố gắng dạy tốt, có thế thôi. Đôi khi chúng nó học hành ngoan giỏi. Tôi bèn kể chuyện đời xưa, tích cũ.

Một chuyện đời xưa. Ôi, sung sướng nào hơn. Mau mau. Người ta đậy nắp bình mực lại, Người ta đưa tập vở vào hộc bàn. Người ta ngồi im, khoanh tay trên bàn, ngước mắt nhìn, và lắng nghe…

Tôi soạn thảo ra mấy câu chuyên theo trình độ của trẻ thơ: Ngày mới của con ve, Nỗi bất hạnh của con thỏ v.v... Lúc đó, cũng như bây giờ, ông La Fontaine vẫn là ông Thầy nhân hậu của tôi, qua văn học, và những câu chuyện của tôi, cũng chỉ là những bài bình luận về các áng văn ngụ ngôn của ông, chỉ duy tôi có thêm thắt chút ít cuộc đời riêng tư của tôi vào. Thường là, có một con dế nghèo nàn, bị bắt buộc phải đi tìm sinh kế như Thằng Nhóc, và có một con vật mà Ông Trời xui khiến nó khóc xướt mướt tối ngày như anh Jacques. Điều đó làm vui thích trẻ con và cả lẫn tôi. Vô phúc thay, ông Viot lại không thích người ta vui đùa như vậy.

Ba hoặc bốn lần trong tuần, người đàn ông đáng sợ đó, với xâu chìa khóa trên tay, đi kiểm soát trường lớp, xem coi người ta có thi hành đúng theo quy luật hay không.

Rồi một ngày nào đó, chuyện gì đã xảy ra trong lớp học của tôi, khi mà tôi đang kể chuyện, một tình tiết cảm động về con thỏ Jean… thì ông Viot bước vào. Cả lớp giật mình. Đám trẻ hoảng hốt nhìn nhau. Ông thầy giáo cũng ngừng kể ngang. Con thỏ Jean thì bàng hoàng với cái chân còn giơ lên cao, đôi tai to vểnh lên lo sợ.

Đứng trước bàn của tôi, ông Viot nhìn quanh mà ngạc nhiên, vì bàn học trống trơn. Ông ta không nói gì, nhưng mà cái xâu chìa khóa thì lay động dễ sợ: “Cà-reng! Cà-reng! Cà-reng! Quái, ở đây, người ta không học hành gì cả, sao?”. Tôi thì run sợ, ráng sức tìm cách trấn an cái xâu chìa khóa:

“Các em làm việc rất siêng năng, học hành rất tốt, - Tôi bập bẹ nói - Tôi kể một chuyện đời xưa để thưởng các em”.

Ông Viot không nói gì. Ông mỉm cười chào, vừa khua cái xâu chìa khóa dữ tợn, rồi bước ra.

Buổi chiều, vào giờ ra chơi, ông Viot mỉm cười đến với tôi, để trao một quyển quy luật của nhà trường, mở sẵn ở trang 12, có bài viết “Bổn phận của thầy giáo đối với học trò”.

Tôi hiểu, là ông thầy học, thì không được kể chuyện đời xưa cho học trò nghe, và tôi cũng không bao giờ kể chuyện nữa.

Trong nhiều ngày, đám học sinh của tôi luôn luôn tiếc rẻ về con thỏ Jean, và điều này làm cho tôi đau lòng.

(Còn tiếp)

Thanh Châu dịch thuật

NÀNG

Nàng có một mái tóc suôn mượt, đen nhánh và mịn như tơ, kết quả của một sự chăm sóc rất công phu trong một quá trình thời gian đáng kể.

Mái tóc mà bất kỳ nhà sản xuất dầu gội đầu nào cũng khao khát được mời làm quảng cáo cho sản phẩm của họ. Mái tóc khẽ đung đưa theo nhịp bước uyển chuyển, nhẹ nhàng như lướt trên mặt đất càng làm tăng thêm vẻ duyên dáng yêu kiều của một cơ thể có số đo rất lý tưởng, hầu như hoàn chỉnh đến từng đường nét. Mỗi khi nàng khẽ giơ tay vuốt tóc làm duyên, hất nhẹ làm dáng, thì cái suối tóc ôm tròn hai bờ vai ấy lại được dịp bồng lên như khoe từng sợi dài, mềm, mượt, bóng. Tóm lại, mái tóc là niềm kiêu hãnh thứ nhất của nàng.

Nàng có một đôi mắt to, đen nhay nháy, tròn trịa mơ màng dưới hàng mi cong, đắm đuối dưới đôi chân mày luôn được tỉa tót rất khéo. Đôi mắt huyền mơ của nàng cứ lóng la lóng lánh như mặt hồ nước trong leo lẻo dưới tia nắng rạng rỡ nhất của ngày. Đôi mắt ấy chỉ khẽ chớp một nét e lệ cũng đủ để gây ra mấy cái trán sượt, dăm cái đầu gối xầy. Đôi mắt ấy mà hơi chợp xuống để lăn ra vài hạt ngọc thủy tinh, thì không thiếu những lời cuống quýt, những xanh tái âu lo, những cử chỉ vụng vịu, những đẫn đờ lúng túng bàn tay xoắn vặn vào nhau. Và nếu như đôi mắt ấy chỉ vô tình nhích tia nhìn về một hướng nào đó, thì thừa mãnh lực cho con tim nơi ấy mất phương hướng mà nhảy loạn xạ cả lên. Tóm lại, đôi mắt là niềm kiêu hãnh thứ hai của nàng .

Nàng có một cái mũi vào hàng thượng thừa trong những cái mũi. Sống mũi cao, dáng mũi thon, cánh mũi tròn vừa ôm gọn không để lộ hốc mũi. Cứ như là cái mũi là một biểu vật mà bà mụ đã hết sức cẩn thận, ngắm nghía mãi trước khi thận trọng đặt vào vị trí hết sức cân đối với tổng thể khuôn mặt. Cho dù cái mũi thường không có nhiều cử động so với nhiều chức năng khác của gương mặt, nhưng nó cũng đủ biểu hiện cảm xúc cần thiết nhất cho chủ nhân của nó. Nếu cánh mũi xinh xinh ấy chỉ hơi nhăn lên một chút, thì lập tức có một vật hoặc một người bên cạnh lập tức lùi ra xa. Nếu cánh mũi xinh xinh ấy hơi phập phồng, ưng ửng đỏ lên thì ngay lập tức một nhu cầu của nàng được đáp ứng. Nếu trong cánh mũi xinh xinh ấy hơi ngưa ngứa và tiết ra một chất nước đùng đục kèm theo vài tiếng hắt xì hơi khó chịu, thì ngay lập tức sẽ có những viên thuốc tốt nhất, những mũi tiêm êm nhất, sự theo dõi chu đáo nhất của một bậc lương y tin tưởng nhất, và những bát cháo ngon nhất, giàu dinh dưỡng nhất kèm theo những lời năn nỉ dịu dàng, âu yếm đầy kiên nhẫn nhất, và cả vài đêm mất ngủ mặc nhiên của những người thân yêu nhất, và nàng thì mặc tình vòi vĩnh, làm nũng với mức độ ướt át nhất. Tóm lại, cái mũi là niềm kiêu hãnh thứ ba của nàng.

Nàng có một đôi môi thật tuyệt vời. Hai cánh môi không dày không mỏng, không rộng không hẹp. Sắc môi hồng tuơi, căng căng mòng mọng. Chẳng cần phủ lên một lớp son thì cánh sen hồng tươi nhất cũng phải thẹn thùng nhường bước. Đôi môi ấy chỉ cần hơi he hé, hênh hếch lên một chút, thì ui chao, bảo đảm sẽ không một đấng mày râu nào mà không trỗi lên niềm khao khát được đặt môi mình lên đôi môi ấy. Khi đôi môi ấy máy mấp thì một thứ thanh âm êm như mây, trong như suối mát, ngọt như quả chín cây, và nhẹ như chiếc lá, trở thành một thứ men ngất ngây còn hơn mấy lần ly rượu mạnh, thấm qua màng nhĩ mỏng mảnh để say đến tận cùng gan ruột người nghe. Tiếng cười thì giòn trong như tiếng ngọc va, thanh tao như tiếng sáo, âm trầm thì như tiếng đàn, để không biết bao món quà quý mong được đổi lấy tiếng cười trời ban ấy. Chưa hết, như để điểm xuyết thêm cho vừa hoàn mỹ đóa hoa môi ấy, là hai hàm răng trắng đều như chuỗi hạt ngọc trai, hàm răng như một bảng nền làm nổi lên đôi môi hoa đào trong nụ cười quý phái. Tóm lại, đôi môi là niềm kiêu hãnh thứ tư của nàng.

Nhất da. Hóa công ưu đãi cho nàng một làn da trứng ngần từ thuở mới lọt lòng, lại càng thêm mướt mát, mịn màng nhờ bao thứ mỹ phẩm đắt tiền nhất phù trợ. Tạo thành một phông nền diễm tuyệt nhất cho mọi thứ trang phục. Không có bộ trang phục nào khoác lên người nàng lại trở nên thô kệch cả. Người ta bảo “người đẹp vì lụa”, nhưng bản thân nàng đã quá đẹp, nên có thể nói ngược lại rằng “lụa đẹp nhờ người” vậy. Hầu như nàng luôn nổi bật trong những đám đông, cho dù nàng chẳng mảy may tỏ ra cố tình. Tóm lại, làn da là niềm kiêu hãnh thứ năm của nàng.

Nhì dáng. Thứ nhì là do sự sắp xếp của câu nói thôi. Chứ dáng nàng thì khỏi thi, vương miện hoa hậu cũng đã hiển nhiên mà ngự trên đầu rồi (với điều kiện không phải thi ứng xử). Các chỉ số của cơ thể nàng đều chuẩn đến mức không thể chuẩn hơn được. Lại thêm đôi chân thon dài càng tôn lên một vóc dáng đài các, kiêu sa. Tóm lại, vóc dáng cơ thể là niềm kiêu hãnh thứ sáu của nàng.

Tóm lại tất cả những tóm lại ấy, nàng là một niềm kiêu hãnh tột bậc cho cha mẹ nàng, là thứ tài sản giá trị nhất cho cả bản thân nàng, là một vật báu cực kỳ của sự sở hữu cho bất kỳ chủ nhân. Nơi đâu có sự xuất hiện của nàng, nơi ấy có những khát khao, ngưỡng mộ, ganh ghen, và cả sự tủi thẹn. Nghe đồn rằng: Khi mẹ nàng chớm khai hoa nở nhụy, bầu trời vụt trở nên trong xanh, sáng láng nhất trong những ngày mưa rầm rĩ, chim chóc véo von khắp một vùng, cỏ hoa đua nhau ngan ngát hương thanh cảnh thú. Mẹ nàng rạng rỡ ánh cười quên phắt cơn đau xé ruột, cha nàng sung sướng nét ngời tưng tiu hạt ngọc trên tay. Mỗi khắc thời gian đi qua, những tiếng trầm trồ xoa xuýt nhiều thêm, mẹ nàng ngẩng cao mặt hãnh diện đón nhận bao lời tán tụng , cha nàng mặc sức cành kiêu cành bổng trước những thiết tha chèo kéo. Nàng mặc nhiên được biệt đãi không khác gì một hoàng cô. Miếng ăn ngon nhất để dành cho nàng, thứ đồ chơi đẹp nhất để dành cho nàng, chiếc áo sang trọng nhất để dành cho nàng, đi đến nơi kia chốn nọ, nghiễm nhiên là nàng được bồng bế đặt lên phía trước chiếc xe. Ngoài thời gian đến lớp, nàng không phải mó tay đến bất cứ công to việc nhỏ gì trong nhà, kể cả những vặt vãnh nhất của bản thân. Nàng có hẳn một bà vú chăm sóc cẩn thận từng chút một. Chị nàng có so đo thì bị mắng té tát, em nàng có phụng phịu cũng lãnh một trận nên thân. Nàng từ từ trở thành vật bất kỳ xâm phạm. Đến trường, nàng cũng được đối xử không khác ở nhà là mấy. Thầy cô giáo có muốn rầy la cũng ngại mở mồm, có muốn viết một con số khiêm tốn trong sổ điểm cũng ngại xuống tay, mặc dù… Từ cuối cấp hai trở đi, việc đầu tiên khi đến lớp là rà soát ngăn bàn, xem có những thư của ai, những gói quà gì, nhận rồi thì cũng phải tỏ ra ta là người có văn hóa, không như nhiều cô gái đẹp khác mà chảnh không thèm trả lời. Mà trả lời thì cũng không thể cụt lủn, quấy quá, e số lượng gói lớn gói nhỏ thưa dần, nên nàng cũng chịu khó lắm trong việc sưu tầm những thứ “cẩm nang” phù hợp, nên vừa hết buổi học, thì cùng vừa trả lời xong những lá thư và lên một lịch trình cho những giờ kế tiếp. Tan trường là đã có sẵn một danh sách đón đưa để lựa chọn. Nàng cũng khổ lắm chứ bảo có phải sung sướng gì, khi muốn được lòng người này lại sợ mất lòng người khác. Vì thế mà nàng cũng đâu có rảnh rang gì đâu, từ đám nọ sang tiệc kia từ cuộc rượu này sang cuộc chè khác. Cổng trường chỉ còn là một địa chỉ hợp pháp. Đến khi, thay những cuộc đón đưa của những chiếc xe máy, dù xịn nhất, bằng những chiếc xế hộp sáng bóng lướt êm như ru, thì cái cổng trường cũng ngậm ngùi chia tay nàng không kèn không trống. Mẹ nàng tặc lưỡi, ừ thì thôi, học lắm cũng chẳng làm gì chỉ tổ tàn phai nhan sắc, cha nàng chép miệng, ừ thì thôi, cứ thong dong cũng phú quý cả đời rồi con ạ, thức khuya dậy sớm làm gì cho nhọc tấm thân.

Ngẫm cũng phải. Hàng vạn người trên đời này không biết phải bao chật vật lo toan, mong được đủ phục vụ cho những nhu cầu cuộc sống ở mức tương đối nhất đã gọi là may mắn lắm rồi. Còn nàng, trời cho một thứ vào hàng ưu đãi bậc nhất của người con gái là nhan sắc, mà lại là nhan sắc thuộc hàng đỉnh nhất, thì có phải nhọc nhằn gì đâu mà nàng cũng có dủ những thứ phương tiện, không chỉ đủ mà còn dư thừa nữa. Nàng cũng khổ lắm chứ, chả nhẽ cứ xòe tay nhận mãi, cũng phải đền đáp lại những tấm lòng tha thiết ấy một chút gì cho phải chứ. Mẹ có cau mày, cha có nhăn trán, nàng cười vỗ về, họ tự nguyện chứ con nào có buộc, chẳng sao đâu mà ba mẹ phải lo. Cũng đôi khi sự cố giữa các đối thủ, không sao, chỉ một cái cười hoặc khóe mắt hơi rơm rớm của nàng là giải quyết xong hết. Lắm khi nàng tự khen mình, thông minh ấy chứ nhỉ? Vây quanh nàng là đủ loại thứ bậc trong xã hội, nàng cứ khôn ngoan mà sàng lọc, khôn ngoan mà buông bắt, khôn ngoan mà tận dụng. Nhưng nàng không hề biết rằng sự khôn ngoan của nàng, so ra không bằng một cái vẩy khôn ngoan của một số tai mặt. Nên nàng không hề biết rằng, từ lúc nào nàng đã trở thành một món hàng cao giá giữa các đại gia, là một điều kiện tất yếu trong những cuộc trao đổi, ngã giá. Nàng vẫn vô tư hồn nhiên tận hưởng những ưu đãi của cuộc sống , hồn nhiên tội nghiệp cho những cô nàng cứ phải cay cú ganh ghen với mình, hồn nhiên tự nhủ quả cuộc đời mình tuyệt thú, không có cái gì hay trên đời này mà mình chưa từng xem qua, không có cái gì ngon trên đời này mà mình chưa từng nếm đến, không có cái gì đẹp trên đời này mà mình đã bỏ lỡ. Cuộc đời ơi! Thế thì ta cứ thỏa sức mà thượng ngoạn những món quà của cuộc sống, mặc tình mà vui thú với bao cảm xúc tuyệt diệu của bản thân, trên đời này không ai diễm phúc bằng ta cả. Ha ha.

Bất chợt một ngày, mẹ nàng há hốc mồm, cha nàng trố lồi mắt khi một bản tin ngắn trên ti vi phát về một cuộc triệt phá. Nàng đấy , cho dù có cố che mặt, nhưng không thể nào che hết những quen thuộc với những người thân, một tội danh không lấy gì làm to tát, những có một bản án đã âm thầm kết tụ trong nàng tự bao giờ, và lời tuyên án ấy lại từ một người có chuyên môn cao thuộc ngành y. Lời tuyên án ấy đã không những làm nàng ngớ ngẩn sau mấy chấn song, mà còn làm nàng gần như mất hết cảm giác, nhận thức trong tri giác. Để rồi mãi mãi sau, nàng mới từ từ tỉnh ra, từ từ ngẫm ngợi, nàng cứ ngẫm ngợi mãi, muốn thét hỏi vì sao nàng đang ở trên ngôi cao chín bệ, lại rơi cái bịch vào chốn này, lại tụt cái ẫng vào một vũng đen ngòm đến hết cả cuộc đời? Nàng nghĩ mãi nghĩ mãi, sau cùng rồi nàng cũng nghĩ ra, nàng thét lên, thét đến rách cả cổ họng, rách cả ruột gan, rách cả trái tim của những người thân yêu ruột thịt của nàng:

- Trời hỡi trời! Đẹp! Đẹp mà làm gì hở trời???

ĐÀM LAN

NỖI BUỒN NHAN SẮC

NGUYỄN THỊ MÂY

Khi tôi và ba thức giấc, mẹ đã đi rồi. Mọi vật vẫn còn chìm trong yên tĩnh khác thường. Mấy bức rèm cửa sổ chưa được vén lên, buông rủ, nhốt kín ánh sáng hồng nhạt của chiếc đèn ngủ. Đêm dường như chưa chịu rời khỏi gian phòng nếu không có tiếng chuông điện thoại vang lên giục giã.

Ba choàng dậy trước tiên, cơn say đêm qua hãy còn gây váng vất, ngầy ngật. Ông đổ vật xuống nệm, lầu bầu, cáu gắt:

- Mẹ kiếp! mẹ con Dương đâu, sao không trả lời điện thoại vậy hả?

Tôi chán ngán kéo chăn trùm kín đầu để khỏi phải nghe những lời cãi lẫy sắp nổ ra như thường lệ. Nhưng, xung quanh vẫn yên lặng. Tiếng chuông điện thoại lại réo từng nhịp một. Ba ngồi bật dậy, loạng choạng đến bên máy:

- A lô, ai gọi đó? Hừ, chưa có ai giao hàng hả? Hừ… thôi được, tôi sẽ cho người mang hàng tới ngay, chào!

Gác mạnh máy, ông bực bội đá mạnh cái ghế ngay tầm chân khiến nó va vào tường đánh rầm. Mẹ tôi vẫn không thấy chạy vào, hốt hoảng như mọi khi. Chỉ có ba gầm gừ, giận dữ:

- Nga! Bích Nga!... Chết đâu rồi hả?

Vẫn im lặng. Tôi bắt đầu lo lắng. Sao thế? Ngồi bật dậy, tôi rón rén mở cửa phòng ngủ đi ra nhà trước. Và, cái thư! Cái thư mẹ đã đặt sẵn trên bàn. Nó thông báo ngắn gọn rằng mẹ đã bỏ đi vì buồn tủi “Anh nói đúng! Em là người đàn bà xấu xí, đê tiện, đã giam giữ, phá hại đời anh. Từ nay, anh và con hãy sống tự do theo ý thích. Bích Nga” .

Tôi bàng hoàng, ngơ ngẩn giây lâu. Ba thì khác. Ông thoáng cau mày rồi nhếch mép, nhún vai:

- Rõ chán! Đi được mấy ngày đây hay chiều tối lại trồi đầu trở về.

Ba đã lầm. Mấy ngày trôi qua, mẹ vẫn biền biệt nơi nào. Mặc mọi thứ rối tung. Điện thoại cứ réo từng chặp. Ba vừa trả lời vừa ghi chép vừa ra lệnh cho anh Tư giúp việc chuyển hàng. Nhìn ba đầu bù, tóc rối, quát tháo ầm ĩ, tôi mới biết phục mẹ. Hằng ngày, mẹ lo hết. Bà phân phối gọn lẹ, kịp thời theo yêu cầu của mối. Bên cạnh, bà nhập kho những thứ sắp hết. Buôn hàng chục loại, nào là thuốc lá, bia, nước ngọt, đồ hộp… vậy mà mẹ còn tìm hiểu, nghiên cứu thị trường tiêu thụ để chớp lấy thời cơ làm giàu.

Song song đó, mẹ còn lo bữa ăn cho tôi và ba. Bà chạy đi chạy lại như con thoi trên khung cửi. Tôi cảm thấy chóng cả mặt trước những tất bật của mẹ và thở phào nhẹ nhõm khi đã thoát được ra ngoài phố. Có lẽ ba cũng vậy. Ông chịu đựng mẹ. Ông uể oải ăn sáng, thủng thỉnh ngồi vào bàn làm việc, chậm rãi hút thuốc và thong thả tính toán. Ông và tôi ngắm nhìn mẹ quay cuồng trong cơn sốt công việc. Mẹ say mê làm ăn như người ta nghiện ma túy. Mẹ có biệt tài tiếp cận thị trường, đánh giá mặt hàng thứ yếu, cần thiết và luôn thành công khi bỏ vốn kinh doanh. Mẹ buông món này, bắt món kia, thu loại này, xuất loại kia, một ngày không biết bao nhiêu lần. Tôi và ba cũng bị mẹ lôi tuột vào quỹ đạo ấy. Vừa nhác thấy tôi ở trường về, mẹ đã phân công:

- Thái Dương! Con kiểm hàng giúp mẹ. Nhớ ghi số lượng từng loại.

- Thái Dương! Bảo anh Tư chở hàng đến khách sạn số sáu…

Hàng hóa la liệt trong nhà, từ trước ra sau, tràn cả vào phòng ngủ. Chỗ nào cũng được mẹ trưng dụng làm nhà kho. May sao, góc học tập của tôi còn rộng rãi đôi chút. Một dãy bia chất cao khỏi đầu người, ngăn đôi gian phòng và chỗ để tôi dồi mài kinh sử. Dĩ nhiên bia thắng thế hơn nhưng dù sao đó là nơi mẹ tôn trọng nhất. Khi muốn được yên thân, tôi chỉ cần ngồi vào ghế, mở bất kỳ quyển vở nào rồi bắt đầu rì rầm đọc thì tiếng động lập tức sẽ giảm. Mẹ thì thào khi ra lệnh giao hàng. Chuông điện thoại réo, trước khi nhấc máy, mẹ phẩy nhẹ tay như tát yêu và ngầm trách nó đã làm phiền con gái mẹ. Mẹ quý việc học của tôi hơn hết. Dù bận thế nào, trong tháng mẹ cũng đến gặp cô chủ nhiệm một lần để tìm hiểu việc học tập của tôi. Mẹ ghé qua nhà thầy Toán Lý đóng tiền học kèm cho tôi, nhân tiện, nắm tình hình học tập. Nếu biết tôi tiến bộ thì mẹ mở tiệc ăn mừng và gửi quà tặng đến thầy cô. Còn ngược lại, kết quả học tập của tôi sa sút, mẹ như sắp chết. Mẹ ủ rủ, khổ sở như mua bán thua lỗ. Nói chung, mẹ rất yêu tôi và ba. Nhưng cả ba lẫn tôi đều sợ hãi cách chăm sóc, sắp xếp, định đoạt của mẹ. Mẹ muốn tôi phải là một đứa con gái nhà giàu. Giàu từ trong trứng giàu ra. Cái áo tôi mặc, đôi giày tôi mang, cái nón tôi đội đều là thứ đắt tiền chưa bạn bè nào sắm nổi. Mẹ phủ quanh tôi một làn không khí sặc mùi quý tộc và ướp vào hồn tôi niềm kiêu hãnh, tự mãn đáng ghét. Tôi thấy mình ở tận lưng chừng trời và các bạn thì biệt mù dưới đất. Hai thế giới riêng biệt và tôi bị… cô lập. Những người bạn tôi phục thì không thích làm thân với tôi. Mấy đứa tôi ghét lại xum xoe, ve vãn. Tôi trở nên trái tính, trái nết và thường xuyên buồn tủi vì cô đơn. Trong khi đó, mẹ quên bản thân. Gần hết số quần áo mẹ đang mặc là những bộ mà tôi phế thải. Chúng không còn hợp thời trang. Màu sắc đã phai nhạt. Dù vậy, chúng vẫn còn quá sặc sỡ đối với lứa tuổi đã ngoài bốn mươi của mẹ. Những bộ cánh hở cổ, ngắn tay đã biến mẹ thành một người già lố bịch, nuối tiếc tuổi xuân.

Tội nghiệp! Mẹ không hề chú ý. Bà thản nhiên đi chợ với đôi dép của ba, đội chiếc mũ kim tuyến của tôi và mang cái bóp của cô Út. Kết cuộc, mẹ hái ra bạc, chăm lo cho mọi người nhưng lại quên mình. Mẹ hào phóng với mọi người nhưng quên bản thân. Lẽ ra, người trong nhà phải quý yêu mẹ. Đàng này, không ai thích gần gũi mẹ, kể cả tôi và ba. Ba phục tài kinh doanh của mẹ. Chiếc mô tô ông đang dùng là công sức của mẹ. Bộ đồ sang trọng ông đang mặc do mẹ chọn lựa, gọi thợ đến tận nhà đo ni. Ba sung sướng hưởng tất cả những thứ vật chất xa hoa ấy nhưng lại không quý người tạo ra nó. Ít khi ba ngỏ ý đưa mẹ đi ăn hay dạo phố. Mà dù ông có đề nghị, mẹ cũng từ chối vì sợ không ai trông chừng hàng hóa. Mẹ phải thủ. Bà cho phép ba “xả hơi” một mình. Dần dà, ba cảm thấy đi đêm một mình rất thú vị. Chẳng gặp “ma” mà gặp “Tiên”. Mấy người hầu bàn trong quán bia, cô nào cũng đẹp, thơm phưng phức. Tóc tai gọn gàng, quần áo lại hợp thời trang, phù hợp với làn da và lứa tuổi làm tăng thêm nét duyên dáng, gợi tình. Ba đã chết trong nỗi đam mê ngọt ngào, bất chính. Mẹ không hay gì hết. Bà chỉ càu nhàu khi ba về muộn, sực nức mùi men. Mẹ phàn nàn nhà có bia sao không uống, lại đi chỗ khác cho hao tốn? Mẹ không hiểu rằng ba say một cái gì khác hơn kia.

Bất hạnh là tôi biết. Tôi gặp ba trong một lần cùng các bạn vào một quán kem nằm cạnh cửa hàng bia ôm. Tận mắt trông thấy ba… ôm một lúc hai cô trạc tuổi tôi. Thoạt đầu, tôi căm phẫn, tức tối, ngầm nguyền rủa ba là người bội bạc, không biết thương vợ, một người chỉ biết vì chồng con. Nhưng hôm ấy, khi trở về nhà, tôi ngồi lặng yên nơi góc học tập, len lén ngắm nhìn mẹ. Tôi đau khổ nhận ra rằng mẹ già và xấu quá.

Mẹ chỉ lo chinh phục con buôn mà quên nhan sắc. Lũ bạn tôi thường lý sự “Đàn ông họ yêu bằng mắt”. Có lẽ đúng! Mẹ trong mắt ba chỉ là một mụ già xấu xí, đê tiện mà ba gào lên trong lúc say.

Ông vừa đập cửa vừa phun ra hàng loạt nọc độc:

- Mở cửa, mở cửa mau… Bích Nga! Con vợ già xấu xí

Cửa mở, ba chếch choáng, xiểng niểng đi vào. Mẹ lắp bắp trong cơn giận dữ:

- Ông nói gì, nói lại tôi nghe thử!

Ba nhìn mẹ rồi cười khẩy:

- Tôi bảo bà là một mụ già đê tiện, nghe rõ chưa? Bà đã phá hại cuộc đời tôi trong ngục tù này nè!

Mẹ run bần bật, bà thét lên:

- Đồ… khốn nạn!

Tiếp theo, “Bốp” bà giang thẳng tay, tát vào gò má ba. Cú đánh bất ngờ khiến ba tỉnh táo hẳn. Cơn giận đã làm ông trở thành một người tàn nhẫn.

Ông lấy cái gương soi đưa cho mẹ với những câu độc ác:

- Đây, bà ngắm đi! Bà đẹp lắm chắc! Tôi bậy phải không? Đồ đê tiện!

Mẹ bật khóc. Bà ném vỡ chiếc gương soi rồi bỏ chạy về phía giường ngủ. Trông thấy tôi, bà ôm chầm lấy như chụp một cái phao, một cứu tinh. Nhưng tôi lại có một hành động mà suốt đời phải ân hận là đã quay lưng lại với mẹ. Tôi đã tìm cách thoát khỏi vòng tay của mẹ, rồi chui vội vào lớp chăn sau khi tuôn ra một câu vô tâm, tàn nhẫn:

- Nhìn mẹ, con cũng muốn nổi điên lên nữa.

Như trúng tên độc, mẹ gục xuống. Căn nhà chìm trong tiếng nấc của mẹ. Còn ba và tôi thì chìm trong giấc ngủ. Tôi nào biết người đàn bà xấu xí ấy đã âm thầm rời khỏi chúng tôi. Bây giờ, tôi tự do. Muốn học hay không, tùy ý. Muốn ăn mặc ra sao mặc lòng. Tôi có thể đi chơi đến khuya cũng chẳng có ai ngăn cấm. Có nghĩa là muốn nên hay hư, mặc tình. Ba cũng được như vậy. Ông hoàn toàn tự do. Không còn ai giam giữ, phá hại. Ba muốn đóng cửa tiệm hay mở cũng được. Đi đến sáng cũng chẳng còn ai cằn nhằn. “Mụ già xấu xí” chẳng còn xuất đầu lộ diện, mở cửa để trách cứ.

Đáng lý khi được như ý muốn thì con người cảm thấy sung sướng, hạnh phúc. Nhưng, tôi lẫn ba đều ngầm nhận ra nỗi bất hạnh đang tràn ngập quanh mình, tiềm ẩn trong lòng để dằn vật lương tâm, từng giờ, từng phút. Khuôn mặt láng bóng, tự mãn của ba đã biến mất. Hàng loạt nếp nhăn xuất hiện trên vầng trán ông. Ba cáu gắt hơn trước. Dần dà, mối hàng chán ngán, họ bỏ đi bớt. Thu nhập của gia đình tuột xuống hẳn. Anh Tư giúp việc được ba cho nghỉ việc và tôi phải làm thay anh khi có mặt ở nhà. Tôi không có thời gian học tập nên kết quả học tập sa sút thấy rõ. Ba bắt đầu lo lắng. Ông tìm ra một giải pháp để ổn định đời sống là “Cần phải có bàn tay của phụ nữ”. Do vậy, ông đưa về nhà một người đàn bà khá đẹp. Tâm là tên của người mà ba bảo là mẹ kế của tôi. Và, bà ta đã thay ba thu xếp mọi việc. Gian phòng ngủ lập tức trở nên sạch đẹp, lãng mạn với những tấm voan mỏng mảnh màu tím. Bia được dọn hết ra ngoài rồi vì ế ẩm, mặt hàng này được dẹp luôn. Hiện thời, cửa hàng của ba chỉ còn buôn đồ hộp. Dì Tâm cho rằng, dù ế, nó không hư hại gì, khỏi lo.

Không như mẹ tôi, Dì Tâm rất thích chải chuốt, săn sóc thân thể. Lúc nào trong nhà cũng sực nức mùi nước hoa lan tỏa từ mái tóc của dì. Bất kỳ lúc nào, khuôn mặt của dì cũng được trang điểm cẩn thận. Dì chăm chút áo quần, giày dép hơn cả việc ăn uống. Vì thế, dì sẵn sàng cho tôi và ba ăn uống kham khổ để dành tiền… mặc đẹp. Tất nhiên, chỉ có dì được phép chưng diện. Còn ba, đàn ông, cần gì! Tôi thì chỉ mới lớn, còn đi học, chỉ cần sạch sẽ là tốt lắm rồi. Đời sống đã hoàn toàn khác trước. Ba dường như trở nên nhu nhược, ngớ ngẩn. Tôi lại sanh chứng bất cần đời. Tôi học kém nhất lớp.

Hay tin, ba nổi giận, cho tôi nghỉ học luôn. Từ đó, tôi đảm nhiệm việc đi chợ, nấu ăn cho cả nhà.

Dì Tâm có một người em trai lớn hơn tôi hàng chục tuổi. Hắn hay lân la tới nhà, bảo là thăm chị chứ thật ra để vòi vĩnh tiền bạc. Hắn có cặp mắt trắng dã của một tên gian xảo. Tôi rất ghét hắn nhưng hắn rất thích bám theo trò chuyện với tôi. Tôi định cho ba hay rằng đã có mấy lần gã định ôm lấy tôi nhưng chưa kịp nói thì đã xảy ra chuyện. Hôm ấy, lợi dụng lúc trong nhà không có ai. Tên lưu manh đã ôm chầm lấy tôi. Gã lôi tôi vào phòng ngủ của chị hắn. Trong lúc gã gài cửa, tôi kêu cứu inh ỏi nhưng không ai nghe thấy. Hắn dồn tôi đến sát tường, ôm ghì lấy tôi. May sao, tôi nhìn thấy lọ nước hoa của dì Tâm trên bàn trang điểm. Đó là một loại chai dầu thơm loại nhập cỡ lớn và tôi đã dùng nó để đập vào đầu tên dâm đãng. Hắn ngã ra bất tỉnh trên vũng máu. Tôi mở cửa sổ, nhảy ra ngoài. Nhưng vì quá sợ hãi nên cũng bị ngã, đập đầu vào chậu kiểng gần đó rồi lịm đi, không còn biết gì nữa.

Khi tỉnh lại, tôi nhận ra mình đang nằm trong bệnh viện, đầu còn băng kín, gây váng vất, đau nhức vô cùng. Và, người đang ngồi bên giường tôi là mẹ. Ôi, mẹ đã trở về đúng lúc. Bà như ánh mặt trời xua tan bóng đêm đang vây phủ lấy tôi. Giữa cơn nguy khó, mẹ xuất hiện như một thần linh để ra tay cứu giúp. Mẹ đưa những ngón tay mềm mại lau nước mắt cho tôi. Mẹ cũng khóc. Nước mắt rơi đầm đìa trên gương mặt đã trở nên xinh đẹp của mẹ. Toàn bộ mọi thứ trên người mẹ giờ đây đều trang nhã và gợi cảm. Ánh mắt dịu hiền. Đôi môi tươi tắn. Mái tóc uốn cao rất hợp với khuôn mặt mẹ. Nói chung, mẹ đẹp. Đẹp thật! Tôi òa khóc. Mẹ nắm lấy tay tôi, dịu dàng bảo:

- Nín đi con! Lẽ ra mẹ không nên bỏ đi. Mẹ thật có lỗi!

Tôi vội vàng thưa:

- Không! Mẹ bỏ đi là đúng. Nhờ vậy, cả nhà ta mới tìm ra chân lý.

Ba đã đến tự lúc nào, tiếng ông vang lên từ phía sau lưng mẹ:

- Con nói đúng. Nhờ mẹ con bỏ đi mà ba biết được rằng cái gì ta đánh mất, ta mới nhận ra giá trị thật sự của nó.

Tôi nêu thắc mắc:

- Sao mẹ biết con gặp nạn mà quay về đúng lúc thế hở mẹ?

Mẹ cười buồn:

- Dù không sống gần bên con nhưng lúc nào mẹ cũng hướng về con, dõi theo từng đổi thay trong cuộc sống của gia đình. Con quên là mẹ có rất nhiều bạn đó sao?

Ba tôi xen vào:

- Bây giờ, ba và con hãy xin mẹ thứ lỗi và đừng bỏ rơi mình nữa, con có đồng ý không?

Nhưng tôi chỉ biết gọi: “Mẹ!”. Rồi lại khóc. Mẹ không nói gì hết, bà cúi xuống để giấu đôi ngấn nước long lanh trong mắt. Bàn tay mẹ siết chặt tay tôi, chúng run lên se sẽ .

NGUYỄN THỊ MÂY

MỤC LỤC

Vài chi tiết về kỳ họp ngày 12.3.2016… .................................. Vũ Thư Hữu .... 01

Vài chi tiết về Một bộ báo cổ bằng Pháp văn rất hay

của những năm 30 thế kỷ trước .................. Vũ Anh Tuấn .... 05

Thông điệp Laudato Si’ của ĐGH Phanxicô (tt) .... Lm.Aug. Ng.V.Trinh dịch .... 09

Con trâu của Ngài Quy Sơn ............................................................ Tâm Nguyện .... 17

Đọc sách “Triều Nguyễn và Lịch sử của chúng ta” ................ Võ Kim Cương .... 28

Những cuốn sách Văn học Nga… ...................................................... Thúy Toàn .... 32

Nhà tâm lý học tài ba Nguyễn Du với 2 kịch tác gia Pháp .... Phạm Đan Quế .... 37

15 năm Trịnh Công Sơn trở về “Cát bụi” ............................................ Phạm Vũ .... 43

Hai cuốn tiểu thuyết của Nguyễn Bính ............................... Hoàng Kim Thư st .... 54

Tháp Eiffel biểu tượng của nước Pháp ...................... Bs. Nguyễn Lân-Đính st .... 59

Tết & Tết Việt Nam ............................................................................. Nhựt Thanh .... 66

Mùa Giáng Sinh (thơ) ....................................................................... Thanh Nhàn .... 74

Nhớ đấng sinh thành (thơ) ......................................................... Quan Thúy Mai .... 75

Đường về nhà anh (thơ) ............................................................. Quan Thúy Mai .... 75

Mộng ảo (thơ) ................................................................................... Lê Minh Chử .... 76

Lọ tro (thơ) ......................................................................................... Lê Minh Chử .... 76

Lên đền đầu Xuân (thơ) ..................................................................... Bs.Doanlinh .... 77

Tết quê (thơ) ........................................................................................ Bs.Doanlinh .... 78

Sóng dập gió vùi… (thơ) ................................................................. Ngàn Phương .... 78

Thơ… Thơ… (thơ) ........................................................................... Ngàn Phương .... 80

Cỏ mềm cho em (thơ) ............................................................................ Đàm Lan .... 81

Hoa nào đẹp nhất (thơ) ............................................. Hồ Kiểng - Ngô Bá Mạnh .... 82

Quy Nhơn (thơ) ................................................................................. Thiếu Khanh .... 84

Cùng bạn thơ ca (thơ) ............................................................... Vũ Thùy Hương .... 86

Nỗi lòng của Mẹ (thơ) .................................................................. Vũ Thùy Hương .... 87

Vạn nẻo sơn khê (thơ) ....................................................................... Thanh Châu .... 88

Tình nồng thắm (thơ) ....................................................................... Thanh Châu .... 88

Kèo nài (thơ) ........................................................................................... Lam Trần .... 89

Dấu chân xưa (thơ) ........................................................... Phạm Thị Minh-Hưng .... 90

Sen hồng (thơ) ................................................................... Phạm Thị Minh-Hưng .... 90

Đừng bắt trái tim lặng câm (thơ) ......................................................... Lê Nguyên .... 91

Cơn mưa đầu mùa (thơ) ....................................................................... Lê Nguyên .... 92

Chiến sĩ Việt Nam (thơ) ................................................................... Lang Nguyên .... 92

Chơi thơ (thơ) ..................................................................................... Lang Nguyên .... 93

Thơ Đường Luật (thơ) ................................................................................ Hoài Ly .... 93

Sinh nhật tôi (thơ) ....................................................................................... Hoài Ly .... 94

Sống vui (thơ) ....................................................................................... Quang Bỉnh .... 95

Sống khỏe (thơ) ................................................................................... Quang Bỉnh .... 95

Nước mắt (thơ) ................................................................................ Võ Kim Cương .... 96

Trong nhà (thơ) ......................................................................... Trần Nhuận Minh .... 97

In the house (thơ) ..................................................................... Vũ Anh Tuấn dịch .... 98

Nhà thơ & kẻ trộm (thơ) .......................................................... Trần Nhuận Minh .... 99

The poet anh the thief (thơ) ................................................... Vũ Anh Tuấn dịch .... 99

Quảng Ngãi có tên Cẩm Thành .......................................................... Bùi Đẹp st. .. 100

Tôi không bao giờ phải cai thuốc lá lần thứ hai! ......................... Thiếu Khanh .. 102

Một thiên tài phát minh bị bỏ quên Fernand Forest

cha đẻ xe hơi… .............................. Đào Minh Diệu Xuân st .. 108

Tìm lại tuổi thanh xuân ....................................................................... Dương Lêh .. 111

Tìm về cội nguồn dân tộc: Một văn bản về nguồn gốc dân tộc

có trước Lĩnh nam chích quái .................................... Hoàng Chúc st. .. 118

Một nụ cười bằng 10 thang thuốc! ............................................ Đỗ Thiên Thư st .. 121

Tấm ảnh thờ .............................................................................. Giáng Ngọc (G.Đ.) .. 127

Người cũ ................................................................................................... Lam Trần .. 132

Câu chuyện của một đứa trẻ: Thằng Nhóc (tt) ......... Thanh Châu dịch thuật .. 136

Nàng .......................................................................................................... Đàm Lan .. 139

Nỗi buồn nhan sắc ..................................................................... Nguyễn Thị Mây .. 144

|  101 |
 102 |
 103 |
 104 |
 105 |
 106 |
 107 |
 108 |
 109 |
 110 |
 111 |
 112 |
 113 |
 114 |
 115 |
|  116 |
 117 |
 118 |
 119 |
 120 |
 121 |
 122 |
 123 |
 124 |
 125 |
 126 |
 127 |
 128 |
 129 |
 130 |
|  131 |
 132 |
 133 |
 134 |
 135 |
 136 |
 137 |
 138 |
 139 |
 140 |
 141 |
 142 |
 143 |
 144 |
 145 |
|  146 |
 147 |
 148 |
 149 |
 150 |
 
|  101 |
 102 |
 103 |
 104 |
 105 |
|  106 |
 107 |
 108 |
 109 |
 110 |
|  111 |
 112 |
 113 |
 114 |
 115 |
|  116 |
 117 |
 118 |
 119 |
 120 |
|  121 |
 122 |
 123 |
 124 |
 125 |
|  126 |
 127 |
 128 |
 129 |
 130 |
|  131 |
 132 |
 133 |
 134 |
 135 |
|  136 |
 137 |
 138 |
 139 |
 140 |
|  141 |
 142 |
 143 |
 144 |
 145 |
|  146 |
 147 |
 148 |
 149 |
 150 |
 
Netadong.com thiết kế