VÀI CHI TIẾT VỀ KỲ HỌP NGÀY 09/12/2017 CỦA CÂU LẠC BỘ SÁCH XƯA & NAY Như thường lệ, để mở đầu phiên họp, Dịch giả Vũ Anh Tuấn đã giới thiệu với các thành viên hai tân quý thư mà ông mới có. Lần này cả hai cuốn đều bằng ngoại ngữ, một cuốn bằng Pháp văn và một cuốn bằng Anh văn. Cuốn bằng Anh văn mang tựa đề là “Sách Hỏi Đáp của Miles Kelly” (The Miles Kelly Book of Questions and Answers). Cuốn sách vuông khổ 18.5 x 18.5cm, dày 384 trang, được in rất đẹp và chứa đựng hàng ngàn hình ảnh toàn bằng màu. Sách là một cuốn sách thuộc loại mở rộng kiến thức khi chứa đựng hàng ngàn câu hỏi, có câu trả lời đi kèm, được minh họa bằng những hình màu thật đẹp, và các câu hỏi thuộc đủ mọi lãnh vực của cuộc sống nhằm mục đích giúp người đọc mở mang thêm kiến thức. Cuốn sách thật hấp dẫn này được in năm 2006, tức là 11 năm trước. Người viết đã mua vì thấy nó bổ ích và được in ấn thật đẹp. Cuốn thứ nhì bằng Pháp văn mang tựa đề là “Ánh sáng vụt tắt” (La lumière qui s’éteint) của tác giả người Anh Rudyard Kipling (1865-1936), và thuộc loại sách chuyên đăng các tác phẩm của các tác giả đoạt giải Nobel về Văn Chương, và với tác phẩm này, tác giả Rudyard Kipling đã đoạt giải Nobel Văn Chương vào năm 1907. Cuốn sách khổ 12 x 24cm, dày 294 trang, được in cực đẹp với trang bìa được danh họa Picasso minh họa và một số minh họa khác cực đẹp do một họa sĩ tên là Gérard Economos minh họa. Cuốn sách được mở đầu bằng một bài viết nói về việc chọn lựa và quyết định trao g iải Nobel năm 1907 cho nhà văn Anh Rudyard Kipling với tác phẩm “Ánh sáng vụt tắt”. Kế đó là bài diễn văn được một Tiến sĩ trong Hội Đồng trao giải Nobel đọc trong L ễ Trao Giải. Sau bài diễn văn là bài viết về cuộc đời và văn nghiệp của nhà văn Kipling do một Giáo sư trường Đại học lừng danh Sorbonne của Pháp viết. Và cuối cùng là tác phẩm được giải “Ánh sáng vụt tắt” với gần một chục minh họa màu nguyên trang cực đẹp. Sau khi được giới thiệu hai tân quý thư đã được một số thành viên chuyền tay nhau thưởng lãm. Sau khi Dịch già Vũ Anh Tuấn giới thiệu sách, anh Phạm Vũ đã lên nói về Thánh lễ Giáng Sinh (Noel) và về mấy loại lịch cổ như lịch Grégorien và Césarien. Tiếp lời anh Phạm Vũ, anh Nhựt Thanh lên nói chuyện về Nhạc Phi đời Tống. Sau anh Nhựt Thanh, thành viên Kim Mai lên hát tặng các thành viên bài “Chiều lên Bản Thượng”. Tiếp lời cô Kim Mai, anh Tấn Thuận lên hát tặng các thành viên bài “Trường ca sông Lô” của Văn Cao. Sau anh Tấn Thuận, cô Ái Liên lên nói về một cuốn phim kể chuyện 14 bà vợ của Nhạc Phi trả thù cho anh chồng chung tựa đề là: Thập tứ nữ anh hào. Cô Ái Liên nói xong, anh Lê Nguyên lên ngâm tặng cá c thành viên bài thơ anh làm về Điện Biên Phủ. Anh Lê Nguyên ngâm thơ xong, anh Phùng Chí Tâm lên hát tặng các thành viên hai bài “Tiểu đoàn 307” và “Lên thăm tượng Chúa”. Tiếp lời anh Phùng Chí Tâm, nhà thơ Hải Âu lên ngâm tặng các thành viên bài “Thơ say tình”. Sau anh Hải Âu, thành viên Thùy Hương lên ngâm bài thơ “Thổn thức”. Tiếp lời Thúy Hương, cô Thùy Mai lên ngâm bài “Mộng hoa Xuân”. Sau cô Thúy Mai, thành viên Kim Sơn lên hát tặng các thành viên bài ca về Noel “Silent night”. Kim Sơn hát xong, cô Thanh Xuân lên ngâm tặng các thành viên hai bài thơ “Xế chiều” và “Phụ Nữ”. Sau cô Thanh Xuân, thành viên Hoài Ly lên ngâm bài thơ “Trăng”. Kế đó thành viên Lệ Ngọc lên nói qua về tai nạn cô vừa qua khỏi và hát bài “Hoài thu”. Sau Lệ Ngọc, cô Hương Mai lên ngâm tặng các thành viên một bài thơ. Tiếp lời Hương Mai, anh Thanh Châu, với “tiếng hát át tiếng bom” quen thuộc lên hát tặng các thành viên bài “Mùa Thu Đông Kinh” của Hoàng Thi Thơ. Cuối cùng, anh Quang Bỉnh lên nói qua về công dụng của tỏi và đọc tặng các thành viên một bài thơ. Cuộc họp kết thúc lúc 11g20, các thành viên vui vẻ ra về hẹn nhau sẽ cùng gặp lại vào tháng sau. VŨ THƯ HỮU
VÀI DÒNG VỀ MỘT CU ỐN SÁCH TUYỆT VỜI, KHIẾN TÔI NHỚ LẠI MỘT THỜI TRAI TRẺ QUÁ ĐẸP Hai ngày trước, lúc gần 6 giờ chiều, khi tôi vừa mặc quần áo xong, và sửa soạn đi ăn với một bà bạn ở Pháp về, thì tôi nhận được một cú điện thoại cho biết có bà xã một nhà báo muốn bán gấp một số sách của chồng bà để lại, khi đi xa hồi ba năm trước. Thế là, vì hoàn cảnh, tôi đành phải tự cho phép mình nói dối một tí, và viện cớ gặp chuyện gấp phải giải quyết, để xin hẹn lại bà bạn vào lúc khác. Nửa giờ sau tôi đã có mặt ở Thảo Điền, và được bà vợ ông nhà báo đưa tới trước hai cái tủ lớn chứa đầy sách, phần lớn là sách Pháp và sách Anh, chỉ có lơ thơ vài cuốn sách Việt là thứ tôi đang muốn tìm lại nhất. Tôi hơi bị thất vọng, nhưng sau gần một giờ đồng hồ lục lọi tôi cũng tìm được cho mình trên 20 cuốn sách mà tôi thích, trong số đó, có cuốn mà tôi sắp nói tới đây là tôi thích nhất. Cuốn sách bìa cứng, được đóng khá đẹp, khổ 21 x 27cm, và bên trong là 15 số tiểu thuyết bằng ảnh (Romans photos) mỗi số khoảng 80 trang, do nhóm chủ trương tờ tuần báo khá nổi tiếng dành cho quý bà làm. Tờ tuần báo Pháp này mang tên là tờ “Đôi Ta” (Nous Deux), ra đời năm 1947, và tới năm 1950, thì nhóm chủ biên cho ra đời loại tiểu thuyết bằng ảnh này. Mỗi số trung bình là 80 trang, và cuốn tiểu thuyết được trình bày bằng hình ảnh có chen lẫn các câu chữ đối thoại giữa các nhân vật trong truyện. Các hình ảnh được chụp rất rõ đẹp và được in bằng một màu xanh nhạt trong rất dễ thương. Còn các cốt truyện thì thật tuyệt vời, thật thực tiễn, đầy tình tiết l y kỳ, lãng mạn, hấp dẫn, đặc biệt là rất đời thường, rất dễ hiểu, rất dễ đi vào lòng người đọc, tuyệt đối không có hơi hướm ẩn dụ, hiện dụ, hậu hiện đại, hậu ma dại… Cuốn sách tôi gặp hôm nay gồm 15 tiểu thuyết bằng hình đóng chung làm 1 cuốn, và nếu tính tới nay thì chúng cũng đã được trên 60 năm tuổi đời, tuy nhiên hình ảnh vẫn rõ, vẫn đẹp có thể nói tới 95%. Lý do tôi thích là vì cuốn sách này làm tôi hồi tưởng và nhớ lại một thời trai trẻ thật tuyệt vời trong căn nhà rộng lớn số 216 Đường Cát Dài ở Hải Phòng. Năm đó tôi 17 tuổi, và vì được học tiếng Pháp từ lớp mẫu giáo, nên tôi đã biết khá tiếng Pháp. Tôi gặp loại tiểu thuyết bằng hình này lần đầu tiên ở nhà sách Chaffanjon ở đường Lacome Hải Phòng. Vừa trông thấy là tôi thích ngay vì hình ảnh quá đẹp và khi xem, người xem có cảm tưởng mình đang đi xem chiếu bóng, chỉ khác là các nhân vật nằm im chứ không cử động đi dứng như trong phim. Tuy nhiên những dòng chữ đối thoại được in rất rõ và giúp tôi trau dồi Pháp văn một cách thích thú. Tôi còn nhớ rất rõ, hồi đó khi có những cuốn tiểu thuyết bằng ảnh này tôi thường mang chúng lên sân thượng căn nhà để vừa đọc chúng dưới ánh đèn, vừa mơ mộng ngắm… trăng sao. Cầm cuốn sách nặng khoảng 4 kí trên tay, tôi cảm thấy mình thật may mắn khi đã hết 20 tuổi lần thứ 4 cộng 2, mà Hoàng Thiên còn cho gặp lại một cô bạn từ thời 17, 18… và tôi tự hứa sẽ dành vài ngày để xem lại tất cả 15 truyện bằng ảnh (chứ không phải truyện tranh) tuyệt hay này! Trích “Hồi ký 60 năm chơi sách, chương VI” VŨ ANH TUẤN CÓ TẬN THẾ KHÔNG? THỰC PHẨM BẨN (Tiếp theo số 139) 17. “Săn” cá trong hồ nhiễm dioxin. Báo Thanh Niên ngày 2/11/2015 (btv Tiểu Thiên, Phan Hậu): Nhiều người dân đã đột nhập vào ao hồ ở khu vực sân bay Biên Hòa (Đồng Nai), nơi được đánh giá nhiễm dioxin cao nhất thế giới, đánh bắt cá mang về ăn và bán ra ngoài. Công khai đột nhập giữa ban ngày: Một nhóm 5 người dùng lưới kéo, dàn hàng ngang càn quét khắp mặt hồ. Có nhóm thanh niên hơn 10 người dùng rất nhiều bình ắc quy đánh bắt bằng xung điện trong các bãi lầy, khu vực nước cạn. Đến gần trưa thì đội quân chích điện kéo xuống càn quét cá dưới hồ lớn. Bày cá ra đường bán: Đứng quan sát một lúc, chúng tôi thấy nhiều người đi đường dừng xe mua mà không hề hay biết cá vừa bắt được từ hồ nhiễm chất độc dioxin. Ăn phải thực phẩm có dioxin thì coi như “hỏng đời” rồi! - Trả lời Thanh Niên chiều 1/12, PGS-TS Nguyễn Duy Thịnh, Viện Công nghệ sinh học và thực phẩm (ĐH Bách khoa Hà Nội), cho biết người dân cố tình bắt cá ở vùng được cắm biển cảnh báo dioxin như sân bay Biên Hòa là hành động cần được ngăn chặn. Chắc chắn nguồn cá này có tồn dư dioxin. Khi đưa vào cơ thể qua nguồn thực phẩm sẽ tiếp tục để lại tồn dư ảnh hưởng đến sức khỏe, gây đột biến gien, dị tật khi sinh sản. “Dioxin không thể tiêu hóa được…”. Đáng lưu ý, nồng độ ppt trong máu của những người đánh bắt cá trong sân bay Biên Hòa là 2.000 ppt (tỷ lệ cho phép của WHO là 10 ppt). 18. Muôn trùng nguồn gốc rau, củ, thực phẩm. Báo Thanh Niên ngày 10/12/2015 (btv Hồng Sương): Tôm cá ướp hóa chất, trái cây phun thuốc tăng trưởng, rau muống bị tưới bằng dầu nhớt... thực trạng này nhiều người biết, thậm chí từng là nạn nhân, nhưng truy xuất nguồn gốc rau, củ, quả, hải sản... để phòng tránh thì hiện còn khó hơn trúng số độc đắc. Nguồn gốc “nghe nói”: Khác với thịt heo, người bán - người mua đều không quan tâm đến nguồn gốc; rau quả, hải sản khi hỏi “ở đâu” đều được người bán trả lời “nghe nói...”. Siêu thị cũng “tù mù”: Ở chợ không rõ xuất xứ, vào siêu thị cũng tràn ngập hàng không rõ nguồn gốc. “Vợ tôi vào siêu thị mua dưa leo có bao bọc nhãn hiệu đàng hoàng, về khoe với tôi là dưa an toàn. Tôi mang về phòng thí nghiệm kiểm tra thấy thừa dư lượng chất cấm cả 100%” (ông Huỳnh Quang Đấu, Chủ tịch HĐQT Công ty rau quả thực phẩm An Giang). Cả thị trường… xịt thuốc: Ngoài chợ, hầu hết rau củ quả bị xịt thuốc tăng trưởng. 19. Chở 238 kg heo sữa thối trên xe khách. Báo Thanh Niên ngày 10/12/2015 (btv Công Nguyên): Sáng 9/12, Trạm kiểm dịch động vật Thủ Đức (Chi cục Thú y Tp.HCM) phối hợp với Đội CSGT Rạch Chiếc phát hiện xe khách BKS 66B-003.53 lưu thông trên QL.1 hướng từ Đồng Nai vào Tp.HCM, chở 3 bao tải chứa 152 con heo sữa (238 kg). Tất cả số heo nói trên đều trương sình, rỉ dịch và bốc mùi hôi thối. Ông Phạm Ngọc Chí, Trạm trưởng Trạm kiểm dịch động vật Thủ Đức cho biết nhiều khả năng số heo sữa thối này được các thương lái thu mua từ nhiều nơi tại Đồng Nai rồi bán lại cho những lò chế biến heo sữa quay. 20. Tấn công thực phẩm độc hại. Báo Thanh Niên ngày 11/12/2015 (btv Tân Phú - Hải Nam): Hôm qua 10/12, vấn đề thực phẩm độc hại làm “nóng” kỳ họp HĐND Tp.HCM khóa 8 trong phiên chất vấn trách nhiệm của UBND Tp. và các sở ngành. Trong số 27 đại biểu (ĐB) chất vấn, có nhiều ý kiến đề cập thẳng đến những nỗi lo trước vấn nạn thực phẩm độc hại đe dọa sức khỏe, tính mạng người dân. Vấn đề ở các chợ truyền thống: “Vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm tại các chợ truyền thống, tại các khu công nghiệp, khu chế xuất trên địa bàn Tp. là hết sức báo động. Trước tình hình đó, với trách nhiệm của Sở Công thương với lực lượng trong tay và lực lượng liên ngành như quản lý thị trường, thú y…, thì Sở có biện pháp gì và có đảm bảo được cho người dân và người công nhân ở đây mua được thực phẩm sạch hay không?” (ĐB Phạm Hưng Út). Dùng chất cấm do thương lái Trung Quốc ráo riết thu mua heo: Theo ông Trung, tình trạng sử dụng chất tạo nạc nổi lên thời gian qua là do thương lái Trung Quốc ráo riết thu mua heo có trọng lượng trên 120 kg đưa qua biên giới nên đã kích thích nhiều người chăn nuôi sử dụng chất cấm, một số thì đem vào tiêu thụ nội địa. Theo quy định của Bộ, khi phát hiện gia súc có chất cấm vẫn có thể giữ lại cho đến khi chúng thải ra hết, nếu không còn nữa thì cho giết mổ. Tuy nhiên, điều này rất nguy hiểm vì không cho tiêu hủy, chúng có thể phát dịch, và thực tế ở Tp.HCM đã xảy ra rồi. Có lẽ vì thế mà hiện nay tình trạng mất an toàn thực phẩm xảy ra tràn lan, thực phẩm mất an toàn lại có nhiều trên bàn ăn của người dân. 21. Không thể để tù mù như vậy được. Báo Thanh Niên ngày 11/12/2015 (Ban CTBĐ tổng hợp): Rất nhiều bạn đọc đã có ý kiến bức xúc về việc người tiêu dùng tù mù trước nguồn gốc của các loại rau, củ, thực phẩm bẩn bán ở các chợ cũng như siêu thị, sau khi đọc bài Muôn trùng nguồn gốc rau, quả, thực phẩm… đăng trên Thanh Niên ngày 10/12: - “Kiểm soát an toàn thực phẩm ở đâu?” (Ngọc Du, Bình Chánh, Tp.HCM). - “Khi đi chợ tôi chỉ mua rau, củ, quả… tôi phải đặt niềm tin vào người bán. Còn chuyện có đúng rau, củ, quả sạch hay không thì chỉ… có trời mới biết. Vào siêu thị mua chắc gì đã là hàng sạch?” (Võ Thị Phương Ánh, Q.4 Tp.HCM). - “Ai cũng e sợ chất độc tiềm tàng trong rau, củ, thực phẩm ngoài chợ, siêu thị. Truy xuất nguồn gốc thì quá khó. Dù sợ nhưng không mua, không ăn không được, đó là nỗi lòng của hầu hết những người nội trợ” (Đỗ Thị Hương, H. Hậu Lộc, Thanh Hóa). - Hành động quyết liệt: “Con số mỗi năm 70.000 người chết vì bị bệnh ung thư ở nước ta khiến ai cũng rùng mình. Tại sao Nhà nước lại không có biện pháp thật mạnh để bài trừ thực phẩm bẩn, như bài trừ ma túy vậy?” (Huy Quang, Q.12 Tp.HCM). 22. Mất vệ sinh thì chỉ có… chết. Báo Thanh Niên ngày 12/12/2016 (Ban CTBĐ tổng hợp): Ăn là để sống, còn bây giờ ăn ở các điểm mua bán mất vệ sinh thì chỉ có chết. Các cơ quan chức năng sao không vào cuộc là ý kiến của nhiều bạn đọc bài Nhắm mắt mà ăn hàng rong trên báo Thanh Niên số ra ngày 11/12. - “Vấn đề ở khâu quản lý” (Lê Thị Ngọc Lan, P.9, Q.3 Tp.HCM). - “Tự cứu mình” (Khánh Hoàn, Gò Vấp Tp.HCM). - “Cầu mong sự may mắn - Chúng tôi chỉ mong người bán có lương tâm, chế biến thức ăn và giữ gìn vệ sinh để chúng tôi không bị đau bụng, tiêu chảy là được”. (Huỳnh Văn Đức, Hồ Học Lãm, Tân Phú, Tp.HCM). - “Báo Thanh Niên gần đây tập trung vào vấn đề an toàn thực phẩm là lời cảnh báo rất cần thiết cho xã hội. Tôi mong các chuyên gia, người dân tham gia các giải pháp nhằm giúp việc an toàn vệ sinh thực phẩm được nâng cao, tránh cho người dân nguy cơ bệnh tật, ung thư” (Nguyễn Đức Hoan, Bến Thành, Tp.HCM). - “Nhìn hàng rong bày bán ở vỉa hè, lề đường với đầy dẫy khói, bụi, ruồi… mà thấy ớn lạnh. Không biết người bán nghĩ gì mà trưng thức ăn lồ lộ ra như vậy mà không hiểu sao người ăn vẫn đủ can đảm để… nuốt. Bây giờ chỉ ăn ở nhà là tốt nhất” (Nguyễn Phi Bằng, Hóc Môn, Tp.HCM). 23. Bắt vụ vận chuyển 2,5 tấn lòng heo thối. Báo Thanh Niên ngày 15/12/2015: Ngày 14/12, trên QL.1A, đoạn qua xã Mai Sơn (H.Yên Mô, Ninh Bình), Đội QLTT số 1 phát hiện, thu giữ 2,5 tấn lòng heo bốc mùi hôi thối đựng trong 33 thùng xốp đang được vận chuyển từ Thừa Thiên Huế ra bến xe Giáp Bát (Hà Nội). 24. Đ ừng chết vì liều! Báo Thanh Niên ngày 3/12/2015 (Ban CTBĐ tổng hợp): - “Nguy hiểm, ác quá, liều quá …” là những gì bạn đọc đã thốt lên sau khi Thanh Niên số ra ngày 2/12 đăng bài “Săn” cá trong hồ nhiễm dioxin. - “Bao nhiêu người đã ăn cá nhiễm dioxin?” (Nguyễn Thùy Dương, thuyduong32@yahoo.com ). - “Ý thức quá tệ” (Huỳnh Trần Minh Long, P.4, Gò Vấp, Tp.HCM). - “Ớn lạnh - Loại cá nhiễm độc. Họ ăn vào chắc sẽ bị ‘hỏng đời’, rồi con cái họ sẽ ra sao, một hệ lụy khủng khiếp từ việc làm vô ý thức, bừa bãi của một nhóm người tàn ác” (Đào Minh Nguyệt, Long Xuyên, An Giang). - “Rùng rợn” (Trần Nguyễn Phương Lan, Tân Biên, Biên Hòa, Đồng Nai). - “Làm sao biết rõ nguồn gốc cá được nuôi ở đâu hay lại bắt ở những hồ nhiễm dioxin này? Sao bây giờ con người cứ phải đi hại nhau chỉ vì chút lợi lộc bé nhỏ như vậy?” (Nguyễn Thị Chín, Vĩnh Cửu, Đồng Nai). (còn tiếp) Lm. Giuse Nguyễn Hữu Triết (Tổng hợp nguồn báo chí và các phương tiện truyền thông)
TU PHẬT THỜI NAY Từ bao đời qua, mọi người đã quá quen thuộc với những Tu Sĩ mang trên người hình ảnh của Đức Phật ngày xưa: Đầu tròn, áo vuông, đi, đứng, ngồi, nằm theo Tứ Oai Nghi, sống thành đoàn thể, biệt lập, cửa kín, tường cao, trong những ngôi Chùa hoành tráng, với những tượng Phật được chạm, khắc, đúc bằng những chất liệu quý hoặc thếp vàng, trang hoàng lộng lẫy, đèn hoa sáng rực, lúc nào cũng khói hương nghi ngút. Bốn thời trong ngày của Tu Sĩ chỉ dành để Tham Thiền, Tụng Kinh, Niệm Phật, Học Pháp, Giảng Pháp để hoằng dương Phật Pháp. Họ không được tham gia việc đời. Trước khi xuất gia, dù có giỏi bao nhiêu, bằng cấp đời chuyên môn cao cỡ nào, khi Xuất Gia cũng đều phải dẹp bỏ hết. Họ cũng không phải kiếm sống, mà toàn bộ chi phí từ cái ăn đến cái mặc, chi phí sinh hoạt cho Chùa chiền đều do Phật Tử cúng dường. Phật Tử được chia ra làm hai giới rõ rệt. Giới Tu Sĩ thì từ hình tướng cho tới cách sống đều theo khuôn mẫu từ xưa: phải rời bỏ nhà cửa, cha mẹ, quyến thuộc; không được có gia đình, để cống hiến toàn bộ cuộc đời cho Phật. Phật Tử thì sống ngoài đời bình thường, tự do kinh doanh, làm ăn, chỉ cần Quy Y với một vị Sư nào đó, rồi thỉnh thoảng đi tới Chùa, nghe Pháp và thành tâm cúng bái, cầu xin Phật Độ cho. Khi có việc thì mang vàng hương đến Chùa nhờ các Sư Tăng chứng giám lòng thành, gởi lên chư Phật để cầu xin được bớt rủi, thêm may, tai qua, nạn khỏi. Khi có người thân qua đời thì mời Sư đến tụng Kinh Vãng sanh để mong Phật rước về Tây Phương Cực Lạc. Tro cốt cũng mang gởi ở Chùa để cho vong linh người chết hàng ngày nghe Kinh, hy vọng sẽ nhờ đó họ sẽ hướng tâm về với Phật. Người muốn Cúng Dường Phật thì cũng nhờ những vị Sư chuyển cho. Ai có thì giờ thì đến Chùa lau dọn, quét tước, hay phụ giúp dọn, rửa, nấu nướng. gọi là “làm công quả” để “ăn mày phước báo”. Có một Thượng Tọa rất có uy tín đã nói rằng “chỉ có Tu Sĩ độc thân thì mới tu hành thành đạo được. Cư Sĩ thì chỉ có thể trở thành chân nhân thôi”. Trong khi đó thì Đức Thích Ca Thọ Ký: “Tất cả chúng sinh là Phật sẽ thành”, vì “Tất cả chúng sinh đều có Phật Tánh” không hề phân biệt Tu Sĩ hay Cư Sĩ. Chúng ta nghĩ sao về khẳng định này? Cư Sĩ có thể tu hành Giải Thoát, Thành Phật được hay không? Nếu cùng tu hành thì việc có gia đình và độc thân, kết quả khác nhau chỗ nào? Lẽ ra Tu Phật là để kế tục con đường của Đức Thích Ca đã đi, là phải Thành Phật. Nhưng từ Ngài Huệ Năng là Tổ cuối cùng được Pháp Bảo Đàn Kinh ghi lại là người Thấy Tánh, Chứng Đắc, mãi cho tới về sau này không thấy nơi nào bàn đến việc tu hành để Thành Phật nữa. Nếu là người có chút ưu tư về Đạo Phật có lẽ chúng ta cũng không khỏi thắc mắc, không biết Đạo Phật hiện tại có còn giống Đạo Phật mà Đức Thích Ca và Chư Tổ giảng dạy hay không? Vì thời xưa chưa có chùa chiền, Phật và chư Đại Đệ Tử phải sống trong rừng hay những cội cây để tu học. Họ đi chân trần, khất thực để được cho gì ăn nấy, không đòi hỏi chay hay mặn. Mặc thì vải thô, hoại sắc, không tích trữ lương thực, của cải, tài sản. Bây giờ thì mọi thứ có vẻ khác xưa nhiều quá. Có lẽ chúng ta cần đặt lại vấn đề xem Đức Thích Ca bày ra Tu Phật để làm gì? Tu Phật phải làm những gì? Theo tôi, đó là một số câu hỏi mà người thật sự quan tâm đến Đạo Phật cần đặt ra nếu không muốn tu hành trong mơ hồ, không biết phải làm gì? Không biết sẽ về đâu? Bởi bao nhiêu thời qua, có biết bao lớp người đã Xuất Gia, đã tu hành cho đến cuối đời để rồi cuộc sống qua đi mà không nghe thấy có ai chứng đắc để truyền lại cho lớp sau. Như vậy liệu có phải là phí phạm một kiếp mà Phật dạy là “Nhân thân nan đắc” hay không? Thật vậy. Nếu thật sự chúng ta đã can đảm dứt khoát rời bỏ cha mẹ, gia đình, chấp nhận bỏ đời để tu hành mà không biết là lẽ ra tu hành theo Đạo Phật là phải Thành Phật. Và nếu hiểu được như thế thì cũng phải tìm xem nếu muốn Thành Phật thì phải làm gì, làm trong bao lâu? Thế nào là Chứng Đắc? Nếu những điều đó mà ta còn chưa biết thì đi Xuất Gia để làm gì? Đó là lý do vì sao Chùa Chiền trở thành nơi Thờ Phật như hiện nay, bởi cứ “xưa bày, nay làm”. Người đi trước đã không Chứng Đắc thì lấy gì để truyền lại cho người sau? Đã vậy, nhiều nơi “đầu vào” cũng quá dễ dãi, không cần biết vì lý do gì mà họ Phát Tâm. Ai muốn tu thì Chùa đều nhận. Ở quê nhiều người do nghèo quá, đem con gởi vô Chùa để đỡ phải nuôi. Đứa trẻ ở Chùa được đào tạo lần hồi thành Sư. Một số chán đời, làm ăn thất bại cũng đi tu! Trước 75, nhiều người trốn quân dịch cũng vô Chùa tu! Những người đó làm gì có cái bức xúc về con đường tu hành? Cái họ cần chỉ cần một chỗ nương thân, có cơm ăn, không còn bị “bắt lính” là được rồi, cần gì biết cuối đường tu sẽ về đâu!? Thế rồi số người đó ở trong Chùa lâu năm, học thuộc một số bài, với thời gian cũng lên làm Thầy, đi giảng Đạo. Đâu cần biết gì nhiều. Chỉ cần thuộc một số nghi thức. Pháp thì đại khái cuộc đời là “Vô Thường, Khổ, rồi Phật Pháp nhiệm mầu, Quán Thế Âm Bồ Tát cứu khổ cứu nạn” để hướng dẫn cho bá tánh có việc thì cứ cầu xin Phật Độ cho. Phật Tử được nhồi nhét những niềm tin như thế, dần dà thì Đạo Phật trở thành Quyền Thừa, Nhị Thừa, đôi khi có vị còn pha trộn dị đoan, mê tín, xem ngày tốt, xấu, cúng sao giải hạn, đốt vàng mã… vào đó, Phật Tử làm sao phân biệt được? Nhiều năm qua Chùa nào đủ điều kiện cũng đã cử Tu Sĩ đi học ở nước ngoài, nên hiện giờ Hòa Thượng có bằng Tiến Sĩ Phật Học cũng nhiều. Nhưng hình như những nơi cấp bằng thuộc hệ phái Tiểu Thừa, nên mới có sự phân biệt giữa Tu Sĩ Và Cư Sĩ như thế, trong khi việc tu Phật theo Đại Thừa được viết trong Kinh DIỆU PHÁP LIÊN HOA thì: “Cõi nước chỗ nào nếu có người thọ trì, đọc tụng, giải nói, biên chép, đúng như lời tu hành. Hoặc là chỗ có quyển Kinh, hoặc trong vườn, hoặc trong rừng, hoặc dưới cây, hoặc Tăng Phường, hoặc nhà Bạch Y, hoặc ở điện đường, hoặc núi hang đồng trống, trong đó đều nên dựng tháp cúng dường. Vì sao? Phải biết chỗ đó chính là đạo tràng, các Đức Phật ở đây mà đặng Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, các Đức Phật ở đây mà chuyển pháp luân, các Đức Phật ở đây mà nhập Niết Bàn”. (Phẩm Như Lai Thần Lực). Chỗ nào “Đúng như lời tu hành”, thì chỗ đó chính là Đạo Tràng. Các Đức Phật ở đây mà Chuyển Pháp Luân. Các Đức Phật ở đây mà nhập Niết bàn. Kinh đâu có phân biệt chỗ ở, Tăng Phường hay Bạch Y? Bản thân tôi, tuy không Xuất Gia, nhưng vì tò mò mà đã quyết tâm tìm hiểu Đạo Phật xem có gì mà được bao nhiêu thời ngưỡng mộ. Phải nói rằng tôi rất là may mắn khi gặp được người Thầy. Ông khuyên những người theo nghe ông giảng đừng bao giờ tin ông mà nên đọc Kinh để tìm hiểu và thực hành những lời Phật dạy trong đó. Tôi đã bỏ ra hàng mấy chục năm miệt mài tìm hiểu. Cuối cùng khám phá ra một số điều quan trọng như sau: 1. Trước hết là thấy được ý nghĩa của bộ sắc phục mà những Tu Sĩ khoác lên người. Không chỉ đơn thuần là những gì ta trông thấy qua hình tướng, mà mỗi hình tướng nói lên việc mà người mang cần thực hiện trong cuộc sống: - Cạo tóc không đơn thuần là cạo sạch cái đầu. Mà có nghĩa là “Cạo sạch phiền não”. Đầu tròn tượng trưng cho sự tròn trịa, ngay ngắn, không xiên xẹo từ ý nghĩ cho đến hành động. - Áo Vuông tượng trưng cho sự cư xử vuông tròn, trên, dưới, trong ngoài đều ngay thẳng. - Y hoại sắc tượng trưng cho Thân, Tâm không nhiễm trần. Như vậy, người mang hình tướng tu sĩ được nhắc nhở là luôn luôn phải giữ từ bên ngoài cho đến nội tâm, một sự thanh tịnh, nhẹ nhàng, tròn trịa, ngay ngắn, không vướng bận trần cảnh. Điều đó cũng cho thấy là: Nếu người nào ý thức để thực hiện đúng các ý nghĩa của những hình ảnh tượng trưng đó thì việc khoác nó lên người không cần thiết nữa. Mặt khác, nếu hình tướng đầy đủ mà không tu hành nghiêm chỉnh thì chẳng có giá trị gì hết. Phật Ngôn có câu: “Nếu chiếc Y Ca Sa có oai lực giải trừ Tham, Sân, Si thì cha mẹ hoặc người thân của đứa bé chỉ cần khoác lên người khi đứa bé mới ra đời là đã được toại nguyện”. Người đời cũng nói: “Chiếc áo không làm nên thầy tu”, vì họ cũng biết rằng không phải ai vận chiếc áo vào cũng là Tu Sĩ, và cũng có nghĩa là nếu ai đó tự tu sửa thì chẳng cần sắc phục cũng đã là Tu Sĩ. 2. Nhiều người xem việc Tu Sĩ phải tập trung, không được có gia đình, không được làm ăn, thí chủ có trách nhiệm cung dưỡng cho họ mọi thứ để họ được yên tâm mà tu hành là làm theo lời Phật dạy. Vì thời xưa chính Phật cho Tu Sĩ là “Ruộng phước của bá tánh. Cúng dường cho họ sẽ được phước báo vô lượng”, nên người muốn để dành phước báo thì cứ thế mà thực hiện, không có gì phải thay đổi. Nhưng với tôi, sau khi nghiên cứu kỹ về những việc mà người tu phải học, phải hành, đạt được, thì tôi thấy rằng điều đó chỉ đúng vào thời Phật mới khai mở Đạo mà thôi. Lý do theo tôi, là vì thời Phật mới khai Đạo chữ viết chưa có. Chưa thể ghi lại những lời Phật thuyết. Các Đại Đệ Tử lúc đó chỉ mới vài mươi người, lại là lực lượng nồng cốt, có nhiệm vụ học thuộc những gì Phật giảng tương lai phổ biến. Vì thế nên cần tập trung, không được có gia đình, không được kinh doanh, làm ăn để không bị phân tâm, mà toàn tâm toàn ý ghi nhớ lời Phật dạy. Do đó mà cần thí chủ cung cấp mọi thứ để họ yên tâm mà tu học, nên Phật phải phương tiện nói rằng “cúng dường cho người tu thì phước báo vô lượng”. Nhưng thời này đã khác. Trải qua gần 3.000 năm. Những gì Phật giảng đã được ghi lại thành Kinh sách, người sau tiếp nối giảng luận thành “Thiên Kinh vạn quyển”, muốn tham khảo thì ở đâu cũng có, cần gì phải học thuộc lòng nữa? Mọi thứ trước kia còn khó hiểu, còn cho là mật nghĩa, nhưng về sau Chư Tổ đã khai sáng, người tu nếu thấy hợp ý với mình thì chỉ cần áp dụng, đâu cần phải Tư Duy, Quán Tưởng gì nữa mà phải có người chu cấp để rảnh rang mới tu được? Hơn nữa, ai cũng biết là “Ông tu, ông đắc, bà tu, bà đắc” đâu có ai tu thế giùm cho ai được. Vì thế, người hiểu lẽ Nhân Quả không bao giờ dám lạm dụng của bá tánh để mình được nhàn thân, nhân danh tu hành. Vì đó là món nợ phải trả, không trước thì sau. Đó là lý do mà Mã Tổ Bách Trượng dù cai quản cả một Thiền Viện nhưng hàng ngày vẫn cuốc đất trồng rau như mọi Tăng sinh khác. Đệ tử thương thầy, dấu cuốc đi thì Ngài không ăn, nên có câu “Nhất nhật bất tác, nhất nhật bất thực”. Tổ Quy Sơn cũng có tích Con Trâu Dưới Núi để nhắc nhở người tu. Kinh VỊ TẰNG HỮU THUYẾT NHÂN DUYÊN còn nhắc mạnh hơn: “Thà cắt thịt mình dùng để nuôi miệng, không dùng tâm tà thọ của cúng thí. Khó lắm, khó lắm. Cẩn thận, cẩn thận”. Tôi hoàn toàn không có ý mạo phạm những bậc chân tu. Chính nhờ có các vị mà Chùa Chiền được giữ gìn, Kinh sách được dịch ra tiếng Việt để mọi người có thể nghiên cứu, tu học. Các vị xứng đáng được tôn trọng, cúng dường của mọi người, vì một đời tu hành, hy sinh cho Đạo Pháp. Tôi chỉ muốn đề cập đến những kẻ cơ hội, không thật tâm tu hành mà cũng đã gia nhập vô đoàn thể Tu Sĩ. Chính những người này đã truyền bá nhiều điều sai lạc kéo theo nhiều thế hệ hiểu sai về Đạo Phật. Nếu như ngày xưa, người đi Xuất Gia nghĩ rằng mình tu hành là sẽ cứu độ cho bá tánh, nên thấy bá tánh có bổn phận cúng dường cho mình tu hành. Nhưng càng hiểu Đạo thì càng thấy rằng mình tu chỉ có mình nhờ, nhiều lắm là nhắc nhở cho người hữu duyên đừng làm ác để khỏi gây Nghiệp, thì có gì đâu mà phải chờ thí chủ cung dưỡng cho thì mới tu được? Hơn nữa, Phật dạy người tu phải đền TỨ ÂN. Người bỏ đời, vô Chùa tu học là mới đền được có ÂN PHẬT. Còn ÂN PHỤ MẪU, ÂN CHÚNG SINH, ÂN ĐẤT NƯỚC thì sẽ đền cách nào? Phật đâu có phải là Thần Linh để ta cầu xin cứu độ, ban ân cho đất nước được hòa bình, thịnh vượng, mọi người được bình an, thoát khỏi tai ách để trả ân cho ba đối tượng còn lại? Cả Đại Thừa lẫn Tiểu Thừa đều cho rằng Phật không phải là Thần Linh, chỉ là người bình thường như mọi người, nhờ tu tập Thiền Định, đoạn trừ tận gốc Tham, Sân, Si mà đạt thành Chánh Quả, được Giải Thoát. Không có Thừa nào cho Phật là Thần Linh. Vậy mà không hiểu tại sao Chùa nào cũng sớm tối hết Cầu An, lại Cầu Siêu? Phật đã không phải là Thần Linh thì ai chứng giám để ban ơn, giáng phúc cho? Lời Phật dạy: “Ai nương sắc để thấy ta. Dùng âm thanh để cầu ta. Kẻ đó hành tà đạo. Không thể thấy Như Lai”, và: “Phàm Sở hữu tướng giai thị hư vọng”. Có vẻ như nhiều Tu Sĩ tụng hàng ngày nhưng không thấy đó lời Phật cảnh báo thì phải?! Mục đích của Đạo Phật chỉ là cứu cho con người Thoát Khổ được viết rõ trong Kinh DIỆU PHÁP LIÊN HOA: “Ta thấy các chúng sanh bị những sự Sanh, Già, Bệnh, Chết, lo buồn khổ não nó đốt cháy, cũng vì năm món dục tài lợi mà bị các điều thống khổ. Lại vì tham mê đeo đuổi tìm cầu nên hiện đời thọ các điều khổ, đời sau thọ khổ Địa Ngục, Súc Sanh, Ngạ Quỷ. Nếu sanh lên trời và ở trong loài người thì nghèo cùng khốn khổ, bị khổ về người thương xa lìa, kẻ oán ghét lại gặp gỡ. Các món khổ như vậy mà chúng sanh chìm trong đó vui vẻ dạo chơi, chẳng hay chẳng biết chẳng kinh chẳng sợ, cũng chẳng sanh lòng nhàm, không cầu Giải Thoát; ở trong Nhà Lửa Tam Giới này đông tây rảo chạy, dầu bị khổ nhiều vẫn chẳng lấy làm lo”. Vì vậy, việc tu hành chỉ là theo hướng dẫn của Đạo Phật để được Thoát Khổ mà thôi. Chỉ có vậy, nhưng nhiều người đã quan trọng hóa, làm cho việc tu hành thêm rườm rà, có vẻ khó khăn, trong khi đó, “TU” chỉ có nghĩa là SỬA, là tháo gỡ những vướng mắc, đam mê với các tướng hữu vi, để được Giải Thoát, thì hoàn cảnh nào? tuổi nào? trình độ nào? ở đâu? Nam hay Nữ, Già hay Trẻ mà không Sửa được? Tại sao cứ phải vô Chùa mới tu được? Ngược lại, chính vì ở trong Chùa và thọ nhận sự cúng dường dễ dãi của nhiều người đã tạo điều kiện cho những kẻ lười nhác, ngại khó. Họ thấy rằng chỉ cần hy sinh cái đầu, chịu khó mặc Y, giữ một số Giới để che mắt mọi người, thì chẳng những không phải khó nhọc kiếm sống mà còn được ăn trên, ngồi trước, được bao nhiêu người kính trọng. Đương nhiên những thành phần đó làm sao giữ Giới, tu hành nghiêm túc. Vì thế, không những bản thân họ phá Giới, làm những điều tệ hại, mà còn làm ảnh hưởng xấu đến các bậc tu hành nghiêm chỉnh khác. Những người vô Chùa để lợi dụng của Chùa thời nào cũng có. Ngay lần Kết Tập đầu tiên, Tăng Đoàn đã phải loại ra đến 60.000 Sư giả. Thời Phật Giáo cực thịnh, nước ta cũng đã tổ chức những cuộc sát hạch để loại những kẻ cơ hội gia nhập Tăng Đoàn chỉ nhắm mục đích cầu Danh, cầu Lợi. Trong kinh Đại Bát Niết Bàn, trước khi nhập diệt, có ngoại đạo Subhadda đã hỏi Phật làm cách nào để phân biệt giữa những người giảng đạo, ai mới là người có Chánh Pháp? Đức Thích Ca đã trả lời là GIỚI và BÁT CHÁNH ĐẠO. Ngài nói rằng Giáo Pháp nào có đủ hai điều đó thì mới có Tứ Quả Thánh. Rõ ràng, những kẻ lợi dụng, trà trộn vào hàng ngũ Tu Sĩ thì không thể nào giữ đúng Giới Và Bát Chánh Đạo được. Bởi nếu có Chánh Tư Duy thì họ đã Không Vọng Ngữ. Không Chứng Đắc mà dám ngồi tòa giảng pháp cho bá tánh. Và đã Vọng Ngữ, Vọng Hành thì làm sao có Chánh Mạng, Chánh Nghiệp? Những phần tử đó làm gì có Tinh Tấn để học hỏi rồi hướng dẫn lại cho bá tánh? Vì thế, nên chăng mỗi người tự tu, tự độ sẽ tránh được trường hợp những kẻ lợi dụng Đạo cũng khoác ác tu hành làm hại Phật Pháp. Thái Lan là một nước mà đạo Phật được xem là quốc giáo. Vậy mà mấy năm gần đây báo chí đưa tin một số bê bối rung động Phật Giáo ở Thái Lan: Sư sử dụng ma túy, biển thủ tiền công đức, lạm dụng tình dục, tham nhũng, rửa tiền. Sư xài hàng hiệu, có cả mấy chục xe hơi đắt tiền. Sư nữ cũng ngự xe con đắt giá. Trụ Trì Chùa Triệu Phật Vàng lớn nhất Thái Lan cũng bị Cảnh sát truy nã vì dính líu tới việc biển thủ công quỹ của một Ngân Hàng. Hàn Quốc thì chỉ có mấy vị Sư mà đánh bạc thua một đêm cả mười mấy tỷ Won! Đó là những trường hợp bị phát hiện nên báo chí mới đăng tin. Những việc chưa phát hiện thì có Nhân Quả biết mà thôi. Tất nhiên, những người đã dám lợi dụng cửa Chùa thì có biết Nhân Quả là gì để mà sợ báo ứng? 3. Nói về GIỚI. Nếu xét cho kỹ thì chỉ là bờ ngăn giữ cho những người đi trong đó không rơi vào Ác Đạo. Suy cho cùng Giới cũng chỉ nhằm mục đích làm cho người giữ “Ít muốn, biết đủ”. “Điều nào mình không muốn mọi người làm cho mình thì cũng đừng làm với mọi người” mà thôi. Vì thế, theo tôi, chỉ cần giữ Năm Giới chính và Bát Chánh Đạo là đủ. Bởi đọc cho kỹ, ta thấy nếu là người tu hành nghiêm chỉnh thì họ sẽ thấy chỉ cần phạm một Giới thôi, thí dụ như vi phạm vào Chánh Mạng, Chánh Nghiệp là phạm luôn Giới Vọng Ngữ rồi. Cũng đâu cần phải giữ quá nhiều Giới để quay đâu cũng bị đụng Giới, làm cho cuộc sống lúc nào cũng nơm nớp, bất an, trong khi tu hành là chỉ để Thoát Khổ, Thoát Sinh Tử? Ta tu cho mình chớ đâu phải tu cho Phật mà không cưỡng nổi ham muốn để phạm Giới rồi Sám Hối với Phật? Phật đâu có chịu Nhân Quả thay ta, và đâu có quyền thứ lỗi cho ta được? Kinh Vị Tằng Hữu Thuyết Nhân Duyên viết: “Nói tóm lại là ta bắt giữ cấm Giới chính vì người ngu si không huệ phương tiện, chớ chẳng phải là hạng người trí huệ biết rõ thời nghi vậy”. Thật vậy. Người tu hành chân chính không đợi ai phải giám sát, phải cử tội, vì biết rằng nếu Phá Giới thì cũng như chính mình tự tay đục lủng thuyền, làm sao sang Bờ Sinh Tử? Lục Tổ dạy: “Lòng bình đẳng đâu cần Giữ Giới”. Bởi nếu người có đạo đức bình thường thôi thì cũng đã rõ việc nào không nên làm để tự giữ, cần gì phải sợ Phật phạt tội hay sợ bạn đồng tu chê cười mà phải giữ Giới? Cho nên, với những người thật tâm tu hành thì tự họ ý thức, không cần phải dùng Giới như một điều luật, phải cấm điều nọ điều kia. Trái lại, người vào Chùa với mục đích khác thì dù có trao cho họ bao nhiêu Giới đi nữa thì họ cũng chỉ giữ vì sợ mọi người đánh giá mà thôi. Không thấy đó là điều đương nhiên phải làm để “Giữ Giới mà Thoát Giới”. Như vậy việc Giữ Giới đâu có lợi ích gì cho họ? (còn tiếp) Tháng 12/2017 Tâm Nguyện
3 Truyện ngắn của Ivan Turghenev (1805-1883) MỘT CUỘC ĐÀM ĐẠO Cả trên đỉnh núi Jungfrau, cả trên đỉnh núi Finsteraargorn đều chưa có vết chân người Những ngọn núi Alpơ... Cả một chuỗi tầng tầng lớp lớp chất chồng lên nhau. Vùng tâm lõi của dãy núi. Phía trên đầu các ngọn núi là bầu trời xanh lam, ngời ngợi sáng, lặng thinh. Băng giá dữ dằn, nghiệt ngã, tuyết khô rắn, long lanh. Những khối đá băng đóng, gió bào buốt lạnh nhô ra từ dưới tuyết. Hai đỉnh cao đồ sộ, hai khổng lồ Jungfrau và Finsteraargorn sừng sững hai bên phía chân trời. Và Jungfrau nói với hàng xóm Finsteraargorn: - Ông nói xem có gì mới mẻ không nào? Ông thấy rõ hơn có gì ở phía dưới kia mà? Mấy nghìn năm trôi qua - cũng chỉ là một giây lát. Và Finsteraargorn ầm ầm đáp lại: - Chỉ những đám mây dày đặc bao trùm mặt đất... Khoan! - Lại mấy nghìn năm trôi qua - chỉ là một giây lát. - Thế nào, bây giờ thì sao? Jungfrau lại hỏi: - Bây giờ tôi nhìn thấy, ở phía dưới mọi cái vẫn thế: loang lổ, lụn vụn. Mặt nước xanh da trời, rừng cây tối thẫm, những đống đá chen chúc đó đây xam xám. Bên cạnh mọi thứ đó lổn nhổn những đàn dê, lại còn, biết không, cả những sinh vật hai chân, những kẻ còn chửa một lần mò đến xúc phạm được cả bên ông, lẫn chỗ tôi - Lũ người hả? - Phải, lũ người. Lại qua đi mấy nghìn năm - chỉ là một giây lát - Nào, thế còn giờ đây? - Jungfrau hỏi. - Dường như đàn dê thưa thớt hẳn, - Finsteraargorn gầm gào. - Thấy rõ ràng hơn ở dưới ấy, mặt nước thu hẹp lại, rừng cây quang hẳn đi. Đã qua đi thêm mấy nghìn năm - chỉ là một giây lát - Jungfrau lên tiếng hỏi: - Gần chỗ chúng ta, cạnh đây, dường như đã được dọn phong quang; - Finsteraargorn trả lời, - ờ mà, ở đằng kia, dưới các thung lũng cũng có những vệt lốm đốm và có gì đó động đậy. - Thế bây giờ? - Jungfrau hỏi, lại mấy nghìn năm trôi qua - chỉ là một giây lát - Bây giờ thì tốt rồi - Finsteraargorn đáp, - đây đó đều tươm tất, nhìn đi đâu cũng chỉ một màu trắng tinh tươm. Khắp nơi đều là tuyết của chúng ta, tuyết phẳng phiu và băng giá. Mọi vật đều chết lặng. Bây giờ tốt rồi, yên ổn rồi. - Tốt, - Jungfrau thốt lên. - Có điều, ông bạn già, chúng ta chuyện phiếm vậy là đủ. Đã đến lúc chợp mắt một chút. - Đến lúc rồi. Những đỉnh núi đồ sộ thiếp đi, bầu trời xanh, trong sáng ngủ say bên trên mặt đất vĩnh viễn câm lặng. Tháng Hai 1878 “ANH NGHE LỜI PHÁN QUYẾT CỦA KẺ NGỐC” Anh bao giờ cũng nói sự thật, ca sĩ vĩ đại của chúng tôi, cả lần này anh cũng sẽ nói ra sự thật. “Lời phán quyết của kẻ ngốc, đám đông nhạo cười” [1] . Có ai không gặp phải cả điều này, lẫn điều nọ. Chuyện ấy là có thể - và đành phải chịu đựng, còn ai mạnh mẽ - thì cứ việc coi khinh! Nhưng có những đòn giáng, đau đớn hơn nhiều cho chính lòng ta. Con người làm trọn mọi việc với hết sức lực của bản thân, cố gắng làm lụng, say mê, trung thực. Vậy mà những người chính trực lại kinh tởm, quay lưng lại với người ấy, những con người chính trực lại tức giận khi nghe đến tên người ấy. - Mi cút ngay đi! Biến đi! - những tiếng nói trẻ trung chính trực mắng mỏ người ấy. - Chúng ta chẳng cần đến bản thân mi, cả công trạng của mi, mi chỉ làm vấy bẩn cuộc sống của chúng tao... - mi không biết gì chúng tao và không hiểu gì chúng tao. Mi là kẻ thù của chúng tao. Khi đó con người ấy biết phải làm gì? Tiếp tục lao động, không cố gắng biện minh cho mình, và thậm chí không chờ đợi một sự đánh giá công bằng hơn. Từng có lần xảy ra là những người thợ cầy đã xua đuổi người lữ hành từ xa trở về mang theo củ khoai tây cho họ thay cho lúa mì, lương thực hàng ngày của kẻ nghèo khó. Vì họ đã giật từ bàn tay của người đã mang cho họ tặng vật quý giá, quẳng xuống bùn bẩn và lấy chân giẫm lên. Bây giờ thì họ ăn thứ khoai tây đó và họ thậm chí không hề biết tên người là ân nhân của mình [2] Thôi thì cũng cho qua! Đối với họ tên tuổi của con người kia có là cái thá gì! Người ấy, dù không để lại tên tuổi, nhưng đã cho họ cái ăn khỏi đói. Ta cố gắng chỉ cần một điều sao cái ta mang lại thực sự là một món ăn hữu ích. Việc miệng người đời mà ta yêu quý, trách cứ sai... Thì điều đó ta cũng có thể bỏ qua. “Cứ việc chửi tôi, nhưng hãy nghe lời tôi” - thủ lĩnh Afin từng nói với dân Spartak như thế. “Cứ việc đánh chửi ta -nhưng hãy khỏe mạnh và no đủ!” -chúng ta cần nói điều ấy. Tháng Hai năm 1878 CON CHIM SẺ Đi săn trở về, tôi đưa chân trên lối hàng cây trong vườn nhà. Con chó săn lon ton chạy phía trước tôi. Bỗng nhiên nó chậm bước và bắt đầu đưa chân dón dén, dường như vừa nhận ra trước nó có con mồi. Tôi đưa mắt lướt nhìn dọc theo lề lối đi hàng cây và nhìn thấy một chú chim sẻ non với dải mép vàng bên mỏ và túm lông tơ trên chỏm đầu. Nó bị rơi từ trên tổ xuống (gió đã lay mạnh chao đảo tán cành bạch dương bên đường hàng cây) và sẻ non ngồi đó, bất động và yếu ớt, xòe rộng đôi cánh mới nhú. Con chó săn của tôi chậm chạp tiến tới gần sẻ non, thì đột nhiên, bật khỏi cành cây bên cạnh, một con sẻ già ngực phủ lông đen tuyền lao như một tảng đá xuống ngay trước mõm con chó - và toàn thân nó xù lông lên, biến dạng, cất tiếng chíp chíp tuyệt vọng và thảm thiết, nó nhẩy mấy bước thẳng hướng cái mõm chó nhe rộng hai hàm răng. Sẻ già liều mạng để cứu nguy, nó lấy thân mình che chở cho đứa con nhỏ của mình... nhưng toàn thân bé nhỏ của nó run rẩy vì sợ hãi, tiếng kêu lạc hẳn và khản đặc, nó chết lặng, nó hy sinh thân mình! Hẳn nó phải thấy ra con chó quả là một quái vật khổng lồ khủng khiếp nhường nào! Nhưng dù sao đi nữa nó cũng không thể ngồi yên trên cành cây trên cao, yên ổn của mình... Sức mạnh, hơn cả ý chí, đã ném nó xuống đây. Con chó Trezor của tôi sững bước, dật lùi lại... Rõ là, cả nó cũng nhận ra sức mạnh này. Tôi vội gọi giật con chó đang bối rối - và nó dường như sùng kính, lảng ra. Phải, xin các bạn đừng cười. Cả tôi cũng kính phục trước con chó nhỏ bé anh hùng, trước khí thế tình yêu thương của sẻ. Tình yêu thương, tôi thầm nghĩ, mạnh hơn cả cái chết và nỗi sợ hãi cái chết. Cuộc sống trụ vững và chuyển biến chỉ nhờ ở nó, nhờ vào tình yêu thương. Tháng Tư năm 1879 Thúy Toàn dịch
Phụ Bản I 24 Di sản thế giới tại Việt Nam Với nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, đa dạng cùng kho tàng văn hóa đồ sộ, độc đáo trải dài 4000 năm lịch sử dân tộc, tất cả những điều đó góp phần đưa Việt Nam trở thành một trong những quốc gia du lịch nổi tiếng trên thế giới với 24 Di sản được UNESCO vinh danh. Di sản mới nhất vừa được vinh danh vào lúc 15g15 chiều ngày 07/12 (theo giờ VN), tại Phiên họp Uỷ ban Liên Chính phủ Công ước 2003 về bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể lần thứ 12 của UNESCO (diễn ra tại Jeju, Hàn Quốc), đó là “Bài Chòi” chính thức ghi danh tại Danh sách Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại. Chúng ta cùng xem lại 24 di sản được chia ra như sau: I. DI SẢN THIÊN NHIÊN THẾ GIỚI 1. Vịnh Hạ Long Vịnh có tổng diện tích 1553 km2 gồm 1969 hòn đảo lớn nhỏ, tập trung ở hai vùng chính là vùng phía đông nam vịnh Bái Tử Long và vùng phía tây nam vịnh Hạ Long. Hàng trăm đảo đá, mỗi đảo mang một hình dáng khác nhau hết sức sinh động: hòn Đầu Người, hòn Rồng, hòn Lã Vọng, hòn Cánh Buồm, hòn Trống Mái, hòn Lư Hương... Năm 1994, UNESCO đã chính thức công nhận vịnh Hạ Long là Di sản thiên nhiên thế giới bởi giá trị ngoại hạng về mặt cảnh quan. Năm 2000, vịnh Hạ Long tiếp tục được UNESCO công nhận lần thứ hai là Di sản địa chất thế giới vì những giá trị về địa chất, địa mạo. 2. Vườn Quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng Vườn Quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng thuộc tỉnh Quảng Bình với tổng diện tích 343.300ha. Bên cạnh giá trị về lịch sử địa chất, địa hình, địa mạo, Phong Nha - Kẻ Bàng còn được thiên nhiên ưu đãi ban tặng cho những cảnh quan kỳ bí, hùng vỹ, tiêu biểu phải kể đến hang Sơn Đoòng - Hang động tự nhiên lớn nhất thế giới. Phong Nha - Kẻ Bàng được UNESCO công nhận là Di sản thiên nhiên thế giới theo tiêu chí địa chất, địa mạo năm 2003, và được UNESCO công nhận lần 2 là Di sản thiên nhiên thế giới với tiêu chí đa dạng sinh học, sinh thái vào ngày 03/7//2015. 3. Cao nguyên đá Đồng Văn Cao nguyên đá Đồng Văn (hay sơn nguyên Đồng Văn) là một cao nguyên đá trải rộng trên bốn huyện Quản Bạ, Yên Minh, Đồng Văn, Mèo Vạc của tỉnh Hà Giang, Việt Nam. Ngày 03 tháng 10 năm 2010, hồ sơ “Công viên Địa chất Cao nguyên đá Đồng Văn” đã được Hội đồng tư vấn Mạng lưới Công viên Địa chất Toàn cầu (GGN) của UNESCO chính thức công nhận là Công viên địa chất toàn cầu. Đây hiện là danh hiệu duy nhất ở Việt Nam và thứ hai ở Đông Nam Á. II. DI SẢN VĂN HÓA VẬT THỂ THẾ GIỚI 4. Quần thể di tích Cố đô Huế Quần thể di tích Cố đô Huế hay Quần thể di tích Huế là những di tích lịch sử - văn hóa do triều Nguyễn chủ trương xây dựng trong khoảng thời gian từ đầu thế kỷ 19 đến nửa đầu thế kỷ 20 trên địa bàn kinh đô Huế xưa, nay thuộc phạm vi thành phố Huế và một vài vùng phụ cận thuộc tỉnh Thừa Thiên-Huế. Phần lớn các di tích này nay thuộc sự quản lý của Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế và được UNESCO công nhận là Di sản Văn hoá Thế giới vào ngày 11/12/1993. 5. Phố cổ Hội An Đô thị cổ Hội An ngày nay là một điển hình đặc biệt về cảng thị truyền thống ở Đông Nam Á được bảo tồn nguyên vẹn và chu đáo. Phần lớn những ngôi nhà ở đây là những kiến trúc truyền thống có niên đại từ thế kỷ 17-19, phân bố dọc theo những trục phố nhỏ hẹp. Hội An cũng là vùng đất ghi nhiều dấu ấn của sự pha trộn, giao thoa văn hóa. Với những giá trị nổi bật, tại kỳ họp lần thứ 23 ngày 4/1/1999, tổ chức UNESCO đã công nhận đô thị cổ Hội An là một di sản văn hóa thế giới. 6. Thánh địa Mỹ Sơn Thánh địa Mỹ Sơn thuộc xã Duy Phú, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam, là tổ hợp gồm nhiều đền đài Chăm-Pa trong một thung lũng đường kính khoảng 2km được bao quanh bởi đồi núi. Xưa đây từng là nơi tổ chức cúng tế cũng như là lăng mộ của các vị vua Chăm-Pa hay hoàng thân, quốc thích. Năm 1999, Thánh địa Mỹ Sơn đã được UNESCO chọn là một trong các di sản thế giới tân thời và hiện đại. 7. Hoàng thành Thăng Long - Hà Nội Hoàng thành Thăng Long là quần thể di tích gắn với lịch sử kinh thành Thăng Long - Đông Kinh qua thời Đinh - Tiền Lê, phát triển mạnh dưới thời Lý, Trần, Lê và thành Hà Nội dưới triều Nguyễn. Đây là công trình kiến trúc đồ sộ, được các triều vua xây dựng trong nhiều giai đoạn lịch sử và trở thành di tích quan trọng bậc nhất trong hệ thống các di tích Việt Nam. Vào ngày 31/7/2010, UNESCO đã thông qua nghị quyết công nhận khu Hoàng thành Thăng Long là di sản văn hóa thế giới. 8. Thành Nhà Hồ Thành nhà Hồ, nay thuộc địa phận tỉnh Thanh Hóa là tòa thành kiên cố với kiến trúc độc đáo bằng đá có quy mô lớn hiếm hoi ở Việt Nam. Ngày 27 tháng 6 năm 2011, sau 6 năm đệ trình hồ sơ, Thành nhà Hồ đã được UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới. III. DI SẢN VĂN HÓA PHI VẬT THỂ 9. Nhã nhạc cung đình Huế Nhã nhạc cung đình Huế là thể loại nhạc của cung đình thời phong kiến, được biểu diễn vào các dịp lễ hội (vua đăng quang, băng hà, các lễ hội tôn nghiêm khác) trong năm của các triều đại nhà Nguyễn của Việt Nam. Nhã nhạc cung đình Huế đã được UNESCO công nhận là Kiệt tác truyền khẩu và phi vật thể nhân loại vào năm 2003. 10. Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên Không gian văn hóa Cồng Chiêng Tây Nguyên được UNESCO công nhận là Kiệt tác truyền khẩu và phi vật thể nhân loại vào ngày 15 tháng 11 năm 2005. Sau Nhã nhạc cung đình Huế, đây là di sản văn hóa phi vật thể thứ hai của Việt Nam được nhận danh hiệu này. 11. Dân ca Quan họ Dân ca Quan họ ở Bắc Giang và Bắc Ninh là một trong những làn điệu dân ca tiêu biểu của vùng châu thổ sông Hồng ở miền Bắc Việt Nam. Nó còn được gọi là Dân ca Quan họ Kinh Bắc do được hình thành và phát triển ở vùng văn hóa Kinh Bắc xưa. Ngày 30/9/2009, UNESCO đã chính thức công nhận Dân ca Quan họ là di sản văn hóa phi vật thể của thể giới. 12. Ca trù Hát ca trù là một bộ môn nghệ thuật truyền thống ở phía Bắc Việt Nam kết hợp hát cùng một số nhạc cụ dân tộc. Ca trù thịnh hành từ thế kỷ 15, từng là một loại ca trong cung đình và được giới quý tộc và trí thức yêu thích. Ca trù là một sự phối hợp nhuần nhuyễn và đỉnh cao giữa thi ca và âm nhạc. Ngày 01/10/2009, UNESCO đã công nhận Ca trù là di sản phi vật thể của thế giới. 13. Hội Gióng Hội Gióng là lễ hội truyền thống được tổ chức hàng năm ở nhiều địa phương tại Hà Nội nhằm tưởng nhớ và ca ngợi chiến công của người anh hùng truyền thuyết Thánh Gióng, một trong tứ bất tử của tín ngưỡng dân gian Việt Nam. Năm 2010, Hội Gióng ở đền Phù Đổng (Gia Lâm) và đền Sóc (huyện Sóc Sơn) đã được UNESCO công nhận là di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại. 14. Hát Xoan Phú Thọ Hát Xoan còn được gọi là Khúc môn đình (hát cửa đình), là lối hát thờ thần, tương truyền có từ thời các vua Hùng. Thuở xa xưa, người Văn Lang tổ chức các cuộc Hát Xoan vào mùa xuân để đón chào năm mới. Năm 2011, Hát Xoan đã được UNESCO công nhận là di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại. 15. Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương là một loại hình tín ngưỡng dân gian được lưu truyền lâu đời ở Việt Nam mà trọng tâm là tỉnh Phú Thọ. Loại tín ngưỡng này đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch Việt Nam ghi danh vào Danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia (đợt 1) và UNESCO công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại năm 2012. 16. Đờn ca tài tử Nam bộ Đờn ca tài tử Nam bộ là một dòng nhạc dân tộc của Việt Nam đã được UNESCO công nhận là di sản văn hóa phi vật thể vào năm 2013. Đờn ca tài tử hình thành và phát triển từ cuối thế kỉ 19 - bắt nguồn từ nhạc lễ, Nhã nhạc cung đình Huế và văn học dân gian - là loại hình nghệ thuật dân gian đặc trưng của vùng Nam bộ. 17. Ví giặm Nghệ Tĩnh Dân ca ví, giặm Nghệ Tĩnh là một loại hình nghệ thuật trình diễn dân ca chiếm vị trí quan trọng trong đời sống văn hóa của người dân hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh thuộc miền Trung Việt Nam. Dân ca ví giặm đã được UNESCO công nhận là di sản văn hóa phi vật thể ngày 27/11/2014 tại Paris (Pháp). VI. DI SẢN TƯ LIỆU THẾ GIỚI 18. Mộc bản triều Nguyễn Mộc bản triều Nguyễn là di sản tư liệu thế giới đầu tiên tại Việt Nam được UNESCO công nhận ngày 31/7/2009. Mộc bản triều Nguyễn gồm 34.618 tấm, là những văn bản chữ Hán-Nôm được khắc ngược trên gỗ để in ra các sách tại Việt Nam vào thế kỷ 19, 20. 19. Bia tiến sĩ Văn Miếu - Quốc Tử Giám Với giá trị văn hóa và lịch sử đặc biệt, đầu tháng 3/2010, 82 tấm bia tiến sĩ của các khoa thi dưới triều Lê - Mạc (1442-1779) tại Văn Miếu - Quốc Tử Giám (Hà Nội) đã được UNESCO công nhận là Di sản tư liệu thế giới. 20. Mộc bản Kinh Phật chùa Vĩnh Nghiêm Những mộc bản Kinh Phật được khắc bằng chữ Hán và chữ Nôm chùa Vĩnh Nghiêm (tỉnh Bắc Giang - nơi được mệnh danh là “Đại danh lam cổ tự”, trung tâm Phật giáo của thời Trần) đã được UNESCO công nhận năm 2012. 21. Châu bản triều Nguyễn Châu bản là những văn bản của vương triều đã được nhà vua “ngự phê” bằng mực son đỏ. Châu bản triều Nguyễn là các tài liệu hành chính được hình thành trong quá trình quản lý nhà nước của triều Nguyễn (1802 - 1945), triều đại cuối cùng trong lịch sử phong kiến Việt Nam. Châu bản triều Nguyễn đã được UNESCO công nhận là di sản tư liệu thế giới vào năm 2014. V. DI SẢN VĂN HÓA HỖN HỢP 22. Quần thể danh thắng Tràng An, Ninh Bình Tràng An là một trong những nơi có cảnh quan tháp karst đẹp và quyến rũ nhất trên thế giới. Trước đó, nhiều di tích danh thắng nơi đây đã được Chính phủ Việt Nam xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt quan trọng như Khu du lịch sinh thái Tràng An, khu du lịch Tam Cốc - Bích Động, chùa Bái Đính, cố đô Hoa Lư. Ngày 23/6/2014, tại Doha, với sự đồng thuận tuyệt đối của Ủy ban Di sản thế giới, Quần thể danh thắng Tràng An chính thức trở thành Di sản thế giới hỗn hợp đầu tiên của Việt Nam ( Di sản hỗn hợp hay còn gọi là di sản kép, cảnh quan văn hóa thế giới để miêu tả các mối quan hệ tương hỗ nổi bật giữa văn hóa và thiên nhiên của một số khu di sản). 23. Tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ của người Việt UNESCO đã họp tại Adis Abebas, Ethiopia chiều ngày 1/12, với sự thống nhất của toàn thể Hội nghị, Ủy ban đã chính thức ra nghị quyết công nhận “Thực hành tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ của người Việt” là Di sản Văn hóa Phi vật thể đại diện của nhân loại. Hồ sơ “Thực hành tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ của người Việt” được công nhận là Di sản Văn hóa Phi vật thể đại diện của nhân loại do bản thân Tín ngưỡng thờ Mẫu có giá trị đặc sắc bởi di sản gắn liền với đời sống tinh thần và các phong tục tập quán văn hóa của người dân, được cộng đồng trân trọng và liên tục lưu truyền từ ngàn đời nay. 24. Bài Chòi
Trình diễn nghệ thuật Bài chòi Trung Bộ Đây là di sản mới nhất (07/12/2017). Cách thức trình diễn như sau: Hát chòi thường được tổ chức thành một lễ hội . Hội này thường được tổ chức ở làng quê vào dịp tết Nguyên Đán . Người ta dựng 9 hoặc 11 chòi, chia thành 2 bên, mỗi bên 5 chòi, mỗi chòi cao độ 2-3m, rộng đủ vài ba người ngồi và một chòi trung tâm (chòi mẹ) ở giữa dành cho các vị chức sắc. Bộ bài để đánh bài chòi là bộ bài tam cúc cải tiến, gồm 33 lá, với những tên chuyển thành nôm na như: nhứt nọc, nhì nghèo, ông ầm, thằng bí, lá liễu v.v... vẽ trên giấy, dán vào thẻ tre. Mỗi thẻ tre dán ba con bài, không trùng lặp nhau. Bộ bài gồm 3 pho, đó là: - Pho văn: ông Ầm, tráng hai, ba bụng, tứ tượng, ngũ ruột, sáu miếng, lá liễu, tám miếng, chín cu, chín gối - Pho vạn: bạch huê, nhứt trò, nhì bí, tam quăng, tứ móc, ngũ trợt, lục chạng, thất vung, bát bồng, cửu điều - Pho sách: ông Tử, nhất nọc, nhì nghèo, ba gà, tứ sách, ngũ dụm, sáu bưởng, bảy thưa, tám dây, cửu điều. Mỗi pho có 10 lá, vì phải có 33 lá nên thêm vào 3 lá nữa là: ông ầm đen, tử cẳng đen và cửu điều đen (để phân biệt với 3 lá cùng tên này nhưng màu đỏ) cho đủ bài chơi. Vào cuộc chơi, anh hiệu (tức người hô thai) xốc ống bài, rút ra một con và xướng tên con bài lên. Để gây thêm sự hồi hộp và bắt người chơi phải suy đoán, anh hiệu hô lên một câu thai hoặc một câu ca dao có tên con bài. Chòi nào trúng tên con bài thì gõ mõ để anh hiệu mang con bài đến. Trúng ba con bài là chòi đó “tới”, xổ một hồi mõ dài. Khi đó, anh hiệu cầm lá cờ nhỏ, bưng khay rượu tới trao phần thưởng cho người trúng. Lá cờ đuôi nheo bằng giấy cũng được cắm lên chòi để đánh dấu một lần thắng. Để giúp vui cho cuộc chơi còn có một ban nhạc cổ gồm đờn cò, kèn, sanh, trống hòa tấu lên khi có chòi “tới”. Trong các Di sản Văn hóa phi vật thể từng được vinh danh tại Việt Nam, Nghệ thuật Bài chòi Trung Bộ là trường hợp rất độc đáo, khi loại hình nghệ thuật đa dạng kết hợp âm nhạc, thơ ca, diễn xuất, hội họa và văn học này “phủ sóng” tới 9 tỉnh miền Trung, bao gồm Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa và Tp. Đà Nẵng. LỜI KẾT Di sản văn hóa luôn được coi là tài nguyên du lịch quan trọng, yếu tố không thể thiếu trong nhiều chương trình du lịch. Tuy nhiên, việc khai thác các di sản văn hóa trong hoạt động du lịch phải đảm bảo tăng trưởng du lịch nhưng không để lại những hậu quả tiêu cực cho văn hóa và môi trường bản địa. Vậy làm thế nào để cân bằng giữa phát triển du lịch và bảo tồn di sản văn hóa? Đây là vấn đề được đặt ra tại hội thảo “Du lịch có trách nhiệm và Di sản văn hóa” diễn ra ngày 3/4/2015 tại Hà Nội, trong khuôn khổ Hội chợ Du lịch quốc tế Việt Nam VITM Hà Nội 2015 (VietNam International Travel Mart). Việt Nam có nguồn tài nguyên du lịch vô cùng phong phú, đa dạng, bao gồm tài nguyên thiên nhiên và tài nguyên nhân văn. Chúng ta hãnh diện, nguyện bảo tồn và phát huy 24 Di sản Thế giới tại đất nước Việt Nam mến yêu. PHẠM VŨ (Tham khảo: Sách Báo – Internet) BÀI CHÒI TRUNG BỘ TRỞ THÀNH DI SẢN VĂN HÓA PHI VẬT THỂ ĐẠI DIỆN CỦA NHÂN LOẠI (SGGP).- Ngày 7.12, tại phiên họp Ủy ban liên chính phủ Công ước 2003 về bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể lần thứ 12 của UNESCO diễn ra tại Jeju, Hàn Quốc, di sản nghệ thuật Bài Chòi Trung bộ Việt Nam đã chính thức được UNESCO ghi danh tại Danh sách Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại. Tại hội nghị này, UNESCO xem xét 35 hồ sơ vào danh sách di sản văn hóa đại diện của nhân loại; 6 hồ sơ vào danh sách di sản cần bảo vệ khẩn cấp; 1 hồ sơ chuyển từ danh sách cần bảo vệ khẩn cấp sang danh sách đại diện (Hát Xoan). Nghệ thuật Bài Chòi Trung bộ Việt Nam (ở các tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên - Huế, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa và Đà Nẵng) là một loại hình nghệ thuật đa dạng kết hợp âm nhạc, thơ ca, diễn xuất, hội họa và văn học. Bài Chòi có hai hình thức chính: Chơi Bài Chòi và Trình diễn Bài Chòi. Theo đánh giá của Ủy ban liên chính phủ về bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể, nghệ thuật Bài Chòi là một hoạt động văn hóa quan trọng trong cộng đồng làng xã, đáp ứng nhu cầu giải trí và thưởng thức nghệ thuật của cộng đồng. Các câu chuyện trong Bài Chòi là những bài học đạo đức, thể hiện tình yêu quê hương đất nước, sự gắn kết cộng đồng và những kinh nghiệm trong cuộc sống của người dân. Hồ sơ đề cử đã chỉ ra được vai trò quan trọng của người lưu giữ di sản. Là một di sản của cộng đồng, việc truyền dạy Bài Chòi diễn ra chủ yếu trong gia đình, câu lạc bộ. Bên cạnh đó, Bài Chòi còn được truyền dạy trong các trường học. Việc thực hành di sản nghệ thuật Bài Chòi thúc đẩy sự bình đẳng về giới cũng như sự tôn trọng lẫn nhau giữa các cộng đồng. Hồ sơ đã mô tả chi tiết, rõ ràng những nỗ lực trong quá khứ và hiện tại để bảo vệ di sản và đảm bảo sự tồn tại của các cộng đồng, các nhóm người và các câu lạc bộ với sự hỗ trợ của Chính phủ… Nghệ thuật Bài Chòi Trung bộ là di sản của Việt Nam trở thành Di sản văn hóa đại diện của nhân loại. MAI AN - BÙI ĐẸP st. ĐỊNH GIÁ TÁC PHẨM NGHỆ THUẬT NGỌC NGÀ Một tác phẩm được mua với giá cao bất ngờ. Nhưng giá ấy lại dựa vào những chuyện thêu dệt hơn là tình yêu nghệ thuật. Tại một cuộc bán đấu giá nghệ thuật đương đại diễn ra ở New York, ngày 13.11.2012, khi đồng hồ sắp điểm 21 giờ, hãng Sotheby’s giới thiệu tác phẩm có tên Brillo Soap Pads Box. Đó là một chiếc hộp bằng ván ép, phủ sơn, trên đó từ Brillo được ghi bằng sơn đỏ và xanh dương, và ghi chú về nơi đóng gói gửi được ghi thêm bằng phương pháp in lụa. Tác phẩm có kích thước 43x43x36cm này được thực hiện vào năm 1964, có giá ước lượng trong khoảng 700.000 USD đến 900.000 USD. Thế chiếc hộp bằng gỗ này có điểm gì đặc biệt để được định giá cao như vậy? Đây là ghi chú của hãng Sotheby’s trong catalogue giới thiệu sản phẩm được bán: Brillo Soap Pads Box là một tác phẩm tiêu biểu của Andy Warhol và Pop Art đầu thập niên 1960, thể hiện hoàn hảo phong cách làm việc của Warhol, kết hợp sản phẩm thương mại và hình vẽ quảng cáo. Giờ đây, nhìn lại mới thấy rõ hơn ảnh hưởng của những chiếc hộp Brillo trên những phong trào như khuynh hướng tối giản hóa trong nghệ thuật thực hành…”. Rốt cuộc, cái hộp của Andy Warhol được 9 người quan tâm đặt giá, rồi được “rước đi” với giá 722.500 USD. Nhưng có một câu chuyện khác ẩn sau chiếc hộp này mà Sotheby’s không nhắc đến. Hộp Brillo được chế tác vào năm 1961, dành cho công ty Brillo (Brillo Manufacturing Company) bởi James Harvey, một họa sỹ theo khuynh hướng biểu hiện trừu tượng và vẽ quảng cáo. Vào năm 1954, nhân dịp khai mạc một cuộc triển lãm ở New York dành cho Andy Warhol, Harvey phát hiện nghệ sỹ này lấy ý tưởng từ tác phẩm của mình. Vào thời ấy, những hộp của Warhol được bán với giá vài trăm USD, còn hộp của Harvey không có giá trị. Warhol giới thiệu hộp của ông như tác phẩm nghệ thuật, trong khi Harvey bán ý tưởng của mình cho Brillo để đóng gói xà bông gởi đi. Một số tác phẩm đương đại dễ dàng gợi nên những diễn giải thú vị. Một số khác không gợi sự quan tâm nơi người thưởng ngoạn. Vì vậy, để đặt tiêu đề cho sản phẩm, nhà buôn hay nhà bán đấu giá chọn những giải thích lôi cuốn được rút ra từ “lịch sử” của sản phẩm: “Đây là một tác phẩm rất có ý nghĩa và cách mà bạn cần nhìn nó”. Nhưng sở thích và thị hiếu là vấn đề mang tính chủ quan. Tác phẩm mà bạn đánh giá thấp có thể được một nhà sưu tập rước về và trưng bày tại nhà với vẻ tự hào. Như quan sát của nhà phê bình nghệ thuật Mỹ Jerry Saltz: “Nghệ thuật dành cho tất cả mọi người, nhưng không phải cho bất kỳ ai”. Giá trị của một tác phẩm do một nghệ sỹ tên tuổi chế tạo thường tăng đáng kể. Những chỗ ngồi thuận lợi trong một phòng hòa nhạc ở Washington trong buổi trình tấu của nghệ sỹ vĩ cầm nổi tiếng Joshua Bell đã được nhanh chóng bán hết với giá vé từ 100 USD - 225 USD. Gene Weingarten, nhà báo làm việc cho tờ The Washington Post, tự hỏi liệu người ta có sẵn lòng mua vé với số tiền đó nếu buổi hòa nhạc ấy không được các phương tiện truyền thông đề cao vẻ đẹp và tài năng của nghệ sỹ? Joshua Bell chấp nhận thực hiện một thử nghiệm “khó nghe” theo yêu cầu của nhà báo. Vào một buổi sáng lạnh lẽo ngày 12.1.2007, nhạc sỹ đứng ở lối vào một trạm xe điện ngầm ở Washington, mặc áo thun tay dài và quần jean, đội mũ kết, tay cầm cây đàn Stradivarius thế kỷ 18 trị giá 3,5 triệu USD. Một chiếc túi đặt cạnh chân có 2 tờ giấy bạc và vài đồng tiền. Joshua Bell chơi đàn trong 45 phút, bắt đầu bằng nhạc của Bach, rồi của Schubert, Manuel Ponce, Massenet… Hàng ngàn người lũ lượt đi qua để đến nơi làm việc. Chỉ có 7 người dừng bước, nhạc sỹ nhận được 32 USD. Đồng đô la đầu tiên do một phụ nữ đặt vào túi sau khi ngắm cây đàn một lúc lâu, rồi bảo “đàn đẹp lắm”, mà không đưa nhận xét nào về nhạc. Thử nghiệm trên được lặp lại bởi một nghệ sỹ vĩ cầm cổ điển, với bộ smoking, đeo mặt nạ và chiếc túi giấy, như một nhân vật tiếng tăm muốn ẩn danh. Tiền thu được cao gấp đôi, gấp ba. Gene Weingarten muốn tìm hiểu sở thích, nhận thức và ưu tiên hành động của người tiêu thụ. Sáng kiến ấy nhằm trả lời những câu hỏi sau: Trong một môi trường công cộng, vào một giờ không thích hợp, chúng ta có thể cảm nhận vẻ đẹp? Chúng ta có thể dừng lại để thưởng thức nó? Chúng ta có thể nhận ra một tài năng tại một nơi bất ngờ? Hãy thử thực hiện thí nghiệm của Joshua Bell trong một bối cảnh nghệ thuật. Nhiều tác phẩm của nghệ sỹ theo khuynh hướng biểu hiện trừu tượng Đức - Mỹ Hans Hofmann được trưng bày tại Viện Bảo tàng Nghệ thuật hiện đại (MoMA) thuộc thành phố New York. Giả sử một trong những tác phẩm này được đem bán đấu giá 2,5 triệu USD, cho thấy nó từ bộ sưu tập của bảo tàng. Nếu cùng tác phẩm ấy được lồng trong một khung gỗ thường, treo tại một hiệu ăn nhỏ không xa nơi trên, với giá 2.000 USD. Không có tên của Hofmann và bối cảnh MoMA, tác phẩm trên liệu có thu hút sự chú ý? Bao nhiêu người sẵn sàng móc hầu bao để mua nó? Còn nếu là triển lãm nghệ thuật trên quy mô lớn? Vào tháng 10.2010, Viện Bảo tàng Tate Modern ở London khai mạc cuộc sắp đặt khổng lồ về nghệ thuật đương đại trong Turbine Hall diện tích 1.000m2. Tác phẩm là một chiếc thảm được kết bởi 100 triệu hạt hướng dương bằng sứ, được chạm khắc và sơn thủ công từng hạt một bởi hơn 1.600 nghệ nhân ở Jingdezhen, một thành phố của Trung Quốc được xem như “thủ phủ sứ”. Phải mất 2 năm rưỡi để làm ra những hạt sứ ấy. Tác giả là Ai Weiwei, một nghệ sỹ Trung Quốc nổi tiếng về xu hướng chiến đấu. Những hạt sứ ấy trước hết như một thử nghiệm xúc giác: khách tham quan có thể bước lên và sờ chúng. Sau một hay 2 ngày, sẽ có ai đó nêu ý kiến rằng bụi sứ gây nguy cơ cho sức khỏe và dây được giăng lên quanh thảm hạt ấy? Mỗi tác phẩm của Ai Weiwei lấy ý tưởng từ những điều kiện hay phong trào xã hội. Tại cuộc triển lãm ở Tate Modern, có ý kiến cho rằng khái niệm về hạt hướng dương ra đời cùng với cuộc Cách mạng Văn hóa khi Mao Trạch Đông tự ví như mặt trời và những người ủng hộ như hoa hướng dương hướng về lãnh tụ này, bất kỳ nơi nào ông đến, để ca ngợi vinh quang của ông. Theo thời gian, các tác phẩm của Ai Weiwei trở nên phong phú với những ý nghĩa mới. Chẳng hạn, những hạt sứ trên hợp thành một tuyên bố chính trị về mối quan hệ giữa những nhà lãnh đạo và người dân Trung Quốc. Trong những năm nạn đói hoành hành, hướng dương là một trong những nguồn lương thực hiếm hoi khả dụng bất kỳ thời nào. Vào tháng 10.2010, Faurschou Foundation, một tổ chức nghệ thuật Đan Mạch, đưa bán một túi hạt của Ai Weiwei với giá 360.000 USD. Vào tháng 2.2011, hãng Sotheby’s ở London rao bán 100kg hạt với giá ước lượng trong khoảng 120.000 USD đến 180.000 USD. Sau những cuộc ra giá sôi nổi, các hạt của Sotheby’s đã được bán với giá 559.000 USD. Cũng như những hạt của Faurschou Foundation, những hạt đã được bán của Sotheby’s không phải những hạt sứ trong cuộc triển lãm ở Tate Modern. Trong bối cảnh bán đấu giá trên, ý nghĩa “hạt của Ai Weiwei” không rõ ràng. Có thể có một mối liên hệ gián tiếp với cuộc triển lãm ở Tate Modern, hoặc vai trò của Ai Weiwei như một nhà sáng tạo khái niệm, hoặc sự diễn đạt về chính trị của hướng dương. Các nhà buôn nghệ thuật tranh nhau đưa giá lên cao, Sotheby’s được lợi và được tiếng. Nhưng thật thú vị khi biết rằng ta có thể mua 100kg những hạt cũng được khắc chạm và sơn thủ công ấy ở Thượng Hải chỉ với 13.000 USD, lại còn mang hơi hướng của Jingdezhen. Paul Bloom, nhà tâm lý ở Đại học Yale, quan tâm đến ý tưởng bối cảnh. Cuốn sách How Pleasure Works xuất bản năm 2011, bàn về những khía cạnh ít người biết trong cách mà chúng ta mua, tiêu thụ và tìm thấy niềm vui. Sách nêu những thí nghiệm được tiến hành bởi các nhà tâm lý: thông tin được nhào nặn để nhận ra tầm quan trọng của niềm tin gán cho một vật và xuất xứ của nó. Khi Paul Bloom hỏi các đối tượng rằng họ có thể trả bao nhiêu để có chiếc áo pull của diễn viên George Clooney, giá bình quân được đưa ra cao hơn hẳn giá chiếc áo mới. Nhưng nếu cho người mua biết áo không phải của Clooney, giá trị của áo giảm hẳn. Bản chất những phán đoán chúng ta về tính thẩm mỹ của nghệ thuật cũng gắn liền với tính “xác thực”. Năm 1962, nhà văn André Malraux, lúc ấy đang là Bộ trưởng Văn hóa của Pháp, được Đệ nhất phu nhân Mỹ Jacqueline Kennedy thuyết phục cho Nhà Trắng mượn bức tranh La Joconde để triển lãm tại Phòng trưng bày Nghệ thuật quốc gia (National Gallery of Art), trước khi chuyển đến Bảo tàng Nghệ thuật Metropolitan ở New York. Các viên chức thuộc Viện Bảo tàng Louvre (Paris) hoảng hốt vì ý kiến “cho mượn” của ngài Bộ trưởng. Bức họa quý trên rất mong manh, dễ bị hỏng khi chuyển đi xa như vậy. Thực tế, tranh đã hơi cong và bị nứt nhẹ. Một rung chuyển, dù nhẹ, trong vận chuyển, cũng có thể gây điều tồi tệ. Bảo tàng Louvre có một bản sao La Joconde rất đẹp, đóng khung y hệt, và người ta ngờ rằng bản sao này sẽ thay tranh gốc khi cần khảo sát hay làm vệ sinh bản gốc để khỏi làm khách tham quan thất vọng. Nhà phê bình nghệ thuật Robert Hugues ngờ rằng đã có một thỏa hiệp trong tình thế tiến thoái lưỡng nan ở Louvre: gửi bản sao đến Washington. Hơn 1 triệu người Mỹ đã lần lượt đi qua trước kiệt tác của Leonardo da Vinci. Phải chờ khoảng 2 tiếng đồng hồ để có thể ngắm tranh. Theo Robert Hugues, “Người ta không đến để thưởng thức La Joconde, mà để khoe họ đã xem tuyệt tác ấy. Tranh La Joconde đã trở thành biểu tượng sự tiêu thụ hàng loạt”. Trong số tất cả những người bỏ công ấy, bao nhiêu người sẽ kiên nhẫn chờ đợi nếu họ biết đấy chỉ là một bản sao hoàn hảo? André Malraux đồng ý với Robert Hugues: đa số người ta không xếp hàng để ngắm La Joconde, mà để sau này tự hào kể với bạn bè họ đã xem tranh. Tính xác thực đôi khi tùy nghệ sỹ quyết định. Lấy thí dụ trường hợp cá mập nhồi rơm của nghệ sỹ người Anh Damien Hirst. Vào tháng 1.2005, Steven Cohen mua tác phẩm này trong tình trạng thảm hại. Vây rách rời, còn cá trong trạng thái bị phân hủy. Damien Hirst tìm được một cá mập trắng khác cùng cỡ và cùng vẻ hung bạo, ông tiêm cho cá này lượng formaldehyde cao gấp 10 lần so với cá đầu tiên. Kế đó, Hirst đặt cá thứ hai này vào một bể cá, và trao cho Steven Cohen để thay thế con cá bị hư hỏng. Sau đó, Steven Cohen đã cho Bảo tàng Metropolitan ở New York mượn cá mới này. Nếu không phải là Damien Hirst, mà là một người nào khác đưa ra một tác phẩm thay thế, nó sẽ bị loại bỏ như một thứ hàng giả. Một cá mập mới được thừa nhận là xác thực, với cùng một câu chuyện và cùng bối cảnh như tác phẩm ban đầu, vì nghệ sỹ tác giả đã quyết định như thế. Những người xem tác phẩm chấp nhận cá mới, dù mô tả của Bảo tàng cho thấy đây là cá thay thế. Mối quan tâm của chúng ta đối với lịch sử của mỗi tác phẩm không có gì đáng ngạc nhiên. Chúng ta có xu hướng chú ý đến những thế giới do người khác sáng tạo. Những nhà sưu tập dành nhiều thời gian để kể chuyện liên quan đến những tác phẩm mà họ sở hữu hơn là ngắm chúng, có lẽ để đáp ứng sở thích này. (Theo Sélection) HOÀNG KIM THƯ st.
NGƯỜI QUÉT MỘ CỤ PHAN Năm sáu đứa học trò coi bộ thiếu ăn, ốm nhom, chừng 12, 13 tuổi nhảy chưn sáo chung quanh đoàn du khách, nhìn ngó lom lom từng người như muốn khám phá điều gì đó. Cuối cùng một đứa coi bộ sáng láng nhứt rụt rè nói với tôi: - Chú có muốn đi thăm ông Sáu Hấu không vậy? Ai tới đây cũng đi thăm ông Sáu Hấu hết hà. Tôi quay lại, hỏi bằng mắt. Đứa khác chõ miệng xía vô: - Giờ nầy chắc ổng có ở nhà đó. Đứa nầy thúc đứa kia, co ro, chùm nhum vô một đám nhưng không đứa nào tới quá gần chúng tôi. - Chắc chắn là có mà. Năm giờ rồi. Cỡ chừng 4 giờ thì ổng đã về rồi hà. Tiếng mà, hà của nó lập lại, kéo dài, dễ mến cách gì. Bỗng nhiên tôi thấy mình muốn biết nhân vật Sáu Hấu nầy. - Mà ông Sáu Hấu là ai vậy mấy cháu? - Ổng là người quét mả Cụ Phan đó mà. Hết hà lại mà! Tôi cười trong bụng. - Ủa lạ há? Vậy ai trả tiền cho ông ta? - Đâu ai trả tiền cho ổng đâu hà. Ổng tự nhiên lấy chổi quét mình ên mỗi ngày. Ban đầu người ta còn đuổi đi nhưng thét rồi chán không ai rầy rà nữa, ổng cứ quét tự nhiên như nhà của ổng hà, họ để ổng mình ên muốn làm gì làm. Tôi khoái tiếng mình ên nầy, còn làm bộ ngu ngơ: - Bộ chủ đất hay là chủ mả ngầy ngà ổng hả? Mấy đứa nhỏ bỗng nhiên xô nhau chạy nhảy lung tung, cười nức nẻ: - Làm gì có chủ mả! Đó là Chú Tám Chinh, Chủ Tịch Xã đó. Mệt quá với mấy cái tên như Sáu Hấu, Tám Chinh…, nghe qua khó nhớ thấy bà nội. Tôi tò mò thêm nên quyết định đi tới nơi cho biết nhân vật Sáu Hấu. - Xa không vậy mấy đứa? - Quẹo sau bụi chuối đằng kia, đi thẳng chừng mười phút, bỏ cái chùm cây nhum thì thấy nhà ổng dưới cây trâm bầu lớn nhứt chỗ ao cá đó. Một đứa liếng thoắng nhứt chỉ thằng nhỏ vừa mới nói câu vừa rồi. - Đó là hố bom có ông nội nó bị bắn chết hồi xưa ở đó. Tôi thở dài, nói nho nhỏ: - Chiến tranh di hại lâu dữ ha, tới bây giờ còn để lại vết tích. Thằng nhỏ nghe nhắc chuyện xưa có vẻ ngơ ngác, chắc nó lạ lẫm với cái từ chiến tranh di hại. Nó ngó tôi lặng thinh. Cái thằng! Chỉ đường coi bộ rành rọt nhưng làm cho tôi lờ mờ thêm vì cây trâm bầu ra làm sao tôi thiệt tình không biết, chỉ biết qua cái tên của một cuốn tiểu thuyết nào đó thời xa xưa. Cây nhum thì tôi còn mù tịt hơn. - Tụi con đi với chú. Một đứa con gái nãy giờ lặng thinh bây giờ mới lên tiếng. Đó, tôi biết ông Sáu Hấu trong trường hợp như vậy bốn năm về trước khi thiết đặt chương trình đi thăm mộ các danh nhân trong nước. Mộ Phan Thanh Giản nằm ở cái xã nhỏ thuộc huyện Ba Tri, Bến Tre. Điều đầu tiên làm tôi thất vọng khi so sánh mộ Cụ Phan khiêm nhường ở trong một rẻo đất, chung quanh đầy nhà cửa dân chúng, cây cối mọc lan tràn lấn chiếm, trong khi đó lăng Nguyễn Đình Chiểu cách không xa bao nhiêu nằm ở một vị thế trang trọng, có đền thờ, có quá nhiều bậc thềm lên lăng, có mấy cô thuyết minh duyên dáng lịch thiệp, có nhiều người săn sóc, quét tước, tỉa cây và nhang đèn cung cấp cho khách viếng với giá tự nguyện. Ông Sáu Hấu cười như mếu: - Điều vui cho Cụ Phan là Cụ có bạn láng giềng, ông vừa nói vừa hất hàm chỉ về ngôi mộ của Võ Trường Toản ở gần đó. Nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu chỉ có người sống đến làm lễ nầy lễ kia, còn đại thần Phan Phan Thanh Giản có bạn cõi âm cận kề tâm sự luôn luôn. Chưa biết điều nào làm thỏa lòng người đã khuất hơn! Tôi buột miệng ngâm: Sanh tiền giáo huấn đắc nhân, vô tử nhi hữu tử … Ông Sáu Hấu làm tôi ngạc nhiên khi tỏ ra hiểu rành vế đối: - Ừ! Cụ Võ không con mà có bao nhiêu học trò trọng nể coi như cha ruột. Cụ Phan có nhiều con cháu nay vì thời thế tản lạc tứ phương. Tôi quét mộ Cụ coi như là cháu chít tinh thần… Mà cần gì máu thịt hả? Thương nể chân thành là được rồi. Tôi thương mến Cụ vì tập Lương Khê Thi Thảo, tôi nể phục Cụ vì chén thuốc độc ung dung bưng đưa lên môi uống cạn. Ngoài sân một con gà mái đương túc con, độ mười con gà con lông tơ vàng, dễ thương cách gì tíu tít chạy theo mẹ. Chút nắng vàng èo uột sót lại trên tàn cây càng làm cho cảnh trí mang thêm nét tiêu điều cố hữu. Tôi hậm hực hỏi giống như tra vấn: - Sao mộ Cụ Phan không được chánh quyền địa phương săn sóc trong khi ông là đại thần dính dáng đến lịch sử và đất địa nầy, ông đã sống tiết tháo và chết oai hùng với nhiệm vụ. Cụ Nguyễn Đình Chiểu chỉ là nhà văn lên tiếng chống ngoại xâm thôi, không có dịp chứng tỏ sự anh dũng bằng hành động dầu rằng văn ông bốc lửa khi nước nhà ngửa nghiêng? - Biết đâu nà! Muốn thì người ta làm, hơi sức đâu mà giải thích. Với lại ai dám hỏi mà người ta có dịp nói nà? Tôi thích thêm tiếng nà chấm câu của ông Sáu Hấu, cũng như tôi thích tiếng cơ lúc còn học Trung Học qua miệng cô bạn cùng lớp mang dòng máu đất Thăng Long văn vật xa xưa. Nói chung tôi thích những tiếng ít người dùng như tía, chế, hia, như mình ên, như huốt, như thây nó… Thích tiếng, lắm khi tôi thích luôn người xài tiếng đó mà không biết tại sao. Trong năm đầu tiên vô Đại Học tôi quấn quít bên thằng Ngầu, nó là kho tàng tiếng địa phương mà tôi chưa có dịp khám phá. Thích tiếng lạ, tôi lại mê những vật có tên là lạ, tôi thích cầm cái ky, mân mê cái chày vồ, ưa rờ cái khạp da bò, thích ngồi mép đít trên thành cái mái vú to tổ chảng, thích lột ăn từ lớp từ lớp bánh pía ngon lành, thích thưởng thức bánh thửng, mè xửng, bánh còng, bánh khọt, bánh tai heo, thích nhìn ngắm mấy lớp bánh da lợn màu mè… Tóm lại, tôi khoái nghe những tiếng lạ lạ, chơn chất không tìm thấy trong văn học, chỉ tồn tại bằng giọng nói của người bình dân nơi thôn quê ruộng rẫy. “Nè ông Sáu!” Tôi giải thích theo kiểu khiên cưỡng là đất nước mình cần anh hùng. “Dám chống lại giặc, đối đầu với lực lượng áp đảo của giặc là anh hùng. Giao thành cho giặc xong dầu uống thuốc độc tự vận cũng là đầu hàng giặc, đâu thể gọi là anh hùng được phải không? Hạ bệ là phải thôi. Ông Sáu Hấu bình thản quấn điếu thuốc sâu kèn, đốt lửa, bập bập: - Chuyện đời, ở bên ngoài biết hết bí ẩn bên trong được đâu nà! Giao thành để cứu dân ba tỉnh hay nướng hết dân đen ba tỉnh cho súng lớn súng nhỏ cái nào hay? Nói nhón một câu, khó biết lắm ông Việt Kiều ơi? Bàng nhơn thiên hạ phê bình thì dễ, tới chừng đụng chuyện mới biết khó dàn trời mây, bứt hết tóc cũng tính không ra kế. Tôi nhột khi bị kêu bằng Việt Kiều. Chẳng biết tại sao nữa, nhưng mà áy náy giống như mình làm điều gì sai trái người ta biết tẩy nhưng không nói ra. Có lẽ tôi mặc cảm trước việc làm vô vị lợi của ông già gầy còm nầy trong khi mình mạnh khỏe bảnh bao thọc tay vô túi quần đứng ngó. Tôi nói đẩy đưa cho có chuyện: - Và ông cho rằng biết thời thế để xử trí như Cụ Phan là anh hùng. Quét lau mộ Cụ, ông chứng tỏ rằng mình theo bảng giá trị khác với người đời phải không? Nói thiệt đi ông bạn! Tôi dùng chữ ông bạn với giọng thân mật, cầu hòa. Ông Sáu Hấu ngó xuống cườm tay mình, đen mốc, khét nắng, sần sùi thẹo, rải rác mấy chỗ da chai, không trả lời thẳng, chỉ nhẹ nhàng: - Ừ thì làm nhón vậy mà. Cực khổ gì đâu chú em. Ngồi ngó mong ra ngoài sân cũng hết ngày, hết đời. Bóng thiều quang có chờ đợi ai bao giờ đâu. Quét tước quơ quào ba cái lá khô, mấy đống chó ị cho mát dạ tiền nhơn vậy mà! Tôi nói bậy bạ vậy mà chú em thấy phải không chớ? Ông đứng dậy, hai cái ống quần xà lỏn hơi rộng, đong đưa trong khoảng không giữa lớp vải quần xám mốc và bắp chân đen đủi như khúc củi mục nhỏ xíu của ông, tay vói lấy cây chổi tàu cau, tay cầm nùi giẻ bỏ vô một cái sô lưng lửng nước. Bộ tịch hơi chậm, chưn đứng lên run run. Tuổi già ở quê tới mau hơn dân thành thị. - Đi! Tôi phải quét mộ cụ. Mặt trời xuống chút nữa thì tụi nhỏ cặp nầy cặp kia ngồi choán chỗ khó lau quét. Tôi đề nghị xách giùm ông sô nước, ông Sáu Hấu từ tốn gạt nhẹ tay tôi ra điều nói mình chưa già. Nơi mộ danh nhân kia, bóng chiều đã xuống nhiều, gió mát lạnh. Hai ba cặp trẻ đã giành những chỗ tốt, mấy chiếc xe gắn máy dựng che nửa hở nửa kín cho chỗ tình tự, mân mơn. Ông Sáu Hấu lui cui quét dọn, như mình không có mặt trên cõi đời nầy. Ông nói nhỏ với tôi: - Đừng ngó bọn trẻ. Mắc cở tội nghiệp. Tuổi mới lớn thời nào cũng vậy thôi. Hưởng, mai tính theo mai. Ông nheo mắt mặt như dân chơi thứ thiệt: - Hôm nào huỡn huỡn mình ôn lại chuyện cũ đời mình coi. Đâu thua gì chúng nó đâu nè!” Qua Tết, tôi mượn cớ dò đọc bài văn bia trên mộ Cụ Phan, lâu rồi hứa chép tặng một cơ quan văn hóa ở bên nầy, nên xuống lại vùng mộ Cụ để có dịp nói chuyện bá vơ với ông Sáu Hấu. Thấy gần cả chục dưa bự xộn bỏ lăn lóc trong góc nhà, tôi xuýt xoa rằng ông ăn Tết quá lớn, ông giải thích: - Thằng Tám Chinh cho người đem tặng đó, tôi đâu thèm nhận. Của ăn cắp nhận mang tiếng chết. Tuần trước gần ngã ba đường cái có hai xe tải chở dưa, giành lấn đường sao đó mà một xe lật nhào xuống ruộng, dưa bể lăn lủ khủ, tài xế cà nhắc bỏ chạy trốn, dân chúng hè nhau tới hôi dưa mang về chưng Tết. Bậy hết chỗ nói! Đã vậy mà thằng Tám Chinh còn thị thiềng cho bà con của nó đem xe ba bánh tới chở ra chợ bán. Tôi la rầy phản đối, nó trám miệng bằng mấy trái dưa ế nầy, nói là để kiếng Cụ Phan. Nói kiếng Cụ Phan thì tôi phải nhận nhưng mà chỉ để đó, thủng thẳng rồi tính. Vong hồn Cụ đâu chứng giám kiểu ăn cướp có ba tăng nầy mà kiếng với cúng. Tôi buột miệng nói một câu lãng nhách, hớ vô cùng: - Thôi mình lấy một trái xẻ ăn, còn bao nhiêu trả lại tụi nó. Sáu Hấu đỏ bừng mặt, lớn tiếng phản đối: - Ông là Việt Kiều mà nói vậy nghe được sao? Muốn ăn thì tôi ra chợ mua về một cặp mình ăn cho đã luôn. Của nầy là của bá vơ, ăn nuốt làm sao trôi khỏi cổ? Tôi phải cười mơn, giả lả là nói chơi, ông Sáu Hấu lâu lắm mới nguôi nguôi cơn giận. Lúc sau giả bộ thiệt thân tình tôi hỏi về vợ con, ông ngâm nga theo điệu thơ Quê Hương: … Chuyện chồng con khó nói lắm anh ơi. Rồi kéo áo lên khỏi bụng: - Xin lỗi ông Việt Kiều nha, tôi không tính cho ông biết cái vụ nầy nhưng mà… Thôi! Cái thẹo chần vần như vầy mà vợ con gì nữa. - Sao lạ vậy kìa? - …Thuyền tui tới Hồng Kông sau khi ở đây đã hết hạn tiếp nhận người tỵ nạn cho nên họ nhốt hết nguyên đám vô tù. Rạc ràng chừng hơn hai năm thì có chuyện cưỡng bức hồi hương. Mẹ, mình đã đánh đố với Tử Thần để đi thoát mà bị cưỡng bức hồi hương vì là người khách đến trễ giờ thì có là ăn c. Biểu tình hoài mà họ cứ trói từng người liệng lên xe trả về, từng đợt, từng đợt. Tụi tui chín, mười đứa xung phong rạch bụng tự tử để phản đối. Máu chảy ngập sân, nhầy nhụa đỏ gạch mà nhân loại ngủ hết, chẳng ai lên tiếng lên tăm. Mấy đứa chết thẳng cẳng, còn mấy đứa ngất ngư. Tôi tỉnh dậy thì thấy mình đương ở trên máy bay bay về nơi xuất phát, bụng còn băng mấy lớp, máu tươm ra thấm đỏ áo. Cô nhân tình bé bỏng mất liên lạc từ đó. Tôi thở dài: - Thôi thì là… số mạng hết ông Sáu à! Ở đâu cũng là do thiên định sẵn rồi. Bôn ba chẳng qua thời vận. Cần là mình sống cho phải đạo. Quét mộ Cụ Phan, ông ơi, phải đạo hơn ngàn lần làm Việt Kiều quậy phá, ăn cắp ăn gian tiền nọ tiền kia của đất nước rộng mở bao dung. Sáu Hấu vui hơn đôi chút, tâm sự: - Thời gian ở trại, những đêm mưa rỉ rả, âm thanh giọt mưa gõ lên mái tôn trong đêm vắng nghe như nhạc chết, nói lên cái tương lai đen tối của người chẳng có quê hương. Thêm buồn vì sự tranh đấu phải giữ kín, không dám lộ, tôi ngâm nga mấy câu thơ của Cụ Phan làm khi Cụ đi xa không thể ngủ: Nằm không ngủ đêm thành dài vô tận, Nín lặng thinh ý tưởng hóa thâm trầm. Năm tàn hết chuyện ngày qua tồn đọng, Trở thành xưa cổ tích của ngàn năm. Sông trôi chảy sánh thời gian tuôn lướt, Vầng trăng kia soi mượt đỉnh cô phong. Mang tâm sự biết ai đâu kỳ vọng, Khách địa buồn đau xoáy buốt thân tâm. Về lại đất nước mình, sau thời gian lăn lóc kiếm ăn khó nhọc, tôi trôi dạt tới đất địa linh nầy. Thấy mộ Cụ Phan điêu tàn, gà bới, chó chạy rong ị bậy, bọn trẻ xả rác lền khên, mấy đứa chăn trâu đập bể đá cẩn, khẻ khờn mép bia… nhớ lúc ở trại trong vòng rào kẽm gai, tôi nuôi sống tâm hồn mình bằng bài thơ Bất Mỵ của Cụ nhờ đó khỏi điên, khỏi nhảy lầu, tôi phát nguyện… Tôi đứng bật dậy, đưa hai tay bắt tay người bạn già, nâng niu như bàn tay một người trưởng thượng trong gia đình lâu ngày không gặp. Chúng tôi nhìn thẳng vào mắt nhau, chẳng cần nói điều gì thêm. Mấy năm rồi hễ có ai về tôi đều nhờ ghé tìm thăm ông Sáu Hấu của tôi. Chẳng ai cho được một chi tiết cụ thể nào. Ai cũng nói hỏi không ra, không biết ông đi đâu rồi. Cái ao cá hố bom trước nhà ông bây giờ đã lấp mất, biến vào Không như dật sử đời ông. Sau cùng có người mơ hồ cho tôi biết ông vấp miểng sành hay đạp miểng bom, đinh sét gì đó rồi bị phong đòn gánh giựt chết. Riêng tôi nghĩ rằng ông đã lìa bỏ xác phàm, xa rời cõi có không trần cảnh để đi vào Cõi Không rốt ráo. Ông hóa thân xuống ban dạy từ bi cho người đời, thức tỉnh lòng hỉ xả trong tôi lâu nay đương mê ngủ. Có thể công nghiệp đã xong, ông chọn cách tịch gây nhiều cảm xúc nhằm nhắn nhủ gì đó với đời, chẳng hạn như: Đất nước chưa thật sự an lành, nỗi rủi ro bất hạnh vẫn đương rình rập dân đen từng giờ… Biết đâu được nà! Bài học ở đời nhan nhản quanh ta, khó là tự ta phải biết tìm ra bài để học. Ở phương trời xa xôi, đôi lúc ngồi ngắm mây trời phiêu lãng trôi, nhớ xứ sở, tôi trách thầm khi thấy mình ngày đó ngu ngơ không giải nổi bài toán tại sao lại quét mộ Cụ Phan. Ông Sáu Hấu đã gián tiếp cho lời gợi ý: “Giữa người yếu không thể tự vệ là dân ba tỉnh Miền Nam và kẻ xách vũ khí đi xâm lược là thực dân Pháp ai là kẻ đáng tôn vinh, ai là người nên xếp vào hàng bất xứng?” Victorville, CA, June 1-10, 2011 Nguyễn Văn Sâm Lời người viết truyện : Ông Sáu Hấu à! Thường truyện ngắn viết hết truyện thì thôi, thậm chí tác giả cũng không có quyền giải thích về tác phẩm của mình, phải trao toàn quyền hiểu như thế nào cho từng độc giả. Xin ông Sáu Hấu bỏ qua cho vài ba điều ông không muốn nói mà tôi đã nói, nhiều đoạn tôi hơi cường điệu chút đỉnh. Ông còn sống hay đã mất quan trọng đối với một đời người nhưng không quan trọng đối với bài học người đó trao truyền cho đời, do đó tôi nói lại chuyện của ông mà sẽ không đi tìm nơi ông an nghỉ dù chỉ để thắp một nén hương. Xin ông hiểu cho. Về các chi tiết : Lăng mộ cụ Phan và Cụ Võ ở tại xã Bảo Thạnh, huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre. Lăng mộ Nguyễn Đình Chiểu tại xã An Đức, cùng huyện. Câu đối ở mộ Cụ Võ: Sanh tiền giáo huấn đắc nhân, vô tử nhi hữu tử. Một hậu thịnh danh tại thế, tuy vong giả bất vong. Bài Bất Mỵ (không ngủ) của Phan Thanh Giản trong Lương Khê Thi Thảo: Bất mỵ tiêu hà vĩnh/ Vô ngôn ý chuyển thâm/ Chung tuế tích xuân hạ/ Lãi vãn thành cổ câm/ Giang lưu tranh nhật quỹ/ Minh nguyệt quá cô sầm/ Hữu hoài phục thùy ngữ/ Đao đao du tử tâm. (Nguyễn Văn Sâm dịch bằng Thơ Mới ở trên.)
Phụ Bản II NHÀ VĂN KỲ PHÁT (PHẠM CAO CỦNG) Kỳ Phát là một bút danh khác của nhà văn chuyên viết truyện trinh thám Phạm Cao Củng. Chúng tôi tìm hiểu, biết được khi mới vào sáng tác truyện trinh thám ông dùng bút danh Kỳ Phát, một thời gian sau ông ký tên là Phạm Cao Củng. Và đương thời, tác giả truyện trinh thám Phạm Cao Củng rất được người đọc hâm mộ. Trong tác phẩm Nhà văn hiện đại, 1942, nhà nghiên cứu Vũ Ngọc Phan đã đánh giá: Trong các tiểu thuyết trinh thám, như Thế Lữ, Bùi Huy Phồn và Phạm Cao Củng, chỉ có tiểu thuyết của Phạm Cao Củng là có phần đặc sắc hơn. Phạm Cao Củng là tác giả nhiều tập truyện trinh thám: Vết tay trên trần, 1936; Chiếc tất nhuộm bùn, 1938; Người một mắt, 1940; Kỳ Phát giết người, 1941; Nhà sư thọt, 1941; Đôi hoa tai của bà chúa, 1942; Đám cưới Kỳ Phát, 1942. Ông cũng viết một tiểu thuyết tâm lý xã hội là: Kinh hoàng, 1940; và cũng sáng tác một số thơ trào phúng đăng trên báo Phong hóa, Ngày nay ký bút danh là Phạm Thị Cả Mốc. Trên tuần báo Tiểu thuyết Thứ Năm giai đoạn đầu, chúng tôi có được 4 kỳ báo, từ số 10 đến số 13, đăng tải một truyện trinh thám dài của Kỳ Phát: Chĩnh mắm người. Vì đây là tác giả truyện trinh thám, nên chúng tôi xếp riêng ra, vào phần cuối của sách này. Truyện trinh thám Chĩnh mắm người, dù được đọc trên 4 kỳ báo, còn dang dở, nhưng chúng tôi thấy khả năng khá xuất sắc của tác giả trong thể loại truyện điều tra tội phạm. Quả đúng như nhà nghiên cứu Vũ Ngọc Phan đánh giá: Những tiểu thuyết trinh thám của Phạm Cao Củng có tính chất Việt Nam đặc biệt, và hợp với trình độ tri thức và cuộc sống của người Việt Nam. Chúng tôi nghĩ, qua truyện Chĩnh mắm người, biết được Kỳ Phát là bút danh thời kỳ đầu của Phạm Cao Củng, người đọc và giới quan tâm sẽ hiểu hơn việc nhà văn Phạm Cao Củng trong những tác phẩm sau này đã xây dựng một nhân vật thông minh và sắc sảo tên là Kỳ Phát. LÊ THANH - ĐÀO MINH DIỆU XUÂN st. BÀN VỀ NHẠC PHI Nhạc Phi là vị tướng lừng danh của nhà Tống. Nhạc Phi, Trương Hiển, Vương Quới, Thang Hoài, Ngưu Cao cùng đi thi võ trạng. Nhạc Phi chém Lương Vương Sài Quế, bị Thái sư Trương Ban Xương ra lịnh chém đầu. Cử tử la ó đòi giết các quan. Xương nhờ Nguyên Nhung Tông Thú ổn định, Nhạc Phi được cởi trói, chàng vội vàng nhảy lên ngựa chạy. Bọn Trương Hiển chạy theo. Vương Quới chờ anh em chạy hết mới phá cửa giáo trường tẩu thoát. Về tới núi Hồng La, có bọn ăn cướp chặn đường. Hai nhóm đánh nhau ác liệt. Thi Toàn nhận ra Nhạc Phi bèn kêu ngừng đánh. Thi Toàn, Triệu Vân, Châu Thanh, Lương Hưng và Kiết Thanh nói rằng họ đi thi võ trạng về, vì túng tiền nên họ phải đi ăn cướp. Hai nhóm kết nghĩa anh em và cùng Nhạc Phi về Thang Âm để cùng nhau luyện tập văn võ. Gặp năm mất mùa đói khổ, bọn Ngưu Cao, Vương Quới, Thi Toàn… đi ăn cướp. Nhạc Phi rạch đất dứt tình anh em. Gia đình Nhạc Phi có ruộng đất, cưu mang thêm năm người thì thế nào? Bình thường thì có lẽ sống được. Rủi mất mùa nên đông người mà kham không nổi để đến nỗi phải rạch đất dứt tình anh em. Phải chi Nhạc Phi kết nghĩa anh em nhưng vẫn để họ làm ăn cướp, khi cần thì tới mời có lẽ hay hơn vì không phải dứt tình. Phải chăng Nhạc Phi ôm mộng làm nguyên soái nên gia đình không thể chứa chấp bọn ăn cướp. Mang tiếng là nhà ăn cướp thì khó nói năng lắm. Quân Kim xâm lăng, vua sai quan huyện Từ Nhơn đi vời Nhạc Phi về triều để đi dẹp giặc. Cường đạo Kiết Thanh vào đánh phá Nghi Phụng môn. Nhạc Phi ra thì hắn đầu hàng, bọn lâu la thì giải tán. Vào triều, hắn tâu là bạn Nhạc Phi nên tìm tới để cùng đi dẹp giặc. Vua phong quan tước để cùng Nhạc Phi đi dẹp giặc. Trương Ban Xương mưu hại Nhạc Phi, đầu lãnh Thái hành sơn là Ngưu Cao cùng bảy vị đại vương là Thái Toàn, Châu Thanh, Triệu Vân, Lương Hưng, Thang Hoài, Vương Quới và Trương Hiển kéo rốc binh mã xuống Kim Lăng (Nhạc Phi trang 270-271) cứu Nhạc Phi và bằng lòng cho Nhạc Phi trói để dâng vua. Vua tha và phong họ làm Phó Thống chế và phong Nhạc Phi làm Phó soái để hưng binh đánh Kim và diệt nội loạn. Bọn ăn cướp về cứu Nhạc Phi, lúc cần người có khả năng chống giặc, vua tha cả và phong tất cả là Phó Thống chế. Anh em đoàn tựu dưới một lá cờ. Nhưng việc rạch đất cắt tình anh em ngày nào thì thế nào? Có lẽ nó vẫn là cái vết trong tâm tư. Đó là cách cư xử không tốt của Nhạc Phi. Phải chi Nhạc Phi bắt chước Triệu Khuông Dẫn, kết nghĩa anh em nhưng vẫn để họ làm ăn cướp. Khi cần thì tới thâu phục và trình lên vua công phá giặc của họ thì hay biết chừng nào! Giặc hơi yên, Tần Cối ra thánh chỉ gọi Nhạc Phi về trào, về gấp. Nhạc Phi giao ấn soái lại cho Thi Toàn và Ngưu Cao. Nhạc Phi chiêm bao thấy hai con chó đứng nói chuyện nên nhờ Hòa thượng Đạo Duyệt đoán mộng. Hòa thượng nói: Hai con chó day vào nhau là hai chữ khuyển ( 犬 ), nói chuyện là chữ ngôn ở giữa ( 言 ) là chữ ngục ( 獄 ), e nguyên soái khó tránh ngục hình và khuyên nguyên soái nên mai danh ẩn tích. Nhạc Phi không nghe và muốn tận trung báo quấc. Về chưa tới kinh đô thì bị đón bắt và đưa vào ngục. Nhạc Phi khuyên bắt luôn Nhạc Vân và Trương Hiếu kẻo chúng làm phản mà mất danh trung nghĩa của họ Nhạc. Nhạc Phi, Nhạc Vân và Trương Hiếu đều bị giết. Nhạc Phi không mai danh ẩn tích, thà về triều dẫu bị tù đày hay bị giết cũng cam vì ông quyết bảo vệ giang sơn nhà Tống, đó là điều tốt. Ta phải đối mặt trực diện với nguy hiểm mặc cho số phận dung ruổi chớ không lẩn trốn. Lẩn trốn trước nguy hiểm là việc làm của kẻ không ra gì. Nhưng Nhạc Phi cho giết cả con và cháu là sai vì chúng chưa nhận chức tước gì của triều đình. Để chúng trốn đi, đi mai danh ẩn tích là điều tốt. Tôi cho rằng Nhạc Phi sai lầm đáng chê trách. Khánh Hội - Quận 4 Sàigòn 09-5-2017 PHẠM HIẾU NGHĨA Ước đi em Này nến thắp cho nồng lên mi đắm Ước đi em ngày sóng sánh tình lơi Xanh mắt trong xanh dát cả khung trời Em ngan ngát mùa duyên trong nắng gợi Này hương sắc ươm hồng lên môi thắm Ước đi em trong trắng những niềm tin Khát mơ say mê mải những ta tìm Dù năm tháng có thêm lần lỗi hẹn Này tay nắm cho lòng ngân xao xuyến Ước đi em lời sóng của con tim Mắt ân tình chao nhẹ khóe cười nghiêng Rung hoa nắng trải vàng vương trên lối Em cứ xuân em chớ đầy bối rối Cánh diều vui nâng bức vẽ ngang trời Khúc huyền ca son sắt những đầy vơi Say đắm đuối mộng hương đời không tuổi. ĐÀM LAN TÌNH MỘNG Chuông đổ năm xưa giữa Giáo đường Giáng sinh cầu nguyện chuyện yêu đương Xin Chúa lòng lành tròn nguyện ước Đêm đông chung bóng tình vấn vương Ai có ngờ đâu anh vắng xa Chiều xuân năm ấy tình phôi pha Vì đâu đành đoạn quên thề hẹn Anh có biết không mắt lệ nhòa... Noel này Giáo đường không anh Tình ta xa cách mộng tan tành Duyên nợ kiếp này chưa nặng gánh Còn chi mơ ước hỡi trời xanh ? Ai phụ tình ai đời cách xa Đôi người đôi ngả khóc tình ta Anh có mơ gì nơi xa ấy Héo úa tình em mãi thiết tha... Anh còn đâu đó hỡi tình ơi ? Em ôm sầu nhớ hồn chơi vơi Đêm qua giấc ngủ - tình xao xuyến Ta đã bên nhau... mộng tuyệt vời... Phạm Thị Minh-Hưng GIÁNG SINH RỰC RỠ Đèn sao lộng lẫy - Tiếng chuông ngân Giáng Sinh rực rỡ khắp xa gần Ngân hà lấp lánh ngàn tinh tú Hân hoan trần thế đón Hồng Ân Đêm đông tuyết lạnh trời băng giá Chúa Hài Đồng giáng thế vì ta Hang Belem ngân vang tiếng hát Niềm vui chan chứa - Tình bao la... Muôn nẻo đường, ngời sáng đèn hoa Khắp chốn rộn ràng vang tiếng ca Bình an - Hạnh phúc tâm cầu nguyện Chúa ở trong ta - Chúa mọi nhà " Đêm Thánh Vô Cùng "... Nhạc vang xa Âm thanh dìu dặt khúc hoan ca Tình lặng lẽ bước sang trang mới, Dạt dào ấm áp kết ngàn hoa... Phạm Thị Minh-Hưng NOEL BUỒN Chẳng biết vì sao, lòng ta như chùng xuống Mặc Noel đã xúm xít lại gần Gần niềm vui mà ngót nghét phân vân Về những thứ chẳng bao giờ ta hiểu nổi… * Này nhé, sao lại có những người cô đơn thế Mong bạn đến chơi cho ấm những ngày dài Mong cả lời chí chóe đốt cháy những vì sao Còn nguội lạnh ấm ức trong con tim quạnh quẽ ! * Này nhé, sao lại có người vô tâm thế Hái hết sao cho tím tái bầu trời Gom mọi niềm vui về tít tắp mù khơi Mặc loang lổ chung quanh mình, những bàn tay chờ đợi ! * Này nhé, giữa đêm khuya, những mẹ già lòng rất vội Co ro ngồi góc phố kiếm cơm rơi Lòng mẹ vội, khách thập phương dẫu có bùi ngùi Cũng chỉ nhìn… rồi quay lưng, nẻo mỗi người còn bước ! * Này nhé, anh họa sĩ ngày xưa ngời ao ước Còn bàn tay để vẽ những cơn mơ Anh chết lặng sau tai nạn bất ngờ Lấy đi mất đôi tay ràn rụa khóc ! * Này nhé, còn biết bao mảnh đời ô trọc Đánh mất mình vào những thứ phù du Đêm lang thang, chân quờ quạng lời ru Từ xa lắm vọng về… chẳng còn nghe rõ nữa ! * Này nhé, những cánh chim từng một lần rời tổ Mãi hoài trông nơi lâu lắm đã ra đi Mãi dặn lòng, ngày mai chắc sẽ về Ngày mai, cả triệu ngày mai, và lần này cũng sẽ thế ! * Trời ngàn sao, chuông lung linh kinh kệ Gió đu đưa cho trầm cõi linh hồn Mong bàn tay xiết chặt bàn tay hơn Mà an ủi, trời Noel đang lạnh lắm. LAM TRẦN Chờ Xuân Trồng một cây nêu trước sân Cột con cá Chép, mấy vần câu thơ Chờ xuân xông đất, ta chờ Giật mình tỉnh giấc, qua giờ đón xuân * Chơi Xuân Xuân đến mang theo muôn sắc hoa Ngày xuân tiếng pháo vẳng đâu xa Cành mai xuân điểm cờ trong gió Bọn trẻ vui xuân quạnh quẽ nhà * Thôi thì Xuân về xuân đến thăm ta Vui xuân vài chén gọi là tâm giao Tuổi đời ngày một thêm cao Mặc cho trời định ta nào bận tâm. NGÀN PHƯƠNG Xuân nhớ quê nhà Trùng dương ngàn dặm ngát hương thơ Đất khách xuân sang - nỡ hững hờ Nụ bích đào hồng khoe sắc thắm Đóa Quỳnh mai trắng ủ duyên mơ Tha phương mỏi bước ngàn con phố Lữ thứ lang thang vạn bến bờ Bằng hữu quê nhà vương vấn mãi Nẻo tình chiếc bóng vẫn bơ vơ. NGÀN PHƯƠNG Bốn mùa Xuân đến mai vàng khoe sắc thắm Bướm vờn én liệng rộn sơn khê Hạ về sen nở hòa hương lúa Nắng ấm phượng cười tỏa nhạc quê Lấp lánh hồ Thu nghiêng dáng liễu Xạc xào lối nhỏ quanh bờ tre Đông tàn giá rét sương mờ phủ Dập tắt ý thơ lỗi hẹn thề. NGÀN PHƯƠNG THĂM NHÀ BẠN Thăm nhà bạn Nguyễn Văn Ân, con tướng Song Hào, tốt nghiệp trường Đại học Liên Xô về Theo đoàn khách viếng bạn thân Bèo mây hội tụ dự phần chung vui * Hôm nay được đến chơi nhà bạn Cổng vào vườn (tưởng) biệt thự ông hoàng Hoàng hoa nở rộ trên giàn Bâng khuâng tim tím nụ càng thắm xinh * Đường vào sân mấy hàng chiếu thủy Bông trắng xinh hương thoảng bay thơm Cách tường khóm trúc xanh xanh Lưa thưa vài bụi tre vàng vút cao * Chim chuyền cành trên vây sung chín Cá tung tăng uốn lượn vào rong Nước trong mấy lớp rêu phong Ánh dương rọi nắng vào hong gác đằng * Tình phụ tử đá chồng làm ảnh Nghĩa phu thê tạc bóng mặt hồ Cành “Si” rủ bức màn thô Khóm đề rải lá xuống hồ cuối thu * Tôi đang nhìn bức tranh non bộ Lòng bâng khuâng chẳng biết vì đâu ?! Kiếp tằm nương tựa lá dâu ! Chung vui quý khách bên lầu bạn thân. Trích trong tập thơ: Một bước tâm tình Hải Đăng - Trần Văn Hữu Bóng ai tha thướt bên thềm Lưng thon dáng liễu, tóc mềm bờ vai Bấy lâu cửa đóng then gài Buồng xuân nỡ để cho ai lạnh lùng Đàn ai phím lỏng tơ chùng Tim ai nhỏ giọt máu hồng vì ai Muốn cùng gắn bó một hai Trước sau tri kỷ còn ai chăng là Tình riêng, riêng những thiết tha Lòng riêng, riêng những xót xa bồi hồi Lần dò tìm lối sang chơi Hoa dường úa sắc, chim lơi giọng chào Ngỡ ngàng như thể chiêm bao Cuối tường một đóa anh đào đưa hương Lần theo lối nhỏ mù sương Thử xem cuối nẻo vô thường là đâu ? THANH PHONG NGƯỜI ẤY Mến tặng Nguyên (Đ.T.) Đã lâu không nhận được thư hồng Chắc là người ấy đang ruổi dong Em từ ngày tháng buồn nơi phố Anh vẫn bặt tin chốn ruộng đồng Ai về sông nước đầy tôm cá Bát ngát vườn xanh cây trái bông Mãi nhớ đường quê dừa rợp bóng Tình xa xưa ấy khắc ghi lòng. HOÀI LY QUÁN CHIỀU Tặng em Thanh Hằng Chiều giăng mây tím ngang trời Ngồi bên quán nhỏ nghe đời quạnh hiu Chờ nghe mưa nhỏ giọt đều Hàng cây xanh trĩu nặng nhiều nhớ thương Cà phê ta đắng quên đường Đá trong veo những giọt sương đong đầy Lên xe về giữa mưa mây Áo che sũng ướt như ngày với anh. HOÀI LY TÌM ĐÂU ?! Em vẫn nửa đời xa xứ ! Đâu hay dòng sông tật nguyền Vẫn đi tìm trong ký ức Thuở ấy trang đời trinh nguyên * Em đâu còn Em ! chiều lửa Hạ Chờ Mẹ qua ! gởi dáng Xuân Hồng Chỉ còn mắt lệ từng đêm đến Thùy Hương ơi ! Hỏi có còn không ? * Có còn không ? Dòng sông thuở ấy Vẫn cùng Em giăng mộng say đùa Ôm Trăng để hát tình trinh nữ Dòng sông ơi ! Ai đã Diễm xưa * Em vẫn nửa đời xa xứ Tìm nơi nao chốn đi về ?! Kìa tiếng kinh cầu bật khóc Trần gian chưa qua cơn mê. Saigon chiều mưa Thu HẢI ÂU ƯỚC NGUYỀN Xuân này Ta đã có nhau Muôn hoa khoe sắc tương cầu hạnh duyên Trăm năm lưu giữ ước nguyền Trang đời vẫn mãi trinh nguyên tuyệt vời Em ! Sắc Xuân cả một đời Anh ! Nguyện hết kiếp người yêu Em Thùy Hương ơi ! Nhớ lưu tên Rằng trăm năm nữa tình duyên vẫn đầy… HẢI ÂU ƯỚC GÌ Xưa kia còn Mẹ nhởn nhơ Từ ngày mất Mẹ bơ vơ u hoài Con nay sống cảnh lạc loài Sài Gòn náo nhiệt nhớ hoài quê hương Kỷ niệm đầm ấm vấn vương Mẹ cha, anh chị yêu thương ngút ngàn Ra đi rời bỏ xóm làng Nghe tin bão lũ vái van an lành Thân đơn sống giữa thị thành Tìm đâu điểm tựa dỗ dành tim đau Ước gì xoay cuộc bể dâu Để con còn Mẹ thì đâu bẽ bàng. VŨ THÙY HƯƠNG GỢN SÓNG Ơ kìa Anh ấy lạ chưa ? Ra về sao đứng dưới mưa làm gì ? Suy đi nghĩ lại thấy kỳ Bãi xe đông đảo chai lỳ hỏi tên Thế thôi rẽ lối hai bên Người đi mỗi ngả cho nên quên rồi Ngộ ghê ! Buột miệng than ôi Những lần sau đó không thôi hẹn hò Thơ ca đàm đạo dặn dò Tình đầu ý hợp tò mò tiến xa Giờ đây dẫu gặp phong ba Chúng mình muôn thuở mặn mà thiết tha. VŨ THÙY HƯƠNG XẾ CHIỀU Trăng sáng tỏa ánh lồng trong nước Ta, Nàng thề ước đã bao trăng Tình mặn nồng, hương ấm, gối chăn Sự nghiệp ta, ươm mầm, gây dựng Nỗi nhọc nhằn, bao nhiêu cơ cực Nuôi con khờ nhất mực, thành danh Đến ngày nay đôi mái đầu xanh Đã bạc trắng, tóc anh, tóc nàng Lời em, ta nghe vẫn dịu dàng Thương yêu, như ngày nàng mới gặp Bàn tay chai, hai đứa nắm chặt Xiết vai gầy, tình thật yêu thương Tim mặn nồng, hương lửa vấn vương Tỏa hơi ấm, tình thương xế chiều. THANH XUÂN PHỤ NỮ Phụ Nữ là hương là hoa Cái tâm Phụ Nữ, thiết tha mặn nồng Nữ trọn nghĩa với non sông Giang san có giặc, góp công diệt thù Nước bình yên, công phu tần tảo Dạy con hiền, con thảo, hiếu trung Nghĩa phu thê, trọn đạo thủy chung Với bè bạn bao dung hiền hòa Mông mênh trời đất bao la Ở nơi công sở, nữ là nghĩa nhân Việc lành bởi ở cái tâm Kết thành bè bạn, không phân sang hèn Mặc ai chê, mặc ai khen Tâm từ thiện, vun đắp nền công đức Đường nữ đi, gieo hạnh phúc Phụ nữ hiền hòa, mặc sức ấm no. THANH XUÂN MỪNG XUÂN Mãi mãi là xuân đẹp thắm tươi Đam mê thêm tiếng hát yêu đời Vui xuân không tuổi luôn đẹp mới Phúc lộc đầy dâng rộn tiếng cười. PHÙNG CHÍ TÂM MÙA XUÂN HẠNH PHÚC Còn xuân mưa vẫn bay Tình xuân yêu ngất ngây Mùa xuân má hây hây xuân nồng Hãy lắng nghe tình khúc vàng Vẫn đắm say tình lúa vàng Ánh trăng trong còn mơ màng Mùa xuân hạnh phúc Thanh xuân bên nàng Hãy lắng nghe tình lúa vàng Hát bên nhau tình dâng tràn Ái ân say còn mơ màng Mùa xuân hạnh phúc Bên nhau thiên đàng. Sài Gòn, 15/4/2009 PHÙNG CHÍ TÂM MƯA TRÊN BIỂN Từ đàng xa đám mây đen kịt Vùng bãi biển bầu trời đặc chịt Phật tử viếng Dinh Cô lễ Phật Bông hoa mâm quả trái đầy khít Chấp tay thỉnh nguyện cầu an lạc Nhìn biển mưa tầm tã tối mịt Con sóng lớn tràn vào bãi cát Tham quan cảnh vật về chiều mịt. QUANG BỈNH 2017 CHỢ TẾT Một vùng náo nhiệt ở nông thôn Kẻ bán người mua thật rộn nôn Vú Sữa Lò Rèn ghé cặp bến Cam Sành Chợ Lách qua bờ cồn Thanh Long Chợ Gạo được mùa vụ Tân Phước Khóm vàng xuất khẩu cần Thương lái giá hàng mua chọn lựa Miền quê rộn rã trống con Lân. QUANG BỈNH 2017 XUÂN MẬU TUẤT 2018 Xuân về hoa nở mọi nhà Giàu nghèo ta cũng nhà nhà đón xuân Xuân về tính chuyện trăm bề Mong ước con người thì nhiều lắm đa Mong con mong cháu khỏe ra Mong công việc của cháu con vững bền Thanh nhàn lại thích ngoạn du Thân nhân xa cách gửi thư vài lần Từ xa mà gặp được nhau Thật là quý hóa thân nhân nghĩa tình Dự tính với cháu cùng đi Du lịch Mỹ quốc thân nhân đón chờ. 9-12-2017 QUAN THÚY MAI MƠ XUÂN Xuân đã đến hay hồn xuân trở lại Em náo nức chờ đợi một ngày mai Mưa chiều nay xôn xao lòng ái ngại Xuân qua rồi tuổi hồng dại tìm đâu ? Gió hoàng hôn nhè nhẹ lướt qua mau Hôn nồng nàn lên vết đau trần thế Âu yếm nâng tâm hồn bao thế hệ Lòng rộn ràng choáng ngập dáng xuân về. THÙY QUÂN HƯƠNG MAI SÁNG THIÊN AN ĐAN VIỆN Đồi này thông Đồi kia thông Phía này thông Phía kia thông Tôi nghe thông kể chuyện lòng của tôi Những con dốc Đỏ như son Những con dốc Đẹp tuyệt vời Thả thân theo dốc tiếng cười bay bay Nhìn lên tường Mẹ giang tay Trong thánh giá Đá còn tươi Tôi thương vầng trán con người tôi xưa. THÙY QUÂN HƯƠNG MAI NÉT CHO… Cánh đồng thì có dòng sông Mặt trời thì có Phương Đông để vàng Làng cho tôi vóc tình làng Cây đa bến nước cũ càng để yêu Thời gian cho sớm cho chiều Nhận bao nhiêu thắm bấy nhiêu nét người Đời cho giọt lệ tiếng cười Tôi cầm sang trả nghĩa người trần gian. Bs. DoanLinh CÁM ƠN NGƯỜI NGHỆ SỸ Trời đã phú cho anh Nhiều khả năng tiềm ẩn Chỉ cần có cơ hội Là bộc lộ ra thôi * Mỗi một đoạn thơ Một đợt sóng cảm xúc Mỗi một bài thơ Một cung bậc nồng nàn * Những con sóng yêu thương Mang nội tâm sâu đậm Gợi mở rồi suy ngẫm Lắng đọng vào bên trong * Sự sâu lắng thâm trầm Một trái tim rực lửa Gì quý hơn thành quả Do tự tay vun trồng * Mến yêu người nghệ sỹ Đã góp nhặt cho đời Xin nói lời cảm tạ Gìn giữ lấy chất người. LÊ MINH CHỬ CÁI GÌ KHÔNG ĐÚNG SẼ KHÔNG TỒN TẠI Có những thành tựu ngày hôm qua Lại trở thành vật cản của ngày hôm nay Để không ngừng phát triển và tồn tại Thì tất phải đổi thay * Đổi thay là đòi hỏi của cuộc sống Bởi cuộc sống bản chất là vận động Ai lường trước được một điều Có một ngày gió sẽ đổi chiều * Thời gian qua đi trong niềm mong ước Nhưng vẫn đầy thấp thỏm lo âu Có những thảm họa đã được báo trước Chúng lớn dần theo nhịp bước của thời gian * Dòng thời gian vô thủy vô chung Được mất, phúc họa vốn vẫn đồng hành Nếu cái cũ không đổ vỡ Thì cái mới tất khó có thể hình thành * Hôm qua phải, hôm nay trái Khiến ta mất niềm tin vào quá khứ Và do dự hy vọng ở tương lai Vì tương lai không phải bao giờ cũng tốt * Đời người như ảo ảnh, phù du Như ngọn đèn trước gió Đến rồi đi, có rồi không Sống và chết như là giấc mộng * Xác trần trôi nổi giữa cuộc vô thường Không có chân lý đúng cho mọi bối cảnh và mọi thời đại
Lịch sử đã chứng minh Cái gì không đúng tất sẽ không tồn tại. LÊ MINH CHỬ MỪNG XUÂN MẬU TUẤT Mậu Tuất giao thừa tiếng pháo xuân Ngàn hoa rộ nở - đẹp muôn phần Đệ huynh hội ngộ, nhiều người mến Bằng hữu tao phùng, lắm bạn thân Kết nghĩa năm châu, tìm kiến thức Giao lưu bốn bể, kiếm tài nhân Việt Nam tổ quốc, lừng trang sử Hồng Lạc hùng cường - cải cách tân… PHƯỚC HẢI THUYỀN TRÊN PHỐ Như con thuyền bồng bềnh trên sóng Lướt trôi đi giữa phố hoa đèn Tựa lưng êm đong đưa như cánh võng Thuyền tròng trành lúc chạm vào em Con đường quen bỗng thành phố lạ Lạc lối rồi ta lạc vào nhau Giữa lòng đêm Sàigòn đẹp quá Thuyền vẫn lướt trôi chẳng thấy bến bờ đâu. LÊ NGUYÊN 2004 BÀI HÁT CŨ LỜI THƠ MỚI Em đến thăm anh một chiều mưa Bài hát cũ thành lời thơ mới Cơn mưa đầu mùa cho anh bối rối Im lặng nhìn nhau như gặp trong mơ * Mưa rơi mưa rơi thấm trong lòng đất Thành mạch nguồn nuôi những dòng sông Những ngày có nhau không bao giờ mất Như phù sa bồi đắp đến vô cùng ! LÊ NGUYÊN 1994
ĐÓN XUÂN Tết đến bông hoa nở rộn phường Mừng xuân vui vẻ khắp quê hương Chim xanh ríu rít trên cành lá Bá tánh hân hoan mọi nẻo đường Đất nước hòa bình yên trăm cõi Non sông an lạc đẹp mười phương Đầu năm Ngũ Phúc Lâm Môn hội Chúc Tết người đời vạn mến thương. Thanh Châu VUI TẾT Đầu năm bạn hữu được tương phùng Tay bắt mặt mừng hỏi kiết hung Trước rượu tâm tình ba bốn chén Sau trà bác ái một hai chung Lời hay đạo đức truyền nhau hiểu Ý đẹp văn chương luận cách dùng Năm mới vui vầy tri kỷ hội Mừng nhau hạnh phúc suốt niên cung. Thanh Châu Thức giấc nửa đêm Tháng 12 Ngày thì ngắn Đêm thì dài Thức giấc nửa đêm Sau một giấc mơ màng Gió mùa đông se se lạnh Nghiêng người Ôm chiếc gối lẻ loi bên cạnh Lạnh... Lạnh... Giấc ngủ đã trôi tuột Nằm im lìm lắng nghe Tiếng thạch sùng chặc lưỡi Tiếng đồng hồ treo tường Ríu rít một nhịp đều đều Một... Một... Đêm... Đêm dài Chờ... Chờ Một tiếng gà gáy... ò...ó...o... Một tiếng quạ kêu... quạ... quạ... Rộn ràng vui Chào đón bình minh. HUỲNH THIÊN KIM BỘI CHƯA GIÀ Dầm mưa giãi nắng cứu thân già Xuân đến tám lăm tuổi mở ra Giàu có trên non bao kẻ mến Nghèo hèn giữa chợ lắm người tà Sống vui sống khỏe vì gia quyến Vẫn thích vẫn yêu cuộc thảo hòa Gắng gượng giao lưu cùng bạn hữu Thi quân khuyến khích đẩy tăng đà. LANG NGUYÊN NGÀY XUÂN NHỚ BẠN Nỗi ái niềm ân một túi đầy Tình xuân ai đến với lòng đây Vẻ hoa khoe sắc đầu non bắc Khiến bướm say tình mé biển tây Chén rượu câu thơ ngâm lại thấm Vầng trăng ngọn gió tủi rồi khuây Tất riêng đã nặng tình tri ngộ Còn dệt chi thêm vớ vẩn này. LANG NGUYÊN ĐẾM GIỌT CÔ ĐƠN “Tay anh, em hãy tựa đầu Cho anh nghe nặng trái sầu rụng rơi” Huy Cận (1919-2005) Tôi không có đến một người bạn gái Đành âm thầm đêm đếm giọt cô đơn ! Tôi đủ sức làm bờ vai vững chãi Cho một ai đã mệt mỏi buông đờn. * Tôi đặt lại cây đờn vào tay ai tê dại Để cất lên thêm tiếng bổng tiếng trầm Bờ vai tôi đợi mái đầu êm ái Tâm hồn tôi rộng mở đón tri âm ! VŨ ĐÌNH HUY Tìm Theo ánh ngày tìm em Mà em đâu, chẳng thấy? Sắc thu vàng run rẩy Lặn dần vào bóng đêm... VŨ ĐÌNH HUY Hoa phong lan Ban mai. Chùm lan trắng Nhẹ rung bên góc tường Hút khí trời, hút nắng Dìu dịu tỏa làn hương... VŨ ĐÌNH HUY HÀ NỘI VÀO XUÂN Xuân về náo nức say trời đất Sắc đào dâng nụ hé môi tươi Người vui về chợ đơm hương tết Phường phố cổ xưa thêu dáng đời * Rộn rã nói cười xuân đằm thắm Giao thừa hoa pháo tắm trong mơ Bài ca ai hát thân thuơng quá Lan sóng dặt dìu buông ý thơ * Hà Nội - Tràng An ngày xa vãng Tiếng chuông lay sóng Phủ Tây Hồ Đài Nghiên - Tháp Bút như đang vẽ Tấp nập đông vui năm Cửa Ô… VŨ MÃO
HANOI IN SPRINGTIME Spring has come back, people and things everywhere turned bustling and drunk
The peach-tree offered its smile - like budding buds People happily came back from the market overflowed with Tết’s perfume
Ancient wards and streets wove the silhouette of life. * Ringing laughters and talks in an engaging springtime On the New Year’s Eve, flowers and fireworks seemed like bathing in a dream
Who sang a so affectionate and lovely song Spreading a now largo now presto music filled with poetical inspiration
* Hà Nội - Tràng An in days past The bell sounds shook the Phủ Tây Hồ’s waves The Đền Nghiên (Ink-slab estrade) - Tháp Bút (Pen Tower) seemed like they were paintings
People were so crowded, bustling and happy at all the five Cửa Ô (City Gate)…
VŨ MÃO - Translated by VŨ ANH TUẤN TỶ PHÚ VÀ HỌC VẤN KIM VŨ Theo một nghiên cứu do Đại học Duke công bố, đa số các tỷ phú đều tốt nghiệp đại học, khác hẳn với Bill Gates và Mark Zuckerberg. Nghiên cứu cho thấy tầm quan trọng của học vấn và năng lực nhận thức để đạt một vị thế trong thành phần tinh hoa của thế giới. Khoảng 1/3 tỷ phú xuất thân từ một trường đại học uy tín, đa số thuộc lĩnh vực khoa học, công nghệ và toán học. Những đại học xuất thân của nhiều tỷ phú Dưới đây là 10 trường đại học đã đào tạo nhiều tỷ phú hơn cả và những nhân vật có thu nhập rất cao: Đại học Harvard, Đại học Pennsylvania, Đại học Stanford, Đại học New York, Đại học Columbia, Viện Công nghệ Massachusetts, Đại học Cornell, Đại học Nam California, Đại học Yale, Cambridge. Hầu hết là các trường đại học ở Mỹ. Những tỷ phú chưa tốt nghiệp đại học Tài khoản ngân hàng của họ lên đến vài chục tỷ USD, nhưng 15 người giàu nhất thế giới không có bằng đại học. Bí quyết thành công của những tỷ phú này là sức sáng tạo vô hạn, lòng kiên nhẫn và đôi khi cả may mắn. Bill Gates, Microsoft, tài sản ước lượng 76 tỷ USD William “Bill” Henry Gates III (sinh ngày 28.10.1955) là con của một luật sư và một giáo viên. Ông bỏ dở việc học ở Đại học Harvard, cùng với người bạn Paul Allen soạn một chương trình cho Altair 8800, tạo ra những bước khởi đầu của một công ty rất phát đạt là Microsoft. Amancio Otega, Zara/Inditex, 64 tỷ USD Nhà thiết kế - doanh nhân Tây Ban Nha sinh ngày 28.3.1936 này theo cha đi khắp nước khi vào đời làm công nhân đường sắt, sau đó trở thành nhân viên chạy hàng cho các cửa hiệu trang phục. Năm 1953, ông lập hiệu may và tự bán y phục của cửa hiệu mình. Ông mở cửa hiệu đầu tiên năm 1975 và phát triển dưới cái tên Zara. Otega sở hữu 59,29% cổ phần của tập đoàn Inditex gồm Massimo Dutti và Bershka, sử dụng 14.000 nhân viên khắp thế giới. Larry Ellison, Oracle, 48 tỷ USD Lawrence Joseph Ellison (sinh ngày 17.8.1974) không còn trẻ khi bắt đầu làm việc cho công ty Ampex. Tại đây, ông đã lập một cơ sở dữ liệu cho một khách hàng rất đặc biệt là CIA. Cơ sở dữ liệu ấy được đặt tên Oracle. Năm 1977, ông lập công ty riêng mang cùng tên. Christy Walton, Wal Mart, 36,7 tỷ USD Christy Walton Ruth (sinh năm 1955) là vợ góa và người thừa kế của John T. Walton, con trai của Sam Walton, người sáng lập Wal Mart. Christy dành một phần lớn tài sản cho việc từ thiện nên được tôn vinh là người phụ nữ hào hiệp nhất thế giới. Liliane Bettencourt, L’Oréal, 34,5 tỷ USD Bà sinh ngày 21.10.1972, là người phụ nữ giàu nhất châu Âu. Năm 1957, bà thừa kế tài sản từ cha, ông Eugene Schuelleer, nhà sáng lập công ty mỹ phẩm L’Oréal. Năm 2010, bà bị con gái kiện ra tòa vì bị cho là chịu tác động xấu từ nhiếp ảnh gia François Marie Banier. Ông này được bà hào phóng tặng 1 tỷ euro. Chính phủ Pháp đã mất một mạnh thường quân khi việc tai tiếng này lan rộng. Lý Gia Thành, kinh doanh bất động sản, 31 tỷ USD Lý Gia Thành sinh năm 1928, mang 2 quốc tịch Hồng Kông và Canada, là nhà đầu tư có tầm ảnh hưởng lớn ở châu Á. Khi cha qua đời, ông bỏ học, làm việc trong một xưởng nhựa. Năm 1950, ông lập xí nghiệp riêng Cheung Long Industries. Sau này, ông chuyên đầu tư trong ngành bất động sản. Mark Zuckerberg, Facebook, 30 tỷ USD Mark Elliot Zuckerberg sinh ngày 14.5.1984, là một nhà lập trình tài năng, người sáng lập mạng xã hội Facebook. Xem ra doanh nhân thành đạt trẻ tuổi này không hối tiếc đã bỏ học ở Đại học Harvard. Ingvar Kamprad, Ikea, 23 tỷ USD Doanh nhân Thụy Điển này sinh ngày 30.3.1926, là người có năng khiếu kinh doanh: khi ở tuổi niên thiếu, cậu bán diêm cho hàng xóm, nhận trang trí cây thông Giáng sinh, bán bút, hạt giống, kiếm lời bằng cách mua hàng sỉ với giá thấp rồi bán lại với giá cao hơn. Chỉ sau 1 năm, cậu đã mua được chiếc xe đạp đầu tiên. Khi 17 tuổi, Kamprad rời trường và lập xí nghiệp Ikea chuyên về đồ gỗ nội thất. Ông cũng là người tằn tiện, chỉ mua vé máy bay hạng rẻ tiền và dùng bữa tại các hiệu ăn bình dân. Lý Triệu Cơ, bất động sản, 21,4 tỷ USD Doanh nhân quốc tịch Hồng Kông này sinh ngày 29.1.1928, được mệnh danh “Vua chứng khoán châu Á”, giàu lên nhờ những hoạt động thương mại trong lĩnh vực bất động sản, khách sạn gaz và Internet . Karl Albrecht, Aldi, 21 tỷ USD Ông sinh ngày 20.2.1928, vừa qua đời vào tháng 7.2014, thọ 94 tuổi. Cha là thợ mỏ, sau đó là công nhân một lò bánh mì, mẹ mở một cửa hiệu trong khu phố bình dân ở Essen. Chuỗi siêu thị Aldi ra đời năm 1961. Ông tổ chức việc phân phối rất hiệu quả, ngang tầm với gã khổng lồ Wal Mart. Michele Ferrero, Chocolats Ferrero, 18 tỷ USD Doanh nhân người Ý này sinh ngày 16.4.1925, kế nghiệp cha điều hành xí nghiệp bánh kẹo Ferrero khi ông này qua đời năn 1949 do một cơn đau tim. Ông được xem là người giàu nhất nước Ý, về hưu năm 1997, giao quyền quản lý xí nghiệp cho hai con là Pietro và Giovanni. Hai người này tỏ ra có năng khiếu kinh doanh, mở rộng xí nghiệp với 2 công ty Ferrero Rocherts và Kinder Surprise. Pietro qua đời năm 2011 vì tại nạn ở Nam Phi. Paul Allen, Microsoft, 18 tỷ USD Paul Gardner Allen sinh ngày 21.1.1953, ngưng học chỉ sau 2 năm theo học tại Đại học Washington để phát triển những phần mềm dành cho máy tính. Ông cùng người bạn thời thơ ấu Bill Gates thành lập Microsoft vào năm 1975. Roman Abramovich, công nghệ thép và dầu, 17,1 tỷ USD Tỷ phú người Nga này sinh ngày 24.10.1966, được chú nhận nuôi lúc 4 tuổi. Giữa thập niên 1970, ông phất lên nhờ sự tư hữu hóa những xí nghiệp nhà nước của Nga. Ông sở hữu câu lạc bộ bóng đá Anh Chelsea. Michael Dell, Dell Computer, 15,8 tỷ USD Ông sinh ngày 23.5.1965, học y khoa tại Đại học Texas, đồng thời sở hữu một công ty tin học nhỏ. Dell bỏ học năm 19 tuổi và lập Dell Computer Corporation, trở thành một trong những nhà chế tạo máy tính hàng đầu thế giới. ĐỖ THIÊN THƯ st. (Theo L’Express)
Phụ Bản III Một tối cuối năm Trời dù có lành lạnh vì năm đã dần tàn, thì ông cũng chìm vào giấc ngủ rất sâu. Chính tiếng gió rì rào qua tàng lá, trộn với thứ thanh âm của bánh xe xiết trên mặt đường đêm, mà cũng chính lời bài hát cô quạnh, gác lạnh về khuya cơn gió lùa, trăng gầy nghiêng bóng cài song thưa… đã ru người đàn ông đạp xích lô này vào giấc mộng! Thời buổi này, chẳng mấy ai đạp xích lô nữa, vì người ta thích đi xe ôm hơn. Nhưng những kẻ lặn lội đêm khuya lại ưa đi xích lô, vì đêm khuya chẳng cảnh sát nào cấm cái thứ xe ọc ạch này ra phố thị vốn ngày càng bóng lộn. Những bà đi chợ đêm có thể ngủ thả giàn, vì ít ra, xích lô còn có chỗ để tựa lưng, còn có cái mái dù bần hàn để che bớt sương đêm cho những người cơ cực. Vì thế, ông vẫn bám vào mấy cái gốc cây để ngả lưng mỗi đêm đợi mối. Một chiếc võng cột giữa 2 thân cây, là nơi ông thả hồn khi trời đã về khuya, để khi cơn mộng vừa lên đến đỉnh điểm, là ông bật dậy chở cho những mối hàng quen biết. Hôm nay cũng thế, khi chiếc điện thoại báo thức, là ông đã bật dậy, cho dù mối hàng bị ốm và đã báo cho ông… Ông thấy cồm cộm sau gáy. Thì ra, đó là một xấp tiền cùng một tờ giấy “kính biếu”. Ông dụi mắt để chắc chắn mình không hề nằm mơ. Ông tỉnh táo đến nỗi thấy mình không có lý do gì đặc biệt để ai đó có thể tặng quà cho riêng ông như vậy. Nhìn sang gốc cây khác, nơi chú vá xe đang cuộn mền ngủ ngồi trên ghế ngả. Ông bước đến, lay lay: - Này, này… Chú ú ớ: - Gì vậy bác Thông? - Có gì lạ không? - Lạ… là sao? - Ngồi dậy đi! Có thấy tiền không? - Tiền nào…? À, rõ ràng là chú không có khoản tặng bất ngờ này rồi. Vậy thì: - Nè, mới trúng mánh! Cầm chút ăn sáng, uống cà phê! - Má ơi! Sao bữa nay bác lạ quá vậy? - Cứ cầm đi, đừng hỏi nữa… Rồi ông qua bên kia đường, nơi tay xe ôm cũng đang ngây ngất trên yên xe với nụ cười ruồi. Nắp túi của hắn kín mít như thế kia, thì ai có thể đút tiền vào được chứ? Hai cánh tay khoanh lại cũng là dấu chứng cho thấy không thể luồn tiền vào ve áo được, cho dù cái cúc áo trên cùng có phanh ra, để lộ một phần bộ xương cách trí… Ông thất vọng vì biết rõ ai đó chỉ… lợi dụng ông đang khi say giấc điệp mà cho ông khoản tiền bằng cả tuần gò lưng của mình. Nhưng cũng chính vì vậy, mà từ hôm ấy, ông chẳng tài nào ngủ say được nữa, cho dù ông có đổi đủ mọi loại nhạc, cho dù tiếng lá có thôi xào xạc, cho dù tiếng bánh xe bớt miết xuống lòng đường khi trời đã rất khuya… Sự nửa mê nửa tỉnh của ông, một đêm, cũng làm ông bật dậy, chưa kịp ú ớ thì chiếc xe máy đã vọt mất, để lại mấy con số ang áng của bảng số xe dưới ánh đèn đường bị tàn cây che khuất. Rõ ràng, ai đó đã cố tình chỉ cho riêng ông tiền, vì đêm nay, dù ông đã đổi chỗ ngủ, thì món quà vẫn đến với ông đầy câu hỏi… Ông chỉ chắc một điều là, kẻ ấy phải là một cô gái với cái bảng số xe chỉ đọc được một nửa. Có thêm tiền, nhưng sự khúc mắc cũng vì thế mà tăng lên, sự chú mục cũng vì lý do này mà càng căng thẳng. Không chiếc xe máy nào do một cô gái gầy gầy đi qua trước mặt mà ông không căng mắt ra nhìn. Dĩ nhiên, bảng số xe mơ hồ cũng là thứ quan trọng bậc nhất! Nhưng tất cả đều như gió mùa thu thoảng qua rồi im bặt, cho dù thỉnh thoảng cũng có người ngoái lại nhìn ông với ánh mắt đầy nghi hoặc… Sự “rình rập” của ông cũng có ngày được đền đáp. Một đêm, khi vừa bắt đầu ngả lưng trên võng, ông thấy một chiếc xe dáo dác chỗ ông nằm hôm trước. Kẻ ngồi trên xe đích thị là đang tìm ông, vì ông là nhân vật xích lô duy nhất chỗ vòng xoay này, mà cô vừa chợt nhìn thấy chiếc võng chắn ngoài chiếc xích lô, là vội vã quay ngoắt đi mất. Và với tầm xa như vậy, những con số bé xíu xem ra thật là vô nghĩa… Đêm ấy, ông… rình! Vì ông tin chắc kẻ ấy sẽ lại đến tìm ông, lại dúi cho ông số tiền đầy bí ẩn. Nhưng… đến bực cả mình, vì suốt đêm, ông đã chẳng dám ngủ một tí nào. Hết nằm ngọ nguậy xoay người cho đỡ mỏi, lại ngồi bật dậy để đỡ ê lưng trong cái đêm dài, rồi lại cố ngáp thật dài, vừa tiếc giấc ngủ, vừa mong hai con mắt luôn ráo hoảnh sẽ bắt quả tang kẻ đã 2 lần cho mình tiền. Nhưng đêm ấy, cứ như bị động rừng, con mồi trốn biệt! Đêm sau, ông mê man ngủ, vì tuy già, ông cũng cần những giấc mơ dịu ngọt, bù cho tháng ngày cứ biền biệt trôi đi với mồ hôi và giá lạnh. Trời còn lù mù, chú vá xe gọi ông: - Bác Thông, có nhỏ nào vừa tới, cứ lúi húi gì đó, rồi chạy mất… Ông tỉnh như sáo, biết rằng món quà lại đến với mình giữa cơn mê ngủ: - Sao không gọi bác! - Có mà kịp! Vì chưa chi cổ đã chạy mất! - Cổ đi xe gì? - Hình như cái cánh én thì phải! Trong ông có cái gì sáng ra, tuy rất mơ hồ: - Có thấy số xe không? Lần này thì ông bắt được vàng: - Số gì như 643… - Ba… bảy? - Sao bác biết? - Vì hôm trước, tao nhớ có 2 số cuối ấy thôi. Còn bữa nay… Ô! Số bù! Số bù mày ơi! Ông giật thót người, chẳng phải là số xe này từng là của ông sao ! Phải rồi! Ông nhớ ra chiếc xe cũ ấy rồi! Nó là chiếc xe Honda cánh én mà ông từng mua thiếu của người ta, cho đến ngày, ông… cho người khác, một chị ve chai tội nghiệp! Phải rồi… Mọi sự cứ như đến lúc thì phải như vậy mà không cách gì khác đi được. Một buổi chiều tà, khi lang thang trên đường, ông hãi kinh khi nhìn thấy bảng số xe ấy, trước căn nhà lầu cao nghệu. Ông thấy mình thật kỳ cục khi cứ nhìn mãi chiếc xe nay đã có màu sơn khác, có lẽ đã được sơn sửa lại sau cả đến 20 năm không ít! Ông đi qua đi lại, chờ chủ nhân của nó xuất hiện. Khi thấy mình có vẻ điên điên, ông lại bước sang bên kia đường, rồi lại bước tới bước lui, để vừa khi quay lại, hướng mắt nhìn về chiếc xe, thì nó đang nổ máy, rồi mất biệt ở góc đường, mặc cho ông vừa băng qua đường đầy xe cộ, vừa gào: - Cô ơi, cô ơi! Kịp khi ông vừa nhào lên lề đường, thì ông chủ nhà nọ quay ra: - Ông gọi ai vậy? - Tôi gọi cô gái đi xe cánh én vừa ở đây ra… - A, cô Thu hả? Ông nhận bừa: - Đúng, đúng rồi, cô Thu… - Có gì không ông...? - Tôi… tôi lượm được tiền cổ đánh rơi, nên trả lại cho cổ… mà! - À! Nếu vậy, ông ghé… nhé! Vì đây là chỉ là nơi cô Thu đến dạy kèm cho cháu gái tôi thôi! Ông Thông nín thở, ghi nhớ từng lời với ông là hết sức ngọt ngào này. Và, không để mất chút thời gian quý báu nào, ông vừa đi vừa chạy mà quên rằng, đáng lẽ ông nên gọi xe ôm thì hơn! Đó là một căn nhà trong tuốt một ngõ cùng. Dĩ nhiên, nó chẳng có cổng như những căn nhà đơn sơ gần đó. Vết bánh xe còn rất mới trên lối đi còn đọng nước mưa hồi chiều. Thứ ánh sáng sẩm tối cũng đủ làm ông sớm nhận ra chiếc xe lạ mà quen đang dựng trước cửa, với vòng xích luồn qua bánh sau. Một con mèo vụt bỏ chạy khỏi bệ cửa sổ. Có giọng con gái êm êm: - Gì đó miu miu… Ông khẽ gõ cửa, những tiếng gõ vừa hồi hộp vừa e dè… - Ai đấy ạ? - Tôi…tôi đây… Cô gái bước ra. Chỉ hơi nhíu mày một chút, cô la lên: - Ông… Thông? - Sao cô biết tên tôi? - Tại…tại… Ông như bừng tỉnh: - À! Tại… cái tai tôi chứ gì? - Dạ…dạ… - Tôi ngồi được chứ? - Dạ, mời ông ngồi. Con xin lỗi vì đã để ông đứng nãy giờ… - Sao lại xưng con với người lạ như tôi vậy nhỉ… - Dạ, với con, và cả với mẹ con nữa, ông không hề là người lạ đâu ông à! Cô ngước nhìn bàn thờ còn rất mới, vì mẹ cô chỉ mới qua đời được mấy tháng… Thật ra, ông đã ngờ ngợ về chuyện này rồi. Cho đến khi ông thấy tấm di ảnh của kẻ đã khuất thì dù thời gian có làm thay đổi, ánh mắt của chị ấy vẫn không khác gì với ký ức năm xưa đang sống lại trong ông… Lúc ấy, ông có quán cà phê nhỏ. Bán buôn chẳng là bao, nhưng cũng đủ cho cái đời cô độc của mình. Rồi ông thấy chị, à… chị Thu, đi qua, đẩy con bé trên chiếc xe ve chai mộc mạc. Con bé thấy ông, tự nhiên thốt lên: - Ông! Rồi cười như nắc nẻ! Mẹ nó cũng nhe răng, nhún vai: - Bác có ve chai gì bán không? - Ơ… ơ…có! Vào đây! Ông chỉ mấy cái thùng giấy đựng chai nhựa trong góc, những chai nước ngọt khách đã uống hết. - Bao nhiêu vậy bác… - Bao nhiêu cũng được mà! Con nhóc tì tự nhiên bám đùi ông, liên tục: - Ông, ông… Xem ra, ông không nên bán cho mẹ con nhà cô ấy nữa mới phải: - Ừ! Mà cứ lấy luôn đi, khỏi tiền bạc gì hết… Dường như trong ông như thoải mái hẳn, khi khỏi phải ngã giá nọ kia như mọi lần với những bà ve chai mồm mép khác. - Thì bác lấy bao nhiêu, cháu sẽ trả mà! - Này, có lấy không thì bảo… Ông trợn mắt lên mà lòng thì chùng xuống: - Từ mai, cứ đến mà lấy nhé! - Sao bác kỳ vậy? - Thì bác bán cho khách đã có lời rồi! San sẻ cho nhau mới vui chứ! Chị ta mỉm cười, rồi thấy lòng ấm áp khi ông điểm điểm ngón tay trên trán con bé: - Với lại, tại con nhóc này này, cứ “ông, ông” hoài à! Giờ đến phiên Thu, vì chẳng là Thu thì có gì phải kể: - Hồi đó, con còn bé xíu. Nhưng con vẫn nhớ ông với cái tai… Mà sao ông bị vậy? - Ừ! Ông đi trận! Rồi trái lựu đạn nổ! Đồng đội của ông đã thay ông mà chết banh xác, trừ ra một miểng lựu đạn xé gần hết một bên tai ông, con à… - Dạ! Ngày nào mẹ con cũng chở con đi mua ve chai! Chỉ có mỗi mình ông thôi, là cho chứ không bán! Có bữa, ông còn cho con chiếc xe đạp con nít mà ông nói là xin của ai đó để cho con! Ông còn cho chiếc xe cánh én này, khi biết ba con đi làm mà không có xe! Rồi, một ngày mẹ con con đi qua thì nhà ông đã cháy rụi từ hồi nào, mà cũng chẳng thấy ông ở đó nữa... - Ừ! Sau đó, thì ông bán luôn cái nền vô phúc ấy! Chứ làm gì có tiền mà dựng lại! Rồi cứ vậy đi ở thuê… Còn mẹ con sao lại… chết? Thu thở dài: - Đầu tiên là bà ngoại con qua đời. Rồi tới ba con… Cũng chỉ vì lao lực quá mà ra, ông ạ! Mẹ con buồn quá, mới bán nhà của bà ngoại đi, rồi về đây ở mấy năm nay… - Con mất nhiều người thân quá… - Mẹ con không muốn con mãi là con của một bà ve chai, nên quyết chí bỏ nghề ông ạ! Mà con có bao giờ dám khinh thường cái nghề đã không những nuôi nấng con nên người, lại còn trông nom cho bà ngoại mắc bệnh nan y… Ông ngước nhìn tấm di ảnh, vẻ mặt của cô ấy dù mang đầy âu lo, nhưng miệng luôn muốn nở nụ cười. - Mẹ con cứ nhắc hoài tới ông, rồi ân hận vì chưa có dịp gặp lại ông, ông à! Con vào đại học được 2 năm thì mẹ cũng bệnh lên bệnh xuống, chỉ vì thời trẻ đã quá lam lũ. Con nghe mẹ nói, chỉ vì nghèo mà họ hàng chẳng ai thèm dòm ngó, chỉ vì nghèo mà chị con cũng chết khi còn bé tẹo! Thu nuốt nước bọt. Giọng cô vẫn đều đều nhưng đầy tiếng thổn thức: - Mẹ mua nhà này, bỏ ngân hàng phần còn lại để mẹ con được no cơm ấm áo. Mà mẹ cứ ân hận rằng, giá mà biết ông ở đâu, thế nào mẹ cũng đến thăm… - Con đi dạy kèm à? - Vâng, con vừa kèm trẻ tại tư gia, vừa cố học cho xong năm cuối… - Có đủ sống không? - Dư chút chút ông à… - Sao dư được? - Thì có mỗi một mình, mà có tiền lãi ngân hàng nè, lại dạy kèm lai rai, nên cũng có dư… - Dư mà ốm nhách vậy. Thôi, ông trả lại tiền đây, chứ ông đâu có thiếu thốn gì? - Ông già rồi, đạp xích lô khổ lắm! Hay… ông về ở với con! - Trời! Bộ điên hả? Ông cũng có nhà dù phải thuê! Và ông còn đạp xe được thì đâu có lo! Với lại, ông đâu có nhậu nhẹt, la cà gì mà tốn kém… Mà sao con biết chỗ ông? - Con không hiểu sao, mà sau khi chết, mấy lần còn nằm mơ thấy mẹ nói mẹ thấy ông hay đậu xe ở vòng xoay đó đó, nên con mới đi kiếm… - Sao lại kiếm ra? - Thì con cứ coi ai có… - A! Coi ai có cái tai cụt chứ gì? - Với lại, còn mấy ai đạp xích lô đâu, nên kiếm ông dễ ẹc! Ông Thông thấy phân vân vô cùng: - Hay con cầm lại tiền đi, rồi ông phụ thêm chút đỉnh mà đổi cái xe khác đi! Xe cũ xì à! - Với con, chiếc xe này là đẹp nhất ông ơi! - Đi xe xấu, con trai đâu thèm ngó “mày” ơi! - Nè! Con có bồ rồi ông nhé… Mà ông cho con biết chỗ ở đi, thỉnh thoảng hai đứa con lại thăm ông nhé! - Thôi! - Ông không chỉ, thì thế nào mẹ con cũng chỉ cho con ông à… 01.12.2017 LAM TRẦN
CHUYỆN BÚT DANH CỦA CÁC NHÀ VĂN, NHÀ THƠ VIỆT NAM THẠCH BA XUYÊN Bút danh là tên gọi của người cầm bút. Hiểu rộng hơn, đó là tên chữ do các nhà văn, nhà thơ ký sau khi hoàn thành tác phẩm của mình. Tác phẩm gắn liền với tác giả nên nhiều khi bạn đọc chỉ quan tâm đến bút danh, xem tác phẩm đó của bút danh nào chứ ít khi quan tâm đến tên thật của người ấy. Xung quanh chuyện bút danh cũng có khá nhiều điều thú vị, xin được tổng hợp để giới thiệu cùng bạn đọc gần xa. 1. Dựa theo tên gốc để đặt bút danh Nhà thơ Nguyễn Bính tên thật là Nguyễn Trọng Bính. Như vậy, Nguyễn Bính đã bỏ chữ lót của mình để làm bút danh. Cách đặt này khá phổ biến như nhà thơ Xuân Diệu tên thật là Ngô Xuân Diệu (bỏ họ), tương tự nhà thơ Huy Cận tên thật là Cù Huy Cận… Tuy vậy, trong cách này cũng có trường hợp khá hay như bút danh của nhà thơ Hồ Dzếnh. Đây là do cách phát âm vì nhà thơ là người Quảng Đông, Trung Quốc, tên thật là Hà Triệu Anh, tiếng Quảng Đông đọc Hà Triệu Anh là Hồ Síu Dính bỏ chữ đệm, còn Hồ Dính đọc trại ra thành Hồ Dzếnh… 2. Lấy quê huơng làm bút danh Nhà thơ Tản Đà tên thật là Nguyễn Khắc Hiếu, sinh năm 1889 tại tỉnh Sơn Tây, lấy tên ngọn núi, con sông quê hương để đặt: núi Tản Viên - sông Đà. Còn nhà thơ Đông Hồ, tên thật Lâm Tấn Phát, thì dựa vào các thắng cảnh hà Tiên (quê hương ông) để đặt bút danh; trong Hà Tiên thập cảnh thì Đông Hồ là cảnh đẹp thứ bảy. Đông Hồ ấn nguyệt (từ chợ Hà Tiên nhìn ra biển): Mười cảnh Hà Tiên rất hữu tình/ Non non nước nước gẫm thêm xinh/ Đông Hồ - Lộc Trĩ luôn dòng chảy… Nhà thơ của Bài ca chim Chơrao Thu Bồn thì lấy tên con sông ở Quảng Nam quê hương mình để đặt bút danh. Nhà thơ kiêm soạn giả sân khấu vừa quá cố Kiên Giang - Hà Huy Hà nổi tiếng với bài thơ Hoa trắng thôi cài lên áo tím từ năm 1958 cũng lấy nơi sinh của mình để đặt bút danh. Rạch Giá - Kiên Giang là quê hương của Hà Huy Hà. Nhà văn Tô Hoài, tên khai sinh là Nguyễn Sen, sinh năm 1920 ở quê ngoại tại làng Nghĩa Đô, huyện Từ Liêm, phủ Hoài Đức, tỉnh Hà Đông (nay thuộc Hà Nội). Bút danh Tô Hoài gắn với hai địa danh: sông Tô Lịch và phủ Hoài Đức. Nhà thơ Xuân Diệu còn có bút danh là Trảo Nha; bút danh này được đặt từ quê quán của ông, làng Trảo Nha, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh. Vũ Quần Phương đã trở thành một cái tên quen thuộc trong làng thơ Việt Nam. Tuy nhiên, đây không phải tên thật mà là bút danh của ông. Theo Vũ Quần Phương cho hay thì tổng Quần Phương cũ (nay là huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định) vốn dĩ là quê bố ông. Sau này do chiến tranh, sơ tán lưu lạc, gia đình ông ít có điều kiện trở lại. Vì thế, để khỏi mất gốc, ông đã lấy địa danh này làm bút danh của mình. Chính thực Vũ Ngọc Chúc mới là tên cúng cơm của nhà thơ. Xung quanh cái bút danh nghe nửa Hán nửa Nôm của Vũ Quần Phương, có câu chuyện vui rằng lần ấy, căn nhà nhỏ hẹp của nhà thơ Vương Trọng ở khu tập thể Vân Hồ 3 (Hà Nội) được đón tiếp cùng lúc hai vị khách quen. Nói “quen” là với chủ nhà chứ bản thân hai người khách này không hề quen biết nhau. Đó là nhà giáo Trần T ế và nhà phê bình văn học Vũ Phương. Trong đầu Vương Trọng chợt nảy ra một ý nghĩ hóm. Ô ng bèn giới thiệu hai vị với nhau bằng hai câu thơ mới ứng tác: Đây là Trần Tế (không xương) Còn kia đích thực Vũ Phương (không quần) Lời thơ ngẫu hứng đầy tếu táo đã rõ: Trần Tế chứ không phải Trần Tế Xương (tức nhà thơ Tú Xương). Và kia là nhà phê bình Vũ Phương chứ không phải nhà thơ kiêm nhà phê bình Vũ Quần Phương. Thật là m ột cách giới thiệu vui và... độc đáo. Khi câu chuyện này đến tai nhà thơ Vũ Quần Phương, ông tủm tỉm cười chịu rằng ông bạn đồng nghiệp Vương Trọng “quả là thông minh”. Nhân thể, ông đã đọc luôn một bài thơ ngắn chỉ có 4 câu, trong đó ông nói rõ lai lịch bút danh của mình: Tên Quần Phương, thân tha hương/ Tôi lấy tên quê làm độ đường/ Sáu tuổi tiễn cha về với đất/ Nấm mộ ven đồng hóa cố hương. Tuy ngắn nhưng bài thơ đã ký thác được rất nhiều tâm sự của tác giả. Ông Trần Hữu Đạt (em ruột nhà văn Nam Cao) kể: Rất nhiều bạn đồng môn, đồng hữu như ông Hoàng Tùng, Hoàng Cao và một số người có dịp gặp nhà văn đều hỏi: Cớ sao ông lại lấy bút danh Nam Cao? Nhà văn tủm tỉm cười: “Làng mình đã có hai ông Hoàng rồi (ý nói Hoàng Tùng, Hoàng Cao lúc ấy đang giữ trọng trách trong Đảng và quân đội). Còn mình thì võ dốt lắm”. Ông Hoàng Cao - bạn thân và cũng là người họ hàng với nhà văn - nhớ lại: lúc chia tay, mỗi người một hướng đánh giặc. Nam Cao tâm sự với Hoàng Cao: “Chúng mình là con trai làng Đại Hoàng, trai Lý Nhân, trai Nam Sang, đi đâu, làm gì cũng phải xứng danh là trai Nam Sang nhé! Các cậu là Hoàng thì phải Huy Hoàng, Đại Hoàng nhé!”. Ông Hoàng Cao nhớ rõ: nhiều lần ông lục tìm các tài liệu, bản thảo còn lại của Nam Cao thì thấy bản thảo nào Nam Cao cũng đề rõ ở góc trên, bên trái, trang đầu: Đại Nam quốc/ Hà Nam tỉnh/ Nam Sang huyện/ Lý Nhân phủ/ Cao Đà tổng/ Đại Hoàng xã. Các bản thảo đều được nhà văn ghi chữ Nam, có bản lại ghi chữ Cao hoặc Nam Cao ở dưới các hàng chữ trên. Nhưng vẫn không quên ghi rõ tên Trần Hữu Tri (là tên thật của nhà văn) trên bản thảo. Theo ông Trần Hữu Đạt thì anh trai mình lấy bút danh Nam Cao là do nhà văn ghép chữ đầu tên huyện (Nam) với chữ đầu tên tổng (Cao) để nhớ ơn mảnh đất nơi ông đã sinh thành. Nam Cao còn có ý nghĩa là nước Nam cao cả, cao sang… nữa. Nam Cao đã có những trang viết xứng đáng với niềm tin yêu, quý mến của quê hương ông. Bút danh Nam Cao sáng mãi với các tác phẩm nổi tiếng của nhà văn: Chí Phèo, Sống mòn, Đôi mắt… Phan Ngọc Hoan sinh năm 1920 tại Đông Hà (Quảng Trị), nổi tiếng với bút danh Chế Lan Viên. Với bút danh này, ông đã nổi tiếng ngay từ tuổi 17 với tập thơ Điêu tàn. Nhưng trong bài giới thiệu tập tiểu luận Những bước đường tư tưởng của tôi của Xuân Diệu đăng trên báo Văn học 9 - 1958, Chế Lan Viên ký bút danh Thạch Hãn (tên một con sông ở tỉnh Quảng Trị quê ông) và trong nhiều bài báo in trên báo Thống Nhất xuất bản ở Hà Nội trước tháng 5 năm 1975 ông cũng ghi bút danh này. 3. Những bút danh khó xác định Trường hợp đầu tiên chúng tôi đề cập đến là chuyện Hàn Mạc Tử hay Hàn Mặc Tử. Cho đến nay, những nhà sưu tầm, nghiên cứu, những người quan tâm vẫn phân thành hai trường phái khác nhau: Hàn Mạc Tử và Hàn Mặc Tử. Vì thế, những cuốn sách, bài báo in ra cũng chia thành 2 nhóm: nhóm Mặc và nhóm Mạc. Những đại biểu tiên phong cho trường phái Mạc có thể kể: Giáo sư Hoàng Như Mai, Giáo sư Văn Tâm, nhà sưu tầm Phạm Xuân Tuyển. Phạm Xuân Tuyển đã làm một bản thống kê những tài liệu sử dụng chữ Mạc như sau: báo Người Mới trong các số chuyên đề về Tử năm 1941, Trần Thanh Mại trong cuốn sách viết về Tử năm 1942, Hoài Thanh - Hoài Chân trong Thi nhân Việt Nam năm 1942, Phó tiến sỹ Phùng Quý Nhâm trên Kiến Thức Ngày Nay số 47, Giáo sư Hà Minh Đức trong Tổng tập Văn học Việt Nam số 27, Giáo sư Lê Đình Kỵ trong Thơ Mới - Những bước thăng trầm (1993), Giáo sư Vũ Ngọc Khánh trong tập Thơ tình yêu - 1995, Giáo sư Hà Vinh - Khoa tiếng Việt - Đại học Tổng hợp Hà Nội trong Tạp chí Văn Học - 1995, Giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh… Còn những người theo trường phái Mặc có hai người quan trọng nhất là Nguyễn Bá Tín, em ruột nhà thơ, và Quách Tấn, bạn thân nhà thơ. Nguyễn Bá Tín đã dùng Mặc trong hai cuốn sách quan trọng của mình, cuốn Hàn Mặc Tử anh tôi - 1991 và Hàn Mặc Tử trong riêng tư - 1994. Quách Tấn cũng dùng Mặc trong Bóng ngày qua - 2000. Những người khác có thể kể: Chế Lan Viên trong Tuyển tập Hàn Mặc Tử - 1987, Lữ Huy Nguyên trong Hàn Mặc Tử và đời - 1994, Trần Thị Huyền Trang trong Hàn Mặc Tử hương thơm và mật đắng, Vương Trí Nhàn trong Hàn Mặc Tử - Hôm qua và hôm nay… Nguyễn Bá Tín cho biết bút danh Hàn Mặc Tử đã có trước, còn bút danh Hàn Mạc Tử chỉ là bạn bè đặt cho để trêu đùa: có nhiều hôm anh ngồi thừ trên chiếc ghế mây, nhìn qua bức mành tre sáo trước cửa, đợi chị Cúc đi ngang qua, trông anh đến thiểu não. Chị Cúc biết điều đó, về sau kể với con gái chị Như Lễ rằng: “Nghĩ tội nghiệp anh quá!”. Bạn bè đến chơi trông thấy anh ngồi buồn bã như kẻ thất tình nên thường trêu cợt anh là con người sau bức rèm lạnh và gọi đùa anh là Hàn Mạc Tử. Chữ Hàn ở đây có nghĩa là lạnh và chữ Mạc là bức rèm. Hai chữ Hàn Mạc có nghĩa là bức rèm lạnh. Anh chỉ cười, không nói gì, cũng không để ý đến nữa. Mãi về sau, khi anh qua đời, vẫn còn nhiều người lầm tưởng bút hiệu của anh là Hàn Mạc Tử. Ông Tín cho biết Tử vốn rất ngưỡng mộ triết gia Mặc Địch thời Chiến Quốc, nổi tiếng với thuyết Kiêm ái nên anh cũng tự nhận thuộc môn phái Mặc Địch, thương yêu hết mọi người. Chữ Mặc Tử có ý nghĩa là môn đồ Mặc Địch. Chữ Mạc Tử thì không có ý nghĩa gì. Chữ Hàn Mặc Tử nói lên ý nghĩa một thi sỹ nghèo nàn, nhưng tình thương rộng rãi, bao la. Quách Tấn thì kể tỉ mỉ hơn và có phần khác Nguyễn Bá Tín. Quách Tấn cho biết: khi mới bước vào làng thơ, Tử lấy bút danh Minh Duệ Thị, sau đổi là Phong Trần. Tử nổi tiếng với bút danh Phong Trần nhờ cuộc xướng họa thơ văn lịch sử với Phan Bội Châu. Khi Quách Tấn quen thân Tử, Quách Tấn chê bút danh Phong Trần không hợp với Tử. Vì thế, Tử đổi qua bút danh Lệ Thanh. Bút danh này đã gắn chặt với tập thơ Lệ Thanh Thi Tập của Tử. Nhưng được ít lâu, Quách Tấn lại chê. Tử lại đổi qua Hàn Mạc Tử. Quách Tấn lại chê nữa. Khi đó Tử nổi nóng. Quách Tấn liền gợi ý: “Đã có rèm thì thêm bóng trăng vào. Hỏi còn cảnh nào nên thơ bằng?”. Nghe vậy, Tử thêm bóng trăng là dấu á trên đầu chữ a nên chữ Mạc thành ra chữ Mặc. Từ đó, bút danh đổi nghĩa từ kiếp rèm lạnh ra anh chàng bút mực. Bút danh này khiến Tử rất thích và dùng luôn. Lời giải thích trên đây nghe cũng thật có lý nhưng mấy chục năm nay vẫn không thuyết phục được những người theo trường phái Mạc nên cuộc tranh cãi này chưa biết bao giờ mới kết thúc nếu không tìm được bút tích của chính nhà thơ để chứng minh ai đúng, ai sai. Có người còn đặt bút danh một cách bí hiểm làm cho nhiều người tò mò thắc mắc như trường hợp nhà thơ T.T.Kh, tác giả bài thơ Hai sắc hoa Tigôn thời tiền chiến. Cho đến bây giờ, người ta vẫn chưa biết tên thật của nhà thơ này. Người thì cho đó là người yêu của nhà thơ Thâm Tâm nên lấy bút hiệu T.T.Kh (tức là Thâm Tâm - Khánh?), người lại cho rằng bà tên là Trần Thị Khánh? Đây là trường hợp độc đáo - một bút danh đã tạo thành một sự kiện thơ của Việt Nam ở thời kỳ Thơ mới của thế kỷ trước cho đến nay vẫn còn bí ẩn. Nhà văn Đái Đức Tuấn (1908 -1969) là tác giả của Thần hổ (1937); Linh hồn hay xác thịt (1938); Ai hát giữa rừng khuya (1942)… đăng trên Tiểu thuyết thứ bảy với bút danh Tchya. Về bút danh Tchya, có người cho rằng chữ A trong bút danh phải được viết hoa mới đúng theo ý của nhà văn. Nguyễn Vỹ trong Văn thi sỹ tiền chiến (NXB Văn học, 2007, tr.413-417), Vũ Bằng trong 40 năm nói láo (NXB Thông tin, năm 1993, tr.59), Tạ Tỵ khi vẽ chân dung ông Tuấn đều ghi rõ bút danh của Đái Đức Tuấn là TchyA; nhưng trong Nhà văn hiện đại của Vũ Ngọc Phan (NXB Sống mới, Sài Gòn, 1959, tr.985) và các bộ sách từ điển văn học được xuất bản gần đây như Từ điển Văn học (bộ mới), Từ điển tác gia Văn hóa Việt Nam (NXB Văn hóa - Thông tin Hà Nội, 1999) đều ghi là Tchya. Có điều không thấy ai lý giải vì sao có bút danh này. 4. Lấy điển xưa trong sử sách Có người lấy tích xưa để đặt bút danh như nhà thơ Nguyễn Đình Thư (sinh năm 1917 ở Huế). Thuở nhỏ nhà nghèo, nhà thơ nhờ bên ngoại nuôi cho đến khi khôn lớn nên đặt tên Thư lấy ý đời xưa có ông Ngụy Thư khôn lớn cũng nhờ bên ngoại. Nhà văn Hoàng Đạo (em ruột nhà văn Nhất Linh) tên thật là Nguyễn Tường Long. Bút danh Hoàng Đạo là một giờ rất tốt theo Kinh Dịch - 12 giờ trưa người ta thường gọi là giờ hoàng đạo; ông lại lấy bút danh khác nghĩa ngược lại là Tứ Ly (một quẻ rất xấu trong Kinh Dịch). Nhà thơ cách mạng Nguyễn Kim Thành có bút danh Tố Hữu. Điều đó ai cũng biết, nhưng vì sao là Tố Hữu? Giải thích điều này, ông kể rằng, giữa năm 1938 sang Lào thăm người anh. Ở đây, ông gặp cụ đồ nho người Quảng Bình. Chính cụ đã đặt bút danh này. Cụ đã lý giải bút danh Tố Hữu bằng việc dẫn ra một câu chuyện ở bên nước Trung Hoa. Chuyện kể rằng một hôm Khổng Tử gặp Hạng Thác, một chú bé đang đứng giữa đường. Khổng Tử muốn thử xem chú có thông minh không, liền hỏi: “Này, cháu có biết trên trời có mấy ngôi sao không?”. Hạng Thác ngước lên nhìn Khổng Tử, hỏi lại: “Thưa ngài, ngài có biết trên mắt ngài có bao nhiêu cái lông mày không?”. Khổng Tử ngớ ra và kinh hãi vì tài ứng đối của chú bé. Lát sau, Khổng Tử khẽ kêu lên: “Ngô nhi tố hữu đại chí”. Tố Hữu nghĩa là sẵn có, ngụ ý chỉ khí phách tiềm ẩn trong người. Nghe cụ giảng giải như vậy, nhà thơ suy ngẫm một lát rồi tỏ ý không nhận nghĩa sẵn có mà chỉ muốn chấp thuận Tố Hữu ở nghĩa người bạn trong trắng. (Tố: trong trắng; Hữu: bạn). Cụ đồ khen hay. Từ đó, nhà thơ lấy bút danh Tố Hữu với nghĩa mà mình đưa ra. Ngoài bút danh Nam Cao, tác giả của tiểu thuyết Sống mòn còn có bút danh Xuân Du. Theo Tô Hoài, Nam Cao ký bút danh Xuân Du là do ông lấy 2 chữ ở đầu câu thơ mà nhà văn và Tô Hoài hồi ấy thường ngâm ngợi: Xuân du phương thảo địa/ Hạ thưởng lục hà trì/ Thu ẩm hoàng hoa tửu/ Đông ngâm bạch tuyết thi. (Tạm dịch: Mùa xuân chơi miền cỏ non. Mùa hạ tắm hồ sen ngát/ Mùa thu uống rượu hoàng hoa/ Mùa đông ngâm thơ tuyết trắng). 5. Cách đặt bút danh theo lối chơi chữ Nhà thơ Thế Lữ tên thật là Nguyễn Thứ Lễ; Thế Lữ là cách nói lái chữ Thứ Lễ. Ông còn có bút danh Lê Ta bởi Ta = Ngã; Lê Ngã tức Lễ, tên thật của nhà thơ. Nhà văn Nguyễn Tuân có một bút danh cũng khá độc đáo: Tuấn Thừa Sắc. Đọc rồi tự bỏ đi dấu sắc thì đúng là Tuân, hay nhà thơ Trần Huyền Trân tên thật là Trần Đình Kim, có người yêu cũng họ Trần nên lấy họ Trần làm bút danh Trần Huyền Trân (hai chữ Trần). Một nhà thơ tiền chiến khác cùng thời với Trần Huyền Trân cũng đặt bút danh tương tự: đó là nhà thơ Huyền Kiêu sinh năm 1915, tên thật là Bùi Lão Kiều (Huyền Kiêu = Kiều). Nhà văn Nam Cao còn có bút danh Thúy Rư do lấy một số chữ trong tên thật của mình (Trần Hữu Tri) ghép lại. Ở đây chữ i đã được thay bằng chữ y. Bùi Giáng (1926-1998) là một nhà thơ, dịch giả và nhà nghiên cứu văn học nổi tiếng từ thập niên 1960 với tập thơ Mưa nguồn. Ông còn có các bút danh khác: Bán Dùi, Bùi Giàng Dúi. Cách đặt bút danh theo lối chơi chữ chiết tự còn có nhà văn tiền bối Khái Hưng - tên ông là Trần Khánh Giư, chữ Khái Hưng chiết tự ra từ chữ Khánh Giư, hoặc nhà thơ J.Leiba tên nghe như người Pháp. Ông sinh năm 1912, quê ở Yên Bái, tên thật là Lê văn Bái. Chữ Leiba xuất xứ từ chữ Lê Bái… Về sau, nhà văn Nguyễn Hữu Ngư cũng làm theo cách này: Nguyễn Ngu Í do chiết tự từ chữ Nguyễn mà ra. Thế mới hay, chung quanh chuyện lấy bút danh cũng khá nhiều điều độc đáo. Có lẽ họ là những người “chữ nghĩa” nên nhiều khi đùa từ, giỡn chữ chút cho vui, cho đời sống thêm thi vị, có sao đâu! LỆ NGỌC st. QUY LUẬT CUỘC ĐỜI Hàng ngày, chúng ta đều bận rộn với học hành, công việc mà quên mất rằng cuộc sống vẫn đang trôi qua ngoài kia, với những quy luật khắc nghiệt của nó. Sáu thời điểm sau là lúc bạn hiểu thấu những quy luật này! 1. Khi gặp hoạn nạn Ngày thường, xung quanh ta là biết bao nhiêu anh em, bạn bè, ai cũng cười cười nói nói, thân thiết như chung một nhà. Đến khi ta gặp chuyện không may, có người nhiệt tình giúp đỡ, có người khoanh tay đứng nhìn, nhưng cũng không thiếu kẻ mượn gió bẻ măng. Bởi vậy, chỉ trong hoạn nạn, ta mới phân biệt được lòng người ngay giả, biết được ai là người quân tử, ai là kẻ tiểu nhân. Có như vậy, ta mới hiểu thế nào là “chọn bạn mà chơi”. 2. Khi lâm bệnh nặng Chỉ khi nào ốm đau liệt giường, ta mới thấm thía hết tầm quan trọng của sức khỏe. Sức khỏe là tài sản quý giá nhất của con người, những thứ khác đều chỉ đáng xếp sau. Nếu không có sức khỏe thì giàu sang, phú quý cũng đều là vô nghĩa. Chính vì thế, chỉ khi thoát cơn bạo bệnh, con người mới học được cách trân trọng sức khỏe, cũng như coi nhẹ của cải vật chất - những thứ mà ngày thường ta vẫn điên cuồng theo đuổi. 3. Khi bị mất chức quyền Khi ta ở đỉnh cao danh vọng, chức quyền cao thì luôn được săn đón bởi biết bao người. Nhưng một khi quyền lực đã không còn trong tay thì cục diện hoàn toàn thay đổi. Những kẻ xu nịnh trước kia, nay nhìn thấy ta cũng coi như không quen biết. Những người tưởng chừng như anh em thân thiết bỗng cũng hóa xa lạ, lạnh lùng. Vì thế, dù có được công danh, bạn cũng đừng nên vội đắc ý trước những lời ngợi ca, tâng bốc. Hãy học cách sống khiêm nhường để không bị sự tự cao che mờ mắt, khiến ta trở nên ích kỷ và thiển cận. 4. Khi đã về hưu Nhiều người sau khi về hưu mới có thời gian ngồi ngẫm nghĩ lại cuộc đời mình. Tham gia công tác nhiều năm, vì ham chức ham quyền mà cấp trên chèn ép cấp dưới, vì muốn thăng quan tiến chức mà đồng nghiệp đấu đá lẫn nhau. Thế nhưng, những thứ đạt được cũng chỉ là vật ngoài thân, người mất đi rồi cũng chẳng mang theo được. Dù là lãnh đạo hay nhân viên, cấp trên hay cấp dưới, đến cuối cùng chẳng phải cũng đều về hưu sao? Sớm biết chẳng có gì khác nhau thì trước đây hà tất phải tranh đấu? Hãy làm tốt việc của mình, đối xử chân thành với người khác, đó mới là việc nên làm. 5. Khi rơi vào cảnh ngục tù Con người có thể ngộ ra điều gì khi bị giam giữ trong bốn bức tường nhà ngục? Đó chính là “ác giả ác báo”. Luật pháp không phải trò đùa, người làm việc xấu sẽ phải đền tội, chỉ là quả báo đến sớm hay muộn mà thôi. Nếu một người không chịu tu thân dưỡng tính, chỉ chuyên hãm hại người khác để tư lợi cá nhân thì sẽ có ngày chịu sự trừng phạt. Giam giữ - hình phạt tưởng chừng như nhẹ nhàng nhất cũng chính là cách tước đoạt đi thứ quý giá nhất của con người, đó là sự tự do. 6. Khi sắp trút hơi thở cuối cùng Trớ trêu thay, lâm chung là lúc con người trở nên thông suốt nhất. Cuộc đời này quá ngắn mà cũng quá dài. Mọi ân oán tình thù đều chỉ như mây khói, ta hà tất phải cố chấp với chúng mà không học cách buông bỏ. Khi đã hiểu được đạo lý ấy cũng là lúc con người có thể nhắm mắt xuôi tay, ra đi thanh thản. KIM SƠN st. CHỈ CÓ 2… · Chỉ có 2 thứ bạn nên tiết kiệm, đó là SỨC KHỎE và LỜI HỨA. · Chỉ có 2 thứ bạn phải cho đi, đó là TRI THỨC và LÒNG TỐT. · Chỉ có 2 thứ bạn phải thay đổi, đó là BẢN THÂN và NHẬN THỨC. · Chỉ có 2 thứ bạn phải giữ gìn, đó là NIỀM TIN và NHÂN CÁCH. · Chỉ có 2 thứ bạn phải trân trọng, đó là GIA ĐÌNH và HIỆN TẠI. · Chỉ có 2 thứ bạn phải tự mình thực hiện, đó là LAO ĐỘNG và CHỊU TRÁCH NHIỆM VỚI VIỆC MÌNH LÀM. · Chỉ có 2 thứ bạn phải lãng quên, đó là ĐAU THƯƠNG và HẬN THÙ. · Chỉ có 2 thứ bạn phải khắc ghi, đó là CÔNG ƠN MẸ CHA và SỰ GIÚP ĐỠ CỦA NGƯỜI KHÁC. · Chỉ có 2 thứ bạn buộc phải có để là người thành công, đó là ĐAM MÊ và LÒNG KIÊN TRÌ. · Chỉ có 2 thứ bạn không được làm, đó là HÃM HẠI NGƯỜI KHÁC và PHẢN BỘI LÒNG TIN. · Chỉ có 2 thứ bạn phải bảo vệ, đó là DANH TÍN và LẼ PHẢI. · Chỉ có 2 thứ bạn phải chấp nhận, là CÁI CHẾT và SỰ KHÁC BIỆT. · Chỉ có 2 thứ bạn phải kiểm soát, đó là BẢN NĂNG và CẢM XÚC. · Chỉ có 2 thứ bạn phải tránh xa, đó là CÁM DỖ và SỰ ÍCH KỶ. · Chỉ có 2 thứ bạn luôn phải sử dụng mà đừng hà tiện, là TIỀN BẠC và KINH NGHIỆM. · Chỉ có 2 thứ bạn không được sợ sệt, là CÁI ÁC và SỐNG THẬT. · Chỉ có 2 thứ bạn phải nuôi dưỡng,là TÌNH YÊU và SỰ BAO DUNG. · Chỉ có 2 thứ mà bạn cần phải đạt được trong cuộc sống, đó là THÀNH ĐẠT và HẠNH PHÚC. · Chỉ có 2 thứ bạn phải luôn sẵn sàng, đó là KHÓ KHĂN và NGÀY MAI. · Chỉ có 2 thứ bạn phải luôn ghi nhớ, đó là THỰC HIỆN NHỮNG ĐIỀU TRÊN và LÀM THẬT TỐT CHÚNG trong cuộc sống hàng ngày.
HOÀNG CHÚC st.
Phụ Bản IV Hình xưa cảnh cũ Thời đại số nên tất cả những hình ảnh cũ muốn giữ lại đều phải chuyển qua số, bằng cách scan ảnh hoặc chụp hình và lưu lại dưới dạng số thì mới phổ biến được. Cũng vậy, một số hình cũ của ba tôi cũng được số hóa để gửi lại cho con cháu hoặc ít ra đưa lên màn hình để ông bà cùng nhìn lại những kỷ niệm xưa và kể lại cho con cháu những niềm vui cũng như những nỗi buồn vào lúc bấy giờ. Tôi thấy lại được căn nhà lá ba gian vách đất tại Bưng Trường (Vĩnh Long) khi ba má tôi vừa chân ướt chân ráo từ miền Bắc di cư vào, lúc đó tôi còn chưa chào đời. Bên cạnh nhà là một đụn rơm có lẽ mới gặt lúa xong. Đứng trước nhà là ba tôi và anh chị lớn. Trên tay anh Cả còn cầm cây súng gỗ, cây súng trước ở ngoài Bắc sơn đen đàng hoàng nên giống như súng thật bị cha Trác tịch thu vì người cho rằng sao để con nít chơi súng nhỡ xảy ra chuyện gì thì sao?
Gốc con nhà nòi về nghề mộc nên ba tôi lại làm riêng cho chị Hai một con búp bê bằng gỗ thật ngon lành. Sau này chị tôi kể lại những lúc lỡ tay làm búp bê rơi xuống chân đau điếng cả người nhưng vẫn thích vì chung quanh chẳng ai có, bây giờ mình gọi là hàng độc, hàng handmade... Năm sau tôi được sinh ra, rồi ba tôi đi lính trên Đà Lạt, ông lại làm một cái cặp bằng gỗ cho anh tôi xách đi học. Với anh Cả - như rồng thêm cánh - anh cầm cặp gỗ quay một vòng đánh nhau lung tung chẳng sợ một ai cả. Sau này về Sài Gòn sử dụng thêm một hai năm gì đó tôi được hưởng sái làm kho chứa những vật dụng yêu thích như những viên bi, những tấm hình, giây thung… nói chung là một kho tài sản của tôi lúc bấy giờ. Anh tôi còn khoe lúc ở Đà Lạt bị má bắt coi em nên anh bế tôi ra ban công để tôi ngồi trên đó rồi thỉnh thoảng buông tay ra xem tôi có rớt hay không làm má tôi sợ hết hồn luôn. Về lại Sài Gòn thuê căn nhà số 20 Sư Vạn Hạnh anh tôi còn cho tôi bò quanh miệng giếng nữa, thế mới ghê! Có lẽ anh muốn tập cho tôi tính gan lì từ bé quá! Mỗi tấm hình là một kỷ niệm, không thể nào không cười khi về lại Vĩnh Long, lúc ấy tôi đã biết đi ba anh em chụp hình bên bờ rào. Áo chị Hai tôi thủng một lỗ to ở vạt đằng trước, trên đầu còn uốn tóc lù xù, chỉ có anh Cả là bảnh chọe còn ông em cổ mang một cái kiềng bằng bạc mang từ ngoài Bắc vào, đầu thì trọc lóc lơ thơ vài cọng để làm giống…
Nhìn lại hình trong những cuốn album đen trắng, những kỷ niệm xưa ùn về ba má tôi không dấu vẻ xúc động khi kể lại rành rọt từng tấm. Ba tôi có trí nhớ thật tốt, ông nhớ rõ từng người từ ngày sinh tháng đẻ, cho đến ngày mất và chết tại đâu kể cả cháu mình và con cháu của các chú, các bác… Ông còn nhớ rõ vào năm 1942 đi lấy bằng Tiểu học tận Thái Bình do Chánh Công Sứ người Pháp ký, cả lớp được thầy giáo dẫn đi 23 cây số mới tới, sáng đi chiều về, tổng cộng cả đi lẫn về là 46 cây số đi bộ. Được bố cho 1 hào để đi đường nhưng chỉ mua 50 xu bánh mang về làm quà. Các cụ ngày xưa khỏe thật, con cháu bây giờ mỗi bước mỗi lên xe nên yếu hơn các cụ là phải. Một số tấm đã ngả qua màu vàng, một số tấm lấp lánh nitrat bạc khiến cho phần chụp lại thêm khó khăn. Tiếc thay một số tấm bị bong lớp thuốc do trước giải phóng treo trên tường bị ẩm, tấm thì mờ, tấm thì mối ăn. Đặc biệt sau 75 phải tự bỏ đi một số tấm không phù hợp. Nhìn lại những tấm ảnh cũ sau khi được phục hồi và chiếu trên màn hình lớn, mọi người cùng cười vui, cùng bàn luận và nhất là ba má tôi vui mừng khi con cháu xum vầy chung quanh ông bà trong những buổi tối đầm ấm, trên mâm cơm chỉ là những món ăn bình dân của một gia đình bình thường, hôm nào thêm tí beer hay rượu đế nữa thì càng thêm rôm rả. HÀ MẠNH ĐOÀN
LỐI XƯA NGẬM NGÙI “Ơi…ơi…” Cảm giác như ai đó gọi mình, tôi hơi ngoái lại, một thoáng liếc ngang, đâu có ai gọi đâu. Tôi lại quay bước. Vỉa hè lăn tăn lá, con gió hiu hiu cuối chiều thoang thoảng dễ chịu. Tôi nghe lòng nhè nhẹ một cảm xúc. Mơ hồ nghe tiếng chân bước gấp gấp phía sau, lại “ơi…ơi…”. Kiểu gọi mà như sợ người nghe giật mình, tôi dừng chân, quay hẳn người lại. Dáng một người đàn ông ốm ốm, vẻ ngượng ngùng khi dừng lại bước chân đang sải tới. Miệng hơi mỉm cười. Tôi nhìn gương mặt sạm sạm, xương xương, cặp kính râm như càng thêm bí ẩn, hình như mình có quen, nhưng là ai đây? Cặp kính được gỡ ra, cùng một giọng nói nho nhỏ: - Không nhận ra mình hả? Đúng là gương mặt khá quen, ánh mắt kia nữa cũng rất quen, nhưng không thể nhớ ra được là ai. - Xin lỗi, mình thấy bạn rất quen nhưng… - MM đây. - Á… Tôi bật một tiếng kêu, và vội bịt miệng mình lại. MM. Trời! MM đây sao? Nụ cười buồn buồn là lạ như hiểu rất rõ thái độ của tôi. - Bạn rảnh không? Mình kiếm chỗ nào nói chuyện đi. - Không rảnh cũng phải rảnh. Đi, về nhà mình. Tôi quyết định rất nhanh, là bởi trong đầu tôi vụt lên hàng loạt câu hỏi, mà để giải đáp được hết nó thì không thể chỉ vài phút. “Đàn ông nói chuyện trong nhà. Đàn bà lô la ngoài ngõ”. Những người đàn ông gặp nhau, muốn nói một câu chuyện gì đó, thì thông thường nhất là rủ nhau vào một quán cà phê, hoặc về nhà với một cuộc sương sương, cho thêm mặn mà câu chuyện. Không như những người phụ nữ, gặp nhau bất kỳ chỗ nào, giữa đường giữa chợ, thậm chí là giữa những nơi cần sự yên tĩnh đều có thể đứng dài ra mà chuyện. Tôi không phải là đàn ông, nhưng cũng không hoàn toàn là phụ nữ, nên cũng thường diễn tiến cuộc chuyện trò của mình dưới một cái mái nào đó. Với cuộc chuyện này, thì cái mái tốt nhất và phù hợp nhất là cái mái nhà tôi. Bởi đó sẽ là một câu chuyện không nên để cho những cái tai đầy tính tò mò vểnh vào. Trong tâm tưởng tôi lúc này là hình ảnh của một khung cảnh của một ngày chưa thể gọi là quá xa. Đường lên chùa là một con đường nhỏ trải sỏi dăm uốn lượn hơi quanh co một chút qua một vạt rừng thông thoai thoải dốc. Mỗi lúc gió, tiếng thông rào rạt như khúc mưa mùa dạo nhanh, cũng có khi lào xào khe khẽ như một cuộc trò chuyện rì rầm. Nhất là đi vào lúc chiều nắng nhạt, chung quanh vắng vẻ có cảm giác thư tĩnh lạ thường. Có lẽ đó cũng là một nguyên do để những nhà sư chọn đất làm chùa thường ở nơi cao và xa đường lộ, như để tâm thế con người được quen dần với một không gian huyền mặc ưu tư. Ngôi chùa Viên Giác được xây dựng nơi triền đồi này cũng khoảng gần trăm năm, đã trải qua mấy đời trụ trì. Khuôn viên đơn giản nhẹ nhàng bởi những bóng cây cao thấp, chùa không quá tấp nập huyên náo vào những lễ tiết, không quá tư trầm vắng lặng lúc ngày thường. Chùa cũng có độ mươi sư thầy, vị cao tăng trụ trì thì độ sáu mươi cũng là người cao tuổi nhất. Kế đến là mấy thầy tuổi trung niên, và đôi ba vị đang thời trai tráng, thêm hai chú tiểu còn đang chỏm đào đủ hình thành một cụm tứ đại chi gia. Mà cũng thật vậy, ngoài những phận hành pháp hạnh, thì mấy thầy trò cũng chẳng khác chi một gia đình. Có thể nào khác được, khi đã đi theo tiếng gọi thiền căn thì đương nhiên chùa là nhà, sư phụ là cha và tăng hữu là huynh đệ. Nên sự gắn bó chăm lo cho nhau chẳng khác gì người thân, nhờ đó mà cũng bù đắp được phần nào sự thiếu hụt tình cảm. Tôi không thường xuyên lên chùa với tư cách là một phật tử thuần thành, bởi tôi quan niệm, hãy sống từ tâm và thiện tính, không tham lam ác hại. không mưu toan trục lợi, sống với tình yêu thương, có thể giúp ai được gì thì không hề ngại, thế đã là phật tính, thế đã là tu dưỡng tâm khí rồi. Không chỉ là sự suy ngẫm chủ quan, mà đem ra trao đổi cùng một số các vị cao tăng thì tôi đều nhận được sự tán đồng. Vâng, không phải chỉ thuộc làu kinh kệ, không phải khói hương sáng tối là đã làm nên tâm đạo. Mà không ít người mượn hình thái cửa thiền để rắp tâm vị kỷ, mưu lợi. Hoặc cứ dối trá tham lam cho đã rồi dăm ba biến kinh sám hối là coi như sạch tội. Dẫu biết vậy, nhưng cửa thiền luôn rộng mở, ít ra là cũng mong mỏi và tạo điều kiện cho những sân si đời thường may ra có phần tiết hạn. Tuy không hẳn lên chùa thắp hương niệm phật, nhưng bước chân vào lĩnh giới này, tôi vẫn cảm nhận được một sự thanh thoát an nhiên. Niềm yêu thích của tôi là được trò chuyện với các vị sư tăng. Họ là những người có một tầm trí tuệ uyên thâm về nhiều lĩnh vực. Không chỉ phần đạo pháp, mà các vấn đề xã hội đời thường cũng được các vị luôn để tâm chú trọng. Là bởi, có hiểu đời mới đưa được đạo vào đời. “Đời mà không đạo thì đời tham bạc. Đạo chẳng có đời đạo cũng vô minh”. Đạo sinh ra cũng là để hướng thiện, để dẫn dắt con người đến bến bờ viên lạc tri an. Nhưng có đến được không thì phải nhờ vào tâm khởi của mỗi người. Và rõ ràng một điều “Mỗi người một nghiệp một duyên. Mỗi người cầm một mái thuyền qua sông”. Sư Tuệ Tấn trạc tuổi tôi, vóc cao dong dỏng, ăn nói rất có duyên, hay cười và khá hóm hỉnh. Thường tôi chỉ gọi là Thầy những lúc cần thiết, còn thì toàn gọi tên. Tôi bảo “Mình nghĩ, cũng chỉ là mỗi người mỗi việc thôi, nếu dùng danh xưng phân cách quá mất tự nhiên trong giao tiếp. Đã xem nhau là bạn thì không nhất thiết phải câu nệ, đúng không?”. Tuệ Tấn rất đồng ý với quan điểm này “Đúng đó, nhiều lúc mấy ông bà lớn tuổi cứ vái lạy mình rồi một con hai con, mình ngại ghê cơ, nhưng biết làm sao được, phép là thế mà”. Vậy đó, đôi khi con người ta tự làm khó nhau bằng những thứ khuôn phép mà xét ra cũng không cần thiết lắm. Nên trong một phạm vi nào có thể, cũng chước bớt đi cho đỡ phức tạp. Tình bạn chúng tôi khá thân, có thể nói được với nhau nhiều thứ chuyện. Và rồi một ngày, Tuệ Tấn ngập ngừng: - Mình có chuyện này, muốn nói với bạn, nhưng… ngại quá. - Có gì phải ngại, bạn cứ nói đi, có chuyện rắc rối gì sao? Trong thâm tâm, tôi thoáng nghĩ bạn gặp khó khăn chuyện tiền bạc, nhưng rồi nhìn vẻ bối rối, có phần ngượng ngùng, sự nhạy cảm cho tôi đoán, hình như đã có những con sóng lăn tăn trên mặt hồ. Tôi nhướng mày nhìn vào gương mặt đang ửng đỏ: - Không phải là… chuyện một cô gái nào đấy chứ? Gương mặt cúi xuống như thú nhận. Tôi sững người. Trời ạ. Nhưng đó là ai? Tuệ Tấn lí nhí một cái tên. Thì ra là cô ấy. Đã từ lâu, tôi nhận thấy sự có mặt gần như thường xuyên của một cô gái lẩn quất quanh Tuệ Tấn. Đó là một trong những người hay đến làm công quả ở chùa. Tôi không mấy nghi hoặc, một phần không hay để tâm đến chuyện người khác, phần nữa tôi nghĩ là không lẽ… Vậy mà… Câu chuyện đã bao lâu rồi? Hóa ra là đã hơn hai năm, họ cũng đã từng làm mọi cách để không phát triển câu chuyện ấy, nhưng cứ như một loại rượu vang, càng chôn lâu thì men càng đậm. Dù sao thì cũng là một con người thịt xương tim óc, với tất cả mọi nhu cầu tình cảm như bao người. Lý tưởng là một phần, tình yêu là một nhẽ. Bên nào có nồng độ cao hơn thì át chế được bên kia. - Bây giờ bạn tính sao? - Mình không biết nên làm thế nào cho đúng? Chọn lựa con đường nào cho phải. Mình ngổn ngang quá đỗi bạn ơi! Âm sắc và vẻ mặt của bạn cho thấy rõ một tâm trạng rối bời, bế tắc. Cũng phải thôi. Vào chùa từ khi mới hơn mười tuổi, qua biết bao rèn luyện tu tập, những tháng ngày nâu sồng đã như một phần cơ thể. Nay rơi vào một tình cảnh buộc phải chọn lựa, mà bên nào cũng có phần nghiêng ngửa, thật không phải là chuyện dễ dàng. Biết khuyên bạn thế nào đây? Đi cũng dở, ở cũng không xong. Tâm không còn tịnh mà tình thì xôn xao. Sau mấy ngày suy ngẫm, tôi nói với bạn: - Chuyện này không ai có thể giải quyết giúp bạn cả. Không chỉ nhiêu khê trong sự chọn lựa, mà tình cảm luôn là một mụ phù thủy cao tay ấn, người ta có thể chống đối lại tất cả mọi điều thuộc dạng ngoại thân, nhưng không thể chiến thắng nội cảm. Mình chỉ có thể đưa ra cho bạn những khả năng giả thiết về cả hai mặt, rồi tùy bạn suy ngẫm và quyết định: Thứ nhất, đặt vấn đề là bạn hoàn tục. Vậy bạn có hiểu được cuộc sống ngoài đời đòi hỏi những gì chưa? Bạn đã có sự chuẩn bị với khả năng thích ứng phù hợp chưa? Đầu tiên là dư luận, bạn biết rồi đấy, người đời thường có những khắt khe vô lối, họ cho rằng đã là thế thì mãi mãi là thế không có quyền thay đổi, nhất là bạn đang mang hình tượng của sự cao nghiêm, thanh tịnh, một lĩnh giới mang tính thờ phụng chuẩn mực. Người ta không dễ gì tiếp nhận bạn trong một hình thái khác, không những thế, còn ập đến bạn những phản ứng có khi là rất cay nghiệt. Tiếp đến là sự mưu sinh, khi bạn rời khỏi nơi đây, có nghĩa bạn không còn sự bảo trợ nữa, mà bạn phải đối mặt với sự sống, phải tự lo liệu cho tất cả những nhu cầu không chỉ cho riêng bạn, vậy bạn đã chuẩn bị được gì? Một góc độ khác cũng hết sức quan trọng, đó là tâm thế bạn, bạn xưa nay, sống trong một môi trường nhẹ nhàng, được tôn xưng trọng vọng, không ai dám lời nặng tiếng nhẹ, nhưng ngoài kia thì khác, họ sẵn sàng triệt tiêu bạn bằng bất cứ hình thức nào nếu bạn không đồng dạng với họ, cuộc chiến đấu cho sự sinh tồn dù bất kỳ rộng hẹp, đều là cuộc chiến đấu khốc liệt. Con người ta khi va chạm nhau vì quyền lợi thì đừng nói đến chuyện nhân tính. Bạn liệu có chịu nổi những áp lực ấy không? Và một điều nữa cũng cần phải nghĩ đến, đó là “tuổi thọ” của tình yêu. Mình nói thật, tình yêu nó chỉ có thể sống trong môi trường lãng mạn đầy ảo ảnh thôi, khi va đập với thực tế khắc nghiệt thì chỉ có mối tình nào thuộc dạng “cực đại” mới duy trì nổi, còn thì rất dễ dàng chết yểu. Nếu bạn đánh đổi mọi thứ bạn đã dày công trơng suốt mấy chục năm qua, mà lại không đạt được một hệ quả tương xứng, thì liệu rồi bạn có hối tiếc đến cả đời không? Bởi lĩnh vực này không như các lĩnh vực khác, khi rời bỏ đồng nghĩa với trắng tay. Bạn có sẵn sàng đánh đổi? Thứ hai, đặt vấn đề bạn ở lại. Vậy bạn cần bao nhiêu thời gian và tâm sức để áp chế chuyện lòng? Người yêu của bạn có đồng nhất quan điểm, có đủ tầm trí lực để tránh cho bạn những hệ luỵ điều tiếng lẫn hậu quả, hay cô ấy cũng như nhiều người cần thiết phải được sống với tình cảm và hôn nhân? Trong trường hợp bất khả kháng mà để xảy ra chuyện đáng tiếc thì những vấn đề nảy sinh là gì? Điều này chắc bạn thừa sức trù liệu. Nói tóm lại, chọn một trong hai không phải là chuyện đơn giản, sự đánh đổi và hệ lụy về sau là điều tất yếu. Câu trả lời nằm trong chính bạn đấy. Cuối cùng thì Tuệ Tấn cũng không bước qua nổi chữ tình. Cộng thêm lời sư phụ “Con còn nặng nghiệp, và chưa đủ duyên để tròn chữ Phúc, vậy con hãy đi theo tiếng gọi của cuộc đời, Thầy chỉ mong sao con sống giữa cuộc đời bằng cái tâm của đạo. Một ngày nào đó, nếu muốn, con có thể quay về, cổng chùa luôn mở rộng cho con”. Buổi tối cuối cùng chia tay với gian phòng nhỏ mà bạn tôi đã gắn bó suốt một thời gian dài, thật xúc động. Chỉ có ánh sáng từ đôi hồng lạp trên chiếc bàn nhỏ. Giữa bàn là bức tượng Phật Di Đà, bát hương, hoa và quả. Bạn tôi mặc y sa, quỳ lạy ba lần, rồi thẳng lưng chắp hai tay dâng ba nén hương lên đỉnh trán, lâm râm khấn nguyện thật lâu. Tôi lặng lẽ ngồi một góc, theo yêu cầu của bạn, nhân chứng duy nhất cho thời khắc bước ngoặt. Sau khi cắm nhang vào bát, bạn tôi phủ phục một lúc, rồi từ từ cởi y sa. Gấp cẩn thận, vuốt thẳng thớm từng nếp và đặt lên bàn. Bạn gục đầu, đôi vai rung lên. Nước mắt tôi cũng chảy dài, cảm giác bạn tôi là con thuyền mỏng manh đang dần xa bờ dấn thân vào giông gió. Con sông đời dềnh dập, sẽ đưa bạn đi đâu? Về đâu? - Từ giờ hãy gọi mình là MM nhé. Đó là tên thật của bạn, tôi gật nhẹ và nắm lấy tay bạn. Bàn tay mềm, mỏng và mát. Bàn tay chưa từng phải sần sùi chai cứng bao giờ, bàn tay chỉ biết nhẹ nhàng chuông mõ. Từ nay, bàn tay này sẽ… Sau buổi tối ấy, hai người lên chuyến xe sớm nhất ra khỏi bến từ tờ mờ sáng, đó là cách duy nhất để không phải đối mặt với dư luận, và cũng là khoảng thời gian tương đối êm đềm cho sự bắt đầu cuộc sống mới. Tôi nhìn theo chuyến xe cho đến khi khuất hẳn, thầm mong cho bạn có những bước chân an bình trên con đường đi tới. Thời gian đầu còn thư đi tin lại, cho đến khi bạn có đứa con đầu lòng thì thưa dần rồi vắng hẳn. Có lẽ quá bộn bề cho những lo toan nên cũng chẳng còn tâm trí đâu mà thư tín. Câu chuyện của bạn rồi cũng lan ra đây đó, miệng đời mà, có gì bưng bít được mãi đâu. Tôi đã lắm lần phải phản ứng để bênh biện cho bạn trước những góc nhìn khắc nghiệt “Đó không phải là chuyện tội lỗi. Con người ta có quyền thay đổi hoàn cảnh sống phù hợp với nguyện vọng. Người ta đâu có núp bóng làm chuyện xằng bậy đâu mà quy kết. Đừng có nhìn một cách hẹp hòi và ích kỷ như vậy. Đức Phật dạy con người phải biết sống với yêu thương, sao lại đem những quả đấm mà ném vào trái tim thế hả? Các người có biết yêu không? Có thích sống theo mong muốn của mình không? Nếu biết thì sao lại bó buộc người khác trong định kiến của mình…”. Một số dần ngộ ra, và lâu dần cũng không ai nhắc đến nữa. Bỗng nhiên… - Cô ấy đâu? - Đem con bỏ đi mấy tháng nay rồi. - Vì sao chứ? Màu mắt ẩm đục và một tiếng thở dài chua xót thay cho câu trả lời. Chai rượu nghiêng thêm vài lần thì MM trầm trầm giọng. Bước chân vào cuộc sống mới bằng tay trắng với cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. Những hiểu biết có thể gọi là đáng kể trong cổng chùa, hóa ra chẳng có mấy tác dụng trong việc quy đổi thành cơm áo. Không đủ thời gian cho một nghề nghiệp hoặc một nơi ổn định như ý muốn, khi một sinh linh mới đang háo hấc muốn chào đời. Thôi thì cứ cái gì có thể đắp đổi được các nhu cầu sống cho ba miệng ăn là được. Sức vóc một thư sinh sao đọ nổi với mưa chiều gió sớm, bệnh tật là kẻ đồng lõa với túng bấn. Đứa trẻ ra đời sớm rơi vào tình trạng suy dinh dưỡng, cái kết quả của một tình yêu nồng nàn ngày nào đang chuyển dần hình hài màu sắc, và sắc thái một cuộc hôn nhân cũng chuyển theo. Bông hoa tình yêu yểu mệnh rã dần từng cánh, để rồi một ngày không kèn không trống, không một lời từ biệt, người mẹ ôm đứa con nhẹ bỗng như sợi bấc chạy trốn khỏi ngôi nhà lụp xụp, chạy trốn khỏi một cuộc đời nghèo túng, chạy trốn khỏi một trái tim mà cô đã đánh cắp. Buổi sáng mở mắt dậy, MM đã có một cảm giác là lạ. Và rồi, một sự trống rỗng òa ngập cả tâm hồn. MM biết mình đã mất cả, mất luôn phương hướng cho chặng đường kế tiếp. Tuy những tháng ngày qua đầy vất vả, lo toan và phiền muộn, nhưng ít nhất MM cũng biết được mình đang vất vả vì cái gì, một cái đích dẫu ngắn hay dài cũng luôn là một động lực và niềm ước vọng. Vậy mà phía trước chỉ còn là một hỗ trũng sâu thăm thẳm, sự hơ hoảng, thất tán tinh thần khiến MM ngày ngày buông những bước vô định. Nếu không có những cơn đói thúc bách cái cơ thể sinh học, thì MM không biết cả đến cảm giác tồn tại của một xác thân. “Sống giữa cuộc đời bằng cái tâm của đạo”. Lời dạy của sự phụ luôn âm vọng giữa tâm tưởng, cùng bản chất thuần hậu thật thà, MM vốn đã không thể thủ đoạn gian ngoan trong công cuộc mưu lợi, mà còn luôn trở thành một con mồi cho sự lừa gạt dối trá. Niềm tin vào một chữ tình cũng như những sắc màu tươi tắn của cuộc sống nhân gian dần tàn lụi. MM đã hơn một lần lởn vởn ý nghĩ giã từ cuộc đời. Và một cái tên bật ra trong lúc bạn đang chao đảo bập bềnh, đó là tôi. - Mình đã sai, sai quá phải không bạn? - Không thể rạch ròi chuyện đúng sai cho một giai đoạn cuộc sống, bởi làm sao biết trước được diễn tiến của nó, người ta chỉ có thể hành động theo chủ ý của một thời khắc, như một bài toán không có sẵn lập trình, và đáp án của nó là một hệ số bí ẩn. Vấn đề là ta nên đi tiếp thế nào thôi. Bạn có dự định gì không? - Mình không còn một điểm đến nào nữa. Có lẽ mọi cánh cửa đã đóng lại với mình cả rồi. - Đừng bi quan thế chứ, vẫn còn một nơi bạn có thể về mà. - Mình còn mặt mũi nào trở về nơi ấy nữa. - Đừng quá nặng nề như vậy, bạn hãy xem đoạn đời vừa qua như một sự thể nghiệm, rằng đó cũng là một cơ hội cho mình nhìn thấy nhiều hơn những góc độ cuộc sống, cũng không là quá dở nếu xem đó là một kinh nghiệm đắt giá, và giúp cho những trường hợp tương tự có thêm sự tham khảo. Cuộc sống luôn là sự đánh đổi mà, và các giá trị đều không có định lượng bất biến, Mình nghĩ bạn cần một thời gian tĩnh lặng để tự cân bằng, sau đó hãy là sự chuyển tiếp. Một góc vườn nho nhỏ chắc phù hợp cho bạn lúc này chứ. MM nhìn tôi, ánh nhìn của một người vừa sau cơn mưa bão được ngồi bên dống lửa. Tôi cầm lấy cả hai bàn tay bạn. Bàn tay không còn mềm, mỏng, mát như ngày xưa, nhưng bàn tay có độ cứng cáp của sự trải nghiệm. - Bạn hãy tin vào chính mình. Chỉ khi nào hơi thở dừng lại, ta mới không còn cơ hội hồi sinh. Bất hư mục bất minh thị sở. Tức hiền quang hữu đắc vị lai. Không đi vào đường tối sao tìm ra ánh sáng. Hãy thắp lên ngọn đuốc từ chính những khổ đau của mình cho những đời sau. Bạn sẽ làm được mà. Tin mình đi. - Mình sẽ làm được. MM siết chặt tay tôi, thốt lên một lời cùng một thứ ánh sáng loé lên trong mắt bạn. Tôi gật đầu, mỉm cười. Từ xế chiều, người ta đã kháo nhau tối nay đi nghe thầy Tuệ Tấn thuyết giảng. Đây là buổi thuyết giảng đầu tiên từ sau ngày Tuệ Tấn choàng lại chiếc y sa lên người. Sau một thời gian an trú để gột rửa những tháng ngày bụi bặm nơi mảnh vườn nho nhỏ với cỏ cây hoa lá, MM đã dần bình tâm. Rồi một ngày MM về chốn cũ, cảnh chùa xưa đã khiến MM quyết định xin xuất gia lần nữa. Dù khi trở lại cửa thiền, MM đã gặp rất nhiều sự nghi kỵ và mỉa mai. Nhưng coi đó là sự thử thách, MM ẩn nhẫn với những công phu hàng ngày. Và cái gì cần đến cũng đến lúc phải đến. Ngày được nhận lại pháp danh là ngày Tuệ Tấn xem như mình được sinh ra lần nữa. Mấy ngày trước, Tuế Tấn thông báo với tôi bằng một giọng vô cùng xúc động. - Mình đang chuẩn bị cho một buổi thuyết giảng. Mừng quá. - Ôi, chúc mừng bạn. Mình sẽ đến nghe. - Bạn đến nhé, đến để hỗ trợ tinh thần cho mình. - Chắc chắn rồi, nhưng bạn sẽ thuyết giảng về đề tài gì? - Mình sẽ kể lại câu chuyện vừa qua. Mình nghĩ, trung thực với những gì đã xảy ra với thái độ chân thành, đó là sự thuyết phục tốt nhất với tình cảm của các phật tử. - Đúng vậy đấy bạn ạ. Mình tin mọi người sẽ hiểu, và đó cũng là một cách để bạn thật sự thanh thản. Tuệ Tấn mỉm cười gật đầu. Tôi đọc thấy trong ánh mắt bạn một cái váng ký ức. Tất nhiên rồi. Người ta có thể quên những câu chuyện vui, những không dễ phôi phai những mẩu chuyện buồn. Và dẫu sao, đâu đó trên cõi đời này, vẫn còn một bóng thơ trẻ lênh đênh. Họ ngồi yên lặng nghe. Giọng Tuệ Tấn trầm trầm như thủ thỉ. Câu chuyện lòng bày giãi cùng những chiêm nghiệm đắng đót của một chặng đường đời, với một sự chân tình có phần như tự vấn, đã thấm được vào lòng những người ngồi đây. Những bà, những chị sụt sịt hoe mắt, những gương mặt đàn ông thì trầm mặc, tôi nhìn thấy hình ảnh một sư thầy Tuệ Tấn đã trở về trong cảm thức của họ. Vậy đấy, con người ta có thể xét nét, săm soi khắc nghiệt những tì vết của người khác, nhưng cũng dễ mở lòng đón nhận những nhân hồi. Trời về khuya, ánh trăng phang phác giãi lênh loang. Ngôi chùa chìm dần vào miền thư tĩnh. Đâu đó trong góc nhỏ thiền môn âm vọng tiếng chuông mõ… cốc cốc cốc… boong… cốc cốc cốc… ĐÀM LAN PHẢI CHI TÔI THÍCH CON GÁI… Một tay níu tà áo dài phần phật bay trong gió lộng. Một tay kéo nghiêng vành nón lá, cô gái mỉm cười. Nắng chiều bỗng dưng rực rỡ, đổ ánh vàng óng ả lên những đóa cúc mơn mởn, xinh xinh. Tôi buột miệng: “Đẹp quá!”. Cô gái quay lại mỉm cười. Dưng không, tôi bối rối, hồi hộp! Chộp lấy cái thùng tưới, tôi chạy về phía cuối vườn, bước xuống thềm giếng đất, để giấu bộ mặt sượng sùng. Tôi mắc cở. Thường khi, tôi là một thằng lạnh lùng. Vùng nầy, ai cũng biết tôi dị ứng với… con gái. Tôi không thèm nhòm ngó mấy nàng. Chỗ nào có con gái, tôi lỉnh đi nơi khác. Phải chi trong vùng có một trường dành cho dân húi cua thì tôi sẽ xin chuyển trường ngay lập tức, cho khỏe! Tôi chúa ghét con gái. Hình như thượng đế sinh dân kẹp tóc ra để làm khổ con trai. Nhất là tôi! Người đầu tiên làm khổ tôi là… mẹ tôi. Mẹ rất yêu ba. Yêu dữ dội! Yêu mù quáng…! Ngày xưa, mẹ đã phải tranh đấu với bà ngoại, các dì, các cậu để được lấy ba tôi. Bà hăng hái rời xa ngôi nhà cổ, nền cao quá đầu gối để đến với một ngôi nhà lá thấp lè tè, xiêu vẹo. Trong nhà thiếu thốn nhiều thứ nhưng đầy ắp tình yêu. Tôi đã sinh ra trong khoảng thời gian hạnh phúc ấy. Và để mọi người biết được điều đó, mẹ đặt tên cho tôi là Nguyễn Văn Tình. Đó là cái khổ thứ nhất. Cũng vì cái tên trời ơi, đất hỡi nầy mà tôi trở thành một ngón tay cù vào nách lũ bạn. Mỗi lần cô giáo gọi: “Tình, lên trả bài”. Y như rằng lũ bạn lăn ra cười. Nhất là bọn con gái. Chúng ré lên những tràn âm thanh quái đản: “hi hi, hí hí, hì hì…” liên tục, đến khi cô giáo nhịp thước, ra lệnh: “Im lặng!” tôi mới được yên. Chúng còn nhẫn tâm thêm mắm, dặm muối vảo trước hoặc sau cái tên cúng cơm của tôi, biến tôi thành “Thất Tình, Tư Tình, Ái Tình, Bỉểu Tình, Phong Tình hoặc là Tình Tang, Tình Cờ, Tình Trường…” thậm chí, có đứa gọi tôi là “Đồng Tình Luyến Ái”. Tôi ức lắm nhưng chẳng biết làm sao! Không lẽ đi đánh con gái. Suy đi tính lại chỉ còn một cách lánh xa chúng là thượng sách. Người thứ hai làm khổ tôi là… em gái tôi. Nó chào đời, tôi bị hạ giá ngay. Mẹ tôi yêu nó còn hơn yêu ba tôi. Bà dành hết thời gian để chăm sóc nó. Vậy mà mẹ còn bắt tôi hầu hạ cô em mít ướt. Suốt ngày nó khóc ư ử. Đói khóc! Buồn ngủ… khóc! Tè ướt tã cũng khóc. Nó làm cho ngôi nhà om sòm, rùm beng, rối tinh lên. Tôi bị sai giặt tã lót, đưa võng, hát ru. Tôi tuôn ra hàng loạt những câu ca dao tuyệt vời. Tôi gào khản cổ năm bảy bài nhạc thiếu nhi mà con bé vẫn “oa oa” mãi. Mẹ còn cằn nhằn: “giọng như ngỗng đực, làm sao em nó chịu nghe”. Tôi bực bội vung tay: “Con cóc thèm hát ru nó”. Mẹ dịu giọng: “Làm anh phải bao dung, rộng lượng chứ, sửa giọng ngọt ngào đi!”. Chưa hết, khi nó biết đi, tôi phải chạy theo nó. Sợ nó tới chỗ ba trồng hoa, ngắt vài nụ. Sợ nó chạy ra bờ ao, trợt chân ngã xuống, chết ngủm. Sợ nó te te vào bếp, làm đổ nồi canh còn nóng, lột da đầu… Tôi canh nó còn hơn chúa ngục canh tù. Vậy mà nó chẳng biết ơn. Mỗi lần tôi cõng nó đi chơi, nó nắm tóc tôi giật giật, hét tướng lên: “Ngựa, chạy lẹ đi ngựa!” Hết thời gian chăm trẻ, tôi lại bị cô em làm tình làm tội theo cách khác. Nó thường hãnh diện với cái tên Nguyễn Thị Mỹ Tự. Lũ bạn nó dù moi óc cũng chỉ có thể tìm ra được vài chữ ghép vào cái tên của nó, nhưng cũng không đến nỗi mắc cỡ như tên tôi. Đại khái như: Trật Tự, Tuyệt Tự, Tự Tử, Tự Sát… Điều đáng nói là nó học giỏi hơn tôi. Trong lúc tôi è ạch mãi mới được xếp loại trung bình thì mỗi học kỳ, con bé Tự mang về nhà một chữ: “Giỏi”. Ba tôi thường vuốt râu, nhịp chân, tuyên bố: “Đời ba, còn gì vui sướng hơn!” Quay sang tôi, ba ra lệnh cho mẹ: - Sao bà không mua óc heo về chưng cách thủy cho nó ăn coi có khá lên chút nào không! Mẹ tôi thở dài: - Có chớ sao không. Thôi, để tôi mua óc bò chiên bơ cho nó ăn, may ra… Nhỏ em tôi thích chúi mũi vào đời tư của tôi. Thừa lúc tôi vắng nhà, nó lục tung tủ sách của tôi, lôi ra mấy quyển tiểu thuyết diễm tình, kiếm hiệp để méc ba mẹ. Tôi lại được dịp nghe ba đánh giá: - Mầy hư quá rồi! Tiêm nhiễm văn hóa độc hại nặng quá rồi, bảo sao không học dở. Nhà nầy vô phước thật! Một lần, tôi theo lũ bạn đi hái trộm đào, xui xẻo gặp nhỏ em chết tiệt. Nó liền méc mẹ. Bà… liền tụng cho nghe một bài kinh: “Giáo dục đạo đức” từ sáng đến tối. Tức mình, tôi thề với trời đất: - Tôi thề sẽ thù con gái cho tới chết! Mấy ngày gần tết, vườn hoa nhà tôi cứ bị một lũ con gái ung dung vào chụp hình. Chúng thay phiên nhau ỏng ẹo, đứng, ngồi… nằm bên cạnh những đóa hoa rực rỡ để chụp ảnh. Tôi đỗ quạu, hét: “Chụp, chụp hoài! Lỡ làm gãy nhánh hoa thì sao? Một con bé tóc ngắn như con trai toét miệng cười: - Thì tụi em đền cho. Nghe động, nhỏ Tự từ trong nhà chạy ra: - Mấy chị khéo khéo nha! Đặng giáp tết ba em đem ra chợ bán. Một cô gái tóc dài sà tới, nắm bàn tay Tự: - Em đừng lo, tụi chị cũng yêu hoa như em vậy. Ừ, hay là em ra đây, tụi chị chụp cho vài kiểu. Trời đất ngó xuống mà coi! Nhỏ em tôi liền hăng hái nhập cuộc. Nó cũng cười nụ, vân vê tà áo bà ba, cũng đứng, ngồi, nằm. Nó làm gãy mất hai nhánh thược dược. Nó còn nháy mắt với tôi: - Vui quá xá! Tôi méc ba, ông thản nhiên phán: - Kệ nó! Ngày thường có ai bén mảng đến đây đâu. Hoa dù đẹp cũng đâu bằng người đẹp. Tôi muốn méc mẹ nhưng nghĩ lại sợ bà ghen bóng gió rồi người bầm giập cũng là tôi. Đúng như ba bảo. Khi ba đem những giỏ hoa ra chợ bán sạch. Trong vườn chỉ còn lại vài khóm lài, khóm cúc èo uột, vài luống hồng nhung nở muộn thì chẳng còn ai tới ngắm hoặc chụp ảnh. Ba ngày tết tôi buồn đứt ruột. Ra vào chẳng biết làm gì. Hết bốc một miếng mứt bí, lại hốt một nhúm hột dưa cắn cho đỡ buồn. Kết quả, trên gò má láng lẩy của tôi xuất hiện năm bảy… cái mụn đỏ ửng, nhưng nhức. Nhỏ em được dịp trêu ghẹo: - Năm mới, anh hai trổ mã con trai rồi. Cúng tất xong, mẹ bảo hết Tết. Tôi quay lại với công việc bình thường. Vừa quảy cặp thùng định tưới mấy luống cà thì mấy cô gái hôm nọ ghé thăm vườn hoa. Lần nầy, họ mặc áo dài rất đẹp. Sau khi vào nhà chúc Tết ba mẹ tôi, đưa cho nhỏ em mấy tấm hình. Họ túa ra sân chụp thêm vài kiểu nữa. Tôi xót dạ hết sức khi thấy vườn hoa xơ xác, lơ thơ vài vạt hoa nở muộn. Nhưng, tôi chợt nhận ra người đẹp làm gì cũng đẹp. Những cô gái xuân thì như những đóa hoa rực rỡ trong vườn đời. Tôi bỗng thấy mình… ngu thật. Sao lại thù con gái? - Anh hai, làm gì đứng chôn chân dưới đó vậy? Mắc cỡ hả? Lên đây, em cho xem cái nầy, ngộ lắm. Giật mình, ngước lên, Mỹ Tự tươi cười, tay chìa mấy tấm ảnh ra phía trước: - Hình anh nè. Bữa hổm, mấy chỉ chụp lén đó. Đẹp trai quá! Tôi quăng cặp thùng tưới qua một bên, phóng tới, chộp lấy tấm ảnh. Đúng là tôi. Chúa ơi. Tôi mặc quần tà lỏn, đứng dạng chân, hai tay chống hông, mặt nghênh nghênh, môi mím, mắt sáng quắc. Trông như ông kẹ vườn. Thấy phát ghét! Quê ơi là quê! Phải chi tôi mặt quần dài, đừng đưa cặp giò ốm tong, cao nhòng, đen nhẻm ra. Phải chi tôi đứng khép nép một tí! Hai tay buông xuôi hoặc nâng một đóa hoa. Phải chi tôi mỉm cười! Mắt nhìn xa xăm. Phải chi tôi… thích con gái thì mùa xuân nầy sẽ đẹp biết bao.
NGUYỄN THỊ MÂY
MỤC LỤC Vài chi tiết về kỳ họp ngày 09.12.2017… ........ Vũ Thư Hữu ... 01 Vài dòng về một cuốn sách tuyệt vời khiến tôi nhớ lại một thời trai trẻ quá đẹp ....... Vũ Anh Tuấn ... 05 Có tận thế không? (tt) ............ Lm. Giuse Nguyễn Hữu Triết ... 07 Tu Phật thời nay ................................ Tâm Nguyện ... 13 Ba truyện ngắn của Ivan Turghenev: Một cuộc đàm đạo - Anh nghe lời phán quyết của kẻ ngốc - Con chim sẻ Thúy Toàn dịch . 24 24 di sản thế giới tại Việt Nam ................ Phạm Vũ ... 30 Bài chòi Trung bộ trở thành Di sản… ........... Bùi Đẹp st. .... 40 Định giá tác phẩm nghệ thuật .......... Hoàng Kim Thư st. ... 42 Người quét mộ Cụ Phan ................... Nguyễn Văn Sâm .... 49 Nhà văn Kỳ Phát (Phạm Cao Củng) ....... Đào Minh Diệu Xuân st. .... 60 Bàn về Nhạc Phi ..................... Phạm Hi ếu Nghĩa ... 61 Ước đi em (thơ) .............................. Đàm Lan ... 64 Tình mộng (thơ) ......... Phạm Thị Minh-Hưng .... 65 Giáng Sinh rực rỡ (thơ) .............. Phạm Thị Minh-Hưng .... 66 Noel buồn (thơ) ........................ Lam Trần .... 67 Chờ Xuân (thơ) ........................ Ngàn Phương .... 68 Xuân nhớ quê nhà (thơ) ............... Ngàn Phương .... 69 Bốn mùa (thơ) ................... Ngàn Phương .... 69 Thăm nhà bạn (thơ) ................... Hải Đăng-Trần văn Hữu .... 70 Cuối nẻo vô thường (thơ) ................ Thanh Phong .... 71 Người ấy (thơ) ............................. Hoài Ly .... 72 Quán chiều (thơ) ................... Hoài Ly .... 72 Tìm đâu ?! (thơ) .................... Hải Âu ... 73 Ước nguyền (thơ) ....................... Hải Âu ... 74 Ước gì (thơ) ................... Vũ Thùy Hương .... 74 Gợn sóng (thơ) ................. Vũ Thùy Hương .... 75 Xế chiều (thơ) ...................... Thanh Xuân .... 75 Phụ nữ (thơ) ...................... Thanh Xuân .... 76 Mừng Xuân (thơ) ................... Phùng Chí Tâm ... 77 Mùa Xuân hạnh phúc (thơ) .............. Phùng Chí Tâm ... 77 Mưa trên biển (thơ) ............................. Quang Bỉnh .... 78 Chợ tết (thơ) ............................ Quang Bỉnh .... 78 Xuân Mậu Tuất 2018 (thơ) ............ Quan Thúy Mai ... 79 Mơ Xuân (thơ) ................. Thùy Quân Hương Mai ... 79 Sáng Thiên An đan viện (thơ) ........................ Thùy Quân Hương Mai ... 80 Nét cho… (thơ) ............................... Bs.Doanlinh ... 80 Cám ơn người nghệ sỹ (thơ) ............. Lê Minh Chử .... 81 Cái gì không đúng sẽ không tồn tại (thơ) .......... Lê Minh Chử .... 82 Mừng Xuân Mậu Tuất (thơ) .......... Phước Hải ... 83 Thuyền trên phố (thơ) ............................ Lê Nguyên .... 84 Bài hát cũ lời thơ mới (thơ) .............. Lê Nguyên ... 84 Đón Xuân (thơ) .................... Thanh Châu .... 85 Vui Tết (thơ) ................. Thanh Châu .... 85 Thức giấc nửa đêm (thơ) ........... H uỳnh Thiên Kim Bội .... 86 Chưa già (thơ) .................... Lang Nguyên .... 87 Ngày Xuân nhớ bạn (thơ) .......... Lang Nguyên .... 87 Đếm giọt cô đơn (thơ) ........... Vũ Đình Huy .... 88 Tìm (thơ) ....................... Vũ Đình Huy .... 88 Hoa phong lan (thơ) ............ Vũ Đình Huy ... 88 Hà Nội vào Xuân (thơ) ................. Vũ Mão .... 89 Hanoi in Springtime (thơ) ............. Vũ Anh Tuấn dịch .... 90 Tỷ phú & học vấn ............. Đỗ Thiên Thư st. .... 91 Một tối cuối năm .......................... Lam Trần .... 96 Chuyện bút danh của các nhà văn, nhà thơ Việt Nam . Lệ Ngọc st. 105 Quy luật cuộc đời ....................... Kim Sơn st. 107 Chỉ có 2… ............................ H oàng Chúc st. 117 Hình xưa cảnh cũ ............. Hà Mạnh Đoàn 120 Lối xưa ngậm ngùi ......................... Đàm Lan 123 Phải chi tôi thích con gái… .............. Nguyễn Thị Mây 135 Thông báo: Kỳ họp tiếp theo của CLB sách Xưa & Nay sẽ diễn ra vào lúc 9:00 ngày 03/02/2018 tại Nhà thờ Tân Sa Châu, số 387 Lê Văn Sỹ, phường 2, quận Tân Bình. Bài viết cho bản tin nội bộ xin gửi về: hamanhdoan69@yahoo.com hoặc liên hệ với Hà Mạnh Đoàn - 0937 108489 Các bản tin trước có thể xem tại: www.diendan.songhuong.com.vn www.giaimakinhphat.com www.sachvatranh.com www.newvietart.com www.vandanviet.net www.hoamai-aus.org.au
[1] Thơ Puskin [2] Nhắc đến chuyện một nhà du hành Nga trở về Nga đã mang theo giống khoai tây ở phương Tây về, thoạt đầu đã bị khước từ. Quanh củ khoai tây có tin đồn đại là tạo vật của quỷ dữ. Nhưng dần dà khoai tây cũng trở thành cái ăn chủ yếu cho người Nga, nhiều khi thay cho lúa mạch đen. |