VÀI CHI TIẾT VỀ CUỘC HỌP TẤT NIÊN NGÀY 29-1-2008 (22 tháng Chạp ) Cuộc họp Tất Niên này đồng thời cũng thay thế cho cuộc họp của tháng 2-2008, vì nếu họp đúng vào ngày thứ bảy tuần thứ hai trong tháng thì sẽ đụng ngày 26 Tết, là ngày mà mọi người đều rất bận rộn khó mà thu xếp để đi họp được. Trong cuộc họp này, CLB Sách Xưa và Nay có trưng bày một số các tài liệu và sách do chính các thành viên đã làm, đã dịch và đã soạn, cùng với toàn bộ Bản tin nội bộ gồm 21 số và một số hình ảnh cho thấy các hoạt động của CLB trong hai năm vừa qua. Ngoài các thành viên, trong kỳ họp này CLB còn có sự hiện diện của các quan khách là Ô. Trần Đình Việt, Giám Đốc Nhà Xuất Bản Tổng Hợp Thành Phố Hồ Chí Minh và Bà Lê Thị Hoàng Mai, Phó Giám Đốc, Nhà thơ nữ Giáng Vân, ái nữ nhà văn Lê Văn Trương, Nhà Kiều học Phạm Đan Quế và Quý ông Phạm Phú Hạt, Phạm Phú Thành và Phạm Phú Vinh là các hậu duệ của cụ Phạm Phú Thứ. Mở đầu buổi họp, như thường lệ, Dịch Giả Vũ Anh Tuấn đã giới thiệu với các thành viên một cuốn sách quý và hiếm nhan đề là “Năm Mươi Chuyện Ngắn Trung Quốc” (Cinquante Contes Chinois) của tác giả Pierre Daudin, một tác giả Đông Dương đã có viết một vài cuốn sách về Đông Dương, chủ yếu là về Việt Nam vào thời tiền chiến. Cuốn sách này xuất bản năm 1938 và là bản dịch của 50 truyện ngắn trong bộ Liêu Trai Chí Dị của Bồ Tùng Linh, đặc biệt là cuốn này có chứa đựng 50 minh họa bằng bút sắt cực kỳ đẹp và hấp dẫn. Sau phần giới thiệu cuốn sách quý, Ô. Trần Đình Việt có phát biểu về việc mời các thành viên CLB tham dự Cuộc Thi Những Cuốn Sách Vàng do nhà Xuất Bản Tổng Hợp tổ chức, và có chuyển cho mỗi thành viên một Thư mời tham dự và Phiếu Đăng Ký tham dự. Sau đó trong hơn một tiếng đồng hồ, các thành viên đã trao đổi về những vụ việc liên quan tới CLB và các hoạt động của CLB, và Dịch Giả Vũ Anh Tuấn đã lên tiếng mời tất cả các thành viên tham gia việc viết bài cho Bản Tin Nội Bộ, vì bản tin này đang được rất nhiều người ưa thích, và nó rất cần có sự tham gia đông đảo hơn của các thành viên. Trước khi cuộc họp kết thúc và trước khi tham dự bữa tiệc Tất Niên tất cả mọi thành viên đều được mời tham quan những việc làm, tức là những bản thảo, những cuốn sách và những bản dịch đã được in ra gồm 6 tài liệu còn ở dạng bản thảo của nhà nghiên cứu Phật Giáo Tâm Nguyện, 8 cuốn sách của LM Cố Vấn Nguyễn Hữu Triết, 4 cuốn của Bác Sĩ Nguyễn Lân Đính, 8 cuốn của nhà báo Vương Liêm và 6 cuốn của Dịch Giả Vũ Anh Tuấn. Sau khi tham quan, mọi người đã cùng nhau dự một bữa ăn Tất Niên rất vui vẻ và ra về lúc 12 giờ 15 phút. Vũ Thư Hữu Mừng Xuân Mậu Tý Nhân Buổi lễ HỘI NGỘ TỔ HỢP SÁNG TẠO VIETBOOKS LẦN THỨ NHẤT tại Khách sạn Majestic ngày 28-01-2008 Thân kính gửi quý thi hữu Thơ thuận nghịch độc (Thơ đọc xuôi và đọc ngược đều được) thường rất khó làm, lịch sử ghi nhận bài thơ thuận nghịch độc đầu tiên còn lại là từ thế kỷ 17 với tiến sĩ Nguyễn Quý Đức (1648-1720) rồi nhà thơ Phạm Thái, vua Thiệu Trị, vua Tự Đức đến nhà thơ Hàn Mặc Tử… Đến năm 1945, Thơ thuận nghịch độc mới chỉ tìm được chưa đến 20 bài. Đây là một trò chơi trí tuệ cao cấp có lẽ chỉ có ở Việt Nam với loại hình ngôn ngữ đơn lập diệu kỳ đã trở thành một thú chơi thơ gần đây được nhiều người ưa thích. Vừa qua chúng tôi đã giao lưu và sưu tập được vài trăm bài, chuẩn bị cho ra mắt quyển Thú chơi Thơ thuận nghịch độc. Chúng tôi đã nghiên cứu quy tắc của từng loại thơ: từ thất ngôn bát cú, lục bát, song thất lục bát – loại đọc ngược bình thường, loại đọc ngược từng câu (Tả hữu thuận nghịch độc), loại thơ lục chuyển đến những bài thơ với hàng trăm cách đọc… cho đến cả thơ thất ngôn bát cú chuyển thành thơ lục bát… Chúng tôi cũng thử nghiệm bằng nhiều bài thuận nghịch độc đủ loại để minh họa. Nhân dịp Đông Đinh Hợi qua, Xuân mới Mậu Tý đến, xin tặng quý thi hữu bài thơ MỪNG XUÂN và giới thiệu mấy bài thơ đọc ngược độc đáo khác. PHẠM ĐAN QUẾ Mừng Xuân Thể Song Thất Lục Bát Thuận Nghịch Độc Phạm Đan Quế Mừng đón Tý Xuân – qua Đông Hợi Ý thơ tình thêm gợi hồn say Rừng lan phúc lộc dâng đầy Đào mai vương vấn ngất ngây hương quỳnh Đọc ngược
Say hồn gợi thêm tình thơ ý Hợi Đông qua – Xuân Tý đón mừng Đầy dâng lộc phúc lan rừng Quỳnh hương ngây ngất vấn vương mai đào
MỪNG XUÂN Phạm Đan Quế Mừng xuân cảnh hoa vui tươi thắm Ánh điện soi mãi đậm nghĩa tình Rừng lan ướt đẫm hương quỳnh Đào mai vương vấn mộng tình trào dâng ĐỌC NGƯỢC Tình nghĩa đậm mãi soi điện ánh Thắm tươi vui hoa cảnh xuân mừng Quỳnh hương ướt đẫm lan rừng Dâng trào tình mộng vấn vương mai đào
MAI ĐÀO NGÀY XUÂN Phạm Đan Quế Đào mai nhớ xuân về hoa đẹp Nở thắm tươi vần nhịp nối thơ Chào xuân ước hẹn mong chờ Mai vàng đào thắm sớm trưa khoe màu ĐỌC NGƯỢC Thơ nối nhịp vần tươi thắm nở Đẹp hoa về xuân nhớ mai đào Chờ mong ước hẹn xuân chào Màu khoe trưa sớm thắm đào vàng mai THƠ TẾT Phạm Đan Quế Lời đẹp ý tuôn trào thơ tết Dệt tình xuân nên hết ưu phiền Vui đời giữ mãi yêu tin Đào hoa tươi thắm giữ gìn hương xuân ĐỌC NGƯỢC Phiền ưu hết nên xuân tình dệt Tết thơ trào tuôn ý đẹp lời Yêu tin mãi giữ đời vui Xuân hương gìn giữ thắm tươi hoa đào CHIỀU XUÂN Phạm Đan Quế Trời mây lặng gió chèo tay vững Nắng chói chang phủ sóng bạc đầu Khơi xa biếc sóng xanh màu Chèo ai xuôi ngược thẳm sâu xuân chiều ĐỌC NGƯỢC Đầu bạc sóng phủ chang chói nắng Vững tay chèo gió lặng mây trời Màu xanh sóng biếc xa khơi Chiều xuân sâu thẳm ngược xuôi ai chèo PHÚC LỘC XUÂN Phạm Đan Quế Xuân sang lộc phúc chan hòa Lời trao nhân nghĩa nở hoa ân tình Người xa mộng ước hương quỳnh Mây hồng ngời rạng bóng hình quê hương Say mê ước hẹn yêu thương Đài hoa ngây ngất quyện hương Tây Hồ Mai vàng dãi nắng mong chờ Đào hoa lơi lả cợt đùa hương xuân ĐỌC NGƯỢC TỪNG CÂU Ta lại có thể đọc tiếp theo ngay bài thơ đọc ngược này (Từ phải sang trái và từ trên xuống dưới): Hòa chan phúc lộc sang xuân Tình ân hoa nở nghĩa nhân trao lời Quỳnh hương mộng ước xa người Hương quê hình bóng rạng ngời hồng mây Thương yêu hẹn ước mê say Hồ Tây hương quyện ngất ngây hoa đài Chờ mong dãi nắng vàng mai Xuân hương đùa cợt lả lơi hoa đào (Tạp chí Thế giới mới số723, Xuân Đinh Hợi) Chúng tôi xin giới thiệu tiếp theo một bài thất ngôn bát cú có thể đọc được vài trăm cách, theo kiểu bài thơ kỳ bí của vua Thiệu Trị ở điện Long An, Huế. Bài thơ có 8 câu chia làm 4 khổ thơ, mỗi câu đều có thể đọc ngược được từng chữ từ cuối đến đầu câu. 8 chữ đầu mỗi câu đều có vần, 8 chữ cuối mỗi câu cũng đều có vần (chữ in đậm, nghiêng) nên các khổ thơ này có thể đổi chỗ tùy ý. XUÂN HƯƠNG – THU NHẠC PHẠM ĐAN QUẾ A1 | NĂM THÁNG | QUÊN SAY VUI | BÈ BẠN | A2 | TỎA HƯƠNG | THƠM NGÀO NGẠT | XUÂN SANG | B1 | TRẦM BỔNG | SÁO VẲNG ĐÊM | THÂU CẠN | B2 | THỎA ƯỚC | MONG TÌNH NGHĨA | ĐÁ VÀNG | C1 | NGÂN DẶM | XA AI ĐÀN | VƯƠNG VẤN | C2 | SÓNG DẠT | DÀO THƠ Ý | VỌNG VANG | D1 | NGẦN NGẠI | SẮC THU TƠ | CUNG NẮN | D2 | LÁ KHÔ | VÀNG HÒ HẸN | NGÁT HƯƠNG |
Nếu ký hiệu 4 khổ thơ là A1-A2, B1-B2, C1-C2, D1-D2, rồi hoán vị các khổ thơ ABCD thì với A đứng đầu ta đã có 6 bài (ABCD, ABDC, ACBD, ACDB, ADBC, ADCB), nếu lại cho B, C, D đứng đầu thì ta có tất cả 4x6=24 bài thơ thất ngôn bát cú khác nhau… Ta lại có thể làm như thế với bài thơ đọc ngược từ dưới lên để có 24 bài khác nữa… Ta lại có thể bỏ đi 3 chữ đầu mỗi câu rồi đọc xuôi để thành bài thơ ngũ ngôn. Cũng có thể bỏ đi 3 chữ cuối và đọc ngược từ dưới lên để thành bài thơ ngũ ngôn… Và phải chăng ta cũng có thể hoán vị các khổ thơ trong hai bài ngũ ngôn này để có thêm nhiều bài ngũ ngôn khác nữa? Sau đây là bài thơ ngũ ngôn đọc xuôi bằng cách bỏ đi 2 chữ đầu (đọc tiếp theo cùng dòng): Quên say vui bè bạn Thơm ngào ngạt xuân sang Sáo vẳng đêm thâu cạn Mong tình nghĩa đá vàng Xa ai đàn vương vấn Đào thơ ý vọng vang Sắc thu tơ cung nắn Vàng hò hẹn ngát hương Và bài thơ ngũ ngôn bằng cách bỏ đi 2 chữ cuối và đọc ngược từ dưới lên (đọc tiếp theo cùng dòng): Hẹn hò vàng khô lá Tơ thu sắc ngại ngần Ý thơ dào dạt sóng Đàn ai xa dặm ngân Nghĩa tình mong ước thỏa Đêm vẳng sáo bổng trầm Ngạt ngào thơm hương tỏa Vui say quên tháng năm Sau đây là một trong hàng trăm bài nữa bằng cách ghép mỗi câu lẻ với một câu chẵn. A1B2C1D2B1A2D1C2 A1. Năm tháng quên say vui bè bạn B2. Thỏa ước mong tình nghĩa đá vàng C1. Ngân dặm xa ai đàn vương vấn D2. Lá khô vàng hò hẹn ngát hương B1. Trầm bổng sáo vẳng đêm thâu cạn A2. Tỏa hương thơm ngào ngạt xuân sang D1. Ngần ngại sắc thu tơ cung nắn C2. Sóng dạt dào thơ ý vọng vang Phạm Đan Quế Xuân Mậu Tý – 2008
CÂU CHUYỆN THƠ MỚI THỜI TIỀN CHIẾN Nói đến thơ mới thời tiền chiến, người ta nghĩ ngay tới bài Tình Già của ông Phan Khôi và một bài viết nhan đề là; “MỘT LỐI THƠ MỚI TRÌNH CHÁNH GIỮA LÀNG THƠ” đăng trên tờ PHỤ NỮ TÂN VĂN số 122 ra ngày 10-3-1932 ở Sài Gòn. Nhiều nhà nghiên cứu đã cho rằng đó là phát súng thần công nã vào thành trì thơ cũ để phát động phong trào thơ mới. Chúng ta hãy nghe ông Phan Khôi than phiền: “Lâu nay, mỗi khi có hứng, tôi toan dở ra ngâm vịnh, thì cái hồn thơ của tôi nó như lúng túng. Thơ chữ Hán ư? Thì ông Lý, ông Đỗ, ông Bạch, ông Tô cho án trong đầu tôi rồi. Thơ Nôm ư? Thì Cụ Tiên Điền, Bà Huyện Thanh Quan đè ngang ngực tôi làm tôi thở không ra. Cái ý nào mình muốn nói, lại nói ra được nữa, thì đọc đi đọc lại nghe như họ đã nói rồi. Cái ý nào họ chưa nói, mà mình muốn nói ra, thì lại bị những niêm, những vận, những luật bó buộc mà nói không được. Té ra mình cứ loanh quanh luẩn quẩn trong lòng bàn tay của họ hoài thực là dễ tức. Duy tân đi! Cải lương đi!” Trong Nam thì vậy ở Bắc thì có ông Thế Lữ. Từ bé tôi là người mê đọc Thế Lữ với “Vàng và Máu”, “Trại Bồ Tùng Linh”, “Bên đường Thiên Lôi”, “Lê Phong Phóng viên”, “Mai Hương và Lê Phong” nên khi thấy ông có tập “Mấy Vần Thơ” thì tôi cũng đọc và thấy thơ của ông cũng hay chẳng kém gì các truyện của ông. Thế Lữ cũng được coi như là một người đi tiên phong trong việc phổ biến thơ mới. Xin hãy lấy thí dụ một khổ thơ trong bài “Cây đàn muôn điệu”: “Dáng yêu kiều tha thướt khách giai nhân; Ánh tưng bừng linh hoạt nắng trời xuân; Vẻ sầu muộn, huy hoàng ngày mưa gió; Cảnh vĩ đại, sóng nghiêng trời, thác đổ; Nét mong manh thấp thoáng cánh hoa bay; Cảnh cơ hàn nơi nước đọng bùn lầy; Thú xán lạn mơ hồ trong ảo mộng; Chí hăng hái đua ganh đời náo động; Tôi đều yêu, đều kiếm, đều say mê.” Một đoạn thơ dài chín câu, tám câu đầu là những tân từ đặt ngược, đặt trước câu, động từ và chủ từ nằm ở cuối đoạn. Lối đặt câu như thế, ta không thấy ở thơ văn nước ta trước kia, và nếu chưa bao giờ thấy thì đương nhiên là MỚI RỒI. Bây giờ trở lại miền Nam. Ở Sài gòn, cuộc đấu tranh cải cách thơ, phát động phong trào thơ mới cũng rất sôi nổi bắt đầu từ năm 1932 khi cụ Phan Khôi đưa ra bài Tình Già. Bài thơ ra đời có kẻ nhiệt liệt hoan hô, lại có kẻ quyết liệt “đả đảo”. Sau lúc bài Tình Già xuất hiện, ông Phan Văn Hùm đã có nhận xét sau đây: “Vậy là Phan tiên sinh đã “mở bửng” cho nguồn thơ mới ở Nam Kỳ.” Người hưởng ứng tiêu biểu nhất là một nhà thơ tên là Hồ Văn Hảo quê ở Sa Đéc, ông này đã có một số bài thơ “mới” đăng trên tờ Phụ Nữ Tân Văn như bài “Con nhà thất nghiệp” (PNTV số 208 ngày 20-7-1933) mà tôi xin trích một đoạn ngắn dưới đây: “Ngọn đèn leo lét, Xác xơ một nét nhà tranh; Trên chiếu tan tành, Một trẻ thơ nằm im, xanh mét…” Những bài thơ của Hồ Văn Hảo đã gây chấn động mạnh trong văn giới Nam Kỳ và đã dẫn đến những cuộc tranh luận, bút chiến công khai mà kịch liệt nhất là cuộc tranh cãi giữa nhà giáo Nguyễn Văn Hanh (có một tác phẩm viết về Hồ Xuân Hương) và cô Nguyễn Thị Kiêm, tức là nữ sĩ Manh Manh (Nguyễn Thị). Nhà giáo Nguyễn Văn Hanh thì chỉ trích thơ mới, bênh vực thơ cũ, còn cô Manh Manh thì bênh vực thơ mới bằng nhiều buổi diễn thuyết sôi nổi diễn ra ở Hội Khuyến Học Sài gòn hồi đầu thập niên 30. Và rồi dần dần, thơ mới, thực sự chỉ muốn thoát ra khỏi những niêm luật quá bó buộc chứ “không có ý đẩy lui thơ cũ”, đã đạt thắng lợi trọn vẹn và huy hoàng mở ra một kỷ nguyên mới thơ thật sự phóng khoáng. (Dựa theo tài liệu của Bùi Đức Tịnh, Hoài Việt và Nguyễn Hữu Hiệp) Vũ Anh Tuấn TÌNH GIÀ Phan Khôi Hai mươi bốn năm xưa, một đêm vừa gió lại vừa mưa, Dưới ngọn đèn mờ, trong gian nhà nhỏ, Hai mái đầu xanh kề nhau than thở: - "Ôi, tình đôi ta, thương nhau thì vẫn nặng, Mà lấy nhau hẳn là không đặng: Chi cho đến nỗi tình trước phụ sau, Thôi cho bằng sớm liệu mà buông nhau!" - "Hay, mới làm sao chớ! Buông nhau làm sao cho nỡ ? Thương được chừng nào hay chừng ấy, Ta là nhân ngãi, đâu phải vợ chồng, Mà tính chuyên thủy chung!"
*** Hai mươi bốn năm sau, tình cờ đất khách gặp nhau: Đôi cái đầu đều bạc. Nếu chẳng quen lung, đố nhìn ra được ? Liếc đưa nhau đi rồi, con mắt còn có đuôi.
Tình già được đăng trên tờ Phụ nữ Tân văn ra ngày 10-3-1932, đánh dấu sự ra đời của phong trào Thơ mới.
Nguyễn Thị Manh Manh (1914-?) Nguyễn Thị Manh Manh là biệt hiệu, nữ sĩ thường ký tắt là Manh Manh, tên thật là Nguyễn Thị Kiêm, sinh năm 1914 tại tỉnh Gò Công (Nam phần). Con của một công chức, tri huyện Nguyễn Đình Trị, tục danh Huyện Trị; ông cũng là một cây bút trong làng báo lúc bấy giờ. Thuở nhỏ nữ sĩ Manh Manh học ở trường Áo Tím, tức trường Gia Long ngày nay. Sau khi tốt nghiệp bằng Thành Chung, gặp ngay những nhát búa đầu tiên của ông Phan Khôi khai sơn phá thạch cho nền thơ mới; lúc bấy giờ nữ sĩ là phóng viên của một tờ báo ở Sài Gòn, một mặt cổ võ cho thơ mới và sáng tác theo lối thơ phá thể, một mặt gây phong trào Nữ lưu và Văn học, đánh thức giới phụ nữ, khơi động nguồn máu văn học của các bà Đoàn Thị Điểm, bà Huyện Thanh Quan v.v... Hòa nhịp, ta phải kể thêm nữ chiến sĩ, bà Phan Văn Gia, đứng lên đòi giải phóng phụ nữ, đòi nam nữ bình quyền. Lại nữa, cô Bùi Thị Út với thiện chí cải tạo con người phụ nữ từ bấy lâu quan niệm phải ẻo lả, mảnh mai, cô hô hào phong trào Phụ nữ Thể dục. Đây, ta có thể coi như một thời kỳ (từ 1932), những con người từ chốn buồng the đứng ra làm một cuộc cách mạng toàn diện mà nữ sĩ Nguyễn Thị Manh Manh đã đóng góp không nhỏ vào văn học nước nhà. Sau cuộc khởi nghĩa 1945, khoảng 1950, nữ sĩ sang Pháp rồi không nghe tin tức gì cho đến ngày nay. *** Giữa lúc đô thành Sài Gòn đang sống trong khung cảnh trầm lặng, đột nhiên xuất hiện trên tạp chí Phụ nữ tân văn số 122 ngày 10-3-1932, một bài thơ mới đầu tiên mang tên Tình già với lời giới thiệu của nhà "sáng tạo" Phan Khôi như sau: "Một lối thơ mới trình chánh giữa làng thơ". Lúc bấy giờ là thời kỳ hưng thịnh của báo Phụ nữ Tân văn nên sức truyền bá rất rộng rãi. Sau đấy, độc giả khắp ba kỳ lại biết thêm bài thơ mới thứ hai Trên đường đời (ký Lưu Trọng Lư) và thứ ba là Vắng khách thơ (ký Thanh Tâm nhưng cũng là Lưu Trọng Lư). Sau hai bài thơ mới đầu tiên ra đời, kế tiếp là những thi bản của nữ sĩ Manh Manh, thi sĩ Hồ Văn Hảo v.v... Lược qua, ta thấy trong hồi dậy men của nền thơ mới, nữ sĩ Manh Manh là người đàn bà đầu tiên đáp ứng tiếng gọi đàn của nhà tiên phong Phan Khôi. Nữ sĩ hết đăng thơ, viết bài, lại đăng đàn diễn thuyết hô hào phong trào thơ mới. Sự cổ võ nồng nhiệt của nữ sĩ Manh Manh, Hoài Thanh đã không ngần ngại viết: "Từ hai tháng trước, hôm 26 juillet 1933, một nữ sĩ có tài và có gan, cô Nguyễn Thị Kiêm, đã lên diễn đàn Hội Khuyến học Sài Gòn thành lập đến bấy giờ đã 25 năm. Lần thứ nhất một bạn gái lên diễn đàn và cũng là lần thứ nhất có một cuộc diễn thuyết được đông người nghe như thế". Trong cuộc diễn thuyết này Nguyễn Thị Manh Manh có trưng ra làm điển hình bài thơ mới đầu tiên của cô như sau: Canh tàn Em ơi, nghe lắng nghe Gió đêm thoáng qua cửa... Lụn tàn một góc lửa, Lạnh ngắt chốn buồng the. Gió đêm thoáng qua cửa... Não dạ dế tỉ te Lạnh ngắt chốn buồng the... Em ơi, khêu chút lửa. Não dạ dế tỉ te Gió ru "...thiết chi nữa..." Em ơi, khêu chút lửa Rồi lại ngồi đây nghe. Gió ru "...thiết chi nữa..." Sụt sùi mấy cành tre Em ngồi đây có nghe Tơ lòng chi đứt nữa. (Trích trong bài diễn thuyết tại Hội Khuyến học Sài Gòn ngày 26-7-1933) Nối gót là những diễn giả trong nước, các ông Lưu Trọng Lư, Đỗ Đình Vượng, Vũ Đình Liên, Trương Tửu tổ chức những cuộc diễn thuyết với mục đích bênh vực lập trường thơ mới. Người chiến sĩ trẻ tuổi của chúng ta, cô Nguyễn Thị Kiêm hay nữ sĩ Manh Manh còn hăng say trong cuộc diễn thuyết tranh luận với ông Nguyễn Văn Hanh (phái thơ cũ) tại Hội Khuyến học Sài Gòn ngày 9-1-1935. Thơ mới, chẳng những do cách phá thể đã làm long lở khuôn sáo xưa, mà còn gieo tư tưởng lãng mạn, bộc bạch quá lộ liễu nỗi lòng khao khát yêu đương mà bao thế kỷ nay người ta cố phong nhẹm trong thi ca. Vì thế, thơ mới vừa tượng hình liền va chạm ngay sức đề kháng mãnh liệt của phái thơ cũ. Đã phải xốn xang như bị đinh châm chọc vào mắt khi đọc bài Tình già của Phan Khôi, lại còn gặp Viếng phòng vắng của nữ sĩ Manh Manh, dưới nhan đề còn chua thêm trong dấu ngoặc: "Một lối thơ mới" (nghĩa là còn hứa hẹn nhiều lối nữa) đã khiến phái thơ cũ lồng lộn điên tiết trước những dòng phá thể của một người con gái: Gió lọt phòng không Tạt hơi đông Lạnh như đồng Ngồi mơ tưởng Ngày xưa phất phưởng Dấy động tơ lòng ... ... Gió lọt phòng không Tạt hơi đông Lạnh như đồng Ngồi tơ tưởng Tình xưa phất phưởng Ấm dịu cõi lòng... (1) (1) Các bạn lưu ý đến điệu thơ và cách trình bày Cũng như bài Tình già của Phan Khôi, Trên đường đời của Lưu Trọng Lư, những thi bản "sơ sinh" của nữ sĩ Manh Manh, ta có thể coi như những phát minh cơ khí hồi thế kỷ XIX. Nền thơ mới cũng đã trải qua bao cuộc chống đối cam go, chẳng khác nào chiếc xe hơi cổ lỗ đầu tiên đã bị xem như một quái vật kinh khủng khiến thiên hạ phải hốt hoảng chạy trốn hoặc như số phận chiếc tầu thủy đã bị những chú lái chèo đò ganh tức vì quyền lợi bị chạm, nên đập phá tan tành một sáng kiến và công trình khoa học. Cái tác dụng của phát minh không phải ở sự hữu dụng cấp thời của nó, mà là sự đặt để viên gạch đầu tiên cho một nền tảng. Phụ Bản I Cứ thế, phong trào thơ mới bành trướng nhanh chóng trong toàn quốc, và được các cơ quan ngôn luận nhiệt liệt ủng hộ. Những thi tài mới lạ xuất hiện, cấu tạo những vần thơ theo thể điệu tân kỳ, lời thơ như từ ở một tư thế đang bị nén ép, bỗng vun vút bay tuyệt mù lên bầu trời bao la của những tâm hồn vừa giải thoát. Nó là một khúc quanh bừng chói nhất trong lịch sử văn học nước nhà. Chúng ta ngày nay nhìn lại việc qua, giữa cái cũ kỹ từ nghìn đời sừng sững như cổ thành kiên cố; thế mà, bỗng chốc, một Phan Khôi táo bạo nổ phát súng cách mạng thi ca; người nữ chiến sĩ tiền phong anh dũng và hăng say hoạt động để bảo vệ và củng cố nền tảng thơ mới bén rễ và sống mạnh, ta phải kể Nguyễn Thị Manh Manh, một tay đã đóng góp công lao không nhỏ cho nền văn học đất nước. Tháng 4-1968 (trích Việt Nam Thi Nhân tiền chiến) Nguyễn Tấn Long - Nguyễn Hữu Trọng Viếng phòng vắng Gió lọt phòng không Tạt hơi đông Lạnh như đồng Ngồi mơ tưởng Ngày xưa phất phưởng Dấy động tơ lòng... Trải đã mấy trăng Hỡi nhện giăng Với rêu lan Tấm vách cũ Từ khi người chủ Một giấc lặng trang. Tan nát vóc xưa dưới mồ mưa sương phủ dập!... Đến hồn nàng Thôi cũng bặt đàng Biết sao được gặp!... Hò hẹn kiếp sau lại tìm nhau. Có đặng nào? Dầu có tin nàng sẽ tái sinh ở vũ trụ nào? * Thôi duyên có bấy nhiêu ngần ấy!... Hoa để tàn trong trương sách hơi lây lách Như thấm từ hàng; Nàng tựa đóa hoa mà người ta là quyển sách lật nửa chừng từ mỗi tờ, bừng hương lên bay tách... * Gió lọt phòng không tạt hơi đông lạnh như đồng Ngồi tơ tưởng Tình xưa phất phưởng Ấm dịu cõi lòng... ( Phụ nữ tân văn, số mùa Xuân, 19-1-1933) Hai cô thiếu nữ Hai cô thiếu nữ đi ra đồng (Một cô ở chợ, một cô ở đồng) Hai cô thiếu nữ đi ra đồng, Một mảnh lụa hồng, một vóc vải đen. Hai cô rủ nhau đi xuống đầm (Cô đi chân không, cô đi dép đầm) Hai cô rủ nhau đi xuống đầm, Bóng lụa hồng tách bóng vải thâm. Mỗi người tay xách một giỏ mây, Băng đi tha thướt dưới bóng nhành cây. Mỗi người tay xách một giỏ mây, Cô này bắt cá, cô này hái hoa... Rồi lại rủ nhau đi về. Một cô nhẹ nhàng, một cô nặng nề. Rồi lại rủ nhau đi về. Giỏ cá cũng gần kề với giỏ bông. Gặp bà lão khóc dựa bên đường, Hai cô mới ngừng để hỏi tỏ tường. Gặp bà lão khóc dựa bên đường, Nghe tỏ tường cả hai động lòng thương. Bà kia còn ba mụn cháu thơ, Mồ côi cha mẹ, cùng bà bơ vơ... Bà kia còn ba mụn cháu thơ, Nhà tranh hết gạo biết nhờ cậy ai? Cô ở đồng tay đưa giỏ cá: "Bà ơi, cá ni bán được giá cao". Cô ở đồng tay đưa giỏ cá: "Bà lấy hết đi, bán được khá tiền". Lão bà nước mắt đổ chan hòa Thốt ra mấy lời cảm ân thật thà Lão bà nước mắt đổ chan hòa Rằng: "Cô thật là tiên xuống cứu tôi". Cô ở chợ tay đưa giỏ bông: "Bà ơi, thứ này bán được tiền không?" Cô ở chợ tay đưa giỏ bông: "Nếu bà muốn bán, cho bông cháu bà". Bà lão cười rồi lại nói vầy: "Ở đồng có ai mua chi thứ này" Bà lão cười rồi lại nói vầy: "Cháu nhà trông gạo, bông này quản chi". Xong mới từ hai cô mà đi... Cấp củm giỏ mây, buổi cơm trẻ nhi. Xong mới từ hai cô mà đi... Một cô thì lại nghĩ chi, thở dài... Hai cô thiếu nữ đi khỏi đồng, Cô ở đồng bay nhẹ bổng tấm lòng. Hai cô thiếu nữ đi khỏi đồng. Cô áo hồng mang nặng cái giỏ bông... (Phụ nữ tân văn, 1933) Bức thư gởi cho tất cả ai ưa hay là ghét lối thơ mới (1) Phải tôi đấy, Manh Manh, mấy bạn à! Lâu quá không làm thơ, mấy bạn cũng "nột dạ"? Phải, tôi đây Manh Manh, mấy ông à! Lâu quá không làm thơ, mấy ông lấy làm lạ?... Bạn yêu tựu hỏi nhỏ: "E...chỉ sợ ? Tội nghiệp chớ! Người thì trẻ nên có hơi khờ"... Bạn ghét xúm hét to: "Á! nó sợ! Đáng khiếp chửa! Người thì đẹt mà muốn vát cờ" Nghiêng mình thưa:"Hỡi các bạn quí yêu, Gì mà sợ ? Nghe tôi nói nhỏ: Manh chưa "xiều" Khoanh tay gọi:"Hỡi các ông trớ trêu, Khoan vinh mặt, đứng ngay cho tôi tỏ mấy điều Thật, lâu nay tôi vắng đến "làng thơ" Các bạn ơi, không phải phụ ai mà hởn hờ, Ừ, lâu nay tôi không có làm thơ, Các ông ơi, không phải sợ ai mà lu lờ. Bị lôi cuốn trong chiến trường hoạt động. Há được ngồi không mà sấp "mấy sợi tơ lòng". Trước là hành động, thơ không mấy trọng, Suốt đời nào để nghe quả tim con phập phồng! Tuy vậy, giữa những lúc đi hăm hở, Đôi khi tôi giựt mình nhớ đến khách làng thơ. Ừ, mình nín thinh họ cho nhát dở! Thôi, lấy "túi văn chương" vét một vài bài thơ. Bấy lâu đành với tình cảm hởn hờ, Bây giờ cần tới nó e hồn thơ không tới? Nói chơi, chớ có gì đâu mà chờ, Đây một bức thơ, thơ mới! thơ mới! thơ mới! ...Rồi tôi thấy biết bao người rũ tới. Vừa nghe hô thơ mới của Nguyễn Thị Manh Manh Người ưa với kẻ ghét lối thơ mới, Ưa đến nghe, ghét đến "bới" làm tôi tái xanh ...Rồi tôi nghe tiếng cười rộ lớn thêm, Vớ được chuyện, họ cầm bút viết thôi kịch liệt! Kẻ nghịch la :"Đả đảo! chẳng để êm!" Bạn thích gật đầu nói:"Cái lối thơ hay thiệt" Kết luận chuyện mới gần thành chuyện cũ Các bạn ơi, cãi với nhau thét đã nhàm rồi Làng thơ, thơ cũ, thơ mới, có đủ: Thơ xưa là đất cũ, thơ nay tỷ đất bồi; Đất trước để yên, đất sau lo xới, Đất mới thì ít khô khan hơn đất dụng rồi. Rủ nhau khai phá, cất thêm sở mới, Nếu thật tình mong cây thơm mọc nhánh đâm chồi.
Bây giờ tôi thử khuyên khách làng thơ: Đổi lại, ai ưa thơ mới lo tìm chỗ dở, Ai ghét, ráng kiếm cái hay của thơ Vậy, chê, khen, có giá trị hoa mới sẽ nở". (Phụ nữ tân văn, số 228, ngày 14-12-1933 )
(1) Sau một thời gian hô hào cổ võ thơ mới, Nguyễn thị Manh Manh xoay qua hoạt động trong lãnh vực phụ nữ, tiếng thơ vì đó mà im hơi. Phái chống đối thơ mới cho đấy là Nguyễn thị Manh Manh đã "xìu". Dưới đây là bài thơ "tái xuất giang hồ" của nữ sĩ để trả lời dư luận trên. Mạnh Đoàn St Ngày giỗ lần thứ 125 của Cụ Phó sứ Phạm Phú Thứ Ông Phạm Phú Hạt, nguyên cán bộ Mặt trận Tổ quốc và Hội người cao tuổi phường 4 quận 5 là cháu thuộc hậu duệ thứ tư đã cùng với gia tộc Phạm Phú gồm có đông đảo bà con, cháu chắt đang làm ăn sinh sống tại thành phố và các tỉnh lân cận tổ chức lễ kỷ niệm lần thứ 125 ngày giỗ của Cụ Phó sứ Phạm Phú Thứ (1821-1882) tại Niệm tổ đường Tộc Phạm Phú tọa lạc số 389/25 khu phố 5 phường Hiệp Bình Phước quận Thủ Đức vào sáng ngày 26/1/2008 vừa qua. Tham dự lễ kỷ niệm còn có ông Hoàng văn Hoa là hậu duệ thứ tư của Tổng đốc Hoàng Diệu (1829-1882) vừa cùng quê quán vừa cùng bạn hữu, các thành viên của Câu lạc bộ Sách Xưa & Nay và một số nhân sĩ, trí thức quen biết. Giỗ của cụ Phó sứ được cử hành theo nghi thức cổ truyền tuy đơn giản nhưng hết sức nghiêm trang đã nói lên lòng kính trọng và biết ơn của con cháu hậu duệ đối với tổ tiên, tiền nhân của gia tộc Phạm Phú. Ông Hạt đã thay mặt cho các hậu duệ thuộc các chi của gia tộc tính từ đời Phạm Phú Thứ tới nay là đời thứ sáu phát biểu tại lễ kỷ niệm đã nhắc lại sơ nét về tiểu sử của Cụ Phó sứ. Cụ sinh ngày 27/1/1821 tại làng Đông Bàn nay là xã Điện Trung, huyện Điện Bàn tỉnh Quảng Nam và mất ngày 5/2/1882 cũng được an táng nơi đây (mà trong thời kỳ chống Mỹ cứu nước có tiếng là “Nhứt Củ Chi nhì Gò Nổi”), và được triều đình Tự Đức truy phong Hiệp biện đại học sĩ. Thuở nhỏ cụ rất hiếu học nên đỗ liền Tú tài, Cử nhân và Tiến sĩ trong vòng ba năm nhưng lại chịu nhiều thăng trầm trên đường hoạn lộ. Cụ từng làm Tri phủ Tư Nghĩa (Quảng Ngãi), Tổng đốc Hải Yên, Án sát Thanh Hóa, Hà Nội, thăng Thượng thư Bộ Lễ, Bộ Hộ, Bộ Binh và được cử vào Phái bộ cùng với cụ Phan Thanh Giản, Ngụy Khắc Đản đi sứ Pháp, Tây Ban Nha để xin chuộc ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ theo Hiệp ước Nhâm Tuất 1862. Trước đó, Cụ từng đi sứ Quảng Châu Trung Quốc. Khi đi sứ phương Tây về, Cụ đã ghi chép thành tập sách “Tây hành nhật ký” và “Tây phù thi thảo” mang nội dung tư tưởng canh tân – tự cường dân tộc mà sau này các nhà nghiên cứu văn sử kinh tế xã hội học tại cuộc hội thảo khoa học năm 1995 tại thành phố Hồ Chí Minh đã đồng thanh tán thưởng Cụ Phạm Phú Thứ có xu hướng canh tân và là nhà cải cách thực hành cùng thời với Nguyễn Trường Tộ, Nguyễn Lộ Trạch. Cụ đã thực hiện nhiều công trình cải cách vào thời ấy như đào kinh, ứng dụng kỹ thuật mới “xe trâu” (mô hình của Ai Cập) dẫn thủy nhập điền ở quê Điền Trung, đóng tàu sắt phục vụ quốc phòng, vận tải đường biển và xây dựng cảng Hải Phòng (Hải Yên)…Cụ còn tổ chức cứu đói hai vạn dân ở Hải Dương, Hưng Yên bị vỡ đê nhiều năm liền, phục hồi sản xuất nông nghiệp và phát triển tiểu thủ công nghiệp ở nhiều địa phương lúc cụ đương chức. Cụ đã cho dịch thuật nhiều sách, tài liệu nước ngoài để cổ xúy nền khoa học kỹ thuật phương Tây. Điều quan trọng nhất trong sự nghiệp canh tân của cụ là cổ võ đổi mới giáo dục, chấn hưng đạo đức và vận động tự do tín ngưỡng không phân biệt lương giáo. Tinh thần tự hào dân tộc của cụ từng thể hiện qua câu: “Giá phương Đông sớm cừ kỹ thuật, Pha-lý (Paris), Long-Đôn (London) chửa hẳn tài”. Trong thời kỳ đổi mới và hội nhập của đất nước hiện nay, nhắc lại tư tưởng canh tân của Cụ Phó sứ Phạm Phú Thứ nhân dịp kỷ niệm lần thứ 125 ngày mất của Cụ là việc làm cần thiết đáng để cho chúng ta suy gẫm về một dòng họ hiếu học liên tục trên mười đời và đã có nhiều nhân tài phục vụ đất nước trong hai cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc như Cử nhân Hán học Phạm Phú Tiết từng làm Chánh án Tòa án quân sự và Phó Chủ tịch Mặt trận Liên Việt Liên khu 5, Ủy viên UB.Trung ương MTTQ Việt Nam góp phần dịch thuật thi phẩm “Nhật ký trong tù” của Hồ Chủ Tịch và nhiều hậu duệ khác từng phụ trách Y tế Quảng Nam, Giám đốc nhà máy hóa chất Việt Trì, Đại tá Phó TBT báo Quân đội, Trung tá cán bộ Bộ Lao động TB-XH, ngành dệt, ngân hàng, sử học v.v… Vương Liêm VÀI ĐIỀU NÊN BIẾT VỀ CUỐN “TỰ ĐIỂN TIỂU SỬ VÀ THƯ TỊCH TỔNG QUÁT CỔ VÀ KIM CỦA ĐÔNG DƯƠNG THUỘC PHÁP” (DICTIONNAIRE BIO-BIBLIO-GRAPHIE GÉNÉRALE ANCIENNE ET MODERNE DE L’INDOCHINE FRANÇAISE) Tháng hai năm 1975, tôi được một người bạn là nhà giáo Nguyễn Văn Y gọi điện thoại cho biết là anh có một cuốn sách mà anh biết là tôi thích lắm, do đó anh muốn nhường lại cho tôi. Tôi vội hộc tốc xuống ngay nhà anh ở cư xá Vạn Hạnh và đã mừng húm khi được anh nhượng lại cho cuốn sách này. Với một người có tính tò mò muốn được biết về những tác giả viết sách về Đông Dương như tôi, cuốn sách này quý hơn một kho báu. Cuốn sách này là cuốn thứ tám (Tome VIII) trong bộ Biên Niên Sử của Hàn Lâm Viện Khoa Học Thuộc Địa (Académie des Sciences Coloniales) của A. Brébion, và đã được xuất bản ở Paris năm 1935 bởi A. Cabaton, một thành viên của Hàn Lâm Viện Khoa Học Thuộc Địa, sau ngày tác giả Brébion qua đời. Sách dày 446 trang và kích thước là 18cm x 27cm. Sách được sắp theo mẫu tự ABC như một cuốn Tự Điển và đặc biệt là Bản Mục Lục của sách được sắp xếp theo từng lãnh vực, cũng theo mẫu tự, ví dụ đầu tiên là Hành Chánh và Pháp Chế (Administration, Législation), kế đó là Canh Nông (Agriculture), rồi Alimentation, boissons (Ẩm thực, đồ uống) vv… tổng cộng 98 lãnh vực bao gồm hết mọi sinh hoạt của con người, thực là tuyệt vời. Ở dưới mỗi lãnh vực, tác giả đã liệt kê (có thể nói là rất đầy đủ) tất cả tên các tác giả đã viết báo, viết sách về lãnh vực đó. Sau phần tên, nơi sinh, năm sinh, nghề nghiệp, tóm lại là tiểu sử khá đầy đủ, thì tới phần tác phẩm, hoặc là sách, hoặc là các bài báo, bài tham luận vv… Tổng cộng khoảng 600 tác giả. Cuốn tự Điển này là một cuốn sách thuộc loại tham khảo nên người viết không thể đọc hết một lúc, VÌ CÓ THAM LAM MÀ LÀM THẾ THÌ CŨNG KHÔNG TÀI NÀO MÀ NHỚ HẾT ĐƯỢC, do đó người viết đã thường dùng để tham khảo, mỗi khi cần biết về một tác giả nào có thể có ở trong đó. Đồng thời, vì không muốn ĐỘC QUYỀN, người viết vẫn thường tra cứu hộ không công cho các bạn bè mỗi khi họ cần biết về một tác giả nào nằm trong cuốn Tự Điển này. Người viết thấy rằng các tác giả thường có mỗi người một số tác phẩm trong đó có vài cuốn sách, và rất nhiều, có thể nói phần lớn là những bài báo, những bài tham luận được đăng tải trên nhiều thứ báo, và trên các loại tạp chí khác nhau. Về điểm này người viết đang có THAM VỌNG LÀ CÓ THỂ TÌM HIỂU CHÍNH XÁC XEM CÓ BAO NHIÊU CUỐN SÁCH ĐÃ ĐƯỢC CÁC TÁC GIẢ PHÁP VÀ QUỐC TẾ VIẾT VỀ VIỆT NAM TRONG KHOẢNG THỜI GIAN TỪ HẬU BÁN THẾ KỶ THỨ 19 CHO TỚI NHỮNG NĂM 40 CỦA THẾ KỶ 20. Sở dĩ người viết có tham vọng này là vì gần đây có những người cho rằng CÁC SÁCH VIẾT VỀ VIỆT NAM LÀ HẰNG HÀ SA SỐ. Theo sự hiểu biết “eo hẹp” của người viết thì NÓI VẬY LÀ KHÔNG ĐÚNG vì thực ra có thể nói sách viết về Việt Nam chỉ nở rộ sau KHI PHÁP BẠI TRẬN Ở ĐIỆN BIÊN PHỦ VÀ TRONG CHIẾN TRANH CHỐNG MỸ mà thôi, còn từ 1954 trở về trước thì không thể là HẰNG HÀ SA SỐ mà chỉ có thể giới hạn ở độ 1000 cuốn là tối đa, phần còn lại CHÍNH LÀ NHỮNG BÀI BÁO, NHỮNG THAM LUẬN VV…. CHỨ KHÔNG PHẢI SÁCH. Người viết sẽ tìm hiểu rõ ràng và sẽ chia sẻ với tất cả mọi người yêu sách, vì trên đời này, càng CHÍNH XÁC ĐƯỢC BAO NHIÊU THÌ CÀNG TỐT, còn nếu ĐÃ CHÍNH XÁC LẠI CÒN CHÍNH XÁC HƠN thì thật là tuyệt vời. Người viết dám nói như vậy vì có thể có để tham khảo bộ BIBLIOTHECA INDOSINICA (5 cuốn), bộ BOUDET (3 cuốn) và cuốn Tự Điển được giới thiệu hôm nay, kể cả một cuốn cũng là Thư Mục sách viết về Việt Nam (nhưng phần lớn là sách cổ bằng Hán Nôm) của E. Gaspardone. Sau khi tìm hiểu rõ ràng người viết sẽ có “lập bô” sau này với các độc giả. Trở lại cuốn Tự Điển được giới thiệu ngày hôm nay thì ngoài việc cho tên Tác Giả, tiểu sử, năm sinh, nơi sinh, các tác phẩm, tác giả quá cố A. Brébion còn cho chúng ta trong cuốn Tự Điển này tên tất cả các Triều Đại, các đời vua ở cả ba nước Việt-Mên-Lào lúc trước được tây thực dân gọi là Các Quốc Gia Liên Kết (Les Etats Associés) trong Liên Hiệp Pháp (L’Union Française), ngoài ra cố tác giả cũng cho chúng ta tên tuổi tất cả các Toàn Quyền, các Khâm Sứ, và các quan chức cao cấp của thời Thuộc Địa. Tuyệt vời hơn nữa là cố tác giả A. Brébion cũng ghi cho chúng ta tất cả tên các Linh Mục Thừa Sai của Dòng Thừa Sai đến từ Paris từ năm 1660 cho tới 1910, gần 700 Linh Mục tất cả và trên một trăm Linh Mục của dòng Dominicain. Tóm lại đây là một kho báu cho bất cứ ai thích biết về các tác giả Đông Dương thời Thuộc Địa. Ngoài ra, nhân việc giới thiệu cuốn Tự Điển quý giá này, người viết cũng xin nêu ra dưới đây một nhận xét mà người viết chưa thể hiểu hết tại sao lại như vậy. Đó là: TẤT CẢ CÁC TÁC GIẢ ĐÔNG DƯƠNG ĐỀU KHÔNG ĐƯỢC ĐƯA VÀO CÁC SÁCH VĂN HỌC SỬ VÀ TỰ ĐIỂN VĂN HỌC CỦA PHÁP, kể cả những người quan trọng như Louis AUBARET, Étienne AYMONIER, BONIFACY, Georges COEDÈS, Henri CORDIER, Nicholas CHÉON, Léopold CADIERE, Gustave DUMOUTIER, Gabriel DÉVERIA, Georges DÜRWEL, Anthony LANDES, Henri MAÎTRE, Georges MASPERO, Claudius MADROLLES, Abel des MICHELS vv… cũng không hề được nhắc tới, thực là kỳ lạ… Trích Hồi Ký 60 năm chơi sách, Chương 6 VŨ ANH TUẤN
NHUẬN BÚT XƯA & NAY 1 - BÀI PHÚ 2000 LẠNG BẠC Nguyễn Hãng, người xã Xuân Lũng, huyện Sơn Vi (thuộc huyện Lâm Thao, Phú Thọ ngày nay), đậu Hương tiến giữa năm Hồng Thuận. Sau vì nhà Mạc cướp ngôi vua nên không đi thi nữa, dựng cái hiên nhỏ ở phía Đông nhà đặt tên là nại hiên tự do tiêu khiển, làm phú bằng quốc âm để tỏ chí hướng, nhân tập chính quái của Vũ Quyền, soạn riêng 3 cuốn Thiên Nam Vân Lục, có người khuyên ông nên ra làm quan, Nguyễn Hãng chỉ cười không nói. Lúc ấy Gia quốc công là Vũ Văn Mật, trấn thủ Tuyên Quang ở thành Đại Đồng, châu Thu Vật, nhân dân tụ họp đông đúc, buôn bán thịnh vượng, là đô hội lớn của phiên trấn về mặt Tây. Vũ Văn Mật thường đưa thư mời Nguyễn Hãng. Khi Nguyễn Hãng đến, Văn Mật sai làm bài phú Phong cảnh Đại Đồng theo thể quốc âm, cùng nhiều văn sĩ khác. Nguyễn Hãng cầm bút làm xong ngay. Vũ Văn Mật mừng lắm, đưa cho một cái thúng nhỏ đựng bạc, làm tiền nhuận bút cho bài phú nhưng chỉ tiếp đãi vào bậc văn nhân, mà không biết trong bụng Nguyễn Hãng có điều ẩn súc. Nguyễn Hãng cũng biết Văn Mật là người hào mục thô lỗ, không có chí khí to lớn nên không chịu bộc lộ hết tài năng của mình, bèn từ tạ ra về. Ngao du nơi vườn ruộng đọc sách bàn luận đạo nghĩa, người ta phục ông là người cao thượng. Sau mất ở quê hương, nay còn phần mộ tại làng Xuân Lũng. Bài phú Phong cảnh Đại Đồng chiếm giải nhất được thưởng 2.000 lạng bạc. 2 - LÀM THƠ VỪA ĐƯỢC THƯỞNG VÀNG VỪA BỊ ĂN ĐÒN Trong các ông vua triều Nguyễn, Tự Đức nổi tiếng là người hay thơ, thường ra đề tài, vế đối cho các quan trong triều, qua đó mà có hình thức thưởng phạt. Một lần trong bữa tiệc lớn tại cung đình Huế có nhiều văn võ, Tự Đức vừa ăn vừa nói chuyện say sưa, chẳng may cắn phải lưỡi nói: - Trẫm cắn phải lưỡi đau quá! Nhưng đó là một đề tài hay để làm thơ. Ai làm được hay nhất, mau nhất sẽ được trọng thưởng. Bữa tiệc đang ồn ào, sôi nổi bỗng chốc trở nên căng thẳng. Được một lát Thủ Khoa Nguyễn Hàm Ninh (người cùng thời và là bạn Cao Bá Quát) nổi tiếng học cao, biết rộng, tài đức vẹn toàn, đứng dậy nói: - Muôn tâu bệ hạ, thần xin dâng một bài tứ tuyệt. Vua đồng ý, Nguyễn Hàm Ninh lên ngâm rất to: Sinh ngã chi sơ nhĩ vị sinh Nhĩ sinh chi hậu ngã vi huynh Đồng thời cộng hưởng trân cam vị Hà nhẫn tương vong cốt nhục hình Nghĩa là: Tớ đẻ trước khi chú chưa sinh Sau khi sinh chú, tớ làm anh Ngọt bùi chẳng nghĩ cùng nhau hưởng Cốt nhục làm sao nỡ dứt tình Về nghĩa đen, bốn câu này rất đúng với nội dung “răng cắn phải lưỡi”, nhưng vì nghĩa bóng, bốn câu có ý đả kích Tự Đức đã giết anh ruột là Hồng Bảo (về tội mưu cướp ngôi của em). Tự Đức nghe ra, cười nhạt, khen Hàm Ninh làm thơ nhanh và “khá hay”, lệnh thưởng cho mỗi câu một lượng vàng. Tuy nhiên vua cũng không quên khép tác giả vào tội “đại bất kính, có thể bị xử tử”, nhưng vì Hàm Ninh “từng là học trò của tiên đế nên chỉ phạt mỗi câu một roi thôi”. Biết Tự Đức có ý ngược đãi mình, Nguyễn Hàm Ninh xin cáo quan về mở trường dạy học ở quê nhà. 3 - TÁC QUYỀN “MÀU TÍM HOA SIM” 100 TRIỆU ĐỒNG! Mới đây, việc nhà thơ Hữu Loan ở tuổi gần 90 bất ngờ nhận được 100 triệu đồng tiền tác quyền cho bài thơ nổi tiếng “Màu tím hoa sim” từ công ty điện tử Vitek VTB được coi là một sự kiện. Từ trước tới nay chưa có bài thơ nào được mua tác quyền với giá cao đến thế. Nguyễn Hữu Loan sinh năm 1916, quê huyện Nga Sơn-Thanh Hóa. Thời kháng chiến ông kết hôn với người vợ trẻ xinh đẹp vốn là học trò cũ. Hai người chỉ sống với nhau chỉ được 2 tuần rồi ông phải trở về đơn vị. Ba tháng sau, ông nhận được tin vợ mất vì bị nước cuốn. Lúc ấy vợ ông mới 16 tuổi… Bùi Đẹp st VAI TRÒ CỦA TIỀM THỨC VÀ VÔ THỨC TRONG HIỆN TƯỢNG THẦN GIAO CÁCH CẢM (TÉLÉPATHY) Qua bài “Tha Tâm Thông và năng lực của tiềm thức, vô thức” kỳ trước, ta đã thấy rõ. Tiềm thức và vô thức có thể coi như hai lớp màng mỏng trong vỏ não, bên dưới ý thức. Chúng chứa đựng những gì bí ẩn sâu kín mà ý thức không hề biết, ngoài ra còn có khả năng tiếp nhận thêm những thông tin ngoài khả năng tiếp nhận của Phụ Bản II giác quan thông thường hay ý thức. Những điều bí ẩn sâu kín này chỉ được bộc lộ ra, và những thông tin mới này chỉ được tiếp nhận khi ý thức vắng mặt, chẳng hạn trong giấc ngủ, hoặc khi thức nhưng người ta cố xóa mờ ý thức đi bằng cách thư giãn hoặc thiền định. 1. Những điều báo tai họa hay tin vui sắp đến a. Nhiều người cho biết họ thường nằm mơ thấy trước những tai họa sắp đến, hoặc ngay lúc thức cảm thấy nóng ruột băn khoăn lạ thường. Có người cho biết đã vào giường ngủ nhưng không ngủ được, thấy nôn nao bồn chồn bèn ngồi dậy đi ra khỏi giường thì bỗng nhiên cây đà gỗ đã mục rớt ngay vào giường. Họ cho là mình có linh tính hoặc được ông bà, Phật, Chúa run rủi giúp thoát nạn. Ta giải thích thế nào đây? Cây đà gỗ bị mối mọt đục từ lâu ngày, nhưng vì nó ở trên cao, ban ngày nhiều tiếng ồn nên ta không nghe thấy tiếng mọt đục. Nhưng tiềm thức và vô thức đã tiếp nhận tiếng mọt đục rất êm trong khi đương sự ngủ (ý thức vắng mặt), từng đêm và từng đêm… Khi biết nó sắp rơi, tiềm thức và vô thức phát ra những luồng sóng báo động cho đương sự nhưng bị màng ý thức ngăn cản, không thoát ra được nên mới làm đương sự nôn nao bồn chồn. b. Một lần tôi đi nghe một Bác Sĩ Y Khoa ngoài 70 tuổi đã về hưu nói chuyện về Yoga. Ông cho biết ông đã tu luyện Yoga thiền định từ 25 năm. Ông có người con trai đi lao động xuất khẩu ở Đông Đức. Từ khi có biến cố chính trị ở Đức, cậu con trai bặt tin gần 2 năm. Bỗng một hôm đang ngồi thiền định buổi trưa, ông thấy cậu con trai hiện ra tươi cười bảo: “Bố ơi! Ngày mai con về!”. Ông liền báo cho cả nhà biết để chuẩn bị đón, vì ông tin chắc như vậy, và quả y như lời. Lúc ra về tôi đón ông và hỏi: “Bác Sĩ có thể đoán giùm tôi một việc? Tôi có người bạn cũ ở nước ngoài bặt tin từ lâu, ông có thể đoán giùm bao giờ thì tôi được tin của người ấy? Ông ngồi lên xe và người chở ông đã rồ máy. Ông định thần nhìn tôi và nói: “26 Tết này nhận được tin”. Quả y như lời, đúng chiều 26 Tết tôi nhận được thư. Hôm sau tôi đến cám ơn ông và nói: “Đây chỉ là một cái thiệp chúc Tết và mấy lời thăm hỏi thôi. Nhờ ông tìm hiểu thêm về người ấy”. Tôi cho ông địa danh nơi người ấy đang ở. Ông nói: “Được rồi, trưa mai thiền định tôi sẽ tìm gặp anh ta”. Chuyện nghe tưởng như đùa, thế nhưng hôm sau, ông mang ra một tấm ảnh Carte Postale chụp ông đứng cùng 7, 8 người bạn. Ông chỉ một người và hỏi tôi: “Có phải người ấy có gương mặt và dáng người hơi giống người này không?” Tôi kinh ngạc: “Vâng, đúng vậy. Mà sao ông biết?” Ông nói: “Trong khi thiền định, tôi đã nói chuyện trực tiếp với anh ta bằng tiếng Pháp. Anh ta cho biết rất khỏe mạnh, nhưng công việc thì quá bề bộn…”. Tất nhiên là hai người nói chuyện qua tâm thức, tiềm thức và vô thức. Ý thức người kia có thể không biết, cũng như khi ta nằm mơ, thức dậy có khi nhớ khi quên (buổi trưa bên này khi ông thiền định là nửa đêm bên kia). Nhờ thiền định mà ông đã xóa mờ được ý thức và vô thức tiếp nhận những thông tin từ xa. 2. Các hiện tượng phi thường hay phép lạ. Các hiện tượng này được bắt nguồn từ sự cộng hưởng (résonance) của làn sóng α (1) từ vỏ não với làn sóng năng lượng vũ trụ (énergie universelle). a. Cộng hưởng là gì? Đó là sự kết hợp của hai luồng sóng giao động có cùng chu kỳ và cùng phương để tạo nên một luồng sóng mạnh gấp bội. Sau đây là một thí dụ lịch sử về cộng hưởng: Giữa thế kỷ 19, ở Âu Châu, một lần có một toán quân không đông lắm đi qua một chiếc cầu treo có trọng tải không nhỏ, nghĩa là dư sức chịu đựng trọng lượng của một toán quân đông gấp mấy. Toán quân đi đều bước, “một hai, một hai…” nhịp nhàng tạo thành một luồng chấn động không mạnh lắm nhưng vô tình cùng chu kỳ với giao động của chiếc cầu, tạo nên một sự cộng hưởng mạnh làm sập cầu chết nhiều người. Ngoại trừ các nhà vật lý học, nhiều người không hiểu được vì sao. Và từ đó người ta ra lệnh cho các toán quân mỗi khi qua bất cứ cây cầu nào, cấm không được bước đều, phải đi tản mạn bước nhanh chậm tùy ý. (Theo sách Vật lý lớp 12). (1) Sóng α, như trong bài trước “Tha Tâm Thông…” đã nói, có tần số ở trong khoảng 8-13 giao động/giây, đo được bằng điện não đồ (électrocephalogramme). Trong sách Tây Y có nói đến sóng α và sách Khí công của GS Ngô Gia Hy cũng đề cập đến sóng α. b. Các sức mạnh phi thường Các nhà khí công hay võ đạo thường biểu diễn những màn võ thuật làm người xem kinh ngạc như dùng cạnh bàn tay chặt vỡ một chồng gạch cao, bóp vỡ g bài trước " cầu nào, cấm không được bước đều, phải đi tản mạn bước nhanh chậm tùy ý. (Theo sách Vật lý lớp 12) sao. một quả dừa lớn vỏ dày mà ta phải dùng dao chặt khó khăn, hoặc chống lại mũi dao nhọn do nhiều người hợp sức đâm vào cổ v.v… Do đâu họ có được sức mạnh phi thường ấy? Chỉ vì họ biết cách luyện thư giãn để có được làn sóng α ở vỏ não có thể kết hợp với làn sóng giao động của năng lượng vũ trụ (có chu kỳ trùng hợp) tạo nên sự cộng hưởng, có được sức mạnh phi thường. c. Các phép lạ khác Các sức mạnh phi thường có được từ sự cộng hưởng của sóng não với sóng năng lượng vũ trụ không nhất thiết chỉ là sức mạnh vật chất như trên mà cũng có thể là sức mạnh tinh thần, hoặc có khi là một sự thông minh khéo léo vượt bậc đến siêu phàm, tùy theo điều cầu nguyện của ai đó được đáp ứng. Có thể là một chuỗi những hiện tượng tự động được sắp xếp tinh vi như trong máy vi tính để dẫn đến một kết quả hoàn chỉnh kỳ diệu mà những người chứng kiến gọi là “phép lạ”. Thí dụ: một khối u ung thư biến mất qua vài câu chú nguyện, một nạn nhân sống sót duy nhất bị văng ra ngoài trong một tai nạn, người chết được sống lại v.v… Có phải lời cầu nguyện của họ, hay người thân của họ đã được ơn trên đáp ứng ban cho phép lạ? Một nhà Yogi nổi tiếng người Ấn Độ, Swami Vivekananda, đã nói: “Con người tin tưởng lời cầu nguyện của mình đã được Trời Phật chứng giám, không biết rằng chính khi thành tâm cầu nguyện mình đã đánh thức được quyền năng vô lượng đang cuộn khúc trong chính mình”. Ông cho rằng không có Thượng Đế hay Thần Thánh nào giúp ta cả. Nếu biết cách tập trung luyện được một trạng thái thần kinh thích ứng là có thể bắt được luồng sóng vũ trụ có năng lượng vô biên. Nhà nghiên cứu Huyền Học Thái Khắc Lễ, trong cuốn “Nội lực tự sinh” của ông cũng quan niệm tương tự khi ông kể ra rất nhiều thí dụ từ những câu chuyện kim cổ Đông Tây mà người đời cho là phép lạ. Riêng bản thân người viết cho rằng đây không hẳn là “nội lực tự sinh” mà phần nội lực nhỏ bé của ta đã được nguồn năng lượng vũ trụ vô biên tiếp sức nhờ khéo điều hợp để có được sự cộng hưởng. Và chính bản thân người viết cũng đã nhiều lần chứng nghiệm được “phép lạ”. Lúc đầu rất kinh ngạc, nhưng sau cũng cố gắng tìm được cách giải thích hợp lý, không mê tín dị đoan. Cái mà người ta gọi là Thượng Đế, Trời, Phật, Chúa, Đức Mẹ, Phật Bà Quan Âm… chẳng qua chỉ là năng lượng vô biên của vũ trụ. Và trong khi cầu nguyện với niềm tin thành khẩn, người ta tự điều khiển một trạng thái thần kinh thích ứng để có được làn sóng từ vỏ não có tần số cộng hưởng với làn sóng năng lượng vô biên của vũ trụ, bao gồm cả nguyện lực cứu nhân độ thế của Phật, Chúa, Bồ Tát. Điều quan trọng là tâm ta phải trong sạch, trí ta phải sáng suốt, luôn nghĩ tốt làm lành mới mong tiếp cận được nguồn năng lượng thiêng liêng nói trên. Lương Y Nguyễn Hải Liên Kỳ sau: Khả năng tìm mộ liệt sĩ Có hay không linh hồn người chết từ gần 100 năm đang trò chuyện với ta? Một tu sĩ công giáo cao tuổi với bộ sưu tập đèn xưa “Cây đèn” xưa nay tuy là dụng cụ để tạo ra nguồn sáng cho nhân loại và được thắp sáng mọi nơi nhất là trong đêm tối dù bắt đầu từ chiếc đèn dầu với sợi bấc thô sơ nhưng đã biểu hiện cho nền văn minh của thế giới sau thời gian dài phát minh ra lửa đầu tiên. Cho tới ngày nay, trong đời sống văn minh đô thị hay nông thôn, đèn thắp sáng đã trở thành phổ biến trong cuộc sống thường nhật với nhiều kiểu dáng, nhiều màu sắc hết sức đa dạng và phong phú. Nhưng ít có ai quan tâm đến sự hình thành của nó qua từng thời kỳ và giai đoạn lịch sử của nền văn minh nhân loại. Ngày nay, quen mắt với những ngọn đèn điện khí thắp sáng hay điện tử trang trí muôn màu hầu như người ta quên mất đi thời dĩ vãng xa xưa của những chiếc đèn bằng gốm thô sơ thắp bằng dầu lạc hay loại dầu thực vật nào đó với sợi bấc (tim đèn) lù mù hay những chiếc đèn dầu hỏa bằng kim loại có ống khói tròn, dài bằng thủy tinh từ giản đơn đến phức tạp chế tác tinh xảo được kéo lên lưng chừng nhà hay treo cao ở giữa nhà tạo nên sự ấm cúng và sang trọng. Đó là những chiếc đèn dầu kiểu phương Tây thời tiền chiến. Thời ấy, bây giờ còn đâu! Thế mà có một tu sĩ công giáo tuổi trên sáu mươi đã miệt mài đi tìm kiếm trong vài chục năm qua để cho tới nay có được một bộ sưu tập quý giá, vừa được tổ chức trưng bày ở Bảo tàng mỹ thuật thành phố Hồ Chí Minh. Bộ sưu tập này có trên 1.000 chiếc đèn xưa từ thế kỷ thứ X đến đầu thế kỷ XX mà chỉ đưa ra cho công chúng xem trên 360 chiếc. Chỉ bấy nhiêu chiếc đèn xưa cũng đủ làm cho khách tham quan đủ mọi giới vô cùng kinh ngạc và kính phục ngay trong ngày đầu mở cửa phòng trưng bày. Lãnh đạo Sở VH-TT, các bảo tàng khác và nhiều nhà sưu tập nổi tiếng đều có mặt chứng tỏ bộ sưu tập tư nhân này đã có sức cuốn hút và thu phục các nhà chuyên môn và khách xem to lớn là dường nào! Nhà sưu tập tư Nguyễn Hữu Triết là vị linh mục của giáo xứ Tân Sa Châu ở đường Lê Văn Sỹ thuộc quận Tân Bình. Ông còn là một trong số những người cao tuổi sáng lập ra Câu lạc bộ Sách xưa & nay và có bộ sưu tập Kiều vô cùng phong phú chẳng những về sách cổ qúy hiếm Hán Nôm, tiếng Đức, tiếng Anh nguyên bản mà còn có nhiều vật dụng về Kiều như đôi guốc vông sơn có khắc câu thơ Kiều, hòn non bộ bằng gốm sứ mô tả nàng Kiều và chàng Kim Trọng vv… Chính ông nhận được giải thưởng Sách vàng năm 2005 do Ban tổ chức Hội chợ sách thành phố tặng. Nay với bộ sưu tập đèn cổ đã được Bảo tàng Mỹ thuật thành phố Hồ Chí Minh đánh giá cao và long trọng tổ chức lễ ra mắt trong những ngày đầu Xuân 2008 và trưng bày suốt cả tháng. Qua hàng trăm chiếc đèn cổ trưng bày được phân lọai thành các nhóm: đất nung, gốm, sứ, kim lọai, kim lọai có tráng men xuất xứ từ các nước Phương Tây như La Mã, Israel, Phương Đông như Trung Quốc, Singapore, Ấn Độ…và ở Việt Nam như đất nung hay gốm Chăm, Khmer, gốm sứ Bát Tràng, Đồng Nai, Lái Thiêu vv… có niên đại từ thế kỷ thứ X, XII đến XIX, XX. Có lọai bé tí chỉ bằng ngón tay, bàn tay, có thứ khá to nhiều ngọn, nào đèn dầu, đèn con cóc, đèn tây, đèn ta, đèn bão… có loại để trên bàn, gắn trên tường, treo cao bằng nhiều sợi dây xích hoa dạng đẹp mắt, sang trọng với chụp đèn, thân đèn mỹ thuật. Phải nói đây là bộ sưu tập tư nhân độc đáo về đèn xưa có số lượng lớn và giá trị cao. Phát biểu trong lễ khai mạc, nhà sưu tập linh mục Nguyễn Hữu Triết khiêm tốn nói: “Tôi chỉ muốn tiếp tay với nhà nước sưu tầm và bảo tàng bảo tồn một bộ sưu tập đèn xưa nhiều chủng loại, của nhiều thời kỳ – một di sản quý của nhân lọai để giới thiệu cho thế hệ hôm nay và mai sau…” Bài và ảnh: Vương Liêm MỘT CÁI NHÌN VỀ LUẬT NHÂN QUẢ Nói đến Nhân Quả người ta thường nghĩ ngay đến Đức Thích Ca, đến Đạo Phật, thậm chí Đạo Phật còn được mệnh danh là Đạo Nhân Quả. Thật ra Đức Thích Ca không phải là người sáng tạo ra Luật Nhân Quả mà chỉ là người quan sát các pháp, thấy những diễn tiến của nó luôn theo một quy luật nhất định nên cảnh báo, để chúng ta đừng làm những việc mang lại hậu quả đáng tiếc cho bản thân, vì mọi người đang sống trong hiện tướng, mà tướng là nơi cho Nhân Quả thể hiện, khi đã gieo Nhân, thì sớm hay muộn chắc chắn Quả cũng sẽ đến. NHÂN là sự gieo trồng, Quả là sự thu về những gì do việc gieo trồng đem lại. Không giống như người đời gieo trồng rồi mang Quả đi bán. Người gieo Nhân phải hưởng hay phải chịu những gì mình đã gieo, không thể tránh né hay đổi chọn gì được. Do đó, đã có Luật Nhân Quả thì buộc phải có Luân Hồi để cho Nhân Quả thi hành án một cách công minh, bởi vì nếu cứ làm ác rồi chỉ cần “chết là hết” thì người lương thiện ắt phải chịu thiệt thòi, như vậy xem ra quá bất công! Tất nhiên ta không thể quay về nguồn để tìm lại xuất xứ của con người, xem ngay từ buổi đầu tiên đã xuất hiện với hình dáng ra sao, từng giai đoạn tiến hóa như thế nào? Nhưng chắc chắn không thể vô cớ mà kẻ đẹp, người xấu, kẻ giàu, người nghèo, kẻ thọ, người yểu… như ta thấy diễn ra trước mắt trong cuộc đời. Nếu chúng ta chấp nhận lý thuyết con người đồng là con của Thượng Đế, Ngài đã tạo ra giống hình ảnh của Ngài, thì càng thấy rõ tác động của Nhân Quả. Thật vậy, nếu con người đồng là con của Thượng Đế, đồng do Ngài tạo dựng hẳn là buổi đầu phải tốt đẹp, phải đồng nhất, vì Thượng Đế là đấng toàn năng, đâu thể có những “sự cố” để có nhiều phiên bản xấu xí, lem ố được. Vậy thì đâu là lý do làm ra những dị biệt đó, nếu không phải là sau đó những hình ảnh đó làm tự làm cho ô nhiễm? Như đám con đồng do cha mẹ sinh ra, tất cả đều xinh đẹp, nhưng sau đó đứa thì nghịch với sình bùn làm cho mặt mày lem luốc, đứa thì tham gia những trò chơi nguy hiểm để tự gây thương tật, nên không còn giống hình ảnh đẹp đẽ lành lặn mà cha mẹ đã tạo dựng ban đầu nữa. Càng cho rằng Thương Đế “công bình vô cùng” ta càng thấm thía Luật Nhân Quả, bởi không thể vô cớ mà con người lại phải cúi đầu chấp nhận số phận của mình không chút phản kháng, vì tại sao điều xấu không đến với người này mà lại đến với người kia? Tại sao người này được hưởng phước trong khi kẻ khác lại bị vùi dập, lẽ nào do may rủi tình cờ? Nếu cho rằng đó là do bàn tay của Thượng Đế, thì lại mâu thuẫn với thuyết Ngài “công bình vô cùng”! Nếu trước kia mọi thứ đều đổ cho Thượng Đế, cho Thần Linh, thì từ khi có ánh sáng khoa học soi rọi người ta bắt đầu có một cái nhìn đúng đắn và hợp lý hơn. Thật vậy, nhìn cuộc đời mà ta suy ra: phải chăng những người giàu là những người chịu khó làm ăn, tích góp, trong khi người nghèo là những người hoặc không có cơ hội, hoặc không thích làm ăn, hoặc hoang phí? Không thể đổ cho Thượng Đế sắp xếp số phận cho ta, bởi rõ ràng, dù không thấy được kiếp trước, nhưng từ khi ra đời thì mỗi người hoàn toàn tự do định hướng cho cuộc đời của mình. Muốn học, muốn làm, muốn ăn, uống, vui chơi, ngủ, nghỉ... mỗi người đều tự quyết định lấy, đâu có sự can thiệp của đấng bề trên nào? Muốn làm giàu thì chịu khó nghiên cứu, học hỏi, đầu tư. Muốn sạt nghiệp thì cờ bạc, cá độ, nhậu nhẹt, đề đóm… Điều đó cho thấy Nhân Quả thể hiện trong từng việc từ lớn đến nhỏ của mỗi chúng ta và luôn luôn sòng phẳng: Làm ác, gặp ác là điều không ai có thể phủ nhận. Cũng có người nhìn thấy có kẻ làm ác, sát sinh, hại vật mà vẫn ung dung giàu sang, hưởng phước, có người hiền lương, không thấy hại ai bao giờ mà vẫn lao đao hết tai nọ, sang nạn kia thì cho rằng Nhân Quả không công bằng. Đó là vì họ chưa rõ diễn tiến của Nhân Quả. Theo Đạo Phật, Nhân Quả có ba thời: Nhân Quả đồng thời, như cho tay vào lửa là bỏng ngay. Nhân quá khứ, Quả hiện tại và Nhân hiện tại nhưng Quả tương lai mới đến. Cũng giống như người gieo trồng các giống cây. Có giống chỉ vài tháng là đã cho quả. Có giống phải mất nhiều năm. Hiện tại họ đang ăn quả của những mùa trước, đang gieo trồng cho những vụ sau, nên dù không thấy tận mắt một người đã sống ra sao, đã gieo những gì? Nhưng qua những gì họ đang hưởng hay chịu, thì ta biết chắc quá khứ họ đã làm điều tốt hay xấu, và cũng theo cách thức đó mà thấy được những gì sẽ diễn ra với họ ở kiếp tới, không cần phải là người có thần thông hay thiên nhãn gì hết! Cũng vì Nhân Quả chuyền níu với nhau, nên Đạo Phật nói rằng tất cả không chấm dứt theo cái chết, mà kiếp sống chỉ kết thúc với cái Thân giả tạm này mà thôi, và bắt buộc phải có Luân Hồi để Nhân Quả thể hiện. Như con bò phải kéo cái xe, bò chết thì chủ sẽ thay con khác vô để kéo. Có người sẽ cho rằng cái xe vốn của con bò trước, mắc gì bắt con bò sau phải kéo? Nhưng theo Đạo Phật, con bò tức là tất cả những cái thân Tứ Đại giả hợp. Nó đã là Tứ Đại giả hợp thì nó không có chủ thể, vô tri, vô giác, mà chỉ là công cụ để cho CÁI BIẾT nương vào đó để trả hay hưởng những gì nó đã gây tạo mà thôi. Chính CÁI BIẾT - mà khi chưa sáng suốt thì Đạo Phật gọi là CÁI BIẾT MÊ LẦM - đã mượn cái Thân tứ đại rồi ở trong đó mà hành động, mà hại người, hại vật, nên khi cái thân Tứ Đại hết Duyên, hết Nghiệp, nó lại phải nhận một cái thân Tứ Đại khác để Trả những gì nó đã gieo! Chính nó mới BIẾT VUI, BIẾT KHỔ, BIẾT ĐAU, BIẾT CẢM XÚC. Chính nó đã điều khiển cho cái Thân HÀNH ĐỘNG nên khi trả Quả thì chính nó phải đau khổ chớ không phải là cái Thân. Điều đó được chứng minh khi quan sát một xác chết, ta thấy: thân thể, tay chân, mắt mũi vẫn còn nguyên vẹn nhưng không còn nói năng đi đứng nằm ngồi, không còn biết gì, thậm chí mang đi chôn hay đốt cũng không có phản ứng, vì CÁI BIẾT đã rời khỏi nó rồi, cái thân chỉ còn là đống xương thịt chờ giờ tan rã mà thôi. Khi chưa rõ Luật Nhân Quả, có người dùng thủ đoạn lấy về được chút vật chất thì vui sướng, hả hê. Khi phải trả thì lại cho rằng Trời Phật bất công với mình nên oán trời, trách đất, hoặc nghĩ rằng mình bị thần thánh quở trách nên tìm cách cúng kiến để xin đổi xấu lấy tốt , không biết rằng không hề có việc người này làm mà người khác phải chịu. Luật đời còn như thế huống là Luật Nhân Quả! Vì ý thức như vậy, nên Đạo Phật khuyên con người nên tu hành. Trước hết là Cải Ác, Hành Thiện. Sau đó Quán Sát, Tư Duy để thấy cái thân mà chúng ta đang mang, cảnh mà chúng ta đang sống cũng chỉ tạm thời chừng trăm năm là kết thúc, để đừng bám vào cái thân, vào cuộc đời rồi tạo ác nghiệp để cho cuộc sống của ta, người và mọi vật được an ổn hơn. Nếu có sang kiếp khác cũng sẽ không gặp phải những cảnh bất như ý. Phải chăng, nếu không vì để cho cái thân được thụ hưởng, thì ta chỉ cần cơm ngày hai bữa, quần áo, vật dụng đủ dùng, có mái nhà để che nắng mưa là được rồi, đâu cần quá bon chen vất vả. Giả sử có nhờ vào khả năng mà kiếm được nhiều tiền một cách lương thiện thì cũng đâu có bo bo giữ cho riêng mình, mà có thể san sẻ, giúp đỡ ai đó khi họ lâm cảnh khó khăn, bởi ý thức đồng tiền chỉ là phương tiện để sống, cảnh trần là cõi tạm mà thôi. Nếu Ý thức được việc xấu, tốt đều không mất, chính ta phải chịu hậu quả những điều mình làm, không kiếp này thì cũng kiếp sau hẳn ta đâu có tìm cách làm tổn hại người khác? Nếu biết rằng thân này, cha mẹ, vợ chồng, bà con, dòng họ, bạn bè… này cũng chỉ là bèo mây, tạm hợp nhau trong kiếp sống ngắn ngủi này rồi sau đó là mỗi người sẽ theo Duyên Nghiệp riêng biệt, không biết về phương nào, không hẹn ngày gặp lại, ắt mọi người sẽ đối xử với nhau một cách tốt đẹp hơn khi còn ở bên nhau, không đợi người thân chết đi mới nhỏ những giọt nước mắt hối hận muộn màng! Lý do mà Đạo Phật đưa các pháp Vô Thường, Nhân Quả ra giữa đời là để nhắc nhở con người rằng kiếp sống này tuy ngắn ngủi nhưng rất đáng quý, vì dù cái Thân là giả tạm, nhưng con người có thể dùng nó để làm những điều tốt đẹp cho mình, cho người. Nếu biết tu hành, mở được “CÁI BIẾT GIÁC NGỘ” thì còn có thể nương vào đó để bơi qua sông sinh tử. Cái Thân tuy là tứ đại giả hợp, nhưng Phật dạy đó là “một trong năm điều khó được”, và biết sống ngay thật để kiếp sau nếu có, còn được làm người, có được cái Thân đầy đủ thì Phật ví như chút đất dính ở đầu móng tay so với đất trên trái đất! Ý thức được NHÂN QUẢ, LUÂN HỒI để sống cho tốt đẹp là mục đích của Đạo Phật để cho trần gian được an lành, hạnh phúc, vì không còn cảnh bức hiếp, tàn sát lẩn nhau để dành nhau chút vật chất phù du nhằm phục vụ cho tấm thân hư dối, cuối cùng rồi cũng chết, bỏ lại tất cả, chỉ mang theo Nghiệp Quả! Nhưng đối lại là có một số người không hiểu hết mục đích của Đạo Phật nên chê cuộc đời là giả tạm, phù du, rồi đứng bên lề cuộc đời, mặc cho người khác tàn phá hay xây dựng, chỉ mong về Đông Phương, Tây Phương, quên rằng sở dĩ Đạo Phật xuất hiện giữa đời vì muốn cho mọi người được an lành, hạnh phúc trong kiếp sống như lời Kệ trong Kinh Diệu Pháp Liên Hoa: “TA LÀ ĐẤNG PHÁP VƯƠNG. TỰ TẠI NƠI CÁC PHÁP. VÌ AN ỔN CHÚNG SANH. NÊN HIỆN RA NƠI ĐỜI. XÁ LỢI PHẤT PHẢI BIẾT. PHÁP ẤN CỦA TA ĐÂY. VÌ MUỐN LÀM LỢI ÍCH. CHO THẾ GIAN NÊN NÓI”. (DPLH tr.139 Phẩm Thí Dụ). Rõ ràng, Kinh viết: “Pháp ấn của Phật thuyết ra là vì lợi ích cho thế gian” đâu có khuyên con người bỏ thế gian để mơ về cõi nào! Trong phương tiện để khuyến khích con người nên sống thiện, Đạo Phật mô tả Tây Phương, Đông Phương vớI những hình ảnh tốt đẹp tuyệt vời là mục đích của Phật để con người vì ham thích đến đó mà cố gắng sống cho tốt, để cuộc sống hiện đời được hạnh phúc, an vui, đâu phải để buông xuôi tất cả, chỉ mong sớm về! Hơn nữa, thực tế là chúng ta đang sống, đang trú ngụ tại cõi trần, tại sao không tiếp tay xây dựng cho mọi thứ thêm tốt đẹp, lại ngồi mơ màng một cảnh giới nào khác bên kia kiếp sống, trong khi hàng ngày vẫn hưởng dụng thành quả của đời? Điều đó xem ra hết sức nghịch lý, bởi Nhân Quả đâu chỉ dành khuyên con người làm tốt để kiếp sau được hưởng, mà dạy rằng Nhân Thiện thì Quả Lành sẽ đến ngay trong hiện kiếp, vì không hại người thì không bị người hại, không làm ác thì không bao giờ bị người đời chê trách hay pháp luật truy nã… Một cuộc sống bình thường, không có kẻ thù rình rập, cơm áo, vật dụng đủ dùng, mọi người không xâm phạm của nhau, ngược lại quan tâm yêu thương chăm sóc, chia sẻ với nhau. Không gây hấn, tranh dành thì không còn chiến tranh gieo đau thương, tang tóc, tất cả sẽ được an lành, hạnh phúc trên mặt đất đầy hoa trái bốn mùa xanh tốt. Như thế chẳng phải quá tốt đẹp rồi sao, cần gì mơ màng cõi nào ở đâu xa vời? “Âm phủ, dương gian đồng nhất lý”. Thiên đàng, Địa ngục cũng đang hình thành trong mỗi người khi đang còn ở tại cõi thế. Tâm thanh tịnh là cõi Phật đã hình thành. Tâm địa xấu xa là địa ngục cũng đang thể hiện! Sống không làm ác, không gây nghiệp thì Địa ngục nào lôi ta vào sau khi chết được? Nếu luận Thanh, Trược, thì không phải do ăn chay mà Thanh, vì những gì thuộc về cái Thân sẽ theo nó mà trở về với cát bụi, nhưng một cuộc sống hiền lương tâm địa ngay ngắn, là ta đã hình thành dòng pháp Thanh ngay khi còn sống, đương nhiên khi bỏ xác thân thì pháp Thanh sẽ tìm về với pháp Thanh. Không thể cả đời sống hiền lương, đột nhiên chết lại sa địa ngục và ngược lại, cần gì phải cầu siêu, vì có cầu cũng có được đâu! Người tin vào lời cầu xin tức không tin vào Nhân Quả thì đó không phải là đệ tử của Phật, vì Đạo Phật dạy “Cầu mà không cầu” tức là cứ gây Nhân Thiện, tự nhiên sẽ gặt Quả Lành, không thần linh nào có quyền chấp nhận lễ vật hay lời cầu để ban phước, giáng họa cho ai. Nếu tin rằng cứ sống ác rồi khi chết chỉ cần thân nhân mời thầy đến tụng kinh, lễ vật hậu hỉ thì người chết sẽ được rước về Tây Phương cực lạc thì không khác nào cổ súy cho nạn hối lộ, thần thánh cũng bị xếp chung số phần vớí các quan tham ô, thì quả là phỉ báng, bôi bác đạo! Thầy nào cho rằng chỉ cần vài bài tụng mình có thể đưa hồn người chết về Tây Phương hẳn uy lực còn siêu hơn cả Đức Phật! Cho nên, ý thức Nhân Quả để không hại người trở thành tự hại. Làm tốt không phải để cho Trời Phật chấm công, để được ban thưởng, mà chính là để không phải lãnh hậu quả. Nếu hiểu được như vậy thì không cần công phu sớm tối, giữ hàng mấy trăm Giới, làm gì cũng sợ đụng Giới, sợ thất niệm, mà chỉ cần biết rằng những gì mọi người đang làm tại kiếp sống là đang “gởi tiết kiệm” cho kiếp sau. Mọi việc lành, dữ đều không mất. Nếu ở trong Vô Tướng thì thôi, một khi mang thân tứ đại thì chắc chắn Nhân Quả sẽ có dịp để thể hiện. Cũng không phải Nhân Quả chỉ ràng buộc đối với những người theo Đạo Phật, những người theo tôn giáo khác thì không bị ảnh hưởng, mà tất cả những gì có tướng đều không ra khỏi quy luật này. Vì vậy, một nguyên tắc để sống, tuy là của Đức Thích Ca đặt ra, nhưng có thể áp dụng cho tất cả là: “Những gì mình không muốn người khác làm cho mình, thì đừng làm cho người”. Chỉ cần mọi người hiểu và áp dụng được như thế thì cõi trần gian sẽ trở thành cõi an vui, muốn nói Thiên Đàng hay Niết Bàn tại thế cũng không khác, bởi ngay khi còn sống đã biết sẽ về cõi nào, và kiếp sau nếu có, cũng được thanh thản, nhẹ nhàng, vì đã tự định hướng cho mình ngay tại hiện kiếp vậy. Tâm Nguyện (11/2007) Phụ Bản III VỊNH KIỀU
Khuyết danh Sắc tài ban phát tự cao xa Còn mệnh do ta tạo lấy mà Bồ liễu băng tường phăng rẽ liễu Giăng hoa lánh ngõ để tìm hoa Cà sa hai bận ôm choàng lấy Hai bận cà sa cởi phắt ra Thơ rặt đoạn trường di thảm khốc Ba chìm bẩy nổi kiếp quần thoa. Đỗ Thiên Thư st
THƠ DỊCH Dưới đây là 1 bài thơ chữ Hán rất hay nhưng tiếc rằng người dịch không biết được Tên bài thơ và Tên tác giả. Nguyên tác chữ Hán : Thiên sinh Ngô Địa tải Ngô Thiên địa sinh ngô hữu ý vô Bất nhiên tuyệt lạp thăng thiên cù Bất nhiên minh kha du đế đô Bất năng bất phú diệc bất quý Không tác ngang tàng bất trượng phu Nhất trượng phu hề nhất trượng phu Bình sinh chí nghiệp thị lương đồ Nhân sinh tại thế bất đắc ý Tấn phát biên chu du Ngũ Hồ. Bản dịch của Thu Lang Mi hỡi Mi Trời sinh mi, Đất chở mi Trời đất sinh mi có nghĩa chi Đường mây sĩ hoạn người lên vút Ngựa xe ai lộng chốn kinh kỳ Còn mi danh lợi cười tay trắng Hào khí ngang tàng độc chiếc thân, Hào khí ngang tàng độc chiếc thân Hề Trượng phu kiêu ngạo chốn phong trần Bình sinh chí nghiệp khôn thành toại Xuất thế riêng say lạc thú nhàn A Ha! Rũ tóc bay chiều gió Sông hồ buông thả chiếc thuyền nan!
Đỗ Thiên Thư st
BÍ MẬT CỦA MỰC TÀU Mực Tàu có thành phần rất đơn giản: bồ hóng, dầu thực vật và keo nhựa. Qua hàng trăm năm, công thức này dường như không thay đổi: chỉ có bồ hóng là được lấy từ việc đốt dầu mỡ thay vì đốt gỗ tùng, bách. Ở Trung Quốc, việc chế mực Tàu được giữ bí mật. Một trong những công thức được sử dụng từ năm 900 cho tới nay là: 600g bồ hóng từ cây bông, 8,5g xà cừ nghiền nhỏ, 28g long não cộng một lượng nhỏ dầu, hỗn hợp này phải gia đúng 100.000 cái! Bùi Đẹp CHỮ VIẾT Nghiên cứu chữ viết trong lĩnh vực tội phạm là công tác điều tra nghiên cứu bản viết tay, chữ ký, nhằm xác định tác giả, người viết, người ký trong tài liệu cần nghiên cứu. Chữ viết có 2 đặc tính cơ bản sau đây: Tính riêng biệt là cái chỉ có ở người này mà không thể có ở người khác trong sự tổng hợp các đặc điểm về chữ viết của một người. Nó thể hiện ra bằng những sai sót về văn phạm, về sự lệch lạc về hình thức cấu tạo của chữ so với mẫu chữ quy định. Tính riêng biệt này được tạo ra trong quá trình học tập, rèn luyện để biết viết một cách thành thạo nên mọi người không thể có tự dạng giống nhau mặc dù thói quen có sự cố ý bắt chước vì hoàn cảnh tập luyện khác nhau và tâm sinh lý khác nhau. Tính riêng biệt nói trên là bản chất của tự dạng. Nó chính là thói quen của người viết nên có thể giải thích quá trình hình thành của nó bằng học thuyết phản xạ có điều kiện của nhà bác học Habioc, Páp-lôp. Nhờ có tính riêng biệt ta mới phân biệt được chữ của người này khác với chữ của người kia. Đó là cơ sở của công tác giám định tự dạng. Tính bền vững tương đối, tính này biểu hiện ở chỗ khi tự dạng đã hình thành thì khó thay đổi hoặc thay đổi rất ít. Sự thay đổi rất ít đó diễn ra theo những quy luật nhất định. Tự dạng chỉ thay đổi khi hoàn cảnh khách quan và chủ quan thay đổi. Hoàn cảnh khách quan ở đây là điều kiện học tập và tư thế hoàn cảnh lúc viết. Hoàn cảnh chủ quan là đặc điểm tâm sinh lý của người viết. Chữ viết có 2 nhóm dấu hiệu sau đây: - Dấu hiệu về ngôn ngữ chữ viết: đó là nhóm dấu hiệu phản ánh trình độ học lực và kiến thức xã hội của tác giả. Nó bao gồm: nội dung tài liệu, bút pháp, vốn từ, văn phạm. - Dấu hiệu tự dạng: đó là nhóm dấu hiệu phản ánh thói quen chuyển động của cánh tay để viết ra các đường nét một con chữ, một từ, một hàng chữ dưới một hình thức nhất định để có một bài văn hoàn chỉnh. Các dấu hiệu tự dạng chia làm 3 loại: cách trình bày, dấu hiệu của tự dạng, dấu hiệu riêng của tự dạng. Hoàng Anh SÁCH VÀ CUỘC SỐNG Thú... tầm bản thảo Bản thảo là minh chứng sống động nhất cho quá trình lao tâm khổ tứ trên cánh đồng chữ nghĩa của nhà văn. Nó cũng là hàn thử biểu giúp ta đo được tâm tính, hoàn cảnh sống, cảm xúc của nhà văn trong quá trình sáng tác. Chính vì sự quý giá và độc đáo ấy mà bản thảo từ lâu đã trở thành thú chơi thú vị của giới sưu tập. 1. Nổi danh trong giới sưu tầm bản thảo ở Việt Nam là ông Phạm Văn Bổng ở Hàng Buồm (Hà Nội). Bộ sưu tập bản thảo của ông có đủ các tác phẩm của tác giả nổi tiếng trong văn đàn nước nhà, từ Hoàng Trung Thông, Tào Mạt, Phùng Quán cho tới Vũ Cao, Phạm Tiến Duật. Đặc biệt ông có những trang bản thảo cực quý của nhà văn tài hoa Nguyễn Tuân, từ Chùa Đàn, Cốm in trên giấy bản từ năm 1946, đến những bút ký sống động thời chống Mỹ của cụ Nguyễn như Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi, Sông Đà... Bộ sưu tập bản thảo đa dạng của các nhà văn Việt Nam mà ông Bổng may mắn có được, một phần là do chính chủ nhân vì quý tấm lòng biệt nhỡn liên tài của nhà sưu tập nên dành tặng. Nhưng phần lớn là do hầu hết các nhà văn ở nước ta đều không ý thức được việc lưu giữ những trang bản thảo, có người còn quan niệm khi tác phẩm đã được in thì cũng là lúc tập bản thảo bị ném ra sọt rác. Cảm được vọng tâm từ con chữ nên ông Bổng nhặt nhạnh rồi gìn giữ như báu vật. Rất nhiều trang bản thảo quý giá đã được ông lôi từ thùng rác của các nhà in, nhà xuất bản, gầm bàn viết của các nhà văn… Anh Tín, con trai ông Bổng, người kế thừa di sản của cha, tâm sự: “Sưu tầm những bản thảo quý hiếm này, gia đình tôi muốn lưu giữ những dấu vết của một thời kỳ văn học Việt Nam, cái sẽ dần mai một đi, khi việc sáng tác chủ yếu sẽ được các nhà văn thực hiện trên máy tính!”.
2. Cơ duyên của họa sĩ Lê Thiết Cương với những trang bản thảo lại từ một lẽ khác. Anh nhớ lại: “Năm 1986, lúc ấy tôi mới hơn 20 tuổi nhưng đã quen với nhiều văn nghệ sĩ nổi tiếng. Một lần nhà thơ Trần Dần đến thăm ông Đặng Đình Hưng (cha của NSND Đặng Thái Sơn) nhưng không gặp, ông ấy viết mấy chữ để lại “Hôm nay, gậy (Trần Dần) đến thăm ổi (Đặng Đình Hưng) nhưng không gặp...”, rồi qua nhà tôi. Tôi thấy nét chữ của ông Trần Dần rất lạ, không hẳn đẹp nhưng có dáng nét của hội họa và tôi đã giữ lại cho đến ngày nay. Thú chơi bản thảo đến với tôi từ ngày ấy”. Biết Cương có sở thích ấy nên bạn bè là nhà văn thường tặng anh những bản thảo của họ và bù lại, anh cũng tặng bạn bè phác thảo tranh của mình. Họa sĩ Lê Thiết Cương còn thể hiện tình yêu với những con chữ của nhà văn bằng những bức tranh lấy cảm hứng từ bản thảo các tác phẩm văn học. Năm 2005, khi trình bày cho cuốn tiểu thuyết Khải huyền muộn của nhà văn Nguyễn Việt Hà, anh đọc, cảm nhận bản thảo và đã vẽ bìa cho cuốn sách với một cảm xúc rất đặc biệt. Đó là bức tranh đầu tiên của anh ra đời từ cảm hứng với những trang bản thảo văn học. Loạt tranh sơn dầu với chủ đề “Viết hay là vẽ” có tên chung là Bản thảo ấy được Lê Thiết Cương vẽ đơn giản tối đa, chỉ với hai màu đen, trắng. Tới nay, anh đã có một bộ sưu tập gồm 14 bức tranh sơn dầu, lấy cảm hứng từ những trang viết chằng chịt những con chữ bị gạch chéo, viết đè, bị tẩy xóa… của các nhà văn trong quá trình hoài thai tác phẩm. Với quan niệm: “Ở góc độ nào đó, bản thảo cũng giống với tác phẩm hội họa vì nó là độc bản”, năm 2006 anh đã mở một triển lãm gây nhiều hứng thú cho công chúng với chủ đề xoay quanh những thứ âm bản, độc bản là: bản thảo của nhà văn Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Việt Hà, ảnh dạng âm bản của nghệ sĩ nhiếp ảnh Trần Huy Hoan và những bức tranh sơn dầu mà anh lấy cảm hứng từ bản thảo văn học. Đặt những thứ ấy cạnh nhau, Lê Thiết Cương đã giúp người xem hiểu được phần nào công sức của nhà văn trong quá trình sáng tạo tác phẩm cũng như biết thêm nhiều thông tin thú vị về cá tính sáng tạo của các nhà văn. 3 .Nhà văn Chu Lai thì thể hiện tình yêu bản thảo bằng việc mang lên trang web chodientu.vn bán đấu giá hai tập bản thảo viết tay: kịch bản phim truyện Gió không thổi từ biển và kịch bản sân khấu Người đàn bà im lặng để lấy tiền làm từ thiện. Đây là những bản thảo minh chứng cho một thời đầy đam mê và nhiệt huyết của nhà văn Chu Lai. Những dòng chữ tẩy xóa, những trang viết được cắt dán trên bản thảo giúp ta cảm nhận được sự lao tâm khổ tứ của ông với tác phẩm. Đó cũng là những bản viết tay hiếm hoi còn lưu lại của ông vì sau năm 1978, ông viết văn bằng máy chữ rồi máy vi tính. Bản thảo thể hiện cá tính, sự lao động công phu và những thói quen riêng biệt của mỗi nhà văn. Nhiều khi, nó cũng giống như những cổ vật, có ý nghĩa đối với việc khảo cứu, chứa đựng dấu ấn của năm tháng như hoàn cảnh ra đời, những chuyện bên lề thú vị của mỗi tác phẩm. Ở các nước, thường xuyên có triển lãm, đấu giá bản thảo tác phẩm văn học và trở thành một hoạt động văn hóa gây được nhiều tiếng vang trong cộng đồng. Ở Việt Nam, chúng ta không thiếu những trang bản thảo độc đáo của các nhà văn tài danh. Thú chơi bản thảo văn học nghệ thuật đã định hình trong giới sưu tập Việt Nam từ cả chục năm nay. Nếu biết khơi gợi, nếu có diễn đàn, sưu tập bán đấu giá bản thảo sẽ là một hoạt động văn hóa lý thú, bổ ích. THẢO LƯ
Ông Tây "mắm tôm" viết sách về Việt Nam TT - Một buổi chiều ở quận Gò Vấp, TP.HCM, tiến sĩ Andreas Reinecke mở máy tính xách tay. Những bức ảnh hiện ra diễn tả cảnh khai quật một di chỉ khảo cổ ở Long An. Trước khi đề cập đến những thông điệp ngàn năm từ lòng đất, ông nói: "Cuộc sống VN rất nhiều bí ẩn, nhất là vợ". Sau tiếng cười vỡ òa là một cái nhìn về VN - cái nhìn của một người Đức lấy vợ Việt, nói được tiếng Việt, từng đi khắp đất nước hình chữ S, viết rất nhiều sách về VN. Ấn tượng với văn hóa Sa Huỳnh Andreas đến VN lần đầu tiên năm 1993. Và trải nghiệm thú vị về đất nước này là cuộc sống với dân làng KTu, miền núi Quảng Nam. "Tôi nói tiếng Việt giống người KTu không?" - ông nở nụ cười. Sau đó, những năm tháng ăn dầm nằm dề ở miền Trung đã đưa ông đến với nền văn hóa Sa Huỳnh. "Tôi có ấn tượng mạnh với văn hóa Sa Huỳnh" - ông nói. Ấn tượng này nằm trong cuốn sách Những phát hiện mới về văn hóa Sa Huỳnh do ông viết sau đó. Thật ra, Andreas "gặp" VN từ năm 1978. Khi ấy Andreas mới chỉ là chàng sinh viên năm 2 ngành sử của đại học tổng hợp Humboldt - công dân của Đông Đức. Andreas muốn ra trường sẽ đến VN để tìm hiểu bí ẩn đầu tiên là tiếng Việt "véo von như chim hót". Nhưng mãi đến năm 1993, ông mới có cơ hội đến VN. Andreas cũng nói rằng giới khoa học thắc mắc tại sao bị Trung Hoa đô hộ 1.000 năm mà người VN vẫn không bị đồng hóa? Từ chiều sâu văn hóa hàng ngàn năm, Andreas nhìn về hiện tại và tương lai: "Tôi muốn người châu Âu, người Đức có một bức tranh rõ hơn về thời tiền sử và lịch sử văn hóa VN". Tại sao? Andreas nói một trong những lý do: "Nhiều gia đình Đức có vợ hoặc chồng là người Việt, nếu hai bên không hiểu văn hóa của nhau thì thật khó sống". Muốn có một bảo tàng muối ở VN Đầu năm 2008, Viện Khảo cổ học Đức sẽ xuất bản cuốn sách về dự án do Andreas phụ trách hợp tác với các bạn đồng nghiệp VN trong suốt bốn năm qua. Cuốn sách song ngữ Đức - Việt có tựa Tiền sử và sơ sử của địa điểm gò Ô Chùa miền Nam VN. Trong sách, ông đã đưa ra các dẫn chứng hết sức thuyết phục cho giả thiết tại gò Ô Chùa hơn 2.000 năm trước đã từng tồn tại nghề nấu muối truyền thống. Trong quá trình làm việc về gò Ô Chùa, Andreas phải lang thang qua rất nhiều bảo tàng muối trên thế giới, ông tiếc rằng ở một nước có bờ biển dài, nguồn tài nguyên "vàng trắng" phong phú nhưng chưa có một bảo tàng muối nào. Dự án lập bảo tàng muối luôn canh cánh trong ông. "Muối ăn thì ai cũng biết nhưng để làm ra hạt muối thì không phải ai cũng hiểu" - Andreas chia sẻ. Ông nói: "Có khoảng 44 bảo tàng muối trên thế giới rất đông khách và hữu ích cho các nhà nghiên cứu". Andreas liệt kê những nước giàu có nhất thế giới quan tâm đến hạt muối: Đức, Anh, Bỉ, Nhật... Riêng Pháp có đến bảy bảo tàng muối. Mới đây, Nhà xuất bản Reichert Verlag Wiesbaden cũng đã xuất bản cuốn sách Das alte Vietnam (VN ngày xưa). Cuốn sách Andreas và vợ thực hiện theo nguồn tài liệu cũ từ hơn 200 năm trước. Ông đã lần theo vết tích của các tài liệu này để giới thiệu về đất nước VN kỳ lạ và xa xôi trong thế kỷ 18. Mỗi lần đôi vợ chồng này trở về TP.HCM thì sống trong căn nhà tại quận Gò Vấp xanh ươm những cải, diếp cá... Từ nhà nhìn ra phố, cái nhìn đi qua màu xanh lá cải, xanh diếp cá, chắc chắn phải là cái nhìn VN. ĐẶNG TƯƠI
Câu chuyện đời người của một nhà Việt học TT - 50 năm du học, sống và dạy học (*) tại Pháp, đây là lần đầu tiên tôi được về nước vào đúng dịp tết. Đi từ thác Bản Giốc vào TP.HCM giữa đất trời sang xuân, tôi chạnh nhớ tới người bạn quá cố và canh cánh ước nguyện của một nhóm bạn bè từ cuối năm 2003 khi ông tạ thế. Đó là nhà sử học Georges Boudarel, người bạn chí cốt của VN. Ước nguyện của chúng tôi là một ngày không xa đi ngược hành trình tôi vừa đi: từ TP.HCM qua chiến khu D miền Đông Nam bộ, ngược khu V dọc Trường Sơn lên Việt Bắc, qua mỗi dòng sông rải một chút di cốt của Boudarel. Dọc lộ trình của Boudarel cách đây hơn nửa thế kỷ, hình hài của ông sẽ hòa nhập vào đất và nước VN. "Buđa" - bạn bè VN cũng như các nhà Việt học thân quen vẫn thường gọi ông vắn tắt như vậy. Trong tiếng Pháp, hai tiếng "Buđa" rất gần "Bouddha", tức là Bụt. Cách gọi rất có ý nghĩa, vì nhớ tới "Buđa" trước tiên người ta hình dung ra nụ cười hiền từ của một con người cả đời mang một đam mê: VN, và say sưa, rộng lượng chia sẻ hiểu biết của mình về VN qua hàng loạt tác phẩm về đất nước Việt, con người Việt, lịch sử Việt. Trước khi trở thành nhà Việt học, "Buđa" là một chiến sĩ dành trọn tuổi thanh niên cho cuộc kháng chiến của VN, và đến cuối đời đã phải "trả giá” cho sự dấn thân của mình. Giảng sư Trường đại học Denis Diderot (Paris VII) từ năm 1967 đến khi về hưu (cuối năm 1991), Boudarel đã góp phần không nhỏ đào tạo một thế hệ những người nghiên cứu Việt học thuộc nhiều quốc tịch, đồng thời cung cấp cho phong trào quốc tế ủng hộ VN những thông tin và phân tích trung thực. Ông là người biên tập cuốn sách 600 trang tố cáo chế độ ngục tù của chính quyền Mỹ-Thiệu. Sinh ngày 21-12-1926 trong một gia đình Công giáo, tốt nghiệp Đại học Văn khoa, Georges Boudarel tham gia Đảng Cộng sản Pháp. Sang Đông Dương làm giáo sư triết học ở Trường trung học Pháp ngữ, sau một năm ở Nam Lào ông tới Sài Gòn năm 1949 dạy ở Trường Marie Curie. Tại đây, ông sinh hoạt với "nhóm mác-xít" tập hợp những người Pháp tiến bộ, qua đó bắt liên lạc với kháng chiến VN. Năm 1950, ông ra bưng tham gia kháng chiến. Bác sĩ Phạm Ngọc Thạch phân công ông làm việc tại Đài phát thanh Nam bộ kháng chiến. Còn Tòa án quân sự Pháp thì kết án tử hình vắng mặt Georges Boudarel vì... "tội phản quốc". Đó tất nhiên không phải là quan điểm của Boudarel: chọn hàng ngũ kháng chiến VN để đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân Pháp, Boudarel trung thành với tiêu ngữ "Tự do - bình đẳng - bác ái" của Cách mạng Pháp 1789 cũng như với lý tưởng cao đẹp của chủ nghĩa quốc tế. Sự chọn lựa dũng cảm này còn thể hiện trong việc Boudarel chọn bí danh VN: Đại Đồng. Nghe thì rất ý vị, rất thế giới đại đồng, nhưng khốn nỗi ngay cả về sau này khi đã đọc trôi chảy các tác phẩm văn học VN, Boudarel vẫn "xung khắc" với thanh điệu tiếng Việt. Khi ông tự giới thiệu "Tôi tên là Đái Đồng" thì mọi cuộc khai hội đều biến thành những tràng cười bất tận. Cuối cùng, mọi người đều gọi "anh Bu-đa-rền" hay đơn giản hơn, thân mật hơn: "Buđa". Năm 1951, Buđa được gửi ra Bắc. Sáu tháng trời đi bộ 2.000km, ông lên tới Việt Bắc, nhận nhiệm vụ giải thích cho tù binh Pháp và Âu Phi ở trại M113 về thực chất cuộc chiến tranh. 40 năm sau, vào lúc khối Đông Âu sụp đổ, những thế lực cực hữu Pháp đã xúi giục một số cựu tù binh Pháp (cả những người chưa hề đặt chân tới trại M113) vu cáo ông là "cai tù”, là "chính ủy", là "hung thần" trại tù M113, và đòi truy tố ông vì "tội ác chống nhân loại". Sau mấy năm kiện tụng, tất nhiên tòa án Pháp đã bác bỏ những lời buộc tội vô lý này. Không những thế, tòa án hành chính đã buộc Bộ Giáo dục Pháp phải tính cả những năm vắng mặt của ông vào sổ thâm niên để trả hưu bổng. Nhưng đợt vu khống ồ ạt trên báo đài Pháp đã gây một chấn thương tinh thần lớn cho Buđa, khiến mấy năm sau ông hai lần đột qụy, phải nằm bệnh viện trong hơn một năm trời trước khi chuyển sang nhà dưỡng lão sống những năm cuối đời, xa cách tủ sách và kho tư liệu quý hiếm mà ông đã tích lũy suốt đời. Buđa từ trần ngày 26-12-2003. Ông là một nhà sử học (luận án tiến sĩ của ông về Phan Bội Châu niên biểu được giáo sư Vĩnh Sính đánh giá là công phu và mẫu mực, một tác phẩm nổi tiếng khác mang tựa đề ngắn gọn: Giáp), một dịch giả đã giới thiệu nhiều tác phẩm VN ra tiếng Pháp (từ Tắt đèn của Ngô Tất Tố, Dế mèn phiêu lưu ký của Tô Hoài… đến Đại thắng mùa xuân của Văn Tiến Dũng), một nhà Việt học đa dạng… Niềm an ủi lớn là xung quanh Boudarel, đông đảo bạn bè Pháp, Việt, Mỹ, Đức... đã tập hợp, lập ra Hội những người bạn của Boudarel (mà chủ tịch là nhà toán học Laurent Schwartz, giải Fields, người bạn lớn của VN) để bảo vệ ông, chăm lo đời sống vật chất và tinh thần cho ông trong suốt 12 năm cuối đời. Hình hài của Buđa đã được hỏa thiêu. Bạn bè trong hội đã trao cho tôi nhiệm vụ gìn giữ bình tro đợi ngày thuận lợi để di cốt "Buđa" hòa nhập vào đất nước VN thân yêu. Đi theo hành trình Buđa đã đi cách đây hơn nửa thế kỷ, tôi mong mình còn đủ sức để đi như thế, một ngày không xa... NGUYỄN NGỌC GIAO (*) Dạy toán Trường đại học Denis Diderot - Paris VII. THÔNG BÁO Kỳ họp tiếp theo của CLB sách Xưa & Nay sẽ diễn ra vào lúc 9:00 ngày 12/4/2008 tại nhà thờ Tân Sa Châu, số 387 Lê Văn Sỹ, phường 2, quận Tân Bình. Bài viết cho bản tin nội bộ xin gửi về: hamanhdoan69@yahoo.com hoặc liên hệ với Mạnh Đoàn Đt nhà: 8.469759 - Dđ: 0907.108484 Các bản tin trước có thể xem tại: www.diendan.songhuong.com.vn Phụ Bản IV |