Hiện có 10 người xem / 2316488 lần xem
         info@sachvatranh.com       84 (0) 1 222 929 703        

VÀI CHI TIẾT VỀ BUỔI HỌP NGÀY 12-1-2008

Như thường lệ, để mở đầu cuộc họp Dịch giả Vũ Anh Tuấn đã giới thiệu với các thành viên một cuốn sách mới, cuốn “Kỷ lục Guinness 2008” (Guinness World Records 2008). Đó là một cuốn sách khổ 24 x 30 phân được ấn loát cực kỳ đẹp và hiện đại. Bìa cuốn sách trông như được khảm xà cừ nhìn vào người nhìn lóe cả mắt, thực là tuyệt vời. Còn nội dung là hàng ngàn các kỷ lục liên quan tới đủ các lãnh vực, trong đó có 5 kỷ lục mà người giới thiệu xin nêu ra ngay dưới đây để chia sẻ với các bạn đọc.

Kỷ lục số 1 là kỷ lục về “người thiếu phụ có eo nhỏ nhất thế giới”, người giới thiệu thấy kỷ lục này thật tếu vì hình ảnh người thiếu phụ bộ ngực thì to đùng mà cái eo thì bé tí trông thật kỳ cục chẳng thấy đẹp ở chỗ nào.

Kỷ lục số 2 được nêu ra là kỷ lục về một anh “béo nhất thế giới”, anh này cân nặng trên 500 ký lô, và sau khi ăn kiêng khem theo lời khuyên của một bác sĩ nên đã xuống cân nhưng vẫn còn trên 300 ký lô, trông tội nghiệp quá.

Kỷ lục thứ 3 là một anh “có móng tay dài nhất thế giới”. Hồi xưa ở Việt Nam có vài kẻ để móng tay lá lan, dài lắm cũng chỉ mươi mười lăm phân, nhưng kẻ có kỷ lục này để những móng tay ở cả mười ngón tay dài tới gần 1m, nhìn thật là gớm ghiếc và không hiểu tên này làm sao mà sinh sống, ăn uống, rửa mặt, đi vệ sinh đây. Chắc chắn là mọi việc đều phải có người làm cho hắn.

Kỷ lục thứ 4 dễ thương nhất là một thành viên của nhóm làm kỷ lục đã thu xếp cho hai bà già gặp nhau ở Mỹ và số tuổi của cả hai bà cộng lại được 227 năm và 142 ngày, vì cả hai bà đều ra đời năm 1893, một bà sinh vào tháng Tư và bà kia sinh vào tháng 12 cùng năm nói trên. Hai bà già đều còn có vẻ rất sinh động và cả hai còn đều rất tươi cười (xin xem ảnh) đầy vẻ tự tin là sẽ còn tiếp tục “trụ thế” dài dài.

Kỷ lục thứ 5 là một kỷ lục về “người sưu tầm nhiều cuốn sách có chữ ký của tác giả nhất”. Kỷ lục này là của hai người Gia Nã Đại đã sưu tập được TỚI 722 CUỐN SÁCH CÓ CHỮ KÝ CỦA TÁC GIẢ. Đọc kỷ lục này người giới thiệu phát “bược cười” vì mới có từng đấy sách mà đã hô là vô địch thế giới. Các người làm kỷ lục của nhà Guinness đều không biết rằng ở bên Việt nam chúng ta, ở ngay đây, nơi hàng tháng chúng ta họp CLB, Lm. Triết, Cố vấn của CLB có tới trên 900 cuốn, vậy hơn kỷ lục thế giới thì chắc chắn phải là kỷ lục hành tinh rồi.

Sau phần giới thiệu cuốn sách các thành viên đã bầu anh Vương Liêm, vừa là nhà văn vừa là nhà báo và là Ủy viên UB MTTQ VN Q1 làm Phó Chủ Nhiệm thay thế cho anh Lưu Nhật Quang đã quá cố. Đồng thời các thành viên cũng bầu anh Phạm Thế Cường và anh Hà Mạnh Đoàn vào chức vụ thư ký. A.Cường kiêm nhiệm luôn chức vụ Thủ Quỹ. Kế đó các thành viên đã cùng nhau trao đổi về một số điều liên quan tới CLB và cùng quyết định sẽ tổ chức một cuộc triển lãm về các hoạt động của CLB trong thời gian qua. Sẽ triển lãm một số hình ảnh, bộ bản tin 21 số, một số sách của ngay chính các thành viên viết hoặc dịch, một số sách cổ mới tìm được, và một bữa ăn tất niên vào ngày 29-1-08 tức là ngày 22 tháng 12 Âm lịch. Buổi họp kết thúc lúc 11 giờ kém 15 phút.

VŨ THƯ HỮU

 

Câu lạc bộ Sách Xưa & Nay

Nhìn lại sau 2 năm

Sách báo không chỉ là món ăn tinh thần, nhu cầu văn hóa, khoa học nghệ thuật cần thiết cho mọi người mà còn là tài sản quý giá của đất nước, dân tộc hay của nhân loại. Làm sao góp phần vào việc sưu tập, bảo quản, giới thiệu, phát huy và giáo dục truyền thống yêu văn hóa vật thể lẫn phi vật thể cho thế hệ hiện tại và mai sau. Đó là một số mặt họat động và mục đích của sự ra đời của CLB Sách Xưa & Nay ở thành phố Hồ Chí Minh.

Ban đầu nó chỉ là sự họp mặt trao đổi của một số người cao tuổi yêu sách, ham đọc hoặc thích viết và kinh nghiệm bảo quản về các lọai sách xưa và nay quý hiếm, có giá trị, nhất là ngăn chặn nạn chảy máu sách quý. Về sau, khi nó ra đời dưới sự tham gia tích cực của hai người ở tuổi “xưa nay hiếm” : một là hiện đang lưu giữ được nhiều loại sách xưa cả trăm năm in bằng chủ yếu ba thứ tiếng (Việt, Pháp, Anh) muốn giới thiệu cho nhiều người biết giá trị cổ và hay của chúng và hai là tu sĩ công giáo phụ trách một nhà thờ của một giáo xứ chẳng những yêu sách mà còn có bộ sưu tập quý hiếm về Kiều (cả sách lẫn đồ vật) và cho sử dụng phòng đọc sách của nhà thờ làm chỗ sinh hoạt của câu lạc bộ thì một số đông bạn yêu sách, chuộng văn học biết đến và tham gia. Trong đó phải kể đến sự góp phần thông tin, giới thiệu và trực tiếp tham gia của các nhà báo trẻ, nhà xuất bản lớn của thành phố.

Đã hai năm qua, câu lạc bộ sách xưa & nay (CLB sách X&N) sinh hoạt định kỳ mỗi tháng một lần rất đều đặn có vài chục hội viên già, trẻ, nam, nữ trong đó có nhiều nhà văn, bác sĩ, kỹ sư, nhà giáo, nhà báo… tham gia trao đổi nhiều đề tài về văn học và giới thiệu tác giả, tác phẩm cổ gồm có sách, báo trong và nước ngoài hay bộ sưu tập quý hiếm, công phu trong những dịp kỷ niệm ngày báo chí, sinh nhật hay ngày mất của nhà văn được nhiều người biết đến và còn tổ chức tham quan nhà lưu niệm, mộ phần như Lưu Trọng Lư, Nguyễn Bính, Lê Văn Trương, Phạm Phú Thứ, vườn Kiều ở Biên Hòa vv…

Đặc biệt, CLB còn phát hành đều đặn mỗi tháng một số bản tin lưu hành nội bộ với sự tham gia đóng góp công sức và tài chính của hội viên bằng hội phí của mình. Cho tới nay đã ra mắt tới số 20 có nhiều bài viết của các hội viên, giới thiệu nhiều bộ sách cổ, hiếm của thế giới và Việt Nam, các nhà văn nổi tiếng, các phong tục tập quán cổ Việt Nam với các tranh, ảnh cổ liên quan… Như vậy, mặc dù CLB Sách X&N còn nhỏ hẹp, hoạt động chưa rộng lớn nhưng đã thể hiện được một số mặt đáp ứng được mục đích, yêu cầu đề ra của những người sáng lập, trong đó động viên nhau để tích cực sưu tầm, tìm mua lại các loại sách cổ từ 50 năm trở lên để giới thiệu với CLB và tự bảo quản lấy với mục đích bảo tồn sách cổ, hiếm, có giá trị của quốc gia, dân tộc (sợ mai một đi).

Điều đáng ghi nhớ nhất của CLB là sau mỗi năm họat động, các hội viên và khách mời vui vẻ ngồi lại với nhau để chuyện trò bên bữa tiệc tất niên vừa để mừng CLB thêm một tuổi vừa để ôn lại những việc CLB đã làm được, nhất là biểu lộ tình cảm gắn bó của các hội viên với nhau trong không khí ấm áp của ngày đầu xuân.

Vương Liêm

NGÀY XUÂN NGHE CÁC NHÀ VĂN

KỂ CHUYỆN THI SĨ TẢN ĐÀ

Tản Đà là một trong những nhà thơ hiếm hoi mà cho tới lúc này vẫn còn được rất nhiều người yêu thích, kính phục. Người viết đặc biệt kính phục Tản Đà ở chỗ ông chưa hề bao giờ để đồng tiền chi phối và luôn luôn sống theo đúng cách ông thích, tóm lại ông bao giờ cũng chính là ông, và chẳng bao giờ sợ là mình “chẳng giống ai”.

Xin giới thiệu với quý bạn đọc bản tin một vài truyện về Tản Đà do các nhà văn cùng thời với ông như Lan Khai, Nguyễn Tuân, Nguyễn Công Hoan kể lại, đồng thời cũng xin mời quý bạn xem thủ bút của nhà thơ.

PHÁC HỌA CHÂN DUNG TẢN ĐÀ

…Thi sĩ Tản Đà là một người đàn ông đẫy đà, hơi thấp; đầu đội chiếc khăn xếp không che kín mái tóc theo kiểu bàn chải, mình mặc áo sa bóng. Thi sĩ có một gương mặt nở nang và thường đỏ hồng vì men rượu; - tiên sinh nổi tiếng về rượu cũng như về thơ; tiên sinh lại đã tự bào chữa trước sự đùa cợt của thế nhân bằng hai câu thơ rất tài tình:

Đất say, đất cũng lăn quay;
Trời say, mặt cũng đỏ gay ai cười?

Gương mặt ấy sáng tươi luôn luôn bởi cái miệng môi mỏng lúc nào cũng mủm mỉm cười và bởi cặp mắt cười nhiều hơn miệng. Cái nhìn của tiên sinh có vẻ ngạc nhiên, thẳng thắn, tỏ ra không bao giờ biết dối trá hết. Tự dáng điệu, cử chỉ của tiên sinh, bốc lên một thứ hương quý của lòng chân thành mà tiếng cười của tiên sinh làm cho rõ rệt thêm. Ồ, chẳng rõ các bà, các cô và các ngài đã từng nghe thi sĩ Tản Đà cười bao giờ chưa? Thi sĩ cười luôn và cười rất to, sau mỗi câu thơ hay mỗi câu chuyện mà thi sĩ lấy làm khoái chí. Thi sĩ là người đã để tất cả tâm hồn mình trong tiếng cười (1). Ấy chính cái thói quen ầm ĩ ấy nó khiến nhiều người; thoạt đến gần tiên sinh phải tan mộng. Là bởi, phần đông, những người ấy đều đợi chờ ở thi sĩ một vẻ kín đáo hơn, xa xăm hơn. Ngay tôi, lần đầu diện kiến thi sĩ, tôi cũng có cảm tưởng như tan mất một cái mộng tuyệt đẹp! Nhưng, cảm tưởng ấy chỉ thoảng qua. Người ta ở đời, ai không có ít nhất là một tật khó chịu? Người ta chẳng phải là thần thánh cũng không đến nỗi là quỷ sứ; người ta chỉ là người. Và, chính vì người ta chỉ là người nên người ta mới có thể đáng yêu. Thi sĩ Tản Đà rất là người thành thử dù ai khó tính đến đâu sau cũng phải yêu mến.

Vả, không mến yêu sao được, cái tâm hồn thuần túy ấy, cái tâm hồn Á đông còn sót lại trong thời buổi mà người ta, nếu muốn sống, không thể không mưu cơ, xảo quyệt.

Một nhà phê bình Pháp, ông Albert Thibaudet, đã nói: “Tuổi thơ ngây là một thiên tài thi sĩ mà thiên tài thi sĩ tức là sự kéo dài tuổi thơ ngây”. Câu nói rất đúng, nếu ta đem nó áp dụng vào cái trường hợp thi sĩ Tản Đà. Thực vậy, thi sĩ Tản Đà chính là một tâm hồn thơ ngây lạc loài trong xã hội người nhớn, một xã hội người nhớn tinh khôn. Thi sĩ vì thơ ngây nên đã tạo ra trong trí bao nhiêu là mộng lớn mộng con. Thi sĩ vì thơ ngây nên đã thất bại nhiều phen trong sự thực hiện những mộng lớn mộng con hết sức thơ ngây của mình. Thi sĩ lại đã vì ngây thơ mà, dù bao phen thất bại, vẫn không chán nản, cứ mơ mộng hoài, mơ mộng cho đến tận trước khi nhắm mắt. Và, mỗi lần thất bại, thi sĩ chỉ biết ngạc nhiên không hiểu, cười rõ to lên một chút để rồi, một lúc sau, lại mơ màng toan tính những việc xây bên xứ Tây Ban Nha một tòa lâu đài khác đồ sộ hơn!...

Lan Khai

(Trích bài diễn thuyết nhan “Phác họa hình dung và tâm tính thi sĩ Tản Đà”

Tao Đàn, số 9-10, tr.790-795)

(1) Đêm ấy ba chúng tôi nói chuyện với nhau lâu. Thì ra tôi thấy ông Hiếu vui tính, hay cười và nhũn nhặn lắm. Sáng ngày ra, tôi liền khoe với ông Dương Bá Trạc: “Đêm qua tôi có gặp ông Tản Đà rồi”. Tôi lấy sự gặp được ông Hiếu làm hân hạnh, thật tình! (Phụ chú này tòa soạn VĂN rút trong bài “Tôi với thi sĩ Tản Đà” của ông Phan Khôi.)

TẢN ĐÀ, MỘT KIẾM KHÁCH

Bây giờ mới đến chuyện ông Tản Đà múa kiếm.

Hồi năm ngoái, vào tiết sen tàn đã cụp lại trên mặt ao những chiếc lọng rách, pha vào cái già nua của cây cỏ một màu dỉ sắt, tôi và vài ông bạn nữa kéo nhau về làng Hà Trì ở gần tỉnh Đơ. Ông Tản Đà đã đính ước cùng chúng tôi là gặp nhau ở đấy. Hôm chủ nhật, đánh chén. Gặp ông Tản Đà, thường bao giờ cũng lấy rượu ra làm đầu sai; nếu không đại yến được thì ít ra cũng phải tiểu ẩm. Hôm ấy, thịnh soạn. Thi nhân khoe rằng vừa mới lĩnh (!) được một món tiền nhuận bút. Thảo nào, rượu hôm ấy có lẫn mùi đảng sâm. Và sớm hôm ấy, tôi thấy được một ngày không có giờ. Trong lúc chủ khách thu ẩm, sự đời cứ chầm chậm, nhè nhẹ như cái hồi nước Cổ Việt Nam chưa bị nhà nước Pháp tới ở, có những người tuổi tác vào lớp cha anh chúng ta, ăn bữa gỏi cá sinh cầm mất những một ngày một đêm. Đôi câu đối:

“Nhãn tiền nhất bôi tửu;
Bách thế nhân hậu danh.”

Do chủ nhân đề vào giấy hồng điều dán phủ lên cột nhà, đã có sức mạnh cám dỗ bọn tôi nên quên hết mọi cái băn khoăn ở đời và lúc này chỉ nên say. Biết trước bữa ăn phải kéo rất dài ra cho nó họp với phong tục trong túy hương, tôi nhỏ nhẻ, gắp rất chậm. Bao giờ cho tôi quên được cái con cá chắm nướng, mình dài đúng một thước ta nằm trên tàu lá chuối giữa bàn ăn. Thuận tay, tôi ngồi gỡ con cá nướng, trong ruột nhồi đầy những lá thơm tho. Tớp xong một hớp rượu có mùi khê khê, tay tôi gỡ cá ra từng mảnh nhỏ, miệng tôi nói với đám tiệc:

- Trước khi gần Tần Thỉ Hoàng để hành thích, có lẽ ngươi Chuyên Chư học nướng cá mấy năm ròng ở đất Ngũ Hồ, cũng chỉ khéo đến thế này là cùng.

Cả bàn tiệc cười xòa. Ông Tản Đà giục mọi người cầm đũa:

- Anh em mình ăn ngay cho nóng. Kệ lão ấy gỡ cá. Hắn có tài, thì hắn phải làm đầy tớ bọn ta. Sự đời thường vẫn thế! Hề, hề.

Lúc gần triệt soạn, tôi nằn nì với chủ nhân:

- Người ta đồn cụ múa kiếm có nhiều đường đẹp lắm. Anh em hôm nay muốn được xem.

Mỗi người thêm một câu. Rút cùng, Phục – người con thứ thi sĩ – đã đưa cho cha một con dao phay. Như trước khi bình thân, ông Tản Đà đã thét người nhà lấy mấy tấm liếp bằng cót che kín mặt nhà trước lại. Và đóng kín cả hai tấm cửa sổ ở phía sau nhà trông ra vườn nữa.

Tôi đã hiểu thầm tại sao ông Tản Đà có sự cẩn thận này. Đấy là dớp sợ hãi của những năm Đông Du và Đông Kinh Nghĩa Thục còn để sót lại trong người thi nhân. Cái sợ đó, cái cẩn thận đó là những cái lo lắng chính đáng của những nhà nho sống vào thời cụ Quận Thái Xuyên Hoàng Cao Khải, vào thời quan Khâm sai Lê Hoan, mà vẫn nhớ luôn là trong nhà mình có quyển Sấm Trạng Trình, một cuốn binh thư và trong cái đòn ống gác bếp, vẫn có một thanh quất ép lưỡi vào tấm bìa một cuốn sách tính số Thái Ất. Trước khi múa kiếm, ông Tản Đà nghiêm trang như một võ sĩ sắp lên tỉ thí trên lôi đài nói với mọi người:

- Môn kiếm này của Tư Đạt truyền cho tôi.

- Tư Đạt?

- Con ông Đô thống Thuật ấy mà. Ngày xưa, tôi năng tập, công phu lạ. Bỏ đã lâu lắm, chả biết bây giờ có đi được cả bài không. Ấy thế mà dù có nhớ, cũng khó mà đi hết được.

Trong gian nhà tối lờ mờ, mọi người nhận thấy một cái bóng trắng lượn múa trên hai bộ ngựa ghép sát lại. Ông Tản Đà mặc áo trắng dài. Cũng tiến lên, lùi xuống, bước đi gò theo một luật phép rất khắc khổ. Cũng múa trên, đỡ dưới. Chưa bao giờ tôi tập đánh kiếm. Nhưng hồi còn ở lao, có mấy người tù đàn anh đã đi cho tôi xem cả môn độc kiếm, cả môn song kiếm và giảng sơ sơ cho tôi về môn kiếm thuật. Căn cứ vào những nhời xa xôi ấy, tôi thấy ông Tản Đà hôm ấy múa tròn lắm, đường kiếm lúc nào cũng che kín người. Và có những đoạn loạn đả, ông Tản Đà có những miếng sả và tuốt cũng lợi hại lắm. Chả biết lúc sự thực phải cho đổ máu thì kiếm thuật sẽ như thế nào, nhưng ở phút múa kiếm sau cơn rượu, tôi thấy thi nhân đẹp lắm. Và nhớ tới một cuộc bút chiến, ông Tản Đà đã lên án chém ông Phan Khôi mà tôi sợ.

Tôi nhìn xuống nhà dưới thì ở khung cửa nhà ngang, bà Tản Đà đang thập thò với vẻ khiếp sợ rõ rệt. Nghỉ múa kiếm, ông Tản Đà gọi thứ nam:

- Phục ơi! Ờ, con bỏ quần áo vào va-li cho cậu. Chiều nay cậu ra Hà Nội.

Rồi quay lại phía chúng tôi, ông nói về chuyện kiếm:

- Tứ phương, bát diện. Những lúc tứ diện thụ địch, những lúc hỗn chiến, thanh kiếm sát phạt đã nhiều lắm, chư hiền ạ.

Vẫn không quên sắp hành lý để chẩy ra Hà, thi nhân bỏ vào va li một cái nghiên mực, một đĩa son và một tập cổ thi. Cái va li ấy là một chiếc va li cũ kỹ đã bật cả khóa, chẳng khác gì cái va li của một ông Đồ Nghệ mới ra Bắc làm thuốc. Say ruợu, rồi múa kiếm; cất kiếm rồi hỏa tốc sắm va li lên đường như là một khách không nhà, sao người ta lại không sống vào thời Trung Cổ để làm một kẻ hiệp sĩ nhỉ? Chưa bao giờ, tôi buồn một cách rất thi vị như buổi chiều ấy.

Cái buổi chiều ấy là một buổi chiều ông Tản Đà khởi hành ra Hà Nội để rồi đi mãi mãi, đi… thẳng luôn vào Lịch sử, của nước Việt Nam văn chương.

Nguyễn Tuân

(Tao Đàn, số đặc biệt, tr. 89-93)

ÔNG SOÁT VÉ XE LỬA VỚI THI SĨ TẢN ĐÀ

Năm 1932, báo An nam tạp chí bị đình bản lần thứ ba, ông Tản Đà mới tính sự đem báo vào Vinh.

Vì thế ông năng phải đi Vinh luôn.

Đã có một lần, sáng ông ở Hà Nội vào Vinh, và đêm lại đi luôn xe lửa ra Hà Nội.

Chuyến ấy tôi cùng đi với ông ở Vinh về.

Hành lý của ông là một cái chai, một cái cốc, dăm quả nem và một cái khăn mặt ướt, đựng trong cái rỏ tròn, bằng tre đan, có quai xách.

Thường lúc buồn ông vẫn uống rượu trên tầu.

Xe chạy được vài ga, ông trùm vạt áo lên mặt để ngủ cho đỡ gió. Tôi hết chỗ nằm, phải ngồi cạnh ông để ngủ gật.

Đến một ga, một ông soát vé lên đánh thức hành khách rầm rĩ để làm bổn phận. Ông ta gắt người nọ, cự người kia. Đương đêm, ai phải dậy không khó chịu, và ai có thể nhanh nhẩu lấy được vé ra cho ông ta khám ngay.

Nhưng lạ một nỗi là ông ta không đánh thức ông Tản Đà, mà chỉ ngó nhìn vào cái rỏ, có lòi cái cổ chai ra mà thôi, rồi yên trí, hỏi vé tôi là người bên cạnh.

Thấy sự kỳ quặc, tôi hỏi, thì ông ta trả lời:

- Thôi, để ông ấy ngủ, ông ấy say đấy mà.
- Ông nào mà ông biết đích thế?
- Ông Nguyễn Khắc Hiếu chứ ai! Lần nào đi tầu không thế.

Nguyễn Công Hoan
(Tao Đàn, số đặc biệt, tr. 120-121)

TRANH “ĐÁM CƯỚI CHUỘT”

Tranh làng Hồ chẳng những nổi tiếng trong nước mà từ xa xưa tiếng đồn đã lan sang tận xứ sở của Thiên triều (Trung Quốc). Bởi vậy, mỗi lần có sứ thần Trung Quốc sang Thăng Long, bao giờ cũng đòi đoàn tiếp đón sứ quán nước ta dẫn đến làng Hồ để xem tranh và mua tranh. Đã là sứ thần thì phải văn hay chữ giỏi, thông minh nhanh trí để khi “đối thoại” với ta được lưu loát và giữ được thể diện sứ Thiên triều.

Có một số mẩu chuyện “Tranh làng Hồ” với sứ thần Trung Quốc sau đây:

Đám cưới chuột

Một chú chuột gộc xách cá đến lễ tết mèo, dưới có chữ “Tống lễ”.

Đó là một ngày trong những ngày giáp tết năm Tý. Sứ thần nhà Thanh đến xem tranh làng Hồ, thấy chữ “Tống lễ” kia liền xổ tài chơi chữ ra một vế đối hóc hiểm:

- Tý tận, thử tống Mão

(Cuối năm chuột, chuột lễ mèo)

Thâm ý của sứ thần là ví nước ta và Trung Quốc. Đoàn tiếp sứ chưa kịp ứng đối thì một cụ nghệ nhân đã đưa ra bức tranh vẽ một con trâu đang vểnh tai đi trên con đường ngoằn nghoèo như con rồng đang lượn. Đoàn tiếp sứ của ta hiểu ý, dựa vào bức tranh đó đối ngay:

- Sửu đầu, ngưu thốn Thìn

(Đầu năm trâu, trâu nuốt rồng)

Sứ thần Trung Quốc không biết nói gì vì rồng tượng trưng cho ngôi Thiên tử Trung Quốc đã bị con trâu tượng trưng cho xứ sở Việt Nam nuốt, trâu nuốt rồng có nghĩa là Việt Nam sẽ thắng Trung Quốc (nhà Thanh). Ở đây cái tài nữa trong mười hai “can” tính theo thứ tự thời gian kiểu Trung Quốc là Tý, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tỵ,… thì lịch tuần hoàn sau năm Tý là năm Sửu, sau năm Mão là năm Thìn. Đối như vậy là rất sát.

Trong kho tàng tranh dân gian từ lâu đời hẳn ta chưa quên hình ảnh khá độc đáo của bức tranh Đám cưới chuột mà người ta còn gọi bức tranh này với khá nhiều tên: Mèo Thủ Lễ, Lão Thử cầu thân…

Chủ đề của tranh nhằm đả kích chế độ phong kiến hà hiếp dân lành, tệ ăn hối lộ. Tranh mang nhiều màu sắc sặc sỡ vui mắt nhưng không kém phần sâu cay. Bố cục của tranh được chia làm hai phần:

Phần trên: Hai chú chuột thổi kèn cùng với hai chú chuột đi trước, một chú xách con cá chép to tướng, một chú hai tay bưng con gà. Trước mặt là anh mèo đẫy đà ngồi chặn đường tay phải giơ ra nhận lễ.

Phần dưới: Chú chuột cưỡi ngựa đi trước đang ngoái đầu lại ra lệnh là lễ đã xong, được phép đi qua. Một chú chuột đi sau cầm lọng che. Chú chuột thứ ba cầm bảng gỗ có chữ chúc mừng và cuối cùng là chiếc kiệu có một chú chuột ngồi chễm chệ bên trong được khiêng bởi bốn chú chuột khác.

Ý vị của bức tranh nhằm trình bày một đám cưới chuột qua đường phải nộp tiền mãi lộ cho mèo. “Phép vua thua lệ làng” vì thế muốn đi phải chịu nộp lễ.

Người ta nói bức tranh trên xuất hiện vào thời nhà Lý khoảng 1010 và các nhà nghiên cứu cho rằng có thể nó xuất hiện trước đó. Hình bức tranh dân gian này qua thời gian đã mai một dần ít người nhớ đến.

Nhưng chắc hẳn khó ai quên được cảnh dí dỏm:

“Đám cưới chuột tưng bừng rộn rã”. Vào những ngày đầu xuân, bức tranh đám cưới chuột cũng là một lời phê phán nhẹ nhàng mà sâu sắc đối với những tệ nạn hối lộ, hay tham nhũng… những thủ tục đầu tiên để vào “cửa quan” mà đến nay vẫn còn trong xã hội.

Bùi Đẹp (st)

VÀI CHI TIẾT VỀ CUỐN
“CONNAISSANCE DU VIETNAM”
CỦA HAI ĐỒNG TÁC GIẢ
PIERRE HUARD VÀ MAURICE DURAND
THUỘC TRƯỜNG VIỄN ĐÔNG BÁC CỔ

Tôi gặp cuốn sách này lần đầu tiên năm tôi 20 tuổi và người giới thiệu nó với tôi không ai khác hơn là Cụ thân sinh ra tôi. Một hôm Cha tôi lấy từ trong tủ sách, mà cụ để riêng những cuốn sách Cụ quý và đánh giá cao, cuốn Connaissance du Vietnam này và bảo tôi: “Con hãy chịu khó đọc ngay cuốn này, con đã 20 tuổi và đã biết khá Pháp văn, hãy đọc cuốn này để có một hiểu biết căn bản về quê hương, đất nước và đồng bào của con. Tuy các tác giả là hai người Pháp nhưng những gì họ biết về dân ta rất ư là phong phú, rất đáng để chúng ta sử dụng và tham khảo.”

Vừa mở cuốn sách tôi đã có cảm tình ngay vì tôi bị trên một trăm hình vẽ rất đẹp vẽ đủ mọi lãnh vực, ngành nghề của người Việt mình, chinh phục cái một. Tôi liền bỏ ra 3 tuần lễ để nghiên cứu cuốn sách, và càng đọc tôi càng thấy thích thú. Tôi tự nhủ, đây là một cuốn sách tốt quá, sau khi mình đọc xong, sẽ tìm cách phổ biến cho bạn bè cùng đọc, và rồi tự nhiên tôi cảm thấy như mình bị một sợi dây vô hình nào đó ràng buộc mình với cuốn sách này. Tôi cảm ơn Cụ tôi và trách Cụ: “Cuốn sách hay thế này mà bây giờ Cha mới bảo con đọc, lẽ ra con phải được đọc nó sớm hơn.” Cha tôi cười và bảo: “Phải để cho con lo học cho cừ chữ Pháp rồi đọc thì mới thấy thích”. Từ ngày đó tôi luôn luôn nghĩ rằng mình có một chút “duyên” gì với cuốn sách này đây, để rồi, 37 năm sau, vào năm 1992, tôi được một vị “đầu nậu” sách có danh tiếng và cũng là người có tâm huyết với văn hóa dân tộc nhờ tôi dịch cuốn sách ra Anh ngữ và tôi đã làm điều đó với sự thích thú…

Bây giờ tôi xin giới thiệu nó với các bạn. Trước hết tôi xin được có mấy lời nói về 2 đồng tác giả Pierre HUARD và Maurice DURAND, sau đó tôi sẽ xin nói về tác phẩm tuyệt vời này. Cuốn sách được viết và xuất bản năm 1954 và tôi chỉ được biết là hai Cụ tác giả, một Cụ là một Thiếu tướng Quân Y (Cụ Huard) và Cụ Durand thì là một Giáo sư thì phải, tôi không nhớ rõ, tuy nhiên điều tôi biết rất rõ là cả hai Cụ đều là thành viên của trường Viễn Đông Bác Cổ đã được thành lập bởi một nghị định của toàn quyền Paul Doumer ngày 15 tháng 12 năm 1898, thoạt đầu mang tên là Phái Bộ Nghiên Cứu Khảo Cổ Học và một năm sau mới mang tên Viễn Đông Bác Cổ. Đây không phải là một Trường mà chính là một Viện Chuyên Nghiên Cứu về Lịch Sử, Khảo Cổ Học và Triết Học tại Bán Đảo Đông Dương và các Quốc Gia ở Viễn Đông như Nhật Bản, Trung Quốc và Ấn Độ. Nội việc hai Cụ là thành viên của tổ chức này cũng đủ để người đọc có quyền tin tưởng vào những gì các Cụ viết ra.

Giờ tôi xin giới thiệu cuốn sách. Sách này dày 385 trang có chứa đựng 132 minh họa tuyệt vời liên quan tới mọi lãnh vực hoạt động của người Việt Nam, và được chia ra làm 21 Chương, ví dụ như Chương 1 nói về địa lý Việt Nam, Chương 2 nói về Lược sử Việt Nam, Chương 3 nói về Cơ thể của người Việt Nam nghiên cứu về Dòng giống, Bộ xương, Gân cốt, Da, Răng vv… Mười tám chương còn lại nói về đủ mọi lãnh vực khác như Luật Pháp, Lễ Hội, Đời Sống Xã Hội, Chiến Tranh, Nông Dân, Nghệ Nhân, Đồ Ăn Thức Uống, Ăn Mặc, Chuyên Chở, Thú Vui Giải Trí, Đặc Tính Văn Hóa, Âm Nhạc và Văn Chương, kể cả Bói Toán.

Ngay hồi đó người viết đọc lướt qua nhiều chương và chỉ đặc biệt yêu thích Chương cuối cùng là Chương 21 nói về Văn Chương Việt Nam. Trong Chương này thoạt tiên hai Cụ nhắc tới các tác phẩm viết bằng chữ Hán dưới các đời Lý Trần như Đại Việt Sử Ký (1272), An nam Chí Lược của Lê Tắc (1334), Việt-điện u linh tập của Lý Tế Xuyên (1323) vv… Về văn chương chữ Nôm các Cụ nhắc tới Hồng Đức Quốc âm thi tập, tới Bạch Vân thi tập của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, và tới thế kỷ thứ XVIII, thì các Cụ nhắc tới Hồ Xuân Hương. Bước sang văn chương bằng chữ quốc ngữ thì các Cụ nhắc tới Trương-Vĩnh-Ký, Huỳnh-Tịnh-Của, Nguyễn-Văn-Vĩnh, Phan-Kế-Bính và Phạm-Quỳnh, các Cụ cũng đặc biệt chú ý tới Tản-Đà Nguyễn-Khắc-Hiếu. Trong chương này các Cụ còn nói tới cả cách thức làm thơ, phú, và trong lúc đọc khá kỹ càng Chương này người viết rất thích một bài mà hai Cụ gọi là thể thơ “Trường thiên”, và người viết xin nêu ra dưới đây vì thực sự là bài viết này trong 53 năm nay đã gần như là một thứ kim chỉ nam cho người viết sống theo:

Bài ghi trên chỗ ngồi

Người xấu chớ nên nói,
Mình hay chớ nên khen,
Làm ân chớ nên nhớ,
Chịu ân chớ nên quên,
Đời khen không đủ mến,
Duy lấy nhân làm nền,
Chứa bụng rồi mới động,
Gièm pha có ngại gì,
Đừng để danh quá thực,
Thánh ở trong ngu si,
Giữ mình cốt trong trẻo,
Ánh sáng lộ tỳ ty.
Mềm mỏng được bền dai,
Lão đam (1) khỏe mới kỳ,
Hầm hầm nét kẻ hèn,
Ôn hòa người lượng cả,
Nói cần, ăn có chừng,
Biết vừa, không tai vạ,
Cứ thế được mãi mãi,
Thơm tho cũng thỏa dạ.

(1) Lão đam là nói Lão Tử

Ngoài bài nói trên người viết còn khoái chí tử một bài khác ở thể thơ gọi là “yết hậu”:

Sư gạ vãi

Chơi Xuân kẻo nữa già,
Xưa nay vẫn muốn mà,
Mời vãi vào nhà hậu,

Ta…

Vãi cự lại:
Đã mang tiếng xuất gia
Còn đeo thói nguyệt hoa,
Sư mô đâu có thế,

Ma.

Gần nửa thế kỷ đã trôi qua mà người viết không hề có lúc nào quên mấy câu thơ kỳ diệu này, để rồi gần đây vì thấy đất nước ta đang lạm phát “học giả” nên người viết nương theo bài thơ trên mà cũng làm một bài yết hậu tặng quý vị “học giả” hiện đại (xin lưu ý là các học giả thật, các học giả chân chính thì không bị bài này “phủ sóng”):

Biển học vô bến bờ,
Học thật mắt muốn mờ.
Huống chi là “học giả”
Mơ.

Vào năm 1992, người viết được một vị đầu nậu thuê dịch cuốn sách này ra Anh ngữ và người viết đã làm. Cuốn bằng Pháp văn dày 358 trang, nhưng khi sang tiếng Anh (vì in thưa hơn) nên cuốn sách dày đến 452 trang và người viết đã ký bút hiệu là Vũ Thiên Kim, là tên con gái của mình đã xuất ngoại sinh sống ở Cali bên Hoa Kỳ. Bản dịch này đã được tái bản tới lần thứ ba và người viết đã cẩn thận dịch không bỏ một dấu phẩy của nguyên tác. Do đó ngày nay bản dịch này đang được một số người làm công việc nghiên cứu đôi khi dùng để tham khảo vì hai Cụ tác giả đã làm một chuyện tuyệt vời là, ở cuối mỗi Chương trong tất cả 21 Chương các Cụ đều có để phần Danh sách sách báo tham khảo, như vậy sau mỗi Chương có không dưới 50 tên sách báo liên quan tới vấn đề được bàn, và người dịch đã dịch đủ hết tất cả các tên sách báo đó sang Anh ngữ là thứ tiếng lúc này rất thịnh hành, do đó cũng phần nào có một đóng góp gián tiếp để sau này kể công với Mẹ Âu Cơ…

Trích Hồi Ký 60 năm chơi sách, Chương VI
Vũ Anh Tuấn

Năm Tý Nâng Ly Rượu Vang
Chúc Thọ 150 tuổi

Theo sinh lý sinh vật học, tuổi thọ ở các động vật thường gấp 5-7 lần thời gian sinh trưởng (# phát triển đến tình trạng trưởng thành). Tuổi thọ tối đa ghi nhận được ở loài người là 122.5 năm, còn ở chuột nhắt ( mouse ) thì chỉ khoảng 3 năm thôi. Tuổi thọ tối đa khác biệt nhiều như vậy giữa người và chuột – là do... gien và những yếu tố ảnh hưởng đến tiến trình lão hóa như: hiệu quả của việc bảo trì DNA (DNA repair ), các loại và lượng enzym chống-ôxy-hóa ( antioxidant enzymes ), khác biệt ở tốc độ sản xuất ra các gốc tự do (different rates of free radical production),vv... Riêng với loài người có thể chọn mốc thời gian là thời điểm chiếc răng cối cuối cùng – “răng cấm”, mọc lên tức là vào khoảng 20-25 tuổi. Và như vậy lẽ ra chúng ta phải sống tới 175 tuổi mới đúng hạn, chứ “Trăm

Phụ Bản I

năm trong cõi người ta” thì mới là ở mức tối thiểu thôi. Nếu “không có vấn đề gì” chúng ta rất có thể “ước vọng tuổi thọ”

vừa phải từ 120 đến 150 tuổi! Và Tết đến thế nào người ta chẳng nâng ly chúc thọ nhau bằng rượu! Riêng năm nay, loài chuột lên ngôi với năm Mậu Tý 2008, tia hy vọng đã tới với thông tin sau đây có liên quan tới chuột:

Thực nghiệm trên chuột... nhắt các nhà nghiên cứu thuộc Trường Y Harvard và Viện Quốc Gia Lão Khoa Hoa Kỳ đã cho thấy Chất resveratrol một thành phần tự nhiên của rượu vang đỏ không những có khả năng hóa giải các hệ quả xấu của một chế độ ăn giàu năng lượng mà còn kéo dài được tuổi thọ nữa.

Báo cáo này được đăng tải trên báo Nature , kể như một tin vui mùa Giáng Sinh : Chỉ cầu mong sao cho con người cũng được như chuột nhắt thì chỉ cần uống thêm hàng ngày những liều resvetrarol tương đối lớn là có thể thoát khỏi đại dịch béo phì đang đe dọa dân Mỹ và nhiều cộng đồng khác trên thế giới. Resveratrol là chất tự nhiên có nhiều trong vỏ nho đỏ (không có trong vỏ nho xanh) và đem lại màu đỏ sậm cho rượu vang đỏ: người ta không khỏi “đoán mẩm” có lẽ điều này giải thích được phần nào nghịch lý của cách ăn uống theo người Pháp (the French paradox), làm sao họ ăn uống “nhiều bơ, sữa” khoái ăn ngon nhiều chất béo thế mà so với dân Mỹ lại ít bị bệnh tim mạch hơn : trên bàn ăn người Pháp luôn luôn có chai rượu vang đỏ.

Nhóm nghiên cứu chia chuột nhắt làm 2 nhóm: Nhóm 1 được cho ăn theo chế độ ăn trong đó 60% tổng số năng lượng bắt nguồn từ chất béo. Các chú chuột nhắt hết thảy đều là đực, khởi đầu cuộc thực nghiệm vừa tròn 1 năm tuổi đời – tương ứng với tuổi trung niên loài người. Được nuôi theo cách này, chẳng mấy chốc chúng phát sinh ra những triệu chứng đe dọa bị đái tháo đường, gan lớn rõ, và… so với những chú chuột ăn uống đúng chuẩn mức thì... vắn số hơn rõ ràng.

Nhóm chuột nhắt thứ 2 cũng được nuôi dưỡng nhiều chất béo như nhóm 1 song có bổ sung thêm mỗi ngày một liều lớn resveratrol. Chất này không hề ngăn cản các chú chuột nhóm 2 tăng cân và trở nên “mũm mĩm” không thua gì các bạn được “vỗ béo” như thế. Tuy nhiên tình trạng phì nhiêu này không giả tạo như ở nhóm 1: Nồng độ glucose và insulin trong máu của chúng không hề tăng cao – báo hiệu bệnh tiểu đường gần kề – và gan chúng giữ nguyên được kích cỡ bình thường. Và đáng ngạc nhiên hơn cả, resveratrol bổ sung kéo dài hẳn tuổi thọ của nhóm chuột số 2 may mắn. Resveratrol bổ sung cho bữa ăn dồi dào dầu, mỡ đã cho phép nhóm 2 “hưởng dương” thêm nhiều tháng so với nhóm 1 – không được bổ sung resveratrol nên vắn số hơn, tuổi thọ này xét ra ngang bằng với tuổi thọ của đàn chuột ăn theo chế độ chuẩn lành mạnh (on a standard healthy diet). Kể như nhóm 2 may mắn nhất vì… suốt đời được ăn uống phủ phê mà không hề phải trả giá (như nhóm 1 chết yểu, bệnh hoạn).

Có cách nào khác kéo dài tuổi thọ?

Dạ có, nhưng theo hướng ngược hẳn lại : Tiết giảm lượng calo nhập vào theo cân đối dinh dưỡng lành mạnh về mọi phương diện gọi tắt là Tiết Giảm Calo ( Calorie restriction hoặc đơn giản hơn nữa = CR ) đã tỏ ra có hiệu quả kéo dài được tuổi thọ của đa số sinh vật đã được thử nghiệm trong đó có: chuột ( rats ), men ( yeast ), ruồi quả cây ( fruit flies ), và giun ( nematodes ). Ở các loài gậm nhấm ( rodents ) như chuột, đại khái cứ cắt giảm 50% số calories trên mức ăn vào khi để cho ăn tự do (from what would be consumed by freely-feeding animals) thì có thể kéo dài được 50% tuổi thọ tối đa. Hiện có những thực nghiệm theo hướng này đang tiếp diễn trên loài linh trưởng – để mong nếu đạt kết quả tốt thì sớm áp dụng cho loài người chúng ta.

Ở Hoa Kỳ, hiện đã có Hội Tiết Giảm Calorie ( Calorie Restriction Society ) được thành lập từ giữa các năm 1990 với sự ủng hộ của các chuyên gia Brian M. Delaney , Lisa Walford , và Roy Walford . Các hội viên liên lạc với nhau bằng e-mail và phong trào này đã truyền sang Trường Đại Học Washington University ở TP St. Louis có Bs John Holloszy chủ trì. Chương trình nghiên cứu hiện hành tại một số trường ĐH Mỹ – theo gót ĐH UW-Madison đang tiến sâu thêm vào nghiên cứu tiết giảm Calo trên các loài khỉ linh trưởng.

Thực ra từ lâu rồi các nhà nghiên cứu đã được định hướng bởi một hiện tượng thường quan sát thấy khi, chẳng may, xẩy tới một nạn Đói hoặc trong trại giam bữa ăn tù nhân thiếu calo: các cơ thể tự động sẽ hạ thấp hẳn mức chuyển hóa và sản xuất ra ít hẳn những chất sinh hóa độc hại “ôxy-hóa” tàn phá các tế bào – cốt “tự bảo vệ lấy chính bản thân”.

Tuy nhiên cái “mới” ở đây là Bs. Guarente và Bs. Sinclair tin tưởng là người ta có thể kéo dài tuổi thọ theo một chương trình có tính tích cực hơn: Người ta sẽ cố gắng từng bước tìm cách chuyên biệt phòng tránh các bệnh thường xuất hiện với tuổi tác, song vì chính đa số các bệnh này có thể “xua đi” bằng cách tiết giảm calo nên họ tin chắc là vì thế mà các sinh vật kể trên sống lâu hơn – khỏe mạnh.

Uống rượu chát sống lâu hơn chăng?

Trở lại công trình vừa công bố trên báo Nature, chuột nhắt nhóm 2 “may mắn” đã nhận được hàng ngày một liều resveratrol “mạnh” = 24 mg/kg thể trọng. Giả sử với loại rượu vang đỏ thông thường có nồng độ resveratrol 1.5 - 3 mg/lít, mà một người cân nặng lối 60 – 70 kg muốn uống đủ liều resveratrol giống như các chú chuột nhắt kia… thì sẽ phải nốc 10 - 20 chai rượu mỗi ngày!!! Ước vọng tăng tuổi thọ đâu chưa thấy, nhưng chắc chắn sẽ chết ngay vì ngộ độc cấp tính do cồn ethanol.

Tín Hiệu Tốt Cho Năm Tý

Đa số chúng ta cho rằng khó có thể tồn tại được nếu giảm 40% số calo chúng ta thường ăn mỗi ngày. Song nếu giảm Calo thực sự giúp cho người hay chuột sống lâu hơn thì thật đáng công chứng minh là việc khả thi nữa !

Từ 2003 đến nay có khá nhiều nghiên cứu tập trung vào việc sản xuất ra được một lọai thuốc có khả năng họat hóa protein men của gien SIRT-1 của các sinh vật, tìm cách “lừa” cho gien này họat động như thể sẽ phải chịu “đói” trong thời gian sắp tới (tricking it into thinking that days of famine lay ahead). Riêng Bs. Sinclair, trong phòng xét nghiệm của mình đã lên một danh sách những chất sinh hóa có tiềm năng kích hoạt gien SIRT-1 “nhái” tình huống giảm calo ở người. Và đứng đầu bảng về khả năng kích hoạt gien SIRT-1 chính là resveratrol, đem lại sắc đỏ sậm cho rượu vang.

Bs. Sinclair người chủ trì công trình thừa nhận, “việc resveratrol tác động trực tiếp hay gián tiếp qua gien Sir2 trên cơ thể sống hiện còn là vấn đề tranh luận chưa ngã ngũ”. Vả lại còn kể tới thế quân bình giữa tuổi thọ và khả năng sinh sản (fertility) nữa: ở chuột người ta dự kiến là resveratrol nếu kéo dài tuổi thọ, thì sẽ rất có thể làm giảm khả năng sinh sản – mặc dù Bs. Sinclair cho tới giờ chưa thấy biểu hiện nào theo chiều hướng đó trong công trình của ông.

Riêng đối với Cơ Quan Quản Lý Thực Dược Phẩm FDA, thì có quan điểm là lão hóa không phải là... một bệnh và cái chết không phải là một điểm tận cùng (death is not an end-point). F.D.A. sẽ chỉ công nhận những thuốc trị được bệnh tật bằng những phương pháp lượng giá được hiệu quả, nên các nhà sản xuất như Bs. Westphal vẫn hy vọng chứng minh được là các chất họat hóa sirtuin (sirtuin activators) sẽ cải thiện các chỉ số của những bệnh chuyên biệt, đứng đầu là Bệnh Đái tháo đường.

Kết Luận Thực Tế

Bs. Guarente kết luận “Chúng tôi tin tưởng là nếu chúng ta khai thác được các lợi ích của việc tiết giảm Calo, thì không những đơn giản chúng ta có nhiều cách để làm cho người ta sống lâu hơn, mà chúng ta còn có được một chiến lược trị bệnh hoàn toàn mới để đối phó với các bệnh tật do lão hóa (an entirely new therapeutic strategy to address the diseases of aging)”.

Trước thềm năm Mậu Tý 2008, người viết bài xin nâng 01 ly 100ml rượu vang ĐàLạt thành thật chúc độc giả Bản Tin CLB Sách Xưa và Nay sống lâu 150 tuổi bằng cách mỗi ngày ăn một chùm nho đỏ hay dâu tằm cũng được. Có vui đầu xuân uống chút rượu vang càng tốt – song tránh “quá chén” khó kéo dài tuổi thọ như mong muốn.

TPHCM, Ngày 12 tháng 1, 2008
Bác sĩ Nguyễn Lân-Đính
Chuyên viên dinh dưỡng

XUÂN Ý

(Thuận nghịch độc)

Đọc xuôi:

Xuân sang gió toả ngạt ngào hương
Nắng quyện đào mai rạng cúc hường
Trần cảnh tịnh yên tan chớp bể
Thế nhân êm lắng tạnh mưa nguồn
Nhuần tươi mướt cỏ hoa phơ phất
Mượt óng xanh tơ liễu vấn vương
Vần dệt tứ trao Chung đợi Bá
Xuân mơ nhạc khúc vẳng canh trường.

Đọc ngược:

Trường canh vẳng khúc nhạc mơ Xuân
Bá đợi Chung trao tứ dệt vần
Vương vấn liễu tơ xanh óng mượt
Phất phơ hoa cỏ mướt tươi nhuần
Nguồn mưa tạnh lắng êm nhân thế
Bể chớp tan yên tịnh cảnh trần
Hường cúc rạng mai đào quyện nắng
Hương ngào ngạt tỏa gió sang Xuân.

Thùy Dương

 

TẾT XƯA – TẾT NAY

TẾT QUÊ – TẾT CHỢ

Tình cờ soạn sách vở cuối năm, tôi gặp lại tờ Đặc San của quê tôi, một xứ đạo nhỏ, thuộc địa phận Vĩnh Long, vào thập niên 70. Trong phần viết về một số vụ việc vui buồn diễn ra trên quê hương trong nhiều chục năm trước đó, có đoạn viết về VUI XUÂN, xin trích đăng để chúng ta có cái nhìn khái quát về cách ăn Tết của người xưa ở quê:

“Trước Tết, nhà nào nhà nấy cũng lo chuẩn bị, nhứt là vấn pháo tre. Heo, gà, vịt thì có sẵn, bánh mứt thì lo làm trước. Ngày 27 tháng chạp thì quết bánh phồng đều làng đều xóm hết. Cũng ngày này, tiếng thử pháo nghe nổ đều trời. Đêm 28 Tết thì lo làm heo từ đầu làng đến cuối xóm. Ai không làm thì chia lúa mùa, 2 cân 1 giạ (một cân lúc đó là 2 cân rưỡi bây giờ vì cân bằng tiền ta – tiền của vua Tự Đức – một cân là 60 đồng tiền. Tiền đó là tiền kẽm, bẻ gảy).

Ngày xưa, các ông ăn Tết kéo nhau cả xóm đến ăn ở nhà đầu xóm trước rồi tuần tự cho đến nhà cuối xóm. Mấy ông sắp đặt trước từ 30 cho đến mồng 10, nhà ai trước, sau đều có phiên thứ cả.

Dịp này các ông tổ chức các trò chơi, nào là chụp dừa khô, kéo chèo bẽo, cạp chảo, trồng cây chuối đứng, đút bánh tét…

Trò chụp dừa khô thì mấy ông cầm trái dừa khô liệng ra, đứa nào chụp được thì đem lại lãnh 1 xu. Kéo chèo bẽo thì cột dây luộc vô eo ếch hai đứa, mỗi bên có ranh. Tại đây có l cắc bạc, đứa nào mạnh thì kéo đứa kia, hai đứa nhũng nhẵng, ai mệt trước hay yếu hơn thì bị đối phương kéo lần đến chỗ ranh lấy thưởng. Cạp chảo thì lấy chảo treo lên, đổ đầy nước, dưới đít chảo có gắn hai cắc bạc đôi. Cạp mà chảo nhút nhích thì đổ ướt áo vì tay bị cột lại sau lưng, không thể kềm chảo được. Trò chơi rất khó vì miệng ai cũng bằng phẳng, không thể cạp được, chỉ có một mình Bảy Thiệt là cạp được vì ông có cái đức trời cho là “miệng nhọn, răng hô”!.

Trò chơi đút bánh tét thì dành cho các cụ, và đến lượt bọn trẻ cười lại. Các ông ai cũng khăn đống áo dài áo rộng và râu ria trắng toát như ông Năm Trôi, ông Năm Chữ, ông Hai Bình, ông Sáu Chòi, ông Sáu Lê… Mỗi ông bịt mắt lại và cầm một đòn bánh tét nhân chuối, lột ra phân nửa. ông này hà, ông kia đút. Cứ nghe hà ở đâu thì lại đó đút. Ôi thôi cười muốn chết luôn vì ông nào ông nấy râu ria, khăn áo đều dính đầy bánh tét…”

Người kế lại câu chuyện trên, năm nay nếu còn sống cũng gần 100 tuổi (sinh năm 1911). Một trong các Cụ được nêu tên bên trên như ông Năm Trôi là người cha của ông thì sinh năm 1865, tức là câu chuyện diễn ra vào đầu thế kỷ 20, đến lượt tôi lớn lên thì những cảnh chuẩn bị Tết rộn rịp và những trò vui cả làng cùng tham gia rộn ràng, sôi nổi cũng đã không còn, thay vào đó là những sòng bầu cua cá cọp hay những sòng bài lớn nhỏ công khai hay lén lút được mở ra khắp nơi!

Rời quê, lên thành phố học và ở lại sinh sống đến nay đã hơn 50 năm, tôi vẫn thấy mình lạc lõng “lỡ chợ lỡ quê”, dù sống ở chợ nhiều hơn ở quê! Mỗi dịp Tết ở thành phố tôi không thấy có không khí vui chung, vì mọi người vào những ngày đầu năm chỉ có hoặc đến Chùa hái lộc – nếu là người theo Đạo Phật - hoặc là người công giáo thì đến Nhà thờ để mừng tuổi Chúa rồi sau đó mỗi gia đình tự sinh hoạt riêng rẽ với nhau, hay kéo nhau đến những tụ điểm để trả tiền xem những trò chơi được tổ chức, không phải để tham gia như ở quê chơi Tết ngày xưa kể trên.

Có lẽ cuộc sống văn minh, thành phố đầy tường vách, bê tông, rào sắt đã ngăn con người không thể đến gần nhau hơn. Vì thế, trong khi ở nhà quê, mỗi nhà cách nhau có khi đến vài trăm thước mà vẫn đằm thắm nghĩa xóm, tình làng. Nhà nào có chuyện vui buồn thì cả làng đều tham gia, chia sẻ với nhau, còn ở thành thị, nhà đông ken nhưng con người có vẻ lạnh nhạt với nhau, đôi khi nhà sát vách cũng không hề chào nhau một tiếng, có khi còn không biết chủ nhà kế bên tên gì!

Không biết chúng ta nên đổ lỗi cho nền văn minh hay chỉ biết thầm tiếc cho những nếp sống thân thiện, những niềm vui Tết đơn sơ mà đầy “dân tộc tính” đã biến mất theo thời gian. Chỉ tội nghiệp cho lớp trẻ sau này không còn được hưởng những thú vui mà cả làng từ lớn chí nhỏ cùng chăm chút đón Xuân để thấy ý nghĩa quan trọng của ba ngày Tết sau cả năm đồng áng vất vả. Do không có ai đứng ra tổ chức, lớp trẻ được “thả nổi” tự tìm niềm vui nên sẵn những ngày Tết được nghỉ, sẵn tiền lì xì thì hoặc là tổ chức cờ bạc, sát phạt nhau tới đổ nợ đổ nần, hay xúm nhau bắt chước người lớn mở độ nhậu, xúm nhau “dô, dô” cho tới say túy lúy, lấy đó làm niềm vui Xuân!

Nhân nhắc chuyện vui chơi ngày Tết, tôi cũng lạc đề một chút qua thú vui hiện đại, vì hình như cuộc sống càng văn minh, càng được vật chất phục vụ thì con người càng trở nên cô độc. Người lớn ở thành thị vì quá bận kiếm tiền nên bỏ mặc con trẻ, và bọn chúng chỉ còn biết giết thì giờ bằng cách say mê với những trò chơi trên máy! Trong khi ở Châu Á có em đã gục chết trên bàn chơi games, và các nhà khoa học đã cảnh báo rằng những đứa trẻ quen những trò chơi bạo lực trên games sẽ trở thành thô bạo trong cuộc sống, thì ở nước ta những dịch vụ này đã và đang nở rộ khắp nơi! Nhiều khách du lịch nuớc ngoài đã chán những khối bê tông vô hồn, những máy móc, ấn nút, đến xứ ta lại muốn được hướng dẫn cho dệt vải bằng khung cửi, làm gốm, trồng rau, trồng lúa… làm bánh tráng thủ công, và được xem những trò chơi dân gian của chúng ta, trong khi chúng ta vốn nhà sẵn có thì hoặc chỉ để dành biểu diễn bán vé, hoặc chỉ để lưu giữ trong các nhà truyền thống, lớp con cháu chỉ sẽ được chiêm ngưỡng như những “di tích lịch sử” mà thôi! Tất nhiên chúng ta không thủ cựu, không bài bác văn minh, nhưng thời buối đất nước mở cửa thì mọi thứ tốt hay xấu đều theo nhau tràn vào. Tiếp thu, học hỏi những tinh hoa, khoa học của xứ người để vui chơi, phát triển đất nước, con người, là điều nên làm, trong đó có cân nhắc để loại bỏ những mầm mống xấu, có nguy cơ ảnh hưởng đến lớp trẻ và biết giữ gìn vốn quý của ông bà để lại, nhắc nhở con cháu không quên cội nguồn, là điều những thế hệ đi trước đang quan tâm để thế hệ con cháu về sau không mất gốc, lai căng vậy…

Tâm-Nguyện
(1/2008)

Nhà thơ say Tản Đà ăn Tết 1927
tại Gia Định

Tản Đà là nhà thơ sinh ra và lớn lên trong hoàn cảnh đất nước đang ở ngưỡng cửa những cao trào cách mạng kháng chiến chống Pháp sôi động và có nhiều chuyển biến mới. Tính cách mê ẩm thực và say rượu lẫn say thơ của ông đã để lại cho đời nhiều thị phi. Nói theo GS. Lê Trí Viễn, đàng sau cái ý phong tình của tác giả, có cái tâm sự yêu nước thầm kín của ông. (Lịch sử văn học Việt Nam tập 4B NXB Giáo Dục 1978, trang 132).

Ông làm thơ với sự nghiệp đáng kể (Giấc mộng con I và II, Thề non nước, Nhớ bạn sông Thương…), là thi sĩ có tiếng tăm nhưng viết báo, làm nhà xuất bản và tự làm chủ báo chưa thành công. Thi sĩ Tản Đà tên thật là Nguyễn Khắc Hiếu sinh năm 1888 và mất năm 1939 ở đất Bất Bạt tỉnh Sơn Tây (Bắc Bộ). Năm 14 tuổi bắt đầu làm thơ bằng chữ Hán và tới năm 19 tuổi mới học chữ Quốc ngữ (chữ Việt) nhưng chẳng đỗ đạt gì nên ông vẫn tự khôi hài: “Chữ nghĩa Tây Tàu trót dở dang”. Thế mà tới năm 1921, ông được mời làm chủ bút cho tờ báo Hữu Thanh xuất bản tại Hà Nội. Sáu tháng sau ông xin nghỉ để xuất bản thơ của mình và lập Tản Đà Thư cục (nhà xuất bản). Tới năm 1926, ông tự ra tờ báo An Nam Tạp chí chỉ với số vốn lối 100 đồng do một mạnh thường quân nào đó khoái ông mà tài trợ, trong vào thời ấy muốn xuất bản tờ báo phải cần đến 3.000 đồng. Tới ngày báo phát hành số đầu (1/7/1926) ông phải đi vay nóng lãi suất 15% nên báo ra được đúng mười số thì tự đóng cửa (3/1927). Sau khi thanh toán nợ nần ông còn dư 7 đồng. Thế mà ông vẫn đi du lịch vào Sài Gòn.

Đến Sài Gòn, nhà thơ say “gàn dở” gặp ông Diệp văn Kỳ (có anh là ông Cường từng làm chủ báo Phan Yên 1868) chủ báo Đông Pháp Tạp chí. Ông này nghe chuyện đồng nghiệp gặp khó nên cảm kích giúp đỡ tiền để ra báo lại nhưng nhà thơ “gàn” lại “dở hơi” từ chối. Tuy vậy, để đáp lại tấm thịnh tình này, Tản Đà vui lòng cộng tác với Đông Pháp Thời báo phụ trách trang Văn chương ngay từ số 638 (22/10/1927). Và cũng chính số báo này là Báo xuân đầu tiên của làng báo Sài Gòn (Theo TS Nguyễn Mạnh Hùng, Hiệu trưởng trường Đại học Hồng Bàng với công trình nghiên cứu về Báo xuân Nam Kỳ – Tạp chí Đại học và Giáo dục chuyên nghiệp số Xuân 2000) bán chạy như tôm tươi, trong có bài thơ “Chơi xuân” của Tản Đà. Rất tiếc đây cũng là kỳ phát hành cuối cùng của tạp chí này vì có nội dung chính trị chống Pháp chớ không vì bài thơ ngông này.

Năm ấy nhà thơ say ăn Tết tại Sài Gòn nhưng lại xài sang thuê xe du lịch mui trần kiểu thể thao dân Tây chạy sang Bà Chiểu tìm bạn nhậu Tất niên. Tiền lương lẫn tiền thưởng ông đã tiêu sạch cả nên không còn tiền để ăn Tết. Chủ báo thấy vậy tặng thêm 5 đồng nữa cho ông. Trước khi qua Bà Chiểu nhà thơ nghĩ tới bạn thân ở Hà Nội ra bưu điện mua tấm thiệp Tết gởi đi mất 3 đồng. Chỉ còn 2 đồng, ông thuê xe 1 đồng, còn 1 đồng đưa cho bạn đi mua rượu và đồ nhấm. Ông bạn biết nhà thơ say phải có rượu bên mình nên mua trước một xị đế mất hai hào để lại nhà rồi mới ra đi. Mà đúng là chuyến đi mua đồ nhấm lịch sử thật! Ông bạn cầm tám hào còn lại ra chợ mua thêm hũ Mai quế lộ và con gà mái luộc để về cùng thi sĩ thưởng xuân trên đất Gia Định có truyền thống văn học lẫn lịch sử. Nào ngờ, ông bạn ham vui, trên đường về đi ngang qua Lăng Ông thấy đám đông chơi “bầu tôm cá cọp” đứng lại xem. Một lúc sau, mấy thầy pô-lít ào tới vây bắt đám lắc bầu cua, bắt cả ông bạn hiền mê cờ bạc về bót. Do không có giấy thuế thân (như giấy căn cước hay chứng minh nhân dân) trong mình và trông thấy ông ăn mặc lèng xèng nên bị tống giam vào ngục chờ qua đêm mới tính.

Nhà thơ nằm nhà chờ mãi không thấy bạn hiền trở về nên lấy xị rượu ra nhâm nhi khan chờ cho tới tiếng pháo giao thừa. Bạn hiền vẫn bặt tăm hơi. Nhà thơ vừa đói vừa say xỉn nên nằm lăn ra ngủ khò. Nghe nói sáng mùng một Tết ông bạn hiền mới ngả ngớn trở về nhưng rượu ngon và con gà mái dầu đều tan biến hết. Số là trong đêm nằm khám, ông ta sẵn có rượu ngon và đồ nhắm tốt mà làm sạch tại chỗ để đón giao thừa. Để an ủi bạn rượu của mình nhưng chưa được nhậu chung, ông bạn say xỉn này bèn ngâm bài thơ tạ tội như sau:

Cao hứng vì yêu bác Tản Đà
Một chai Quế lộ, một con gà
Suốt đêm trừ tịch nằm trong bót
Nhớ lại buồn cười lúc tỉnh ra!

TS Nguyễn Mạnh Hùng kể lại giai thọai trên căn cứ vào lời kể của bạn Tô Kiều Ngân ở báo Đông Phương số xuân Giáp Dần 1974.

Qua nhiều nguồn tư liệu, chúng ta biết thêm là nhà thơ say Tản Đà trở ra Hà Nội vào ngày 14/2/1928, nghe nói trong túi cũng chỉ có 7 đồng bạc giống như lúc vào Nam. Tới năm 1930, tờ An Nam tạp chí lại ra mắt bạn đọc ở Hà Nội tiếp ba số thì tự đình bản. Sau đó ông trở về Nam Định ra tiếp được ít số nữa nhưng bị chủ nợ tịch biên tài sản nên lại quay ra Hà Nội. Lần này ông in An Nam tạp chí tại thành phố Vinh (Nghệ An). Rồi cũng chỉ ra được 9 số nữa thì tự đình bản luôn vào ngày 1/3/1933.

An Nam tạp chí số 48 ra ngày 9/7/1932, chủ báo có bài viết thông báo như sau: “Vì tôi còn thiếu tiền in báo từ trước: số tiền lên đến 600 đồng bạc, đến nay món nợ ấy thành báo quán bị tịch biên”. Tới số báo cuối cùng thì ông có bài quảng cáo như sau:”Chữa thơ cho thiên hạ mỗi tháng lấy 1 đồng bút phí, hoặc có ai hậu tình xin tùy ở bài giảng”. Thật chưa có ai trong làng báo phải lận đận lao đao như ông vì nghiệp dĩ như thế. Nhưng làm báo không thích hợp với ông nên cuối cùng ông phải về quê mà sống với cảnh:

Công danh sự nghiệp mặc đời
Bên thời be rượu, bên thời bài thơ!

Vương Liêm

 

NGƯỜI MANG LẠI MÙA XUÂN

Trong khi con người luôn tìm cầu, rồi đấu tranh, hơn thua với nhau, đôi khi tàn sát lẩn nhau để dành chút danh vọng, vật chất phù du, rồi vui mừng khi đạt được hay thất vọng vì không thành công, quên đi cuộc đời vốn ngắn ngủi, đôi khi chưa kịp sống, chưa kịp đối tốt với người thân để rồi khi không còn cơ hội gặp lại nhau nữa thì hối tiếc, không biết rằng cuối cùng thì bản thân mình cũng phải ra đi, để lại những gì mình đã tốn bao mồ hôi để tích góp cho con cái tranh dành, xô xát với nhau, thì có người đã cảnh báo con người nên ý thức về cuộc sống, ý thức về bản thân để tiết chế những tham vọng, vì những điều đó chỉ nhằm thỏa mãn Lục Căn, mà Lục Căn thuộc về cái Thân, là cái mà sớm hay muộn cũng bị hư hoại. Nếu chìu theo nó, thì sẽ bị nó lôi đi, có thể sẽ vì nó mà làm những điều phi nhân nghĩa, phí uổng cuộc sống, lại tạo một số nghiệp xấu mà chính bản thân mình sẽ vì đó mà phải đọa: Đó là Đức Thích Ca. Chính vì những cái Lý trong quá trình tu hành Ngài chiêm nghiệm, khám phá ra rồi truyền lại không bị mai một theo thời gian nên được gọi là Chân Lý.

Thật vậy, khi đã lao vào giòng sống, bị cuốn hút bởi những gì mắt thấy, tai nghe, thân va chạm, con người đã không ngừng đấu tranh để chiếm hữu những gì tốt đẹp nhất để thụ hưởng, để làm thỏa mãn cho các giác quan, cho đó là mục đích cuộc sống. Khổ nỗi, vì không ý thức được sự hữu hạn của cái thân, của cuộc đời nên ít ai biết dừng lại đúng lúc để thấy rằng mình đang “được sống” hay đang “bị sống”, mình đang làm chủ ý thức, hay đang bị ý thức làm chủ, lôi mình đi theo hết ham muốn này đến tìm cầu khác, chẳng được nghỉ ngơi, đôi khi muốn ăn năn cũng đã muộn. Qua báo chí, chúng ta thấy, có một số người đã lao theo tội ác đợi đến khi pháp luật trừng trị mới giật mình thì sám hối cũng không còn kịp, để rồi đành bắt buộc phải đánh mất tất cả dù chỉ còn mong ước nhỏ nhoi là được tha thứ để làm lại từ đầu mà cũng không đuợc! Điển hình là một trùm ma túy ở Miền Bắc, say sưa buôn bán chất độc, hại biết bao nhiêu người khác, tiền lời đổi ra đô la bó lại chôn dấu kỹ, khi bị phát hiện thì có đến 400 ngàn, mà quanh năm chỉ dám gặm bánh mì không. Đến lúc sắp bị tử hình còn không hiểu tại sao thời gian qua mình đã sống như thế! Một tên cướp thủ đoạn dã man, tàn ác là Phước tám ngón đã hoành hành bao nhiêu năm, tra tấn, giết người không gớm tay, khi bị tuyên án tử hình đã ngồi nắn nót viết đơn xin ân xá nhưng không được. Lúc bị đưa ra pháp trường thì phải có người dìu vì không thể đi nổi và đã lo sợ đến nổi són ra quần trước phút bị hành hình…Nếu biết trước kết cục đến với mình như thế hẳn hắn ta đã không đưa cuộc đời mình đến nông nỗi đó! Tất cả chỉ vì không biết mình đang làm gì? Không nghĩ tới hậu quả việc mình đang làm. Không biết cuộc sống sẽ về đâu!

Ngày xưa, có một vị vua, biết mình bị bệnh nặng, không sống thêm được bao năm nữa, muốn hiểu rõ về cuộc đời nên cho tập hợp các nhà trí thức trong nước lại, yêu cầu viết ra cho Ngài biết về cuộc sống của con người. Các vị đó đã làm việc cật lực, viết thành những quyển sách dày cộp, chất đầy cả mấy xe. Vua bảo: “thời gian của ta không còn nhiều, không thể đọc từng ấy quyển sách, các người nên tóm tắt lại cho ngắn gọn”. Họ tóm lại dần dà chỉ còn l xe. Vua yêu cầu tóm gọn nữa, gọn nữa… cuối cùng còn lại 1 câu duy nhất:

“Con người sinh ra là để chết”!

Nói ra thì xem ra bi quan, nhưng đó lại là một sự thật không thể và không nên chối bỏ, bởi mọi người cuối cùng đều cũng sẽ phải chết! Nhưng cuộc đời của một người sẽ có ý nghĩa hơn khi thời gian tồn tại họ đóng góp được điều gì đó có ích cho đời. Thế nhưng, mọi người chỉ làm được như thế, khi ý thức rõ để làm chủ cuộc đời của chính mình, vì cuộc sông làm sao tốt đẹp được khi con người không biết tôn trọng cái đúng, cái sai, cái phải cái quấy của cuộc đời, mà chỉ biết có mỗi cái ‘ta”, và cái “ta” đó lúc nào cũng muốn được mọi thứ hơn người khác bất chấp thủ đoạn? Thử tưởng tượng mỗi người ném một bịch rác ra đường thì phường phố sẽ như thế nào? Và cũng thử tưởng tượng ngược lại, nếu mỗi người trồng một vài cái cây, một loại hoa để có bóng mát, để có những nụ hoa xinh xinh làm mặt đất bớt cằn cỗi hơn. Lúc đó, phải chăng dù không phải là mùa Xuân, nhưng vẫn làm cho lòng ta thấy ấp áp hơn? Nhưng bao giờ cũng thế, ai cũng nghĩ đến bản thân mình trước, vì thế xã hội luôn tôn vinh những người biết nghĩ đến người khác, biết chung tay đóng góp cho đời, chẳng ai ca tụng người chỉ biết vơ vét để thụ hưởng, dù họ có làm quan chức to đến cỡ nào, hay buôn bán giỏi giang đến đâu! Xã hội là của chung, mọi người đều có bổn phận xây dựng, và nền tảng bắt đầu từ từng cá nhân, từng gia đình. Sự xây dựng đó sẽ vững chắc hơn nếu đặt căn bản trên đạo đức, mà để sống đạo đức thì trước hết cái Chân, cái Thiện phải được nuôi dưỡng, phát huy, và bắt đầu từ đâu nếu không phải từ sự thanh lọc bản thân của chính mỗi người trước? Bớt đi một lời nói ác, một hành động ác là xã hội đỡ đi một sự ô nhiễm. Nếu tăng trưởng hành vi thiện thi xã hội lại càng tốt đẹp hơn. Bằng những việc làm nhỏ nhoi như thế, ta đang góp phần mang lại mùa Xuân cho bản thân, cho gia đình, cho xã hội.

Chiến thắng ba quân không bằng tự thắng”, hy sinh những lợi ích của bản thân mình không phải là điều dễ dàng, nhất là nếu biết để chẳng được gì, bằng khen cũng không mà vật chất càng không. Thế mà xã hội cũng không ít những con người như thế. Họ không cần nhân danh tôn giáo nào, chỉ làm với lương tâm, với trách nhiệm giữa con người và con người với nhau. Người có tiền thì giúp tiền, kêu gọi bạn bè, thân hữu và những người cùng chí hướng để lập thành hội, thành nhóm, hoặc tự làm một mình cách này hay cách khác. Những tình nguyện viên, những lương y, Bác Sĩ không ngại xa xôi, mang thuốc men đến với những bịnh nhân nghèo. Máu là thứ quý nhất mà họ cũng không ngần ngại hiến khi có người cần. Họ thầm lặng xe đá lấp đường. Họ bỏ công sức, tiền của để nuôi những trẻ mồ côi, những người tâm thần bị gia đình chối bỏ, những người già bị con cháu bỏ rơi. Họ hy sinh thì giờ, thú vui riêng để gần gũi, chăm sóc, an ủi những người đang bên bờ tuyệt vọng chỉ để cho những người đó vơi đi phần nào đau khổ, thêm chút niềm tin, chút hy vọng mà không đòi hỏi một sự đáp trả nào. Rồi còn biết bao nhiêu nhà nghiên cứu, những nhà giáo dục, những người luôn trăn trở tìm những kế hoạch để đưa đất nước đi lên. Phải chăng đó chính là những người âm thầm mang lại mùa Xuân cho đời? Một mùa Xuân thầm lặng đã dần được hình thành bằng những sự đóng góp từ nhiều tấm lòng như vậy. Họ không cần mọi người biết đến, cũng chẳng cần ai tuyên dương, nhưng hành động của họ rõ ràng là đang “Hành Bồ Tát Đạo”, vì trực tiếp góp phần để “cứu khổ nhân sinh” làm cho nỗi đau trần thế được xoa dịu đi. Mùa Xuân đang trở về cùng với thiên nhiên, hoa cỏ, thời tiết cũng hòa nhau để điểm tô cho cuộc đời thêm đẹp. Hoa trái, vật chất là những thứ làm cho thích mắt, cho cuộc sống thêm vui phần nào, nhưng những tấm lòng của con người đối với nhau mới là hơi ấm, là niềm vui thật sự của cõi người.

Mùa Xuân thì chẳng bao nhiêu ngày rồi sẽ trôi qua. Hương sắc rồi cũng sẽ phai tàn. Nhưng cái Chân, cái Thiện sẽ làm cho cuộc đời quanh năm nở đầy hoa nhân ái. Đó là lợi ích thật sự cho đời mà những tôn giáo chân chính đưa ra bao nhiêu lời giáo hóa cũng chỉ nhằm đạt tới. Bắt đầu từ cách học yêu bản thân, không muốn cho mình gặp điều bất hạnh nên tu sửa chính mình, vô tình cũng làm cho cuộc đời trở nên bớt xấu đi. Ý thức được sự mong manh, bất lực của cái thân, biết nó chỉ là món mà mình phải đi chung trong một kiếp sống, không phải là mình, để không tranh dành bất chính hầu phục vụ cho nó. Điều khiển nó, không để nó điều khiển mình. Không đắm đuối với nó thì cũng không còn lòng hận thù, ganh tỵ, trái lại còn nuôi dưỡng tâm từ bi, thương những người xấu số hơn mình. Phải chăng đó mới thật sự là mùa Xuân bất tận luôn nở hoa an lạc nơi tâm mà con người rất cần, vì với nếp sống như thế thì Thiên Đàng hay Niết Bàn đã hình thành từ ngay cuộc sống, việc về đó khi cái thân hết Duyên hết Nghiệp là điều đương nhiên, không cần phải cầu xin hay chờ ai rước, bởi “cây nghiêng bên nào thì đổ bên đó”, dù đời hay đạo cũng không thể nói khác hơn vậy.

Tâm-Nguyện
(12/2007)

CHUỘT QUA NGÒI BÚT NHÀ THƠ

NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU

Năm nay là năm Tý, năm thuộc về hành tinh con Chuột.

Chuột là giống vật ở gần người, làm hại người hơn hết nhưng oái oăm thay, các nhà làm lịch ở Trung Quốc và Việt Nam lại suy tôn cho chuột là đứng đầu Tam tài “Thiên, Địa, Nhân” và 12 chi Tuế (Tý, Sửu, Dần…)

Sách có chữ “Thiên khai ư Tý, Địa tịch ư Sửu, Nhân sinh ư Dần” có nghĩa là “Trời mở hội từ Tý, Đất ra từ hội Sửu, Người sinh từ hội Dần”, Tý là Chuột, như vậy ý hẳn giống Chuột là giống trời sinh ra trước nhất, trước cụ Bàn Cổ và cả cặp vợ chồng Adong – Eva.

Vì thế, Chuột cũng là một đề tài để nói để viết cho những người cầm bút xưa nay mỗi khi có chuyện gì về Chuột hay dính dáng đến Chuột.

Lại nữa, Chuột còn là giống trí mưu gian xảo, chẳng kém chi những hạng người ma giáo quỷ thuật, nên Tô Đông Pha một thi nhân nổi tiếng đời Tống trong bài “Hiệt thử phú” đã phải tự nhận là bị Chuột đánh lừa. La Fontaine một nhà thơ ngụ ngôn trứ danh ở Âu châu cũng nói đến rất nhiều về Chuột. Chỉ đáng tiếc một điều, những người viết về Chuột này lại không biết ăn thịt Chuột, và xứ sở họ lại cũng không phải là xứ sở biết xơi món thịt Chuột, nên các bài thơ bài văn về Chuột, có đẽo gọt công phu cách mấy cũng vẫn thua xa những cây bút của ta:

Nào người thì vịnh Chuột theo thể thơ Thất ngôn bát cú:

Ông Cống khoa nào chẳng thấy thi.
Chuột thì kêu chuột, Tý làm chi.
Bắt hơi chó sịt cong lưng chạy;
Nghe tiếng mèo ngao rút cổ đi.
Tĩnh nếp rá cơm tha thẩn bậy;
Đống rơm bồ lúa ngách hang kỳ.
Phô loài chuột lũ bay nên chạ;
Họa có bầu nan hắn sợ mi!

Nào người thì vịnh Chuột theo thể thơ lục bát:

Loài Chuột là giống bất nhân,
Thượng hạ áo quần gặm nhấm chẳng tha.
Có con nấp xó kẹt nhà,
Đợi chủ đi vắng chạy ra gầm giường.
Có con rúc dưới đường mương,
Ăn dơ uống bẩn khôn lường tanh hôi.
Có con ở ruộng ở ngòi,
Đào hang khoét lổ ôi thôi đủ trò.
Thấy ăn bộ tướng thập thò,
Láo liên cặp mắt rình mò sáng đêm.
Xem ra mẹo vặt cũng kền,
Nhưng không trái mật, thành hèn quá tay.
Gặp mèo co rúm lại ngay,
Thấy chưng chú rắn cũng bay mẹ đời.
Loài chuột hỡi, loài chuột ơi!
Đã “chuột” hỏi vác mặt đời lên chi?
Hôi hôi, hôi tệ thế thì,
Tìm nơi kiếm chốn lẩn đi cho rồi!
Sặc mùi chuột sạ Chuột ơi!
Chớ kêu “chít chít” mà mồi khuyển tha.
Ghét mày nên nó nhảy ra,
Táp cho một cái “úm ba la” đời.
Chuột ơi, chuột hỡi, chuột ơi…

Kể cũng văn vẻ, cũng ý nhị, nhưng mỗi người chỉ nói được một vài khía cạnh nào về tính chất của Chuột. Còn đầy đủ hơm hết, cả về nòi giống, quê quán, giòng họ nhà cửa của Chuột cũng như về tính nết và tội lỗi của giống vật này thì phải nói là bài “Hịch bắt Chuột” của Cụ Nguyễn Đình Chiểu, một nhà thơ yêu nước nổi tiếng ở Đồng Nai, Bến Nghé.

Theo cụ Nguyễn thì Chuột là giống vật:

Lông mọc xồm xoàm.
Tục kêu sà lắt.
Tánh hay ăn vặt,
Lòng chẳng kiêng dè.
Chỗ ở ăn hang lỗ nhiều bề;
Đường qua lại đào ra lắm ngách.
Nghe hơi động vội vàng biến mất, nhát quá mẹ cheo;
Chờ đêm khuya sẽ lén lút ra, liến hơn cha khỉ.
Gọi danh hiệu: chuột xạ, chuột lắt, chuột xù, chuột cống, anh em giòng họ nhiều tên;
Tra quán chỉ: ở nhà, ở ruộng, ở rạch, ở ngòi, bầu bạn non sông lắm lối.
Lớn nhỏ răng đều bốn cái, ăn của người thầm tốn biết bao;
Vắn dài râu mọc hai chia, vắng mặt chủ lung lăng lắm lúc.

Chuột là giống lông thì xồm, răng thì bốn cái, râu thì hai sợi, mang nhiều thứ tên và ở khắp mọi nơi, tuy không có gì là lẫm lẫm như cụ cọp, đường như sư tử, bệ vệ như ông voi, đã tham lại nhát, ấy thế mà đứng trước đứng đầu cả 60 Khoa Giáp và 12 Chi tuế.

Vả sáu mươi khoa giáp đứng trước, lẽ thì thiện, tính linh tâm;
Thì mười hai chi Tuế ở đầu, cũng đáng cư nhân do nghĩa.

Nhưng Chuột nào đâu có như vậy, lúc nào Chuột cũng đem lòng quỷ quái và chứa bụng tham lam. Từ túi của nhà thơ nhà văn đến sách vở thánh hiền, từ ruộng lúa vườn cây đến các đồ thường ăn thường dùng, giờ phút nào và ở đâu, đạo quân nhà Chuột cũng gây tàn phá hoại:

Túi Đông Pha thường bữa tha gừng;
Ruộng Đông Quách ghe phen cắn lúa.
Nếp gạo của trời nuôi mạng, ăn phá rồi còn kéo xuống hang;
Nệm mền của chúng che thân, cắn nát lại tha vào lỗ.
Hoặc nằm ngửa cắn đuôi tha trứng vịt, gây nên thằng tớ chịu đòn oan;
Hoặc leo dây ngóng cổ ngoạm giò heo, để tiếng con đòi mang tiếng khổ.
Thế cũng gọi mình hay ngủ kỹ;
Vậy cũng khoe ngồi trước tam tài.
Chẳng xét mình vò nuốt dưới cầu;
Lại quen thói lần mò bên vách.

Ấy đấy, những tác phong và hành động của loài Chuột, và đủ thứ trò ma chước quỷ làm hại người như vậy, nên tội lỗi của họ hàng nhà Chuột từ lâu đã ghi vào sách vở rành rành không thể chối cãi được:

Sách Lỗ sử liên câu thực giác, vì miệng ai vua lỗi đạo thờ trời;
Thơ Quốc phong để chữ thực miêu, vì miệng ai dân xa làng lẻo đất.

Đã làm cho vua chúa lỗi đạo, đã làm cho dân chúng lầm than, xẩy đàn tan nghé. Cái miệng của phe đảng nhà Chuột còn gây những hậu quả xáo trộn cho người:

Ghe phen trách quần hư áo lũng, vì miệng ai chồng vợ giận nhau;
Nhiều chỗ than vách ngả tường xiêu, vì miệng ai cha con dứt quẩn?
Nên xã tắc là nơi béo bổ, can chi mi đào lỗ đào hang;
Chốn miếu đường là chỗ thanh tân, cớ chi ngươi cắn màn cắn sáo?
Sâu hiểm bấy tấm lòng nghiệt thử, cục phân ra cũng nhọn hai đầu;
Báu xót chi manh áo thử cầu, mảnh da lột không đầy ba tấc.
Tuy là tương hữu bì hữu chất,
Mà thật loài vô lễ vô nghi.
Luận tội kia đã đáng phân thi.
Thư tay nọ cũng vì kiêng vật.

Tội Chuột to. Thân Chuột phải chết. Nhưng chưa thẳng tay trừng trị vì lẽ ném Chuột còn sợ bể đồ. Hơn nữa, đối với tập đoàn loài Chuột, người ta còn phải sôi gan lên nữa:

Giận là giận trộm đồ thờ Phật, trốn án mà xưng vương,
Căm là căm cắn sách nhà Nho, đành lòng mà phá đạo.

Phụ bản II

Đã hại người hại của, hại đồ vật, lại len lỏi vào chỗ thờ cúng để tác hư tác hại, lại xâm phạm đến cả những sách vở thánh hiền, làm hoại bại cả thuần phong mỹ tục cùng luân thường đạo lý, như thế loài người đâu thể dung tha loài Chuột được.

Ví có ngàn dòng nước thẳm, khôn bề rửa sạch tội đa dâm;
Dẫu cho muôn nén vàng đoài, cũng khó mua riêng hình bất xá.

Vì thế, loài người có nghĩa vụ phải thanh toán loài Chuột, phải trừ loài Chuột để bảo vệ loài Người và dứt đi mối hại.

Đuốc Điền Đan sắm sẵn, để phòng khi hun đốt ngách u vi,
Đèn Lý Bạch đái tùy, đặng chờ thưở xét soi hang khuất khúc.

Bấy nhiêu phương tiện chưa đủ. Muốn thành công trong cuộc đại chiến này để cho không còn loài Chuột nữa, loài Người còn phải có thêm những khí giới, những tổ chức, những kế hoạch và đoàn kết lại để phân công phân nhiệm rõ ràng:

Cuốc xuổng đào hang,
Phản mai chận ngách.
Chả trách nồi niêu rửa sạch, thượng kỳ phù địch khái chi tâm;
Tiêu hành sả ớt muối đâm, thứ dĩ tạ chúng nhân chi khẩu.
Chớ để con nào sơ lậu, phải ra tay lấp lỗ tam bành;
Đừng cho chúng nó xẩy ra, phải hết sức trừ đồ lục tặc.

Như thế gian đã biết bè lũ nhà Chuột là bè lũ nguy hiểm, bè lũ điêu ngoa và sảo trá, có mặt ở đâu là tác hại ở đó, không cắn thì cũng tha, không ăn thì cũng phá, loài Người phải ráng sức trừ Chuột cho:

Bốn phương đều ngợi chữ thái bình,
Trăm họ cùng vui câu yến đổ.

Năm nay là năm Tý, năm thuộc hành tinh Chuột. Chắc hẳn có bạn đọc cũng lo cho tình thế thiên hạ của cái năm ông Tý. Nhưng không sao, mong rằng toàn thể mọi người đều yên vui no ấm như Chuột sa vào hũ nếp. Trái lại, ông Tý không biết thân biết phận, còn ngoan cố, còn hoành hành thì chúng ta đã có những lời hịch trên để đối phó lại rồi.

Năm Tý, loài Người không sợ gì ông Chuột
Năm Chuột, loài Người không sợ gì ông Tý.

Vì đối với thế giới loài Chuột, loài Người bao giờ cũng khôn hơn gấp cả tỷ lấn, và chỉ ra tiệm mua ít thuốc chuột về quăng xó bếp gầm giường cũng đủ quật ngã đối phương ngay.

THÁI BẠCH

THA TÂM THÔNG VÀ NĂNG LỰC
CỦA TIỀM THỨC, VÔ THỨC (1)

Tôi có anh bạn Phật tử thường hay nghiên cứu các hiện tượng huyền bí mà khoa học hiện đại chưa giải thích, đồng thời luyện tập các pháp môn có công năng cao để ứng dụng vào phép chữa bệnh. Anh cũng đã tạo được một số thành tích đáng kề, được nhiều người tai mắt biết đến.

Tết Nguyên Tiêu năm ấy, tôi gặp anh ở sân chùa, sau vài câu thăm hỏi anh hớn hở khoe: “Này chị ạ, tôi đã luyện được Tha tâm thông rồi đấy!” - “Thế à, nhưng cụ thể như thế nào?”, tôi hỏi. Anh chỉ cái ghế đá: “Mời chị lại đây”. Tôi với anh cùng ngồi đối diện. Anh thong thả nói bằng một giọng tự tin: “Thế này nhé, bây giờ chị có thể đố tôi bằng cách vẽ chu vi căn nhà của chị trên giấy, tôi sẽ chỉ ra chính xác vàng chị cất ở chỗ nào”. Tôi cười: “Ồ! Ai dại gì mà đi đố anh chỉ ra vàng tôi cất chỗ nào, để mai mốt anh sẽ chỉ cho một tên cướp…”. Biết tôi nói đùa, anh cũng cười rồi bảo: “Thôi, thế này nhé, bây giờ chị có thể đố tôi bất cứ vật gì chị để đâu trong nhà, tôi sẽ chỉ ra” - “Vâng, vậy thì tôi đố anh, trong nhà tôi, cái bàn thờ Phật tôi để chỗ nào? Tôi giới hạn cho anh, nó ở trong phòng ngoài, hình chữ nhật. Anh mà chỉ được thì tôi xin bái phục”.

Anh liền mở cuốn sổ Agenda ra, chỉ một trang giấy trắng trước mặt: “Đây là cái phòng ngoài của chị, hình chữ nhật nhé. Phía trước đây, phía sau đây, phải không?” Rồi anh đưa ngón tay trỏ cho nó đu đưa dò tìm trên trang giấy, mắt lim dim, miệng lẩm nhẩm: “Bàn thờ Phật ở đâu? Bàn thờ phật ở đâu?” Trong khi đó tôi cố ý đánh lạc hướng anh bằng cách tập trung tư tưởng, nhìn chăm chăm vào chỗ đối diện vị trí của bàn thờ trong hình chữ nhật. Nhưng cuối cùng anh vẫn chỉ đúng vị trí thật của bàn thờ rất chính xác khiến tôi phục lăn. Anh cười đắc thắng bảo: “Không phải ngẫu nhiên đâu nhé. Để cho chắc chị có thể đố tôi thêm vài vật khác trong nhà chị, tôi sẽ chỉ đúng vị trí cho chị xem” - “Vâng, bây giờ tôi lại đố anh cái bàn thờ Ông bà tôi để ở đâu, cũng trong căn phòng này”. Anh lại đưa ngón tay trỏ làm như trên. Lần này tôi quyết đánh lạc hướng anh, cũng bằng cách tập trung tư tưởng thật cao độ nhìn vào điểm đối diện với vị trí thực sự của bàn thờ. Và quả đúng như ý tôi, lần này anh đã mắc bẫy, chỉ ngay vào chỗ tôi tập trung nhìn. “Nó ở đây này” - “A! Anh thua rồi nhé! Nó ở bên này cơ!”

Trên đường về, tôi cứ suy nghĩ mãi, cố tìm ra nguyên do để giải thích sự kiện vừa rồi. Tuy không phải là một nhà nghiên cứu chuyên sâu nhưng không mê tín, tôi quyết tìm ra cách giải thích hợp lý. Tại sao trường hợp trên anh lại chỉ đúng vị trí bàn thờ Phật dù tôi cố ý đánh lạc hướng? Luồng điện nào đã tác động vào ngón tay anh? Và lần sau anh lại mắc mưu tôi, chỉ đúng vào chỗ tôi tập trung tư tưởng?

Suy nghĩ mãi, cuối cùng tôi cũng tìm ra được cách giải thích thỏa đáng. Và khi biết được nguyên lý rồi, tôi đã tự mình thực hiện bằng cách bảo các bạn bè tôi đố mình chỉ ra vị trí các đồ vật trong nhà họ, hoặc bàn giấy trong cơ quan…, những nơi mà tôi chưa hề bước chân tới. Và tôi đã chỉ ra được nhiều trường hợp rất chính xác. Có thể các nhà nghiên cứu khác đã có cách giải thích của họ, song tôi cũng xin trình bày cách giải thích của tôi để độc giả suy ngẫm và thực hành. Nếu thấy đúng, xin cho biết ý kiến để cùng trao đổi. Nhưng trước hết tôi xin được nêu lên vài khái niệm cơ bản mà tôi đã dựa vào để chứng minh:

Trong mỗi con người chúng ta có 3 cái biết: Ý thức, Tiềm thức và Vô thức.

1/ Ý thức là sự nhận biết về những sự vật xung quanh, ở gần hay xa, trong hiện tại hay quá khứ mà ta còn nhớ rõ.

Thí dụ: Tôi biết anh tôi hiện đang ở Pháp

Tôi nhớ mẹ tôi mất ngày… tháng… năm…

2/ Tiềm thức là những cái biết được tích lũy từ trong quá khứ mà ta đã quên, hoặc còn nhớ lờ mờ, hoặc nhớ nhưng không quan tâm, những tình cảm cô đọng, những kinh nghiệm hay thói quen lặp đi lặp lại trong quá khứ, đã chấm dứt hay còn tiếp diễn. tất cả được bồi thành một “lớp dày” ẩn trong tâm thức, thường bị che mờ bởi ý thức. Là một “lớp dày” nhưng nó không hỗn độn mà có cấu trúc rất tinh vi, như một bộ nhớ trong máy vi tính. Tuy ta không biết đến nó nhưng nó vẫn hiện diện, linh hoạt tác động, chi phối mọi hành động và suy nghĩ của ta từng giờ từng phút, cả trong khi ta ngủ. Một cậu học sinh có khi nát óc với một bài toán hóc búa, suy nghĩ cả ngày, tối lại thức khuya nghĩ vẫn không ra, đành chịu. Nhưng có khi ngủ một giấc, sáng dậy bỗng nhiên lại nghĩ ra cách giải thật lưu loát. Tiềm thức đã làm việc trong khi ta ngủ. Rõ ràng tiềm thức khôn ngoan và sâu sắc hơn ý thức.

3/ Vô thức cũng giống như tiềm thức nhưng sâu kín hơn. Đó là những gì đã biết từ thời rất xa mà ta đã quên hẳn hoặc do ai đó đã lặng lẽ truyền cho ta những cái ta tưởng chưa bao giờ biết nhưng đã biết từ thời thơ ấu hay thậm chí từ kiếp trước nếu ta tin có luân hồi. Một vài em bé đã có khả năng tính nhẩm những con tính phức tạp mà người lớn phải dùng đến máy tính. Nhiều nhà thôi miên đã cho bệnh nhân nói lên trong khi ngủ những gì từ vô thức để cởi bỏ những đau đớn mà họ đang gánh chịu.

Trở lại câu chuyện “tha tâm thông” giữa anh bạn và tôi trên đây, ta giải thích thế nào? Khi anh đưa ngón tay trỏ dò tìm, anh lim dim mắt là để xóa đi ý thức của mình, cho ngón tay không phụ thuộc vào sự điều khiển của mình, đồng thời ra lệnh cho nó truy tìm: “Bàn thờ ở đâu?” Khi đó ngón tay anh chịu lực điều khiển của hai luồng điện: ý thức và tiềm thức của tôi. Ý thức là cái biết vị trí thực của bàn thờ, nhưng tôi đã cố xóa bỏ nó và cố tạo ra một ý thức giả tạo nhất thời: một vị trí ảo đối diện để đánh lừa anh, nên luồng điện của ý thức này rất mong manh. Còn tiềm thức là niềm tinh thành khẩn của tôi mỗi khi thắp nhang đứng trước bàn thờ Phật khấn nguyện, cầu bình an cho gia đình và những điều tôi đang mong ước (nếu có). Cử chỉ ấy lặp đi lặp lại hàng ngày từ nhiều năm đã tạo một ấn tượng sâu đậm trong tiềm thức tôi (và biết đâu cả vô thức nữa, do căn nguyên từ kiếp trước). Do đó luồng điện tiềm thức của tôi rất mạnh, thắng được ý thức và đã điều được ngón tay của anh vào đúng vị trí của bàn thờ Phật. Còn trường hợp bàn thờ Ông Bà thì sao? Hàng ngày tôi đều thắp nhang cả hai bàn thờ. Dù rất tôn kính tổ tiên nhưng tôi thắp nhang bàn thờ Ông Bà chỉ như một bổn phận, rồi chắp tay vái là xong. Chỉ có ngày giỗ, ngày Tết mới khấn nguyện và tưởng niệm lâu hơn. Do đó bàn thờ Ông Bà không gây được ấn tượng sâu đậm trong tiềm thức tôi như bàn thờ Phật.Trong khi đó ý thức về vị trí ảo đối diện cộng với sự tập trung tư tưởng cao độ của tôi và ý chí quyết tâm đánh gục anh đã tạo nên một luồng điện khá mạnh thắng được tiềm thức để điều được ngón tay anh vào đúng vị trí tôi muốn.

Tóm lại, muốn có tha tâm thông chỉ cần xóa đi ý thức của mình để tiềm thức và vô thức tiếp nhận luồng điện ý thức, tiềm thức và vô thức của người đối diện, qua ngón tay di động như trường hợp trên, hoặc qua tiềm thức và vô thức của chính mình như các ông đồng, bà cốt, cô hồn…nói lên những gì mà tiềm thức, vô thức họ tiếp nhận được khiến họ tự động phát thanh.

Ngoài ra, trong sự tĩnh lặng ở mức độ cao, tiềm thức và vô thức có thể là một tấm màn tinh tế ghi được cả những âm thanh và hình ảnh ngoài tần số của giác quan thông thường, thậm chí có thể là một bức màn trung gian trong suốt giữa tâm thức với vũ trụ bao la huyền diệu, xuyên qua nó, vũ trụ chân như được hiện bày. Bức màn này cũng có thể tan biến khi tâm thức hòa nhập vào vũ trụ bao la muôn màu muôn vẻ thành một thể đồng nhất, cảnh giới mà các nhà tu thiền gọi là “Niết Bàn tại thế” (nguyên lý vũ trụ đồng nhất thể).

Ở một trạng thái tĩnh lặng thích nghi, tiềm thức và vô thức có thể phát ra những làn sóng có tần số thích ứng (mà các chuyên gia gọi là sóng “alpha”)(1) có thể bắt được làn sóng năng lượng của trí tuệ vũ trụ (universal mind) tạo nên những làn sóng cộng hưởng có năng lực phi thường mà người đời thường gọi là các phép lạ. Đây là lãnh vực và đối tượng của các nhà khí công và các tín đồ đạo giáo có niềm tin cao độ, các thầy thuốc chữa bệnh nan y.

Tất nhiên để đạt được các trạng thái siêu phàm trên, ngoại trừ các nhà ngoại cảm, đòi hỏi một sự tu luyện kiên trì, đôi khi cần cả sự trì giới, và nhiều người cho rằng còn phải có hạt giống căn duyên từ kiếp trước.

Lương Y Nguyễn Hải Liên

(1) Sóng anpha có tần số trong khoảng 8-13 vib/sec, đo được bằng điện não đồ.

Kỳ sau : Vai trò của tiềm thức và vô thức trong hiện tượng thần giao cách cảm (Telepathy).

100 năm về trước
PHONG TRÀO CỔ ĐỘNG
CẮT BÚI TÓ

Tay trái cầm lược,
Tay phải cầm kéo.
Húi hề! Húi hề!
Thủng thẳng cho khéo.
Bỏ cái ngu nầy,
Bỏ cái dại nầy.
Ăn ngay nói thẳng,
Học lấy.
Đừng có ăn mặn,
Đừng có nói láo,
Ngày nay ta cúp.
Ngày mai ta cạo.

Khoảng năm 1904, bên Tàu không thể điềm nhiên ngồi nhìn nước mình càng ngày càng lụi bại đến hố suy vong, một nhóm học giả chí sĩ Khang Hữu Vi, Lương Khải Siêu, xướng xuất lên phong trào Duy tân. Các ông viết báo, làm báo, dịch sách kêu gọi đồng bào theo một nền văn thuật mới hầu theo kịp bước liệt cường. Kịp đến nước Nhật thắng nước Nga là cường quốc nhất nhì trên thế giới.

Chính đó là hai động lực đã đánh tan lớp rêu hủ bại, bám đông nơi đầu óc người dân Việt. những sách dịch thuãt của tàu như: truyện ba danh nhân nước Ý, Tân dân ước… được những kẻ có mưu toan cho tiền đồ Tổ quốc nao nức đón tiếp, đọc say sưa. Các sỹ phu Việt nam nhận thấy cần phải đánh đổ cái giấc mộng kinh nghĩa tám vế cùng những tập quan cổ hủ đã giam hãm từ bao lâu nay đồng bào mình trong một vòm trời hiu hắt, tối tăm, làm bế tắc lại tất cả những mạch nguồn tiến hóa.

Trung Nam, ông Gilbert Chiếu đứng lên cổ động phong trào Đông Du; ở Bắc các ông Nguyễn Thượng Hiền, Phan Bội Châu, Tăng Bạt Hổ, Đỗ Định Trạch nhóm nhau lại thảo luận chương trình khai hóa dân trí. Do đó, “Đông Kinh Nghĩa Thục” xuất hiện vào năm 1907. “Đông Kinh” là Tonkin, “Nghĩa” là nghĩa lý, “Thục” là trường. “Đông Kinh Nghĩa Thục” là trường dạy cho mở mang nghĩa lý.

Đi đầu đội quân cách mạng búi tóc là ông Phan Tây Hồ. Ông nghĩ rằng không phải chỉ cải cách tinh thần, mà cần thay đổi cả về phần hình thức nữa. Chính bọn ông đã ra gương trước nhất. muốn hiểu rõ sự can đảm làm cách mạng ấy nó khó khăn đến đâu, ta phải tìm lại lối 100 năm về trước, đặt mình vào trong tình trạng nước ta lúc bấy giờ nhất nhất đều theo Khổng Mạnh, nên kẻ cắt cái búi tóc đi là cái bia chỉ trích mãnh liệt của dư luận, có thể bị xem như một quái tượng không bằng. “Thân thể ta là do cha mẹ tạo ra, dù một sợi tóc cũng không được hủy bỏ”. Thế mà các ông lại đi cắt bỏ cả cái búi tóc! Nhưng các ông gác lại bên tai những miệng, tiếng chê cười, vẫn mạnh mẽ lướt theo làn sóng duy tân, viết báo, diễn thuyết hô hào đồng bào hãy cương quyết thực hành sự cải cách ấy. bài văn ở đầu bài này là bài cổ động hớt tóc của Đông Kinh Nghĩa Thục tung ra:

Tay trái cầm lược,
Tay phải cầm kéo.
…………………
Ngày nay ta cúp.
Ngày mai ta cạo.

Phong trào cổ động cúp tóc lúc ấy càng ngày càng sôi nổi chẳng bao lâu tràn lan khắp nước. Người hưởng ứng càng ngày càng nhiều. Không khác gì tình trạng người Trung Hoa, sau khi lập thành dân quốc, hô hào bài trừ hủ tục bó chân. Nhưng những bờ đê thủ cựu không phải là không có chống trả lại những lớp sóng duy tân ấy, cũng rất đỗi mãnh liệt đến nỗi có kẻ không chịu nổi những lời mỉa mai chế nhạo, phải nuôi tóc lại và búi như xưa. Nhưng số đông vẫn ngang nhiên tiến bước, hăng hái cương quyết theo chí hướng của mình. Có ai chế nhạo họ cắt tóc là đi làm thầy tu, thì họ đáp lại bằng bài sau đây cũng phát nguyên ở Đông Kinh Nghĩa Thục:

Phen này cắt tóc đi tu.
Tụng kinh độc lập ở chùa Duy tân.
Đêm ngày khấn vái chuyên cần,
Cầu cho ích quốc lợi dân mới là.
Quyết tu cho mở trí dân nhà,
Tu sao cho đặng nước ta hùng cường.
Lòng thành thắp một tuần hương,
Nam mô Phật tổ Hồng Bàng chứng minh.
Tu hành một dạ đinh ninh,
Nắng mưa dám quản công trình một hai.
Chấp tay lạy chín phương trời,
Kêu trời phù hộ cho người nước tôi,
Tiểu tôi trông đứng trông ngồi,
Trông sao cho đặng giống nòi vẻ vang.
Nào là tín nữ thiện nam,
Nào là con cái thập phương giúp cùng.
Giúp tôi đúc quả chuông đồng,
Đúng thành quả phước, ta cùng hưởng chung.
Ai muốn tu xin dốc một lòng,
Nghìn thu tạc một chữ đồng đến xương.
Nam mô Phật tổ Hồng Bàng.

Ngày nay 99% người Việt không để búi tóc.

TRẦN LANG

TUỔI TA
(ÂM LỊCH)

Tuổi ta tính theo Âm lịch hằng năm, khác với tuổi Tây, tính theo Dương lịch. Đó là tuổi theo tên gọi riêng của năm sinh thuộc hệ Can và Chi. (10 Can: Giáp, Ất, Bính, Đinh, Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, Quý). (12 Chi: Tý (Chuột), Sửu (Trâu), Dần (Cọp), Mẹo (Mèo), Thìn (Rồng), Tỵ (Rắn), Ngọ (Ngựa), Mùi (Dê), Thân (Trâu), Dậu (Gà), Tuất (Chó), Hợi (Heo).

Nói đến tuổi ta thì còn “khối” cần bàn (Cọp), Mẹo( Tây, tính theo Dương lịch. . Nhưng dù sao người Việt Nam ta cho đến nay và có lẽ về sau vẫn còn dùng 2 loại song song với nhau là Dương lịch và Âm lịch. Hễ sinh ra là tính ngay một tuổi (dù sinh ra đầu năm, giữa năm hay cuối năm). Chính vì vậy mới “rầy rà” cho người đời! Chẳng hạn người ta lấy Tết Nguyên Đán làm chuẩn (thông thường là vậy). Nếu ai đó sinh ra trong những ngày cuối tháng chạp năm trước vài ngày thôi thì đã tính một tuổi của năm đó. Đến mùng 1 Tết lại được tính thêm một tuổi nữa của năm mới tức là ta có thể gặp một người sinh trước giao thừa trong vòng 2 tiếng đều thế bởi giờ của Âm lịch bằng hai của giờ Dương lịch. Người ấy đã được tính là 2 tuổi. Theo dân gian thì thông thường gọi như thế là “chịu oan” một tuổi.

Đó là chiều hướng suy nghĩ phổ biến xưa nay trong dân gian. Từ đó mà than phiền là sao các cụ lại “áp đặt” cho con cháu “chịu oan”, biết bao thế hệ từ trước tới nay theo cách tính như vậy – có người trách “các cụ tính tuổi kiểu đó là không khoa học”. Cho đến nay nói đến chuyện khoa học thì còn nhiều điểm phải bàn cãi và chứng minh “mệt”.

Có lẽ cách suy nghĩ của các cụ cũng có lý hẳn hoi. Bởi vì, đứa bé lúc chưa sinh ra nhưng nó đã hình thành từ những tế bào đầu tiên khi được gọi là “thụ thai”, được nuôi dưỡng qua máu của mẹ và lớn lên từng ngày. Đứa bé đã sống trong bụng mẹ, “môi trường đặc biệt của bé”. Trong khoảng thời gian người mẹ “mang nặng” cho đến lúc đủ ngày tháng (270 đến 280 ngày) thì môi trường đặc biệt không còn thích hợp cho sự phát triển của bé nữa. Lúc đó bé đòi hỏi phải thay đổi môi trường sống, “bé đòi đạp lung tung”. Vậy con người sống trong bụng mẹ 9 tháng 10 ngày, tính 1 tuổi sao lại bảo “oan”. Mừng cho cội nguồn sự sống của một đời người bắt đầu từ khi “cất tiếng khóc chào đời” là mừng được một tuổi đầu đời và khi đó hằng năm, cứ đến Tết đều mừng thêm một tuổi, trẻ em bằng bao lì xì trong đó có tiền mừng tuổi, người con cháu mừng thọ các cụ vải lụa, khánh vàng chúc cụ sống lâu trăm tuổi…

CÁCH TÌM NĂM SINH (ÂM LỊCH)

Để giúp bạn tìm năm sinh của mình một cách chính xác, khoa học, tôi xin giới thiệu bản sưu tầm sau đây để bạn “ngâm cứu” trong ba ngày xuân.

A

B

Quý

Nhâm

Tân

Canh

Kỷ

Mậu

Đinh

Bính

Ất

Giáp

52

40

28

16

54

Sửu

53

41

29

17

5

Dần

42

30

18

6

4

Mẹo

43

31

19

7

55

Thìn

32

20

8

56

44

Tỵ

33

21

9

57

45

Ngọ

22

10

58

46

34

Mùi

23

11

59

47

35

Thân

12

0

48

36

24

Dậu

13

1

49

37

25

Tuất

2

50

38

26

14

Hợi

3

51

39

27

15

Cách tính:

- Muốn tìm năm Âm lịch là năm gì, ta lấy năm Dương lịch chia cho 60. Số dư còn lại là bao nhiêu thì nhìn vào bảng trên đây. Số dư tương ứng nằm ở ô nào thì đọc tên ô đó (A trước, B sau), thì đúng vào năm Âm lịch mà ta muốn biết.

- Ví dụ: Cụ Bùi Văn Quảng sinh năm 1928. Vậy năm Âm lịch là năm nào? Ta đem 1928 chia cho 60, còn dư 8. Số dư này tương ứng vào ô Mậu Thìn. Vậy cụ Bùi Văn Quảng sinh năm Mậu Thìn.

Bùi Đẹp

BẠN TIN CÓ MA QUỶ KHÔNG

Ông Conan Doyle một nhà viết tiểu thuyết trinh thám trứ danh Anh vẫn liên lạc với gia quyến ông bằng cách nhập linh hồn vào cơ hoặc cho thấy chiêm bao đã trên 25 năm nay (của Phi Lạc)

Nếu Phi Lạc tôi hỏi quý bạn đọc tin có ma quỷ hay không, thì không khỏi có bạn trợn trắng đôi mắt rầy to:

- Hứ! Đã vào thời đại khinh khí mà còn hỏi một câu quá hủ.

Nếu có ông bạn bảo như thế, Phi Lạc tôi xin vòng tay, nhưng… (vì chữ nhưng)… trước khi xá sâu bái phục ông bạn đó, Phi Lạc xin phép cẩn thận một tí là hỏi kỹ lại: “Nếu ông bạn không tin có ma, tức không sợ ma; vậy ông bạn có dám trong một đêm mưa to gió lớn đi vào một nhà chứa xác chết, rồi một mình bó gối, hoặc nằm trên chiếc ghế bố ngủ một đêm, song trái tim không được phép đập loạn nhịp. Được như thế, thì Phi Lạc tôi cuốc sâu đến mấy cũng vui lòng”. Nhưng thôi, ông bạn nào không tin có ma, thì hãy lật qua trang này đừng đọc tiếp bài này không bổ ích vào đâu.

Phi Lạc tôi xin tự thú nhận với bạn đọc rằng tin có có ma, mặc dầu không sợ ma, vì tôi đã bị ma chọc ghẹo rồi. Có điều nên nói rõ là, ma không có đánh đập, giết chóc ai bao giờ.

Tôi tin có ma vì nếu không có ma thì chỉ có dân tộc còn lạc hậu tin ma mà thôi. Một nước văn minh cực điểm, dân tộc đã chế được bom nguyên tử như Anh mà còn tin có ma hơn dân nước nào khác. Ông Camille Flammarion, một nhà thiên văn trứ danh Pháp. Chủ tịch hội Thần học đã có chụp được hình ma. Như thế người không tin có ma, là vì chưa có gặp ma và chưa có đọc sách kể chuyện ma. Thật vậy, đáng lấy làm lạ bên nước Anh bị ma hay phá quấy đáng ghê sợ. Ai không tin thì ban đêm đến những lâu đài ấy thì biết. Nhưng có điều đáng lấy làm lạ là ma sợ đèn điện không rõ duyên cớ tại sao? Không lý ma sợ điện giựt như người, vì đã là ma mà còn chết nghĩa là gì? Vả lại ma thì ít ra cũng biết làm sao cho đèn tắt chớ. Có khó gì đâu.

Mà lạ thật, ở đâu có đèn điện thì ma không đến phá quấy. À hoặc giả ma chỉ hiện ra được trong bóng tối thôi, có ánh sáng là không thấy hình dạng ma như ban ngày chẳng hạn. Ma không sợ ánh sáng đèn dầu vì ma biết thổi đèn cho tắt, có lẽ đèn điện không thổi tắt được nên ma sợ. Bảo như thế cũng không đúng. Có lẽ nào ma ngu quá đến nỗi không biết vặn tắt đèn? Nhưng thôi, không sức đâu tìm cho rõ duyên cớ là ma sợ đèn điện.

Trong bài này Phi Lạc tôi xin thuật một vài chuyện khó hiểu đối với bạn đọc không tin ma.

Ông Camille Flammarion thường tổ chức cuộc xây ghế gọi hồn ma về để nói chuyện thì ma luôn bảo tắt đèn điện sẽ hiện hình ra cho thấy hình dạng trong lúc ma đi vào phòng.

Hội Thần linh học bên Pháp và bên Anh, thường cầu cơ để gọi ma về nói chuyện chơi. Người cầu cơ không dễ giả dối vì không thể trả lời đúng với những câu hỏi của những người hội hiệp cầu cơ được.

Phi Lạc tôi xin kể chuyện một nhà viết thiểu thuyết trinh thám Anh có tên tuổi lẫy lừng là ông Conan Doyle đã qua đời lâu rồi, nhưng thường hay hiện hồn về giữa gia quyến, bà vợ và hai người con của ông.

Câu chuyện dưới đây là do vợ con của ông Conan Doyle thuật và tập nguyệt san “Tout Savoir” đã dịch đăng.

Phi Lạc tôi xin thuật lại cho bạn đọc xem chơi, nhưng không bảo tin có ma.

Tiều thuyết gia Conan Doyle, trước khi chết có trối lại với vợ con rằng, ông không ly biệt với vợ con.

Thật vậy, mặc dầu ông qua đời song ông vẫn gần gũi với vợ con luôn. Thật đúng như lời đã trối, ông Conan Doyle vẫn liên lạc với gia quyến của ông luôn, kể ra đã hơn 25 năm rồi. Bạn đọc có chịu tin như vậy hay không vô hại.

Gia quyến ông Conan Doyle không đưa ra trên mặt báo chí những chuyện được liên lạc với ông, song tác giả bài báo nói trên đây, đã trực tiếp nghe người con trai của ông Conan Doyle là Adrian Doyle thuật truyện chứ không phải tự mình thêu dệt.

Chìa khóa bí mật lạ lùng

Ông Conan Doyle lìa trần không được mấy ngày thì một đêm xuống cơ cho gia đình ông hay rằng, trong một ngày gần đây ông sẽ cho biết chắc chắn ông vẫn liên lạc với người nhà. Vài hôm sau, bỗng nhiên cái chìa khóa của bà vợ ông Doyle thường cất trong bóp của bà biến mất; ấy là chìa khóa phòng văn của ông Conan Doyle. Người nhà tìm kiếm khắp cùng trong nhà, nhưng chẳng gặp.

Sau đó bà vợ ông Conan Doyle tiếp được một gói đồ do sở bưu điện từ thành phố Luân đôn cách chỗ bà ở đến 40 cây số gửi đến. Trong gói đồ lãnh tại sở Bưu điện này, có những hàng chữ người bạn thân viết như vầy:

“Bà Jeanne thân yêu, một chuyện xảy ra làm tôi bối rối vô cùng. Đêm hồi hôm tôi mộng thấy ông Arthur (tức là ông Conan Doyle) hiện về nói với tôi:

- Khi anh thức dậy, thì sẽ thấy dưới gối đầu anh một chìa khóa. Anh hãy gởi đến cho Jeanne và nhắc dùm bà, nên nhớ theo lời tôi đã trối với bà.

Lạ thật, từ ngày xảy ra vụ mất chìa khóa, thì bà Conan Doyle không có đi ra khỏi nhà. Không một người ngoài nào hay biết chuyện mất chìa khóa, và người nhà cũng chẳng có thơ từ gì vói ông bạn gửi chìa khóa này.

Câu chuyện mất chìa khóa đây là do ông Adrian thuật, ông lại nói: “Những chuyện nhỏ nhặt không quan hệ như thế, vẫn thường xảy ra trong gia đình của chúng tôi, song vì thường quá, nên chúng tôi vẫn quen, không còn lấy làm lạ”. Tác giả bài báo lại yêu cầu ông Adrian thuật một chuyện khác.

Ông Adrian mỉm cười nói:

- Chuyện mất chìa khóa đó là vụ xảy ra đầu tiên, mà cha chúng tôi muốn cho mẹ chúng tôi biết người giữ lời trối là liên lạc với nhà luôn.

Ông Adrian bèn kể một chuyện thứ nhì:

Ông và người em là Denis có sắm một chiếc xe hơi đua hiệu Mercédes Benz. Chiếc xe này đã sửa soạn máy móc xong xuôi đợi ngày dự cuộc đua tám trăm cây số tại trường đua xe hơi Brookland.

Trước ngày mở cuộc đua xe hơi, ông Denis tiếp được tin điện thoại của một bà cho hay rằng, bà nằm mộng thấy ông Conan Doyle báo cho hai người con của ông hay lập tức, đừng dự đua xe hơi vì chiếc xe hơi của hai người sẽ xảy ra việc không hay. Bà nói điện thoại còn cho biết có thấy một chiếc xe hơi sơn màu xám tro, to lớn xẹt ra khỏi vòng đua nhào lộn mấy vòng ghê gớm.

Hai anh em bàn tán về cái tin điện thoại này rằng ông thân sinh khéo lo lắng vô ích, vì người không biết chiếc xe hơi của hai anh em máy móc tinh xảo, vả lại chiếc xe sơn màu trắng chớ không phải màu xám tro, theo như bà nằm mộng đã thấy.

Vài hôm sau, bà nói điện thoại trước đây lại có báo tin lần thứ nhì. Lần này bà khuyên gắt hai anh em đừng có dự cuộc đua ấy. Bà nói rõ rằng chiếc xe hơi trục trặc tay bánh. Hai anh em con ông Conan Doyle bèn đem chiếc xe đua cho một người thợ máy chuyên môn xem xét kỹ lại tay bánh, nhưng chẳng thấy dấu vết gì hư hao cả.

Còn hai hôm nữa đến ngày đua xe hơi, lại một lần thứ ba báo tin nữa, mà lần này lạ lùng hơn.

Ông Denis cũng được gọi điện thoại để nói chuyện. Nhưng không nhận ra tiếng nói là một người quen biết. Người này xưng danh là một vị luật sư chuyên nghiệp tại Nữu Ước bên Mỹ. Ông cho hay rằng ông và bà vợ vừa đến nước Anh có việc riêng. Hai ông bà có gặp thân sinh của ông Denis, tức là ông Conan Doyle ở bên Mỹ trong những buổi diễn thuyết của ông này. Ông luật sư cho biết trong lúc hai ông bà còn đi dưới tàu giữa biển thì bà vợ tiếp được tin ông Conan Doyle dặn khi tàu đến hải cảng Luân Đôn thì lập tức cho hai người con của ông hay rằng, đừng dự cuộc đua xe hơi; như thế là đủ rõ có nghĩa gì.

Mặc dầu có ba lần báo tin trước như thế, song hai anh em vẫn không tin sẽ có chuyện không hay sẽ xảy ra trong cuộc đua xe hơi, nên hôm sau hai anh em không đổi xe hơi khác lại lên chiếc xe này chạy đi đến trường đua. Đến nơi anh em xuống xe đi bộ để dò xem đường đua trước. Thình lình người em là ông Denis trợt chân té trặc mắt cá.

Như thế thì chỉ còn có ông Adrian sẽ cầm tay bánh chiếc xe dự đua thôi. Hôm sau ông Adrian lái chiếc xe hơi một mình cho chạy dượt thử một vòng. Khi xe chạy đến đoạn đường nguy hiểm có mu rùa cao, có tên Thomas Dive lái xe hơi chạy qua chỗ nguy hiểm này với tốc độ 200 cây số một giờ; bỗng chiếc xe vọt tưng bay đi 20 thước rồi rơi xuống đường… Chiếc xe của Adrian chạy đến đây cũng vọt bay, nhưng khác với các xe khác, là khi rơi xuống chạy lộn rồng lộn rắn trông dễ lạnh mình, rồi xẹt ra khỏi vòng đua. Cũng may chiếc xe chạy dượt không mau lắm, nên không đến nỗi gây nên tai nạn rùng rợn.

Sau một vòng dượt này, ông Adrian bèn cậy một người thợ máy kiểm soát lại dùm máy móc, thì hỡi ôi có một con ốc tay bánh đã tuông ra. Thật là may, nếu chiếc xe chạy mau hoặc đang dự đua mà ốc tay bánh tuông ra như vậy, thì xe ngộ nạn rùng rợn rồi. Chiếc tay bánh này trước đã nhờ một người thợ máy chuyên môn xem xét kỹ lưỡng nhưng không tìm thấy con ốc đã tuông theo như lời một bà đã cho biết, trong khi nói chuyện bằng điện thoại.

Như thế cũng may, rõ ràng ông Conan Doyle đã nhờ hai người cho hai người con biết trước tai nạn có thể xảy ra để tránh vậy.

Ma quỷ thấy người ra sao?

Ta thấy ma quỷ hiện hình chỉ là một cái bóng lờ mờ không rõ rệt, nhưng theo lời con trai của ông Conan Doyle là Adrian thì có lần người anh khác mẹ với ông, hiện hồn về bảo rằng:

- Tôi và cha có xương thịt cứng cáp như những bàn ghế chúng ta dùng. Chúng tôi thấy các người như những hình bóng ma quỷ. Mấy anh thấy cha và tôi ra sao thì chúng tôi cũng thấy mấy anh như thế. Chúng ta cách xa nhau là do một bức rào thiêng liêng khó phân giải cho hiểu biết được!

Người chết là xuất hồn sang thế giới khác và vẫn sống đời đời kiếp kiếp. Dương gian chỉ là một thế giới tạm cách với âm phủ là một bức rào thiêng liêng vô hình. Người đã qua đời thấy ta cũng như ta thấy họ. Nếu bảo họ là ma thì họ cũng bảo ta là ma, chỉ có thế thôi.

Đỗ Thiên Thư st

XEM LẠI TRANH DÂN GIAN

Tranh dân gian từ lâu đã được các nhà họa sĩ, điêu khắc, các giới nghiên cứu khoa học và những người yêu thích mỹ thuật chú ý. Không chỉ dừng lại ở mức cảm xúc mà còn muốn khám phá nhiều khía cạnh về học thuật như quan niệm về cái đẹp, về kỹ thuật sáng tác của các nghệ nhân và nhân dân lao động qua loại hình nghệ thuật này.

Khi tìm hiểu tranh dân gian có người thường hay so sánh cách diễn tả theo phương pháp tả thực của những tác phẩm hội họa châu Âu với cách vẽ bôi màu, viền nét của tranh dân gian, và tự đặt ra câu hỏi: Tại sao một loại tranh có tính chất sơ lược, bản năng như vậy lại được các họa sĩ và đông đảo quần chúng ca tụng.

Trước hết, ta không thể so sánh như vậy vì tính chất của hai loại tranh này khác hẳn nhau. Một bên là tranh của các họa sĩ chuyên nghiệp sáng tác theo phương pháp bác học. Trước khi thành một họa sĩ, họ đã được đào tạo trong các trường lớp chính quy. Còn tranh dân gian là do nghệ nhân hay nhân dân vẽ theo cảm xúc và do sự thôi thúc của chính mình. Hơn nữa, nghệ thuật tạo hình còn có những quan niệm và phương pháp thể hiện khác nhau, do đó nảy sinh ra nhiều phong cách khác nhau. Nhưng mọi phương pháp, quan niệm đều dẫn tới mục đích cuối cùng là dùng đường nét, màu sắc để thể hiện và truyền cảm cho người xem một ý đồ cụ thể.

Tranh dân gian có một phong cách độc đáo. Bằng phương pháp tạo hình đơn giản, dùng những mảng màu bẹt, viền nét để tả người, vật, cỏ, cây, hoa, lá… Màu sắc cũng có vẻ đơn điệu, thô sơ. Những chất liệu để chế màu lại là những nguyên liệu thường dùng trong cuộc sống hàng ngày như than lá tre, than rơm nếp, hoa hòe, lá chàm, điệp, son, rỉ đồng, v.v…

Nếu chỉ nhìn thoáng qua, chúng ta sẽ thấy cách vẽ và chất liệu dùng thật quá nghèo nàn sơ lược đó. Khác hẳn với phương pháp vẽ tả thực của châu Âu, hội họa của tranh dân gian thường dùng cách gợi tả, lấy hình gợi ý và lấy ý để tạo hình, gieo ấn tượng, âm vang sâu sắc trong lòng người như tiếng đàn bầu hay giọng hò mái đẩy… Cũng chỉ bằng những nét viền, mảng bẹt nhưng lại hình thành những tín hiệu thông tin trong sáng truyền cảm được những tâm tư thầm kín, những vấn đề xã hội sâu sắc có sức thuyết phục làm cho người xem cảm thụ, tiếp thu nhạy bén qua những nụ cười dí dỏm, mỉa mai như những nụ cười “Tiếu lâm”, những câu ca dao châm biếm…

Vì là tranh khắc gỗ nên những đường viền là những đường gỗ khắc khỏe, chắc, nhưng tràn đầy sức sống và rất sinh động. Những chỗ thể hiện da thịt thì mũm mĩm, diễn tả quần áo thì lại thành chất vải mềm mại, nếu là gốc cây, hòn đá thì rất rắn chắc. Từ một bông hoa, ngọn lá, đến người, vật… tất cả đều sống động như nhảy múa trên mặt giấy. Có thể nói nghệ thuật tạo hình rất điêu luyện. Nghệ nhân biết nắm bắt những tư thế, điệu bộ điển hình để tạo dáng, tạo hình, thọat trông những đường nét có vẻ sơ lược nhưng thật ra là một sự chọn lọc cân nhắc tinh vi và công phu.

Về màu sắc của tranh dân gian cũng là một thế giới kỳ ảo.

Cũng như đường nét, màu sắc tranh dân gian lại càng có vẻ đơn điệu. Trong bảng màu chỉ vẻn vẹn có một số màu với tính chất nguyên thủy như: xanh lục, vàng hòe, đen, xanh chàm, trắng điệp. Sau này dòng tranh Hàng Trống có thêm một số màu phẩm nguyên chất.

Nhưng nếu đi sâu, tìm hiểu thì sự biến hóa của những màu đó là cả một thế giới huyền ảo, và mang tính hiện thực phong phú.

Tờ tranh nào thường cũng có đủ ngần ấy màu và ngược lại, mỗi tờ tranh đều có một hòa sắc riêng biệt không hề có sự trùng lặp. Cùng là một nền đỏ, nền trắng hoặc vàng hòe, và cũng đủ ngần ấy màu vẽ lên nhưng ại đều khác nhau về sắc thái… Riêng về loại nền trắng điệp, nghệ nhân chỉ quét lướt lên một lần nước hòe là đã chuyển thành một nền vàng óng ánh như cỗ tơ nõn rồi vẽ các màu lên trên với tỷ lệ khác nhau, chúng ta sẽ thấy một hòa sắc vàng trong mát nhẹ nhàng mất hẳn chất thô kệch đơn điệu của chất liệu thô sơ nguyên thủy.

Màu sắc tranh dân gian tuy mang tính ước lệ nhưng vẫn không tách rời thực tế. Ví dụ: hoa đào phải là màu của hoa đào, hoa sen, hoa cúc, lá già, lá non đều phân biệt rõ ràng cụ thể ít có sự lẫn lộn về màu sắc.

Trên đây phần lớn là những đặc điểm của tranh Đông Hồ, vì tranh dân gian của ta tạm chia thành hai dòng: Đông Hồ và Hàng Trống. Tranh Hàng Trống tuy có sự biến hóa về kỹ thuật in, vẽ, nhưng vẫn chung một nguồn gốc. Các nghệ nhân vẽ tranh Hàng Trống cũng đều là gốc người làng Đông Hồ cả, bản chất của nghệ thuật dân gian vẫn không có sự thay đổi. Tính chiến đấu và tính lạc quan vẫn là tư tưởng chủ đạo trong sáng tác. Đường nét của tranh Hàng Trống thanh mảnh hơn, lại có thêm một số màu phẩm cộng với kỹ thuật vờn khối, gợi cảm giác gần thật hơn nhưng lại thiếu chất chắc khỏe của màu sắc Đông Hồ. Tuy vậy, nhìn chung, hai dòng tranh ấy, về kỹ thuật thể hiện, đều mang tính dân tộc độc đáo. Đấy là cái đẹp cơ bản về hình thức.

Tranh dân gian được lưu truyền rộng khắp trong nhân dân. Cho đến nay vẫn giữ vững được vị trí và giá trị nguyên vẹn của nó. Ngoài vẻ đẹp về hình thức, giá trị nội dung của tranh dân gian mới là lý do chủ yếu của sự tồn tại.

Như chúng ta đều biết, tranh dân gian là sản phẩm nghệ thuật của nhân dân lao động, phản ánh những nguyện vọng và ước mơ chính đáng mà lẽ ra chính họ mới là những người có quyền hưởng thụ.

Những hình ảnh Thạch Sanh, cô Tấm, những tranh gà đàn, lợn đàn… hay một cuộc sống hạnh phúc, ấm no đông con nhiều cháu, nhân từ, phúc hậu, ở hiền gặp lành… đều là những mong ước khát khao, luôn luôn được thể hiện trong tác phẩm của họ.

Tranh dân gian còn là một lợi khí đấu tranh, gây căm thù giặc, nâng cao lòng yêu nước, tinh thần thượng võ của nhân dân lao động như tranh Hai Bà Trưng, Bà Triệu, Đinh Tiên Hoàng, Ngô Quyền, Quang Trung, những cảnh vũ trường, những hội vật; những tranh khuyến khích sản xuất nông nghiệp như tranh Cày voi, Tiều phu đốn gỗ

Họ luôn luôn đả kích mạnh mẽ những đối tượng thù địch, những loại mãng xà vương, trăn tinh, đại bàng tinh… Đó là những tên bạo chúa, những tên vua quan, cường hào ác bá đã gieo rắc đau thương, khổ cực, tai vạ trong đời sống cần cù lao động sản xuất của họ.

Có những loại tranh châm biếm rất tài tình, đả kích những thói hư tật xấu, những tệ lậu của từng lớp trên trong xã hội phong kiến như: tranh Đánh ghen; Thầy đồ Cóc; Trê, Cóc kiện nhau v.v…

Phụ Bản III

Trong thời thực dân Pháp chiếm đóng nước ta, mặc dù dưới sự kiểm duyệt ngặt nghèo của bộ máy chuyên chính của chúng, vẫn xuất hiện nhiều tranh dân gian đả kích công khai bọn thực dân thuộc địa như tranh Cóc tây múa kỳ lân, tranh Hội tây… Những cảnh ăn chơi sa đọa, đánh bạc, hút xách, nhảy đầm, giai tứ khoái, gái bảy nghề… tố cáo và lên án mạnh mẽ những âm mưu thâm độc của chế độ thực dân Pháp.

Tranh dân gian biểu hiện bằng tín hiệu độc đáo, rất sáng sủa và dí dỏm. Khiến búa rìu chuyên chế khắc nghiệt của chế độ phong kiến thực dân cũng đành phải bó tay. Chẳng hạn, trong bức tranh Đám cưới Chuột.

Hình thức, bố cục có thể nói là rất tài tình và độc đáo. Nghệ nhân chỉ dùng hai đường song hành, các nhân vật lại đều đi về một chiều nhưng vẫn thể hiện được hai hướng đi khác nhau, và hai không gian khác nhau. Một đằng đám rước dâu cứ diễu hành về nhà chú rể, còn một đằng gia nhân rước lễ vật đến dinh “cụ lớn Mãn”.

Nội dung của tranh đề cập một vấn đề xã hội rất hóm hỉnh. Hình tượng nhân vật lại là Mèo và Chuột. Chuột vốn là một giống ăn hại, đục khoét, mà Mèo thì cũng ăn vụng thành thần. Hai đối tượng đều có mâu thuẫn sâu sắc, nhưng lại sẵn sàng thỏa hiệp với nhau về quyền lợi trước mắt…

Tranh Đánh ghen có thể minh họa cho quan niệm lấy hình gợi ý. Đặc điểm của tranh này là tấm bình phong, chỉ với hình ảnh này, người ta có thể tố cáo thành phần giai cấp của anh chồng và địa điểm của “bãi chiến trường”, (Chỉ có địa chủ mới có tấm bình phong và bình phong thường được xây ở phía trong cổng ngõ để án ngữ lối ra vào). Chị vợ cả tay cầm cái kéo giơ lên tỏ thái độ quyết liệt “bà thì gọt gáy bôi vôi”. Nhưng muốn tăng khí thế của trận đòn ghen, nghệ nhân vẽ thêm cái thế búi tóc ngược. Còn cô vợ lẽ biết chắc chắn sẽ được đức ông chồng tích cực phù trợ, nên giơ món tóc vẻ như thách thức trêu ngươi. Để làm nổi bật thêm cái tính thiên vị của anh chồng can khéo, nghệ nhân đã tìm được động tác rất đắt trong hoàn cảnh ngứa ghẻ đòn ghen ấy là anh chồng ôm lấy vai người vợ lẽ.

Một tranh khác cũng sử dụng hình ảnh và dáng điệu để gợi lên được cả thời tiết và thời điểm của sự việc là tranh Hội vật mùa xuân.

Bố cục tranh có ba cặp đang vào keo, còn hai người đang ngồi thu hình đợi và hai chuỗi tiền thưởng. Đáng chú ý là hai dáng ngồi thu lu có vẻ chống rét, một cái rét có thể chịu được, cái rét của buổi đầu xuân, không phải cái rét cắn da cắn thịt của mùa đông. Trước mặt là hai chuỗi tiền thưởng. Hội vật thường mở vào mùa xuân. Hội vật đã mở thì nhất định phải có giải thưởng. Do đó chúng ta thấy chỉ một dáng ngồi, một chuỗi tiền thưởng đủ nói lên thời tiết và thời điểm.

Ngoài những ưu điểm kể trên, tranh dân gian còn có những mặt hạn chế. Phần lớn những thiếu sót ấy lại rơi vào dòng tranh Hàng Trống. Trong giai đoạn thực dân Pháp chiếm đóng nước ta; dòng Hàng Trồng có sản xuất một loại tranh thờ như tranh ông Hoàng bà Chúa mê tín dị đoan hay những tranh phục vụ cho tầng lớp trung và thượng lưu phong kiến… Việc làm không có ý thức này đã vô tình phục vụ chính sách ngu dân của thực dân Pháp.

Về mặt kỹ thuật, về sau tuy có được nâng cao và có những sáng tạo đáng kể như phương pháp cán. Màu sắc ngày càng nhẹ nhàng tươi sáng nhưng có nhiều tranh nếu không có những màu bột trắng kệch điểm thêm sẽ xa dần màu sắc dân gian…

Với những quan niệm thẩm mỹ của nghệ nhân tranh dân gian, chúng ta thấy nghệ thuật tạo hình dân gian không phải sáng tác trên cơ sở bản năng như nhận định của một số nhà nghiên cứu phương Tây. Nếu có thể coi là tính chất bản năng thì cũng chỉ nằm ở phía tích cực. Bản năng đây chỉ có nghĩa là cùng chung một nếp suy tư, đã thành một trạng thái được bình thường hóa hệ ý thức của nhân dân lao động. Bản chất của nó là đấu tranh có tính giai cấp. Nó mang những yếu tố lạc quan, tính độc lập suy nghĩ và vì lợi ích chung của nhân dân lao động.

Tranh dân gian hiện nay đang được giới văn nghệ chú ý nghiên cứu để khai thác về nhiều mặt: tính dân tộc - quan niệm nghệ thuật và thẩm mỹ; phương pháp tạo hình, tính chất truyền thống… là những vấn đề lớn để tìm hiểu tính dân tộc trong nghệ thuật tạo hình. Muốn khai thác, phát triển phải đòi hỏi công phu nghiên cứu lâu dài và sự đầu tư của trí tuệ tập thể. Chúng tôi chỉ xin giới thiệu sơ lược vài nét để các bạn có thể hình dung khái quát về tranh dân gian. Các bạn sẽ thấy được phần nào cáí vốn quý của chúng ta được thừa hưởng.

Nguyễn Đức Nùng

 

GIÁO SƯ NHẬT VIẾT TIẾP TIỂU THUYẾT
“ANH EM NHÀ KARAMAZOV”

TP - Một số nhân vật của tiểu thuyết “Anh em nhà Karamazov” (một kiệt tác văn học thế giới) của văn hào Nga Dostoievski trở thành những kẻ khủng bố - dân tuý.

Mitia trở về từ Siberia, Ivan chạy sang châu Âu, còn Aliosha dành toàn bộ thời gian cho việc nuôi dạy đứa con nuôi...

Số phận các nhân vật trong tiểu thuyết nổi tiếng của Dostoievski sẽ tiếp diễn như vậy trong cuốn sách xuất bản ở Nhật với cái tên “Những tưởng tượng về phần tiếp của “Anh em nhà Karamazov” do nhà ngôn ngữ học nổi tiếng Nhật Ban Ikuo Kameiama viết.

Trước đó bản dịch tiểu thuyết “Anh em nhà Karamazov” do Kameiama thực hiện đã trở thành một trong những cuốn sách bán chạy ở Nhật và từ tháng 9 năm ngoái đến nay đã bán được khoảng 500 nghìn bản ở nước này.

Trong bài trả lời phỏng vấn hãng tin Itar-Tass (Nga), giáo sư Kameiama gọi tác phẩm của mình là “những tưởng tượng có cơ sở khoa học”. Tác phẩm này nổi tiếng ở Nhật không kém chính tiểu thuyết của Dostoievski.

“Khi lập đề cương cho phần tiếp, tôi xuất phát từ dữ kiện là chính Dostoievski cũng muốn viết một cuốn sách thứ hai về anh em nhà Karamazov” - Kameiama nói. “Những tưởng tượng” của giáo sư hầu hết là kết quả sự diễn giải tiếp những tình tiết trong tiểu thuyết gốc.

Cuốn sách của giáo sư Kameiama được xuất bản cùng lúc với bản dịch tiểu thuyết (chia làm 5 tập). Thành công của Kameiama là nhờ hiện ở Nhật đang có một “làn sóng văn học cổ điển Nga thứ hai”. Giờ ông chuẩn bị dịch lại “Tội ác và trừng phạt” và một số cuốn khác.

H.Minh
Theo NEWsru.com

Điện Bắc Diễn Truyện

奠北演傳

Đệ Lục Hồi

第六囘

Tuồng hát bội hài hước Vô danh
viết bằng chữ Nôm, thế kỷ 19
Nguyễn Văn Sâm

Giới thiệu, phiên âm lần đầu tiên ra Quốc Ngữ,
cuối thế kỷ 20

Giới thiệu

Tuồng Điện Bắc 奠北 là một tuồng dài nhiều hồi. Khác với số lớn các tuồng khác nói về chuyện vua chúa soán ngôi, mất ngôi, tranh ngôi đánh nhau ở nước Tần nước Sở nào đó xa xôi, đây nói nhiều về cuộc sống của dân chúng không tên thấp cổ bé miệng ở nước Việt Nam tội nghiệp với những quan lại dốt nát, lạm quyền và tham ô. Tuồng lại khai thác nhiều trên mặt hài hước, hư hoại hơn là xoáy trên chủ đề trung nịnh, ái quốc, ưu quân. Đây là yếu tố để tuồng được sống còn, tiếc thay vì cái nội dung quá nghiêm trang của tuồng, yếu tố hài hước khó phát triển như nhiều nhà viết tuồng mong muốn. Người viết tuồng Điện Bắc rất ít sử dụng những phần thoại thuần Hán như bạch, xướng, hát khách, thán, ngâm... mà sử dụng thật nhiều những phần diễn tả thuần Nôm - lại không cần tuân thủ theo luật đối xứng - cho nên ta có thể đoan chắc rằng mục đích của tác giả là phục vụ số đông dân chúng bình dân và tuồng được sáng tác vào những thập niên cuối cùng của thế kỷ 19.

Chúng tôi chỉ sưu tầm được độc một hồi 6 nầy thôi. Nguyên tác không biết gồm có bao nhiêu hồi, không sách vở nào nói về Điện Bắc cho nên thiệt khó biết gì thêm về tuồng Điện Bắc ngoài hồi thứ 6 nầy. Điều đặc biệt cần biết đã không được biết là phải chăng tất cả các hồi của bổn tuồng đều có phần giáo đầu viết bằng thể thơ lục bát? Nếu phải thì đây quả là một bước cải cách táo bạo và đầu tiên trong quá trình biến cải tuồng hát bội để đi đến một hình thức gần gũi với dân chúng hơn là kịch nói, ca hát tài tử và tuồng cải lương sau nầy. Tiếc thay câu trả lời đó cho đến giờ chỉ được minh chứng độc nhứt bằng hồi 6 nầy thôi. Quả là quá ít, chưa đủ sức thuyết phục, chưa thể coi như một sự kiện văn học.

Ở hồi 6, phần chánh là cái chuyện dốt của ông huyện. Ông học sách thuộc lòng âm đọc nên hiểu nghĩa sai tất cả. Ông cũng đọc chữ nọ xọ chữ kia nên giải thích câu văn xưa nghe buồn cười không chịu được. Từ chuyện hiểu sai ông tuyên án sai giết oan người dân và giết oan cả mạng của ông. Tôi không dám nói người viết tuồng có xu hướng chống đối lại giới cầm quyền, chỉ dám nói rằng qua tuồng nầy ta biết cái học thời xưa của những người gọi là hiển đạt có quá nhiều lổ hổng. Họ chẳng những không biết điều đó mà còn khoe khoang về cái học thức bất toàn của mình…

Cũng nên nói thêm rằng sự hài hước dựa trên các câu chữ Hán hiểu sai đã được lưu truyền trong dân gian từ lâu. Ngoài những câu hiện rất hài hước, đã đem lại cái cười thoái mái mà ta thấy trong tuồng, câu chuyện nầy tôi còn nghe Giáo Sư Trần Hữu Văn, trước dạy ở trường Trung Học Pétrus Ký Sàigòn vào đầu thập niên 50, kể thêm khúc sau mà ông được nghe khi còn nhỏ… Ông Huyện trước khi bị giết, năn nỉ với lính lệ cho mình được chôn từ dưới chơn lên tới hàm râu thôi, không chôn hết thân người như thông thường người đời. Chừa râu lại. Lính hỏi tại sao, ông dẫn câu ‘thiên niên mai cốt bất mai tu’. Ý của ông là người ta ngàn năm có thể bị chôn xương cốt nhưng không thể để cho bị chôn râu. Trong khi đó tu ở đây không phải chữ tu 鬚 râu mà chữ tu là sự xấu hổ 羞 … Cả câu dùng để dạy răn rằng con người phải làm điều thiện lành nếu làm xấu thì dầu cho chết đi rồi tiếng xấu vẫn còn tồn tại.

Về văn chương, Điện Bắc hồi sáu là thứ văn chương của tuồng trên đường lột xác để phục vụ quần chúng bình dân nên những câu nói dùng thể phú ở dạng cách cú, gối hạc đã không có, câu có thể chia thành hai liên đối nhau nhưng đối ý hơn là đối từ, những cách chơi chữ tài tình và nhiều dụng công như trong tuồng Kim Thạch Kỳ Duyên, tuồng Kim Vân Kiều vắng bóng hoàn toàn. So với các tuồng hài khác như Trương Ngố, Trương Ngáo, Trần Bồ, Trương Đồ Nhục… Điện Bắc là thứ văn chương dễ hiểu hơn nhiều. Một vài từ hơi cổ như ốc 喔 (hiểu, biết, khôn, - hay tên gọi?, hay xấu hổ?-) nấy 乃 (đưa cho, giao cho) sất 叱 (chẳng có) bấn 鬂 (lo lắng quá, kinh sợ quá) là hệ quả của sự rơi rớt lại, tồn đọng lại của những từ đang bị đào thải trên đường triệt tiêu nhưng chưa chịu biến mất liền mà thỉnh thoảng lác đác hiện về, chỉ là một đặc tánh của ngôn ngữ.

Nguyễn Văn Sâm
Port Arthur, TX,
Khởi phiên 1993, Xem xét lại 2007


Đoạn đại nghĩa trừ gian đố nữ.
Khởi tà tâm phục oán cuồng nhi .
(Dứt nghĩa lớn, giết vợ ghen xằng,
Dấy lòng tà trả thù con quậy.)

Tiểu Xuân: (ĐB6-1)

Trời Nam mừng thánh trị vì,
Đức phen Văn Võ nhân bì Thuấn Nghiêu [1] .
Chín trời vũ thuận phong điều,
Trị an mối một lúa nhiều sanh đôi.
Muôn dân no đủ nơi nơi,
Mừng thời thạnh trị thấy đời âu ca [2] .

Lại nói:

Thiếp Tiểu Xuân Trâu thị hỗn gia [3] ,
Lánh phi sai phải từ môn hộ.
Ta kíp trông chừng thượng lộ,
Ngõ đều thoát chốn tai nguy.

Trâu Bột :

Cùng nhau lộ thượng bôn trì,
Trông dặm Mã gia bạt thiệp.
Trâu Bột Tiểu Xuân, bắc xướng:
Song song huề thủ tẩu cương trường.
Miễn đắc cùng đồ thọ khổ thương.
Chỉ hận cuồng phu đa tác nghiệt [4] .
Nhẫn linh phu phụ tị tai ương.

(Chuyển cảnh [5] .)

Khôn Chi:

Cậu du hành viễn xứ tha phương,
Sao chẳng thấy qui âm phản bộ.
(ĐB6-2) Gia đinh khá giữ gìn môn hộ,
Đặng cho ta kiếm cậu sẽ về.
Mau mau kíp bôn trì,
Chóng chóng tua thượng lộ.

Nam xướng:

Chóng chóng ngõ tua thượng lộ.
Mặt giã từ môn hộ dời chơn.
Gian nan lòng vốn chẳng sờn,
Tớ thầy dốc trọn đền ơn đãi đằng.
Chơn què nhúc nhắc dùng dằng.
Phải theo kiếm cậu há rằng gian nan.

Lại nói:

Sao đã lặn ác vàng,
Phải kiếm nơi đình đỗ.

(Bỗng Mã thị đến nửa đường, gặp Khôn Chi, dẫn nhau về nhà v. v…)

Mã thị:

Đi tới đây vừa lỡ bộ,
Chú nào đứng đó làm chi?
Đi ra chợ tôi về,
Gặp nên lời phải hỏi.

Khôn Chi:

Đã hỏi xin tôi nói,
Tôi là khách qua đường.
Đã tối trời không chỗ ngụ nương,
Mụ có biết nơi nào nghỉ chăng?

Mã thị:

Gắng mà bước thẳng,
Nhà thiếp ở đây .
Nghỉ một đêm mai đến sáng ngày.
Nào có phải ở năm ở tháng.

(Cùng vào nhà.)

Khôn Chi:

Tôi tuy mắc tật nguyền hoạn nạn,
Song cũng người ăn ở đề đà [6] .
Sao thấy đây một mụ ở nhà.
Mà không thấy chồng con trong cửa?

Mã thị: (ĐB6-3)

Nghe nói lệ tuôn chan chứa,
Tưởng thôi gan lại phập phồng [7] .
Nào có kể chi chồng,
Theo đĩ đà bỏ vợ.
Mấy tháng chẳn không hề tới cửa.
Huống một ngày mà lại về nhà.
Hòng thưa đơn mà lượng quan gia,
Kẻo chịu vậy mình thêm oan ức.

Khôn Chi:

Vậy thiệt đà nên tức,
Không khoan lỗ cho thông,
Đó đà trống cẳng sự chồng,
Đây vốn chưa nơi nào vợ.
Tuy có chút cẳng què mắc mưới [8] ,
Nhưng song vì nhà lớn của giàu.
Chẳng nghe tiếng cột cầu,
Thế coi lâu cũng đẹp.

Mã thị:

Thiệt dạ tôi đâu có hẹp,
Khốn vì mắc nợ nên nghèo.
Dầu có nơi đỡ chống khỏi chèo,
Thiệt cũng khá, lo chi sự rối.
Gẫm như chú cũng khá ma!
Tôn Tẫn với Thiết Quài la lối.
Hầu Đôn cùng Dương Sĩ thiệt hay.
Chẳng vậy mà tiếng để xưa nay.
Coi như chú cũng rành sau trước.

Khôn Chi:

Lời mụ nói khéo vừa tấc thước,
Kể đời nay chẳng tốt tóc tơ,
Xấu mà làm đặng chức quân sư.
Xấu mà (ĐB6-4) đặng rèn nên tiên tử.
Thiệt mụ khéo theo kỳ mà xử,
Lời nói nghe gẫm rất biết điều.
Sẵn bạc đây mụ lấy ít nhiều [9] .
Kiếm chỗ ngủ kẻo mà lạnh lẽo.

Mã thị:

Nhà trong nầy cũng khéo,
Phòng gói kín gớm gang [10] ,
Vô trong nhà sẵn chiếu sẵn màn.
Mặc sức chỗ nằm lăn nằm lóc.

(Hai người dắt tay nhau vô phòng.)

Khôn Chi:

Sao mụ nầy rất ốc [11] ,
Không nằm ngũ cho liền.

 *
* *

Trâu Bột:

Nhẫn từ mụ ở tư riêng,
Nay mới về thăm nhà lớn.
Xem nhà cửa cột đà chẳng hở,
Còn trong nhà đèn tắt mịt mờ [12] .
Nghe trong nhà tiếng nói nhỏ to.
Phải rình biết tự tình sau trước.

Mã thị: [13]

Lo cho cá e không đặng nước,
Lo chi chim mà chẳng có cây.
Tưởng xưa đà lạnh lẽo thân đây,
Nay mừng đặng no say của mụ [14] .

Khôn Chi:

Chẳng nghe các thứ chim làm tổ,
Con nọ bỏ con nầy vô.
Sắm dao rựa đủ đồ,
Nghỉ về ta đã quyết [15] .

Mã thị: (ĐB6, 5)

Sẵn có dây có đá
Lại có xích có đao.
Ăn cây nay đà quyết vun rào
Chặt cây nọ phải toan dứt rễ.

Trâu Bột:

Thính thuyết tâm trung oanh liệt [16] ,
Hận tai gian bối tung hoành.
Nó cùng nhau đem thói tư tình,
Lại bày đặt gian mưu ác sự.
Tội nó đà đáng tử,
Tao há dễ nhiêu sanh,
Cửa trước sau cột lại đành rành.
Tao đặt lửa đốt nhà bỏ ghét.

Tiểu Xuân:

Xin đừng quyết, xin đừng quyết,
Tưởng rất oan, tưởng rất oan.
Chị tôi [17] đâu có thói hung hoang,
Thế nhà trống cho người ở đậu.
Sự tình ấy anh nghe chưa thấu.
Vợ chồng người ở đậu nói chăng [18] ?

Trâu Bột:

Mầy chớ nói lăng nhăng,
Tao nghe đà tỏ rõ.
Mau mau buông lửa đỏ,
Chóng chóng kíp đào sanh.

Khôn Chi, Mã thị:

Rất nên kinh, rất nên kinh,
Đà quá sợ đà quá sợ!
Cửa trước cửa sau chẳng mở,
Cháy đầu cháy cổ thiệt đen,
Hoàng thiên hỡi hoàng thiên,
Địa hậu ôi địa hậu!

Xã Trưởng:

Thấy ngọn lửa (ĐB6-6) ngồi đà chẳng đậu,
E nhà nhiều sợ cháy giồng khoai [19]
Thằng đầu sưu xách [20] mõ đánh hoài,
Cho bổn xã đem nhau đi chữa.

Người Bổn Xã:

Nghe mõ đánh liền là lửa,
Đem nhau chẳng kịp trở chưn.
Nhà ai trước cất lên [21] ,
Bắt nạp cho quan lớn.

Xã Trưởng:

Bấy giờ mới đến,
Lửa cháy đã rồi.
May cháy có một nơi,
Không ăn ngang nhiều chỗ.

Phụ Nữ Trong Ấp:

Nghe nói chạy áo quần tố lộ [22] ,
Thấy lửa lên đầu cổ rụng rời.
Người la chó sủa đòi nơi,
Mõ đánh khói bay khắp chỗ.
Chị kia bưng cái rỗ,
Gã nọ xách bình vôi.
Mấy trách kho đã cháy đi rồi,
Còn thúng gạo ai bưng đặng chẳng?

Một Phụ Nữ:

Mình bồng con chạy thẳng,
Hai cẳng bước nên giùi.
Chị vợ ôi lại kéo lấy tôi,
Kẻo thấy lửa đi đà không đặng [23] .

Đầu Sưu:

Lũ nầy hoảng hỡi còn chạy gắng,
Lửa tắt rồi sao chạy đi đâu.
Chớ úm chặt lấy nhau,
Đem về nhà kẻo trẽn [24] .

Trùm Trưởng:

Cháy hết (ĐB6-7) một khoảnh,
Không biết nhà ai,
Thằng đầu sưu khá lại tao sai,
Tìm tên chủ cháy nhà mà bắt.

Đầu Sưu:

Nó sợ đà nốp mặt,
Biết đâu bắt trói tay [25] .

Một Phụ nữ:

Nhà nầy chẳng có ai đây,
Thiệt có một đàn bà góa.
Chị ấy mắc tiền [26] tôi chưa trả,
Đi với tôi buôn bán quen nhau.
Chồng nghỉ đà nay lánh đi đâu,
Nay lại mắc cháy nhà, cơ khổ.

Xã Trưởng:

Vậy thiệt nhà không chủ,
Anh Trùm khiến bắt ai,
Coi thử còn đặng mấy gia tài,
Khá cất đặt đi cho nhà chủ [27] .

Trùm Trưởng:

Các trai làng ta nhủ,
Gánh nước tưới mớ than,
Kẻo mà cây lá cháy lan [28] ,
Gió thổi bưng lên nhà khác.

(Người dân dập tắt ngọn lửa, vô nhà thấy hai thây bị chết cháy….)

Dân chúng:

Người đà tưới nước,
Kẻ lại kéo thang.
Điều ngó thấy rõ ràng,
Có hai người bị cháy.

Trùm Trưởng, Xã Trưởng:

Sao nó không hay chạy,
Mắc lấy lửa phủ đi.
Giống heo quay đã chết lăn khi,
Đoàn chó chết hãy còn (ĐB6-8) đeo chặc.

Một Phụ Nữ:

May còn thấy mà nhìn thiệt mặt,
Người bị thiêu vốn thiệt chủ nhà.
Còn một cái thây ma,
Người nào tôi không biết.

Xã Trưởng:

Thưa quan biên thương tích,
Bản xóm mới đặng chôn,
Cháy một nhà may khỏi bản thôn.
Nhà nầy cháy thế vì lửa oán.

Trùm Trưởng:

Đây đã đủ lão nhiêu lão hạng,
Lại có người hàng xã hàng đô.
Thế nhà nầy trai gái chi đồ,
Nên chi mới oán thù đốt lửa.

Dân Xã:

Sự tích là chưa rõ,
Đầu đuôi khó biết đây,
Phải ra trình nhà huyện người hay,
Rồi toan bỏ khỏi làng kẻo lấp.

Xã Trưởng:

Lời các bác tri hương đã biết,
Vậy đều ra nhà huyện mà trình.
Tưởng sự thế nên kinh,
Gẫm nhơn tình quá sợ.
Sát chủ thiệt lòng mình chẳng nỡ.
Nghiệt tử kia tha khiến dạ làm,
Sự tích nầy tưởng mỗ đã ham,
Tình trạng ấy đoàn ta có giữ.
Thượng quan trước đà chí tử,
Hai trộm đều nối dõi quyên sanh.
Đến đoàn mong khởi gian manh.
Thảy đều bị (ĐB6-9) hai ta tru lục.

Tiểu Xuân:

Các sự ấy gẫm là chẳng khúc,
Một chị tôi e hãy còn oan [29] .
Trước mặt đà hờn giận chứa chan,
Sau lưng vốn nghĩ nên thương tiếc [30] .

Trâu Bột:

Đừng có thả lời da diết,
Việc kia gẫm chẳng đơn sai,
Nếu ở đây e mắc rạc rày [31] .
Sự tích ấy phải toan đón tránh.
Miền tha quốc ngõ tua xa lánh.
Tội tình nầy mới đặng khỏi mang [32] .
Giang tay ngõ kíp lên đàng,
Vợ chồng ta đều lánh nạn.

Hát Nam:

Chồng vợ ta đều lánh nạn,
Gẫm sự nầy tình trạng rất ưng,

Tiểu Xuân, Hát Nam:

Bởi vì trừ đứa lăng nhăng,
Lại e tai sái xung xăng thoát nàn .

Trâu Bột:

Đoái xem trời đất thở than,
Sự nên ai biết nỗi oan lại ngờ.

Tiểu Xuân, Hát Nam:

Gió đưa phưởng phất [33] ngọn cờ,
Âm thầm nỗi thế, ngất ngơ sự mình.

* * *

Tri Huyện:

Chức Tri Huyện đã vinh,
Việc án đều rất biết [34] .
Giữ sĩ hạnh đã nên liêm khiết,
Lại (ĐB6-10) e dân nhiều nỗi tiếu đàm.
Nói rằng ông huyện tham tham,
Không biết kinh quyền chi hết.
Vậy mới học lời thêu dệt,
Mới toan rõ lẽ vạy ngay
Hễ là cất ngón tay,
Ắt đã no lổ miệng.

(Có một nhóm thôn dân dẫn đến nộp một người trộm trâu.)

Một Thôn Trưởng:

Chúng tôi nay có chuyện,
Phải tới gởi cùng quan.
Có thằng nầy rất đổi quá hoang.
Nó ăn trộm trâu tôi một đực.
Bản xóm chúng tôi ra sức,
Mới vừa bắt đặng không tha.
Phải đem nộp huyện nha,
Mặc quan trên xử tội.

Tri Huyện:

Nghe sự nầy cũng rối,
Thông lại hỏi cho tường.

Thông Lại:

Lũ xã nầy gẫm rất lương khương [35].
Nộp kẻ trộm sao mà không lễ?
Còn thằng nọ xem ra tử tế,
Có lẽ nào mà lại trộm trâu [36] ?

Tên Trộm Trâu:

Chúng tôi có biết đâu,
Họ bắt oan phải chịu.

Một Người Thôn Trưởng:

Chúng tôi dám nói điều nhăng nhíu.
Nó trộm trâu vốn thiệt rõ ràng,
Lễ mọn đà sắm các quan,
Đem xuống trại giao cho lính.
Thiệt chúng tôi (ĐB6- 11) đã tính,
Sự nọ gẫm thiệt xong.

Thông Lại:

Thằng trộm trâu nó cứ nói vong,
Không sao đến cả làng ta bắt.

Tri Huyện:

Thông lại nói lẽ nầy thiệt chắc,
Thằng nọ gian tang tích rõ ràng.
(Một người trộm chiếu được dẫn nộp.)

Ấp Trưởng:

Chúng tôi dám gởi lịnh quan,
Vì bắt loài gian đem nộp.
Có một thằng nầy nên háp,
Nó vào trộm chiếc chiếu manh.
Vừa chúng tôi thức dậy tri tình,
Mới bắt nó hỏi tường bản ý.
Phải đem nộp cho người xử trị.
Ngõ cho dân dưới nhờ cùng.

Tri Huyện:

Thiệt nên hung, thiệt nên hung,
Đà quá ách, đà quá ách.
Đem tới nộp một tờ giấy bạch,
Rất thèm mùi vật mọn dưỡng thanh.
Lão thông lại tri tình,
Cứ vậy mà phân xử.

Lão Thông Lại:

Hễ bắt loài đạo tử,
Là có lãnh tiền chia.
Nỗi trộm trâu sự tích rõ ràng.
Mới vô lệ đặng nhờ lãnh thưởng.
Ấy mới dùng lễ trọng,
Thiệt đã đáng chẳng khinh.
Chớ như đoàn trộm chiếc chiếu manh,
Không vô lệ lấy đâu mà thưởng.
Khiến biểu dùng lễ trọng,
Vậy chẳng ức người ta.

Tri Huyện:

Lão thông lại nói ma,
Thiệt không hay kể quỷ.
Nghị đạo giả mặc ta xử trí,
Cho chúng dân các tự hồi qui.
Sự tích nầy để nó làm chi.
Cứ tang trạng mau ta làm án.
(Dân chúng ai nấy cầm cáo trạng đợi phê.)
Thằng trộm chiếu tội kia đã đáng,
Tạo lệ quân [37] đem nó chém đi.
Thằng trộm trâu mỗ rất kiêng vì,
Nào nha lại tha đi lập tức.
Án phê đà rõ mực,
Mau khá dụng ấn son.
Sự tích kia xử đã vuông tròn.
Sau đem lại nạp cho quan trấn.

(Tạo lệ lãnh lịnh dẫn các tên trộm ra cửa. Tên trộm chiếu kêu oan….)

Tên trộm chiếu:

Nghe thôi đã bấn [38] ,
Thấy nói rất kinh.
Gẫm tội tôi vốn thiệt rất khinh,
Sao người dạy đem đi chém?

Lão Thông lại:

Quan huyện xử việc nầy hỡi hiếm,
Dám xin người nghĩ lại cho cân.
Để ta sau trước phân trần,
Tạo lệ khoan tha khoan chém.

Tri huyện:

Lão Thông lại học hành còn kém,
Sao (ĐB6-13) mà ngươi ăn nói thiệt ngang,
Tội lỗi ta xử đã rõ ràng,
Thiệt nhằm sách vốn đà tường tất.

Lão Thông lại:

Xin người phân tường tất ,
Cho tôi rõ do lai,
Sao mà rằng nhằm sách vở ai.
Thiệt tôi nghĩ tội tình rất ức.

Tri huyện:

Thiệt ngươi không kiến thức,
Sao biết đặng thị phi.
Lời sách xưa thánh nói còn ghi,
Xử việc ấy ắt là nên phải.

Tán:

Vương tọa ư đường thượng, hữu khiên ngưu giả quá ư đường hạ. Vương viết xá chi.
Là có kẻ dắt trâu qua nhà vua, vua thấy dạy tha nó. Sức vua còn dạy tha, tài chi ta dám bắt, Thằng lệ tha thằng trộm trâu đi, còn thằng ăn trộm chiếu…

Tán:

Khổng Tử viết: Triêu văn đạo tịch tử khả hỉ. Sớm mai nghe ăn trộm chiếu, thác há dưng .

Lại nói:

Truyền cho tạo lệ quân,
Đem ra mau chém quắc.
(Lính lệ vâng lệnh đem tên trộm chiếu ra chém và thả tên trộm trâu…)

Xã trưởng, Trùm trưởng:

Bồ bặc dám xin biện bạch,
Cúc cung tỏ nỗi do lai.
Bổn xã tôi có ngộ hỏa tai.
Bị thương thiêu nhị nhân uổng mạng.
Vậy phải thưa qua tình trạng.
Ngõ cho quan đặng tường tri.
Xin sai người lập nghiệm (ĐB6-14) thân thi.
Ngõ cho bản xã toan phương cấp táng.

Tri huyện:

Thiệt quân nầy nên dạn.
Sao bây dám tới thưa,
Sự tích kia gẫm đã ngang chưa.
Truyền tạo lệ đem ra mà đánh.
(Tạo lệ vâng lời đem hai người ra đánh…)

Xã trưởng, Trùm trưởng:

Chúng tôi không dám lánh,
Nhưng chỉn thiệt rất oan.
Dám thưa gỡi lịnh quan.
Ngõ tha cho dân chúng.

Tri huyện:

Quân nầy hay nói túng,
Chút tao lại đánh thêm.
Bây không nghe ngạn ngữ người truyền.
Mà để lửa hại lan hai mạng.

Tán:

Ngạn ngữ rằng: Thành môn thất hỏa, ương cập trì ngư.
Hễ là thành môn dậy lửa, ấy cá cháy dưới ao.

Lại nói:

Sao chúng bây chẳng biết lo nào,
Mà để đến cho người ta chữa.
Dậy đem nhau ra lạy,
Hỡi còn thầy kiện mà nằm.
Nghĩ nên giận cho cam,
Những tưởng ngu dân cũng nộ.
Bây giờ chgôn thây tử,
Thôi chớ nói sự sanh.
(Dân chúng đều ra khỏi huyện, đi về..)

Lại nói:

Truyền phô chúng gia đinh,
Sắm sửa tao lên trấn.

Bắc xướng:

Hạnh đắc minh thời tĩnh phỉ đồ,
Mỗi triêu cầm hạc (ĐB6-15) tự vi ngu.
Phước đường lộng lạc giang thanh dưỡng.
Sĩ hậu cao quan phận cảm du.

Một Gia đinh:

Mãn việc nhà lúc thúc lu thu,
Tưởng nhiều nỗi lăng nhăng lạnh mặt.
thiệt nhà cậu chơi không ra chuyện.
Mà đi đâu hơn một tháng trường.
Mình kiếm đã cùng đường,
Đi thiệt đà phá mật.

Một Gia đinh :

Bởi vì chỗ quân sư nên trớt.
Thiệt hay bày chuyện rất lăng nhăng.
Nó có một tài ăn,
Cũng bao thầy mưu kế.
Hai thầy tớ đi chơi đã trễ.
Sao rày mà chẳng thấy về.
Thế đà sa bụi sa bờ.
Nên nỗi mất tăm mất dạng.

Một Gia đinh:

Như làm vậy chúng ta dám nín [39], 
Phải thưa qua quan lớn người hay.
Dầu mà người có đánh ngay.
Phải chịu dám đâu chạy thẳng.

Thượng Quan Thanh:

Tiếng mỗ người đà xa mắng.
Danh ta chúng lại cả kiêng.
Một quận nầy ngang dọc mặc min.
Trăm họ ấy giày bừa sướng mỗ.
Chí muốn tổng thâu thổ võ.
Hiềm vì thiếu kẻ trảo nha.
Hỡi chờ thời đem lại một nhà.
Mới (ĐB6-16) ưng mỗ ngồi trên muôn nước.

Lại nói:

Nhờ đặng tổ tiên tốt phước.
Sớm sanh miêu duệ nối dòng.
Đặng một trai mỗ rất ưng lòng.

Nói cho phải, như thằng con tôi, tuy Tống Ngọc, Phan An tái sanh diệc bất khả tỉ dã.

Việc tử tế ta đà sướng dạ,
Duyên sao còn lạ,
Chẳng thấy vào hầu.
Hay đà thưởng ngoạn ở đâu.
Gẫm thiệt tánh tình in mỗ.

Gia đinh:

Chúng tôi dám bày lời thổ lộ.
Thiệt nghe đồn sự phong phanh.
Chúng tôi đâu có dám giấu tình,
Về nhà cậu vốn đà hoan ý.
Cứ chơi hoài chơi hủy.
Không về cửa về nhà.
Nghe người đồn cậu đã Nam ca,
Phận quân lính phải thưa tường tận.

Thượng Quan Thanh:

Nói sao trái bề rận [40] ,
Có đâu đã Nam ca,
Chơi chốn nào mầy khá nói ra,
Sao đến đỗi tao đà cụt vốn.

Một Gia đinh:

Trước đánh bạc đã thua bề vốn.
Sau lại chơi a phiến tổn hao.
Cùng quân sư đi những phương nào.
Giấu chúng tôi nên chi không biết.
Nghe người đồn đã quyết.
Chơi tại huyện Vân Khai.
Thiệt chúng tôi tìm đã khắp nơi (ĐB6-17)
Mà không thấy, nghe người phóng hỏa.
Bị kẻ trộm trước đà chịu đả,
Thế sau nầy đâu cũng mang tai.
Thiệt chúng tôi đâu dám vi quai.
Mấy sự tích đều phân minh bạch.

Thượng Quan Thanh:

Nghe thưa mất phách,
Thấy nói kinh hồn.
Truyền quân nhân tua khá bôn chôn.
Theo quân ấy mà đi tìm kiếm.
Nào mấy chốn nó ăn a phiến.
Cùng đòi nơi trẻ đánh bạc cờ.
Mau mau kíp về thưa,
Chóng chóng tua dời bước.

Quân nhân:

Vâng lời giang thước.
Phụng mệnh thi hành.
(Quân lính tụ lại, tìm thấy)

Tri huyện:

Vân Khai huyện ấy danh,
Chúng tôi là Tri huyện,
Nhân rày có chuyện,
Vậy phải vào thưa,
Xã Ích Tô có báo khi trưa,
Rằng có bị hỏa thiêu nhân mạng,
Cùng xã Kỳ Hương có trạng,
Đem trình một đứa trộm trâu,
Theo sách xưa xử lý đã mầu.
Trộm trâu ấy tôi đà phóng thích.
Lại thêm có dân làng Triệu Bích,
Nộp một thằng ăn trộm chiếu manh.
Chúng tôi tra đã thiệt tình,
Nên truyền ra chém quách.
Thiệt bổn huyện xử đà hiển hách.
Vậy mới đem án nộp quan trên. (ĐB6-18)

Thượng Quan Thanh:

Thiệt cha huyện đã điên,
Vốn thằng nầy nên dại.
Trộm trâu ấy sao mà phóng giải.
Trộm chiếu mà đến đỗi tru di.
Xét uổng tờ uổng mạng quai vi,
Truyền xuất trảm tha Tri Huyện.

(Lính vâng lịnh lôi Tri Huyện đi, Tri Huyện năn nỉ thống thiết…)

Tri huyện:

Thiệt tôi xử vốn đà ra chuyện.
Sao mà người lại dạy chém đi.

Có chữ rằng khiên ngưu đường hạ, Vương viết xá chi. Mần răng mà chẳng tha? Lại có câu rằng: Triêu văn đạo tịch tử khả hỉ. Mần răng mà chẳng chém?

Lại nói:

Sự tích kia đã rõ mần ri,
Lạy quan lớn xin tha làm phước.

Thượng Quan Thanh:

Hỡi còn thưa lấy được,
Nó đã dốt lại điên.
Sao chúng quân để nói cà riềng,
Không đem chém cho rồi kẻo bắp.

(Lính vâng lịnh, dẫn Tri huyện ra cửa. Tri huyện vừa đi vừa khóc, xin xỏ đám lính.)

Tri huyện:

Từ rày mới thân này hết kiếp,
Thế ắt sau cũng hóa bào thai.

(Lính nói : ông huyện hay ăn của người ta lắm. Chết đi rồi biến ra chó không hồn.)

Quân nhơn:

Hay làm nhăng của chúng hoài hoài,
Ắt bác huyện bào thai ra chó.

Tri huyện:

Dầu mà có bào thai ra chó,
Cũng xin làm chó mẹ mà hơn.

Quân nhân:

Hỏi mần răng chó mẹ cho hơn?

Tri huyện:

Lâm tài mẫu cẩu đắc,
Lâm nạn mẫu cẩu miễn [41] .
(Hễ có của chó mẹ đặng, có tai họa chó mẹ khỏi.)

Thượng Quan Thanh:

Chưa chém đi, còn để nó than,
Đã đến chết còn đèo theo dốt.
(Quân lính đem quan Huyện ra chém.)

Quân:

Chúng tôi tiểu tốt,
Thưa với đại quan.
Vâng lịnh người kiếm đã cùng đàng.
Không đặng cậu phải về thưa lại.

Thượng Quan Thanh:

Nghe thưa qua muốn dại,
Thấy nói lại thêm điên.
Có khi đã vô tuyền,
Con trẻ ôi con trẻ.
(Hèn chi khi sớm tao có ngủ, thấy điềm chiêm bao.)
Thấy một thằng trọc sao mà lạ vẻ.
Vào hầu tao nó lại ở truồng.
Ngó lại ấy gảy cổ đem xiên.
Tưởng điềm ấy thế đà chết thiệt.
Nãy thằng Huyện nó thưa đã quyết.
Rằng chốn kia thất hỏa thương nhân.
Thế ai thù con mỗ chơi hoang,
Chẳng bị giết ắt là bị đốt.

Lại nói:

Tưởng tới lửa tâm thêm hốt,
Nhớ thôi thủy thận lại trào.
Truyền quân nhân phụng mệnh đề đao.
Tựu mỗ xứ ngô nhi thưởng ngoạn.
Cùng mấy đứa rượu chè quếnh quáng.
Cùng với đoàn a phiến bung xòe. (ĐB6-20)
Khá bắt cho hết bợm bè,
Đều đem chém trừ loài tráo chác.
(Quân lính tuân lịnh thi hành…)

Lại nói:

Việc đã tường nỗi trước,
Rồi xin tỏ đoạn sau.
Hạ quan cung bái phương lâu.
Cẩn tấu hạ hồi phân giải.
(Hết hồi 6)

Phụ bản IV

CUỘC TRẦN

Đâu thể bảo BIỂN TRẦN ngưng sóng gió,
Và ĐƯỜNG TRẦN bằng phẳng, hết gai chông;
Chỉ dặn được LÒNG TRẦN thôi gắn bó,
Vào CẢNH TRẦN, đời sẽ hết long đong.

Tâm-Nguyện

SECULAR GAME

One simply can't say that the secular sea has stopped being stormy
And the worldly life path has turned stabilized
and is no longer bristled with difficulties.
It's advisable that one stops being involved
and bound to worldly affairs.
Then one's ill fate will surely and easily be avoided.

LA VIE ET SES CONJONCTURES

On ne peut pas dire que les vents
et les tempêtes de la mer séculière ont cessé
Et que le chemin de la vie devient paisible et sans difficultés;
Le seul conseil est de ne plus s'impliquer
dans les affaires de ce bas-monde.
Et alors, la mauvaise chance sera à tout jamais évitable.

VŨ ANH TUẤN dịch

NGÀY XUÂN CƯỜI CHÚT CHƠI

THIẾU ĐỨC TIN

Năm ấy, một Huyện nọ bị hạn hán. Cả mấy tháng liền, trời không mưa cho một giọt nước nào.

Ruộng vườn khô cằn. Đất nứt ra từng mảnh.

Quan Huyện mới mời một thầy phù thủy về lập đàn để cúng tế cầu mưa.

Bữa ấy lập đàn cầu mưa.

Khi mọi người tập hợp trước đình, quan Huyện nhìn mọi người rồi nói:

- Đồng bào tới đây để cầu Trời Đất, Thần Thánh giúp dân ta một vài cơn mưa, mà đồng bào thiếu Đức tin như thế kia, thì làm sao mà Trời Đất, Thấn Thánh chứng giám cho đồng bào?

Dân trong Huyện ngạc nhiên, không hiểu tại sao quan Huyện lại bảo là mình thiếu Đức Tin?

Thì quan Huyện đã nói tiếp:

- Đồng bào tới đây để cầu mưa, mà đồng bào không một ai mang theo dù, nón, áo tơi gì hết. Chứng tỏ, đồng bào không tin tưởng chút nào là Trời sẽ mưa sau khi đồng bào cúng lễ.

MỘT NÀNG VÀ HAI CHÀNG TRÊN HÒN ĐẢO

Trôi dạt lên một hòn đảo hoang vu, là một nàng và hai chàng. Sẽ xẩy ra những gì? Đây là câu trả lời, tùy theo dân tộc tánh – Nếu họ là người dân Tây Ban Nha, thì một trong hai người đàn ông sẽ giết người kia – Nếu họ là người Ý, thì nàng sẽ giết một trong hai chàng – Nếu họ là người Anh thì sẽ chẳng có chuyện gì xẩy ra hết vì theo lễ phép Ăng Lê, 3 người ấy chưa được giới thiệu với nhau, thì chưa có quyền nói chuyện với nhau.

Nếu họ là người dân Giao Chỉ, thì theo luật giang hồ: Huề cả làng, sẽ vui vẻ cả 3, hai chàng lo phục vụ một nàng, nàng cho ai sống người ấy được sống, nàng bắt ai chết người ấy phải chết nhưng nàng sẽ chẳng bắt ai chết hết. Dại gì?

HẾT NHẬN RA

Bà bác sĩ Ngô, bữa ấy, tiếp một bà khách vào loại mới giầu, nhờ chồng trúng áp phe, tham nhũng gì đó.

Bà khách này vừa quê, vừa hách xì xằng. Mới gặp bà bác sĩ Ngô, bà khách đã hỏi:

- Bao nhiêu tiền, tôi cũng trả. Nhưng phải chữa làm sao cho tôi trẻ đẹp hẳn ra, nếu lộn xộn, chữa không hay, tôi bảo ông nhà tôi một câu, là tù cả đám đó nghe không?

Bà Bác sĩ Ngô mỉm cười và nói:

- Vâng. Nhưng trước hết, xin bà hãy ra đây cho chúng tôi in chỉ tay của bà.

Bà khách:

- Bộ coi tôi là tù nhân hay sao mà phải lấy chỉ tay?

Bác sĩ Ngô:

- Không dám. Nhưng ở đây chúng tôi phải in chỉ tay của khách hàng. Vì khi chữa xong, mặt mũi khách khác hẳn đi, chúng tôi hết nhận ra ai với ai để tính tiền, nên lúc ấy, phải căn cứ vào chỉ tay để nhận ra ai là ai vậy.

Nghe bà bác sĩ “ăn tục nói phét” tới mức đó, bà khách, hẳn khoái lắm.

NGƯỜI ĐẦU TIÊN TRÊN TRÁI ĐẤT

Một tờ báo Pháp, trang giải trí, có đặt cuộc thi như sau:

- Nếu người đàn ông đầu tiên trên trái đất là do Trời nặn ra, và đặt tên là ông Adam, thì Adam phải khác tất cả chúng ta về điểm nào?

Có rất nhiều độc giả gởi thơ tham dự cuộc thi.

Người trả lời:

- Adam cao lớn hơn người thường chúng ta

Kẻ trả lời:

- Ông Adam nhỏ hơn chúng ta

Người trả lời:

- Trán Adam thấp hơn trán chúng ta

Kẻ trả lời:

- Hàm răng ông ta to hơn hàm răng chúng ta

Người trả lời:

- Adam ăn toàn trái cây, chưa biết ăn thịt

Vân vân và vân vân.

Nhưng người trúng giải trả lời:

- Ông Adam là người đầu tiên, do Trời nặn ra chớ không phải từ một bà mẹ nào sanh ra. Cho nên, ông Adam khác chúng ta ở điểm: ông ta không có rún.

Mạnh Đoàn st


[1] Phen , bì : So sánh ngang hàng với, cũng như, không khác gì. HTC giải thích là phen bì như phân bì. Phân bì xưa có hai nghĩa là so sánh vớiso đo với. Ý so đo ngày nay còn, nhưng ý so sánh với văn chương ngày xưa dùng nhiều nhưng nay đã mất. Đó là ý nghĩa của phen 番 , 皮 ở đây.

[2] Lời giáo đầu viết bằng thể lục bát tôi mới thấy ở Điện Bắc hồi 6 nầy là trường hợp duy nhất.

[3] Hỗn gia 渾家 : Cái gia đình lộn xộn. Qua chữ hỗn gia nầy ta biết rằng Tiểu Xuân thuộc về cái gia đình rối rắm Trâu thị. Gần cuối hồi ta lại biết thêm rằng Trâu thị là con quan, nhưng lại là tay chơi bời phóng đãng, vướng vào vòng cờ bạc, nha phiến, bỏ gia đình đi lang thang ….

[4] Ông chồng điên rồ đã làm những điều quấy quá. Ta không biết gì về chuyện nầy, chắc là chuyện của những hồi trước. Rất tiếc, thư tịch của chúng ta ngay cả những thứ mới có độ chừng trăm năm gần đây cũng đã phần nhiều bay bổng vào hư vô…

[5] Nguyên bản văn các trường hợp chuyển cảnh thường chỉ dùng chữ hạ 下 , như hạ màn. Tôi gọi là chuyển cảnh.

[6] Đề đà, đề đạm: ăn ở cân phân, đâu ra đó.

[7] Hai chữ Nôm 乏蓬 khiến ta khó chọn giữa bập bùngphập phòng. Chọn phập phồng vì vần với chồng ở câu dưới, cũng tả được vẻ cái gan giận đánh thình thịch. Huỳnh Tịnh Của có phập phồng lá gan là hồi hộp, lo sợ, không yên trong lòng mà không có từ bập bùng.

[8] Mắc mưới: dính dáng, vương mang, vướng víu, đi xỉa lỉa, đi cà que, đi cẳng què.

[9] Ít nhiều 𠃣 󰔮 đúng hơn là ít đi 𠃣𠫾 như bản Nôm có thể do viết tháo thành sai lạc.

[10] Gớm gang, còn nói gớm gang gớm ghỉnh: quá chừng, quá đổi.

[11] Ốc 屋 : Từ xưa nầy rất khó tìm cho được nghĩa chính xác. Sao mụ nầy rất ốc, không nằm ngủ cho yên… và trong bối cảnh hai người nam nữ không quen biết trong căn nhà vắng vẻ đêm khuya cho ta nghĩ đến nghĩa của chữ ốc nhục là nhơ nhuốc xấu hổ, đáng chê trách mà Huỳnh Tịnh Của còn ghi lại trong tự điển của ông. Trong khi đó chữ ốc trong Lưu Bình phú: 嬰 群 㤕 伴 䝨  、名 屋 刘 平、 共 伴 書 生 .. . Anh còn chút bạn hiền nghĩa cũ, danh ốc Lưu Bình, cùng bạn thư sanh… người làm văn học thường hiểu là tên gọi.

[12] Bản Nôm viết 𩆪𩂟 , phải đọc là mịt mù. Đọc mịt mờ chúng tôi nghĩ người chép bản Nôm đã viết nhầm.

[13] Mã Thị và Khôn Chi nói những lời nầy là do Trâu Bột rình nghe được.

[14] Câu nầy ghê quá! Người xưa chẳng khác người nay, đông tây qua lại cũng ba chuyện nầy!

[15] Nói chuyện giết người chồng.

[16] Nghe được người ta bàn giết mình nên giận và đốt nhà người.

[17] Chị tôi 姉碎 , tiếng người vợ nhỏ kêu người vợ lớn. Cả câu có nghĩa vợ nhỏ khuyên chồng đừng làm bậy với vợ lớn.

[18] Đặt giả thuyết rằng có một cặp vợ chồng đang ở đâu nói xấu như vậy chớ không phải Mã Thị. Cô vợ nhỏ của chồng cũng là người khá.

[19] Ngồi đà chẳng đậu: không thể ngồi được, băng xăng phải đứng dậy chạy đi, chỉ sự nóng ruột. Khoai đối với đậu ở vế trên.

[20] Thằng đầu sưu, tôi không tìm thấy nghĩa của danh từ nầy. Có thể hiểu là người chịu trách nhiệm trực tiếp về việc sai vặt của chức việc trong làng.

[21] Nhà ai trước cất lên: nhà nào cháy trước tiên.

[22] Tố lộ: lộ ra trước mắt (chạy muốn sút quần).

[23] Anh chàng quính quáng quéo quíu chưn quéo cẳng nên kêu vợ kéo giúp mình chạy đi.

[24] Úm: chỉ vợ chồng ôm chặt nhau còn nói úm ấp. Mẹ chồng thường mắng cặp vợ chồng trẻ thức dậy trưa: Sáng bửng rồi mà còn úm. Trẽn: mắc cỡ.

[25] Nó chạy trốn không thấy để bắt.

[26] Mắc tiền 縸錢 : mắc nợ, thiếu nợ ai.

[27] Coi còn món nào cứu được thì cứu giùm cho người ta.

[28] Cháy lan 𤈜 : Cháy ăn ra chỗ khác. Để ý bản nôm viết lan bằng lang 郎 , không phân biệt âm cuối /ng/ hay /n/.

[29] Cô vợ bé nầy luôn luôn nghĩ tốt về người vợ lớn. Tốt!

[30] Giận thì giận nhưng cũng nên thương.

[31] Rạc rày: ở tù. Ta hiện còn nghe nói ở tù ở rạc.

[32] Đi qua nước khác mới khỏi bị bắt tội. Phải trốn đi thiệt xa.

[33] Phưởng phất : Tôi phiên theo cách đọc của HTC, nay nói phảng phất.

[34] Sất biết: chẳng biết gì.

[35] Lương khương 良康 : rắc rối, lộn xộn. HTC: rối rắm, không xuôi bề nào.

[36] Đây là cách nói để dằn mặt làng xã. Ông này có kinh nghiệm cách moi tiền dân.

[37] Tạo lệ quân hay tạo lệ 皁隸軍 : lính lệ, lính hầu.

[38] Bấn : Lo lắng không cùng, kinh sợ. HTC, bối rối quá, rối rắm quá. Miền Trung còn từ bấn loạn.

[39] Chúng ta dám nín: mình không thể im luôn, phải báo cho quan lớn biết.

[40] Chữ có trong HTC: tức lộn mề.

[41] Gặp của tiền thì chó mẹ được, gặp nạn thì chó mẹ khỏi. Vì đọc câu nầy theo cách trên nên ông ta mới đòi được làm chó mẹ. Thật câu văn trên nguyên văn là : Lâm tài vô cẩu đắc 臨財毋苟得 , lâm nạn vô cẩu miễn 臨难毋苟免 . Vô cẩu 毋苟 là không bừa bãi, có nghĩa là cẩn thận đã bị đọc sai và hiểu sai thành mẫu cẩu 母狗 , chó mẹ.

|  01 |
 02 |
 03 |
 04 |
 05 |
 06 |
 07 |
 08 |
 09 |
 10 |
 11 |
 12 |
 13 |
 14 |
 15 |
|  16 |
 17 |
 18 |
 19 |
 20 |
 21 |
 22 |
 23 |
 24 |
 25 |
 26 |
 27 |
 28 |
 29 |
 30 |
|  31 |
 32 |
 33 |
 34 |
 35 |
 36 |
 37 |
 38 |
 39 |
 40 |
 41 |
 42 |
 43 |
 44 |
 45 |
|  46 |
 47 |
 48 |
 49 |
 50 |
 
|  01 |
 02 |
 03 |
 04 |
 05 |
|  06 |
 07 |
 08 |
 09 |
 10 |
|  11 |
 12 |
 13 |
 14 |
 15 |
|  16 |
 17 |
 18 |
 19 |
 20 |
|  21 |
 22 |
 23 |
 24 |
 25 |
|  26 |
 27 |
 28 |
 29 |
 30 |
|  31 |
 32 |
 33 |
 34 |
 35 |
|  36 |
 37 |
 38 |
 39 |
 40 |
|  41 |
 42 |
 43 |
 44 |
 45 |
|  46 |
 47 |
 48 |
 49 |
 50 |
 
Netadong.com thiết kế