Hiện có 7 người xem / 2482555 lần xem
         info@sachvatranh.com       84 (0) 1 222 929 703        

VÀI CHI TIẾT VỀ CUỘC HỌP NGÀY THỨ BẢY 13/9/2008 CỦA CLB SÁCH XƯA & NAY

Như thường lệ, để mở đầu cuộc họp dịch giả Vũ Anh Tuấn đã giới thiệu với các thành viên 2 cuốn sách, 1 Nay và 1 Xưa. Cuốn sách mới là cuốn “Tự Điển Bách Khoa Thiên Niên Kỷ” (Encyclopedia of the Millennium). Cuốn Bách Khoa Tự điển này được xuất bản năm 1999 là năm áp chót của Thiên Niên Kỷ thứ 2. Cuốn sách khổ 21x28cm dày 846 trang gồm 86 trang đầu có lời mở đầu và phần Biên Niên Sử Thế Giới từ 15.000 triệu năm trước theo Thuyết Vụ Nổ Vũ Trụ (Big Bang), kế đến là cuốn Bách Khoa Tự điển dày 744 trang, và cuối cùng là 16 trang các thông tin được cập nhật liên quan tới đủ mọi lãnh vực. cuốn Tự điển Bách Khoa này là của tập đoàn xuất bản Octopus Publishing Group ở Anh. Đây là một tập đoàn tuy chưa lâu năm lắm nhưng làm việc rất nghiêm túc và cuốn sách được trình bày khá đầy đủ chi tiết với những hình ảnh và màu sắc rất đẹp. Và cuốn sách Xưa là cuốn Lịch Sử Vô Tuyến Điện (La télégraphie historique) của tác giả Alexis Belloc, do nhà xuất bản danh tiếng Firmin-Didot ở Paris xuất bản năm 1894, tức là 114 năm trước. Sách khổ 18x27cm, dày 348 trang và có chứa đựng 76 khắc ấn họa, tuy không có màu nhưng cực kỳ rõ nét và đẹp. Dịch giả Vũ Anh Tuấn có chia sẻ với các thành viên một số hình ảnh ở trong sách ví dụ như hình những người phát thơ vào thời điểm đó, hình chiếc máy điện thoại vào lúc đó vv… Cuốn sách cổ này thuộc loại sách mà các trường trung học của tây Thuộc địa hồi đầu thế kỷ 20 thường dùng làm sách Phần Thưởng. Riêng cuốn sách này, ngoài việc đã là một Sách Ông đã 114 tuổi còn có một đặc điểm rất “đặc sắc” đối với người chơi sách là nó đã được dùng làm giải thưởng cho một người tên là Nguyễn Văn Thinh hồi năm 1903 và chính Ô. Thinh này là cựu Thủ Tướng Thinh thời kỳ năm 1945-1950, người chủ trương Nam Kỳ Tự Trị, nhưng sau vì biết bị bọn Tây thuộc địa gài, nên vì hối hận ông đã tự vẫn. Đây là phần thưởng về làm văn được trao vào ngày 23/12/1903 và do Hiệu Trưởng trường Chasseloup Laubat nổi tiếng trao.

Sau phần giới thiệu 2 cuốn sách, nhà thơ Lưu Hoài đã có một cuộc thuyết trình nhỏ về “Thân phận người phụ nữ trong Chinh Phụ Ngâm của Đặng Trần Côn”. Trong gần 1 giờ nhà thơ Lưu Hoài đã đưa ra nhiều chi tiết, nhiều thơ văn minh họa để chứng minh quan điểm cho rằng: “Tâm trạng của người Chinh Phụ trong Chinh Phụ Ngâm là tâm thức của con người lãng mạn, được thể hiện trong sự yêu thương và đau khổ trước mọi hoàn cảnh của cuộc đời. Dù muốn dù không, nàng vẫn chấp nhận số phận bi thương của một người phụ nữ, một chinh phụ phải sống xa cách người yêu, người chồng trong thời gian chinh chiến, nhưng chính sự đau thương và xa cách đó đã làm sáng lên ý nghĩa của tình yêu và lòng chung thủy…”

Trong cuộc nói chuyện có 2 nữ và 1 nam nghệ sĩ đã ngâm một số bài thơ minh họa và được các thành viên thích thú thưởng thức vỗ tay tán thưởng.

Trong kỳ họp sắp tới vào ngày 11/10/2008, tác giả Vương Liêm sẽ nói truyện về đề tài “Những Vùng Đất Cổ Việt Nam trong Chinh Phụ Ngâm” và dịch giả Vũ Anh Tuấn sẽ kể lại về những ngày đầu đến với Sách Cũ Sài Gòn và những Người Bán Sách nổi tiếng của thời kỳ đó.

Buổi họp kết thúc vào lúc 11 giờ cùng ngày.

Vũ Thư Hữu

CUỐN “ĐÔNG DƯƠNG THUỘC PHÁP”
(INDO-CHINE FRANÇAISE) CỦA PAUL DOUMER –
MỘT TRONG NHỮNG CUỐN SÁCH GIÁ TRỊ NHẤT VỀ ĐÔNG DƯƠNG

Trong đời chơi sách của tôi, tôi đã có được cuốn sách này 2 lần, nhưng rồi tôi đã lại nhường cho 2 người bạn vì tôi cần tiền mua mấy cuốn khác mà tôi đặc biệt ưa thích, hơn nữa, vì là kẻ cả đời chỉ biết có “chính Em” nên tôi cũng không mấy tha thiết với sách ít nhiều có liên quan tới chính trị. Tuy nhiên gần đây một số bạn bè có cho tôi biết là họ thích được biết những cuốn sách mà họ cho là có giá trị hàng đầu về Đông Dương, nên để chiều lòng các bạn đó, hôm nay tôi xin giới thiệu về cuốn này vì nó thật sự là một cuốn sách có giá trị về Đông Dương.

Trước khi nói về sách, xin có vài dòng về tác giả cuốn sách, vì thực ra, nhân thân tác giả đã là một bảo đảm rất quan trọng cho giá trị của cuốn sách.

Tác giả Paul Doumer là một chính khách Pháp sinh ở Aurillac năm 1857 và mất tại Paris năm 1932. Từ 1888 tới 1895, ông là một Nghị sĩ Cấp tiến, trong các năm 1895, 1896, và 1921-1922, ông làm Tổng Trưởng Tài Chánh, và từ năm 1897-1902, ông sang làm Toàn Quyền Đông Dương (tên ông được dùng để đặt cho cây cầu Long Biên thời đó), rồi sau khi trở về Pháp từ năm 1927-1931 ông làm Chủ Tịch Thượng Viện Pháp; cũng trong năm 1931 ông được bầu làm Tổng Thống của nền Đệ Tam Cộng Hòa, nhưng rồi một năm sau, vào năm 1932 ông bị ám sát bởi một người Nga tên là Gorgulow và qua đời luôn.

Cuốn sách được xuất bản lần đầu tiên năm 1903, khổ khoảng 22x32cm và dày khoảng 420 trang. Đây là những hồi ức của ông khi làm Toàn Quyền ở Đông Dương vì ngay ở dưới tựa sách ông có ghi chữ “Hồi ức” (Souvenirs). Sách có rất nhiều minh họa với những đề tài thuộc cả 3 Kỳ (Bắc, Trung, Nam) và những minh họa này đều được vẽ bằng bút sắt cực đẹp. Còn cái bìa thì phải nói là tuyệt vời, in màu xanh lá cây đậm, in nổi với những hình vẽ tuyệt vời và chữ thì mạ vàng tuyệt đẹp.

Đây là những hồi ức của một người đã từng cai quản cả Đông Dương và đã từng giữ một chức vụ quan trọng như Bộ Trưởng Tài Chính nên người đọc có cơ sở để tin rằng ông không viết bậy bạ như một số những anh tác giả thuộc địa khác, đầy sự tự tôn, khinh khi, miệt thị người bản xứ vì họ là những kẻ bị trị. Mà thật vậy cuốn sách của tác giả này viết rất nghiêm túc, tuy không hoàn toàn vô tư.

Ngoài Lời Nói Đầu chiếm 4 trang, sách được chia ra làm VII chương:

Chương I (9-34): Nói về chuyến đi của ông từ Paris tới Saigon.

Chương II (38-51): Nói về cái nhìn tổng quát của ông về Đông Dương. Trong chương này Paul Doumer có nói về các miền đất và dân cư, có nhắc lại một số sự kiện liên quan tới việc Pháp chinh phục Đông Dương…

Chương III (55-95): Nói về Nam kỳ. Trong chương này Doumer có nói tới đất đai và khí hậu ở Nam kỳ. Có nói tới các tỉnh Miền Tây. Đặc biệt ở chương này Doumer có nói tới một người mà ông gọi là “Một đầy tớ của nước Pháp”, và người này chính là Trần Bá Lộc. Sau đó ông nói tới tổ chức Chính trị, Bộ binh và Hải Quan ở Saigon Chợ Lớn.

Chương IV (98-156): Nói về Bắc kỳ. Ông kể việc ông đi từ Saigon ra Bắc, tới thăm Vịnh Hạ Long. Kế đó ông nói về bốn mùa và giông bão, và nói về hai thành phố Hải Phòng và Hà Nội. Rồi ông nói về Đồng bằng Sông Hồng và cuối cùng thì nói qua về việc thiết lập chế độ Bảo Hộ.

Chương V (167-211): Nói về Trung kỳ. Trong chương này ông có nói tới các quan Nhiếp Chính, nhà vua và triều đình Huế, nói về Huế và Tourane (Đà Nẵng) và cuối cùng thì nhắc tới một số tỉnh ở Miền Trung.

Chương VI (237-291): Nói về Miên và Lào.

Chương VII (310-408): Ông nói về sự phát triển ở Đông Dương. Ông có nhắc tới tình trạng tài chánh, tới phát triển kinh tế, và cũng có nói qua về việc phòng thủ Đông Dương, và sau cùng thì ông nhắc tới sự hiện diện của người Pháp ở Viễn Đông.

Các trang ở giữa các chương là những trang chứa đầy hình ảnh và hình vẽ minh họa về đủ mọi lãnh vực.

Đây là một cuốn sách viết rất nghiêm túc và tử tế. Tuy về mặt tài liệu lịch sử, kinh tế, chính trị, xã hội thì nó không phong phú lắm, nhưng về mặt trình bày và hình ảnh thì đây là một trong những cuốn đẹp nhất, giá trị nhất, nhất là những hình vẽ rất đẹp cho thấy được hình ảnh của nhiều địa điểm lịch sử vào thời điểm đó trông ra sao, so với bây giờ thì chúng đổi thay thế nào vv…

Trích Hồi Ký 60 năm chơi sách Chương VI
Vũ Anh Tuấn

Bài nói chuyện:

THÂN PHẬN NGƯỜI PHỤ NỮ
TRONG CHINH PHỤ NGÂM CỦA ĐẶNG TRẦN CÔN

Nhà thơ Lưu Hoài trình bày tại CLB Sách Xưa & Nay ngày 13/9/2008

Kính thưa Ban chủ nhiệm CLB Sách Xưa & Nay cùng toàn thể hội viên và quý thi hữu.

Trước khi nói về đề tài này, chúng tôi xin phép nói qua về tiểu sử của tác giả Đặng Trần Côn và lai lịch bản diễn Nôm hiện hành.

Tiểu sử Đặng Trần Côn

Đặng Trần Côn người làng Nhân Mục (tục gọi là làng Mọc), huyện Thanh Trì, Tỉnh Hà Đông. Ông sinh vào thời kỳ vua Lê Dụ Tông đầu thế kỷ thứ 18. Dưới triều chúa Trịnh Cương, ông được phong chức An Đô Vương. Lúc thiếu thời, ông rất thông minh và hiếu học. Nhiều đêm, ông phải đốt đèn trong hang động để học bài vì bấy giờ trong thành Thăng Long thường xảy ra hỏa hoạn nên có lệnh cấm lửa. Sau khi đỗ cử nhân, ông vẫn tiếp tục nghiên cứu văn học và sáng tác.

Vào thời Hậu Lê, dưới triều vua Cảnh Hưng (1740-1786), các thanh niên trai tráng trong làng đều phải bị nhập ngũ lên đường đi giữ biên cương, bờ cõi… Dĩ nhiên, các quân sĩ phải rời bỏ gia đình trong niềm thương yêu của gia đình và vợ con. Trước tình hình đó, Đặng Trần Côn đã sáng tác cuốn CHINH PHỤ NGÂM bằng chữ Hán, theo thể “Cổ Nhạc Phủ”, vào giữa thế kỷ 18 (khoảng 1741-1742). Sau đó vài năm, bà Đoàn Thị Điểm đã dịch tập thơ Chinh Phụ Ngâm sang chữ Nôm, theo thể Song Thất Lục Bát, hoàn toàn có tính cách Việt Nam. Có thuyết cho rằng bản dịch Chinh Phụ Ngâm này được dịch vào thời chúa Trịnh Sâm (1767-1782).

Sau khi xuất bản tập thơ “Chinh Phụ Ngâm”, ông được phong chức Huấn Đạo và giữ chức Ngự sử Đài. Theo sở thích, ông thường đi ngao du sơn thủy, du ngoạn khắp các vùng cao nguyên vì ông rất yêu thiên nhiên. Ngoài tác phẩm Chinh Phụ Ngâm, ông còn viết: Tiêu Tương bát cảnh, Trương Hàm Tư Thuần Lư, Trương Lương Bố Y, Khâu Môn Thanh…

Trong thời kỳ đó, bà Đoàn Thị Điểm (1705- ?) sinh vào đầu thế kỷ thứ 18, dưới triều Lê, là người đương thời với Đặng Trần Côn, quê làng Hiếu Phạm, huyện Văn Giang, tỉnh Bắc Ninh. Chồng là ông Nguyễn Kiều, nên bà phải đổi họ theo chồng thường gọi là Nguyễn Thị Điểm, và bà có biệt hiệu là Hồng Hà nữ sĩ.

Thuở nhỏ bà có học sử học và thường làm thơ xướng họa với chồng. Bà có soạn Tục Huyền Kỳ và diễn nôm bài Chinh Phụ Ngâm. Một hôm tình cờ, có sứ giả nước tàu sang thăm nước ta, bà giả làm người bán quán. Sứ tàu ghé vào quán của bà, nhìn các câu đối treo trên tường, ông ta liền đọc câu thơ sau có ý chọc ghẹo:

“An nam nhất thốn thổ, bất tri kỷ nhân canh”

Bà liền đối đáp như sau:

“Bắc quốc chư đại phu, giai do thử đồ xuất”

Thật tuyệt vời. Đó là khẩu khí của một nhà thơ nữ của chúng ta thời bấy giờ. Sứ giả lấy làm hổ thẹn, khen ngợi và cáo từ ra về.

Theo nguyên tác của Đặng Trần Côn, tác phẩm Chinh Phụ Ngâm có tất cả 476 câu, viết theo thể “Cổ Nhạc Phủ” tức Cổ Phong, câu dài câu ngắn khác nhau, có từ thời Hán Ngụy. Đến đời Đường (618-927), người ta mới sửa luật lệ sáng tác cho hợp với luật thơ Đường. Bà Đoàn Thị Điểm khi dịch lại Chinh Phụ Ngâm đã rút ngắn còn 412 câu, theo thể Song Thất Lục Bát, nhưng vẫn giữ ý tứ đầy đủ cho toàn bài.

Ai là tác giả thật sự của bản dịch này?

Có nhiều người cho rằng bản dịch Chinh Phụ Ngâm bằng chữ Nôm không phải của bà Đoàn Thị Điểm mà là của ông Phan Huy Ích, ta cũng nên biết sơ qua:

Vào năm 1926, ông Phan Huy Chiêm, một hậu duệ của ông Phan Huy Ích có gửi cho ông Đông Châu (báo Nam Phong tạp chí) một lá thư trình bày ý kiến cho rằng chính ông Phan Huy Ích (1) mới là tác giả bản diễn Nôm Chinh Phụ Ngâm của Đặng Trần Côn, chứ không phải của bà Đoàn Thị Điểm.

Năm 1943, ông Hoàng Thúc Trâm có tìm hiểu vấn đề này và đặt câu hỏi: “Ai là tác giả thật sự của bản dịch này?”

Đến năm 1953, ông Hoàng Xuân Hãn, một học giả Việt Nam thời cận đại, đã trưng thêm nhiều tài liệu mới trong cuốn “Chinh Phụ Ngâm bị khảo” của ông để chứng minh rằng ông Phan Huy Ích mới thật sự là tác giả của bản diễn Nôm Chinh Phụ Ngâm chứ không phải của bà Đoàn Thị Điểm, giống như ý kiến của ông Phan Huy Chiêm đã trình bày. Thế là một cuộc tranh luận bỗng nhiên bùng nổ trở lại, giữa những người ủng hộ ý kiến của ông Hoàng Xuân Hãn và ông Phan Huy Chiêm. Nhóm này gồm các nhà văn, nhà báo: Đông Châu, Trúc Khê, Nguyễn Văn Dương… Còn những người phản đối gồm các nhà trí thức: Thuần Phong, Thừa Minh, Biệt Lam (Trường Bác Cổ Hà Nội), Phạm Văn Diêu… Riêng ông Hoàng Thúc Trâm (Hoa Bằng) trước còn do dự, sau lại nghiêng về phía ý kiến của nhóm sau tức công nhận đó là bản dịch của bà Đoàn Thị Điểm.

Cuộc tranh luận thứ hai kéo dài trong 10 năm, nhưng vẫn không đi đến một kết luận nào. Nhóm các ông Thuần Phong, Biệt Lam,… viện dẫn rằng những lý lẽ của ông Hoàng Xuân Hãn vẫn không đủ thuyết phục, chưa có đủ chứng cứ để kết luận rằng bản dịch hiện hành là của ông Phan Huy Ích, nhất là bản dịch của ông Phan Huy Ích vẫn chưa được xuất bản, mặc dù nhiều người đã yêu cầu ông Phan Huy Chiêm công bố bản dịch của ông Phan Huy Ích, nhưng ông Phan Huy Chiêm vẫn không trả lời vì còn muốn giữ bí mật. Đến nay, bản dịch này vẫn chưa được xuất bản.

----------------------

(1) Phan Huy Ích (1750-1852), một học giả Việt Nam thời bấy giờ, là tác giả của nhiều văn bản chữ Nôm, văn tế, ngôn ngữ văn tự học thuật của nước ta. Ông tên thật là Phan Dụ Am, người tỉnh Sơn Tây, đỗ tiến sĩ thời Lê mạt, làm quan triều Tây Sơn đến chức Lễ bộ Thượng Thư. Ông là chú của ông Phan Huy Chú (đã viết Lịch Triều Hiến Chương).

Trong bản “Chinh Phụ Ngâm bị khảo” ông Hoàng Xuân Hãn có sao chép lại bản “Chinh Phụ Ngâm diễn ca” của ông Phan Huy Ích với những hiệu đính của ông mà không chép lại các từ trong bản gốc. Như thế là không theo đúng nguyên tắc hiệu đính (luôn đi kèm bản gốc), nhất là vế thời gian. Ngoài ra, trong bản của ông Hoàng Xuân Hãn cũng có những sự khác biệt với bản của bà Đoàn Thị Điểm, như “Tràng An” (bản Phan Huy Ích) với “Tràng Thành” (bản Đoàn Thị Điểm)(2)

Cuối cùng, một số nhà tri thức như GS Nghiêm Toản (Đại Học Văn Khoa cũ), một học giả Việt Nam, đã lên tiếng để tạm kết thúc cuộc tranh luận này, trong khi chờ đợi những tài liệu mới xác thực hơn: “Chinh Phụ Ngâm là một khúc ngâm do bà Đoàn Thị Điểm dịch từ bản chữ Hán của Đặng Trần Côn”. Đó cũng là ý kiến của chúng tôi đã trích dẫn trong bản dịch tiếng Pháp “Chinh Phụ Ngâm”(Chanson de la Femme d’un Guerrier) do Lưu Hoài dịch (NXB Trẻ 2000 – Tái bản NXB Thanh Niên 2006)(3).

Ngoài ra, trong bản dịch tiếng pháp, chúng tôi có in kèm toàn văn “Chinh Phụ Ngâm” bằng chữ Hán để quý vị tiện bề tra cứu và đối chiếu.

Đến đây, chúng tôi xin tạm khép lại cuộc tranh luận. Kính mong quý vị thông cảm và cho phép chúng tôi được đi vào đề tài hôm nay.

-------------------

(2) Trích tài liệu của ông Nguyên Văn Dương (Đại Học Huế -1964):
Theo CPN bị khảo và CPN diễn ca của Hoàng Xuân Hãn và Phan Huy Ích:
Tràng An: Kinh đô cũ của Trung Hoa
CPN của Bà Đoàn Thị Điểm:
Tràng thành: Vạn Lý Tràng Thành hay Vạn Lý Trường Thành
(xây dựng thời Tần Thỉ Hoàng)

Trống Tràng thành lung lay bóng nguyệt
“Cổ bề thanh động Tràng thành nguyệt”

Cần nói thêm là bà Đoàn Thị Điểm trước thế hệ ông Phan Huy Ích gần nửa thế kỷ. Bản dịch của Phan Huy Ích viết vào khoảng năm 1803-1807.

(3) (trang 118-119): …Có thể có nhiều bản khác nhau xảy ra cùng thời với bản dịch của bà Đoàn Thị Điểm. Cần phải xác minh các bản dịch đó trước khi xác định ai là tác giả của bản dịch này. Trong khi chờ đợi những tài liệu chính xác, chúng ta có thể mượn ý kiến của GS Nghiêm Toản để kết luận.

Kính thưa quý vị,

Mở đầu tác phẩm Chinh Phụ Ngâm, Đặng Trần Côn đã vẽ ra một bức tranh khói lửa và báo hiệu những nỗi truân chuyên mà người chinh phụ phải gánh chịu:

“Thiên địa phong trần.
Hồng nhan đa truân.”

Thuở trời đất nổi cơn gió bụi,
Khách má hồng nhiều nỗi truân chuyên.

Khói lửa chiến chinh đã nổi lên và người phụ nữ cảm thấy không còn sống bình yên êm ấm nữa. Và nàng sẽ phải chịu đựng những mất mát đau thương do chiến tranh gây ra. Người phụ nữ đã bắt đầu gióng lên tiếng kêu than:

Xanh kia thăm thẳm từng trên!
Vì ai gây dựng cho nên nỗi này.

Thân phận người phụ nữ sẽ ra sao? Chúng ta thử phân tích và tìm hiểu số phận người phụ nữ xuyên qua tác phẩm của Đặng Trần Côn.

1. TIẾNG KÊU THAN CỦA NGƯỜI CHINH PHỤ.

Từ những bất mãn, đau thương, người chinh phụ đã kết tội ông trời gieo rắc những thảm họa, tang thương cho nàng và những phụ nữ khác. Từ nay, nàng sẽ không còn được vui sum họp, được sống trong hạnh phúc gia đình. Nàng cảm thấy mình như mất cả lẽ sống ở đời và sẽ là nạn nhân của một cuộc binh biến. Nàng và nhiều phụ nữ khác đành phải chấp nhận số phận của những người chinh phụ. Đối với nàng, cuộc đời đã mất hết ý nghĩa và sẽ không còn ai để nương tựa, sẽ sống bơ vơ lạc lõng giữa cuộc đời. Đời nàng sẽ đi dần vào con đường không có lối thoát, với những gian truân, vất vả trong khi nàng vẫn còn là người đàn bà non trẻ mà đáng lẽ ra nàng phải được sống hạnh phúc như mọi phụ nữ khác. Tương lai của nàng càng trở nên mờ mịt kể từ khi người chinh phu cất bước lên đường, giong ruổi trên yên ngựa:

Đường giong ruổi lưng đeo cung tiễn

Đời nàng sẽ dần dần khép lại sau cánh cửa và nàng chỉ còn là một chiếc bóng đơn điệu giữa những đêm trường giá lạnh. Mọi vật chung quanh đã trở nên xa lạ, với những nỗi chua cay, đau xót. Có thể nói thân phận người phụ nữ trong Chinh Phụ Ngâm là thân phận của một số kiếp đau thương. Nàng sẽ nhìn đời không còn như trước nữa. hạnh phúc lứa đôi đã bắt đầu đổ vỡ, từ khi xa cách, mỗi người một ngã:

Thiếp trong cánh cửa, chàng ngoài chân mây.

Chân trời hạnh phúc đã trở nên xa cách và cuộc đời đã thành vô vị, không còn ý nghĩa. Nói thế không có nghĩa nàng không còn khát vọng yêu đương. Do đó, chúng ta thấy tâm hồn nàng là một tâm hồn lãng mạn từ khi biết yêu thương và đau khổ. Chính sự nhớ nhung, yêu thương đó, nhất là biết nén những đau khổ vào trong lòng, càng làm cho nàng trở nên lãng mạn hơn. Không phải chỉ có những người ở thế kỷ 19 hay 20 mới là người biết nói đến lãng mạn. Tâm hồn lãng mạn là một tâm hồn biết yêu thương và chia sẻ những khổ đau, hạnh phúc với người tình, người yêu trong những hoàn cảnh khó khăn, nghiệt ngã. Đó là một tâm thức huyền nhiệm, biết hướng lòng mình vào nội tâm, mà không còn ở ngoại giới, biết dấu kín những đau thương của mình vào trong lòng của một tâm hồn sâu sắc.

Dù tác phẩm của Đặng Trần Côn là một tác phẩm cổ điển nhưng tâm hồn của người chinh phụ chất đầy những tình cảm của một con người lãng mạn hôm nay. Xét trong văn học Việt Nam chúng ta, trước đây không hề nói đến thi ca lãng mạn nhưng ở đây, tâm hồn của người phụ nữ trong tác phẩm Chinh Phụ Ngâm là một tâm hồn lãng mạn, đã nếm đủ mọi chua cay của cuộc đời, trong lãnh vực tình yêu:

Nếm chua cay, tấm lòng mới tỏ,

Phụ Bản I

Với một tâm hồn đa cảm, người chinh phụ lúc nào cũng tưởng nhớ, yêu thương người chồng khi xa cách và luôn biết dồn nén những đau thương của mình vào nội tâm, dù đang gặp phải những hoàn cảnh khó khăn. Chính sự đau thương đó đã giới hạn cuộc đời nàng vào một không gian nhỏ hẹp mà nàng đành phải chấp nhận số phận qua những tiếng thương đau. Trong tâm thức lãng mạn, tình cảm cá nhân được đề cao, nhất là những tình cảm đau thương khi xa cách, ly biệt. Càng xa cách càng nhớ nhung, càng nhớ nhung càng đau khổ, càng đau khổ càng yêu thương. Đó là một quá trình gần như khép kín trong một tâm hồn lãng mạn. Người chinh phụ luôn hướng về nội tâm để tự an ủi mình và chỉ có những người thật sự yêu thương mới cảm nhận được điều đó. Nói đúng hơn, chì có hai người đang yêu nhau mới thật sự hiểu hết những hạnh phúc và đau khổ trong tình yêu. Có thể nói người chinh phụ đã sống trọn vẹn trong tình cảm khổ đau của số kiếp đau thương tức thực sự đã sống trong một tâm thức lãng mạn và thật sự hiện hữu giữa cuộc đời.

Trong Chinh Phụ Ngâm, chúng ta nhận thấy tác giả Đặng Trần Côn đã dùng một hình thức diễn đạt mới, không còn theo khuôn phép cũ như trước đây nữa. Nó gần như thể thơ mới ngày nay. Có những câu dài ngắn khác nhau với một nội dung rất sâu sắc, biết đi sâu vào tâm hồn của nhân vật trong một tâm thức lãng mạn. Phải đợi đến thế kỷ thứ 19, người Tây phương mới nói đến thi ca lãng mạn với những nhà thơ lỗi lạc như Lamartine, Rimbaud, Verlaine… Trong khi đó, vào thế kỷ thứ 18, Đặng Trần Côn đã thể hiện được tâm thức lãng mạn, xuyên qua nhân vật người chinh phụ trong tác phẩm Chinh Phụ Ngâm của mình, không thua kém gì những tác phẩm của Victor Hugo.

Từ ngày chàng “Giã nhà đeo bức chiến bào/ Thét roi cầu Vị ào ào gió thu”, nàng đã có cái nhìn khác biệt về cuộc đời, về hạnh phúc lứa đôi, dù nàng chưa thật sự trở thành thiếu phụ. Ánh sáng cuộc đời không đủ thắp sáng đêm trường mênh mông, vắng lặng của đời nàng. Dường như hoàn cảnh bên ngoài đưa đẩy nàng mỗi lúc một xa cách với chàng nhưng tình yêu của nàng vẫn còn đọng lại tâm tư của nàng. Hình ảnh của chàng vẫn còn khắc sâu trong tâm hồn nàng. Và, nàng chỉ còn biết nhìn ngẩn ngơ khi chàng đã đi vào nơi gió cát:

Thiếp nhìn rặng núi, ngẩn ngơ nỗi nhà.

Và tự hỏi:

Liễu dương biết thiếp đoạn trường này chăng?

Không gian đã bị thu hẹp và giới hạn cái nhìn về cuộc đời nàng, nếu không muốn nói là đời nàng đã bị một bóng đen bao phủ. Mọi ngả đường đã thật sự bế tắc khi nghĩ đến tương lai của nàng. Giờ đây, nàng chỉ còn biết tìm về với quá khứ để an ủi qua những hình bóng xa xưa của một thời:

Thoa cung Hán thuở ngày xuất giá.
Gương lầu Tần dấu đã soi chung

Càng tưởng nhớ đến đến chàng, nàng càng lo sợ cho chàng. Không biết lúc này chàng sống như thế nào? Đành rằng nàng tự biết thân phận người chiến binh trong thời chiến là mong manh. Lúc nào tính mệnh của người chiến sĩ cũng như màu cỏ cây:

Những người chinh chiến bấy lâu,
Nhẹ xem tính mệnh như màu cỏ cây.

Dĩ nhiên, nàng cũng không thể biết được ngày về của chàng. Vương Hàn, một nhà thơ đời Đường, đã từng viết:

Túy ngọa sa trường quân mạc tiếu
Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi.
(Lương Châu Từ - Vương Hàn)

(Nếu bạn có thấy người chiến binh nằm say sưa, xin đừng cười
Vì từ xưa đến nay, trong thời chinh chiến, có mấy người đi được trở về)

Thân phận người chiến binh là thế, không biết được ngày về và sống được bao lâu:

Trải chốn nghèo, tuổi được bao nhiêu?

Nghĩ đến cái sống, cái chết của chàng, nàng cảm thấy tương lai của nàng càng trở nên bấp bênh, không còn hy vọng gì để gặp lại người yêu, người chồng. Chỉ mong sao chàng còn ngoảnh lại để tưởng nhớ đến nàng:

Chốn Hàm Dương chàng còn ngoảnh lại,
Bến Tiêu Tương thiếp hãy trông sang!

Người ngoảnh lại, kẻ trông sang nhưng có thể nào gặp lại nhau không? Hay sẽ xa cách biền biệt. Càng ngoảnh lại, càng trông sang lại càng chẳng thấy, chỉ thấy một màu dâu xanh:

Ngàn dâu xanh ngắt một màu,
Lòng chàng, ý thiếp ai sầu hơn ai?

Đó mãi mãi là tâm sự của chàng và nàng khi xa cách. Thật sự, chàng và nàng đều nghĩ về nhau chứ không riêng nàng nhớ đến chàng mà thôi.

II. GIẤC MỘNG CỦA NGƯỜI CHINH PHỤ.

Xuất phát từ một tâm hồn lãng mạn, người chinh phụ lúc nào cũng mơ tưởng đến người yêu ở biên cương xa xôi. Bao nhiêu xuân qua, đông lại đều không làm cho nàng quên được chàng:

Nhớ chàng trải mấy sương sao
Xuân từng đổi mới, đông nào còn dư.

Cho nên, lúc nào nàng cũng mong ước được gần gũi bên chàng, được sống chung cùng chàng để thỏa lòng nhớ mong nhưng điều đó khó thực hiện lúc này nên nàng chỉ biết mong mỏi gặp chàng trong mộng:

Duy còn hồn mộng được gần,
Đêm đêm thường đến Giang Tân tìm người.

Đôi lúc nàng cảm thấy mình còn thua cả giấc mộng:

Giận thiếp thân lại không bằng mộng,
Được gần chàng bến Lũng, thành Quan.

Chỉ trong mộng nàng mới có thể gặp chàng, mới cảm nhận được sự hiện hữu của chàng, dù chàng ở vùng cát trắng hay rêu xanh. Thực tế đã quá phũ phàng với nàng vì nàng không còn nghĩ đến việc sống chung mà chỉ mong gặp chàng trong mộng để quên đi nỗi nhớ nhung, để hồn nàng có thể tiếp cận với chàng, dù chỉ trong vài giờ vài phút để tìm lại những ngày sống hạnh phúc cùng chàng của thời thanh xuân:

Chẳng qua trên gối một giờ mộng xuân

Phải, chỉ còn trong giấc mộng, nàng mới có thể gặp chàng. Như thế còn hơn là không bao giờ được gặp chàng, nói chi đến chuyện sống chung. Điều đó chứng tỏ nàng vẫn còn yêu chàng tha thiết, vẫn muốn theo chàng dù chàng ở bất cứ đâu. Chỉ mong được như cá nước sum vầy. Đối với nàng lúc này, mộng và thực không còn xa cách. Mộng là thực, thực là mộng. Làm sao có cái thực như nàng đang mong ước! Đời còn có nghĩa gì nếu không có tình yêu. Và, theo tác giả, trần gian này sẽ là cõi chết không hơn không kém. Thà chết còn hơn sống trên trần gian này mà chẳng có tình yêu. Chính vì thế, Roméo và Juliette đã chết để được yêu thương, được gần mãi bên nhau.

Cho nên, nàng lúc nào cũng mơ về một không gian trong đó chàng và nàng được sống gần gũi bên nhau, với một tình yêu chân thật, đắm đuối say mê. Tiếc thay, ngay cả trong giấc mộng, nàng vẫn không tìm thấy được chàng dù chàng chỉ còn là chiếc bóng. Đó thật sự là nỗi chua cay, xót xa vô cùng tận. Lúc này, tình yêu đã thật đổ vỡ, tiêu tan:

Khi mơ những tiếc khi tàn,
Tình trong giấc mộng, muôn vàn cũng không

Tất cả chỉ còn là khoảng trống vắng, vô vọng. càng mơ ước, càng khát vọng để từ đó dẫn đến một sự chán chường, thất vọng, chua cay sớm chiều:

Cớ sao cách trở nước non?
Khiến người thôi sớm, thôi hôm những sầu.

Chính trong khát vọng đó, chúng ta thấy nàng vẫn yêu thương và chung thủy với chàng trong những ngày xa cách. Đó là điều khiến chúng ta phải khâm phục và kính yêu người chinh phụ. Thử so sánh tình yêu của người chinh phụ trong Chinh Phụ Ngâm của Đặng Trần Côn với Thúy Kiều của Nguyễn Du:

- Một bên, Tình yêu à Xa cách à lòng chung thủy (Chinh Phụ Ngâm)
- Một bên, Tình yêu à Xa cách à phụ bạc (Thúy Kiều)

Chính nàng Kiều cũng đã tự thấy hổ thẹn với chính mình và than thở:

Ôi Kim lang! Hỡi Kim lang!
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!

Đó là điều hiển nhiên và rõ ràng, dù Thúy Kiều có viện dẫn bất cứ lý do nào nàng vẫn được xem là người đã phụ bạc chàng Kim. Trái lại, trong Chinh Phụ Ngâm, lúc nào người chinh phụ cũng tưởng nhớ đến người chồng ở xa xôi, giữ một lòng chung thủy với chàng. Chỉ sợ chàng có thay lòng đổi dạ không? Có còn tưởng nhớ đến nàng như trước không?

Lòng chàng biết có như lòng thiếp chăng?

Đó là sự khác biệt giữa hai tác phẩm của Đặng Trần Côn và Nguyễn Du và càng làm nổi bật giá trị tình yêu trong Chinh Phụ Ngâm. Ở đây, nàng chỉ còn biết gánh chịu những nỗi dau thương. Không riêng gì nàng, chàng cũng vẫn nhớ thương nàng:

Sầu lên ngọn ải, oán ra cửa phòng

Con người sinh ra ở đời, ai cũng muốn sống trong hạnh phúc lứa đôi, gia đình. Từ khi xuất hiện sự chia ly, nàng càng cảm thấy xót xa khi sự đau thương và cái chết của chàng đã đến gần, dù nàng vẫn biết không ai có thể thoát được. Sớm muộn ai cũng phải chết nhưng nàng đang ở tuổi thanh xuân. Tại sao cái chết đến quá sớm với chàng? Đó là điều mà nàng không thể vượt qua và nàng cũng không thể giúp chàng vượt qua được. Cho nên, nàng không muốn chấp nhận cái chết một cách dễ dàng lúc này. Chính hoàn cảnh đất nước đã tạo dựng những người chinh phụ. Họ phải nhận lãnh những nỗi buồn xa cách, nhớ mong và thương đau. Tình cảm của người chinh phụ dường như bị lãng quên. Những tiếng kêu than không còn được lắng nghe đã khiến cho tâm trạng của người chinh phụ càng trở nên bi đát. Cái nhìn của người chinh phụ chỉ còn là cái nhìn vào khoảng vắng đêm trường lạnh giá. Hình ảnh cái chết đang ám ảnh nàng, đang muốn cướp đi lẽ sống của nàng ở đời này. Nàng dường như bất lực trước mọi hoàn cảnh, trước mọi đổi thay của cuộc đời. Lúc nào nàng cũng mơ ước gặp lại chàng nhưng Nào ngờ mọi sự đã thật sự biến đổi ngay cả trong giấc mộng:

Nào ngờ đôi ngả nước mây cách vời.

Chính những cái bất ngờ đã làm đổi thay, đảo ngược mọi dự ước của nàng và dẫn nàng vào một mê lộ giữa cuộc đời. Nói cách khác, nàng đã sống trong sự cô đơn đang vây phủ tâm hồn nàng. Đời nàng đã thật sự đóng khung và bị giới hạn.

(xin xem tiếp số sau)

Từ giỗ Đức Thánh Trần và kỷ niệm khởi nghĩa Lam Sơn
Thử nhìn lại cuộc kháng chiến
chống ngọai xâm
của dân tộc Việt Nam

Sáng ngày 19/9/2008, đền Đức Thánh Trần ở số 36 đường Võ Thị Sáu thuộc phường Tân Định Q.1 đã diễn ra lễ giỗ lần thứ 708 của vị anh hùng kiệt xuất Trần Hưng Đạo Vương dưới triều nhà Trần (tên thật là Trần Quốc Tuấn sinh ngày 10/12 âm lịch 1228 và mất ngày 20/8 Canh Tý 1300).

Trong khi đó, tại làng Lam Sơn, huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa đang diễn ra lễ hội kỷ niệm 590 năm cuộc khởi nghĩa Lam Sơn của anh hùng nông dân Lê Lợi (1418-2008) kháng chiến chống quân Minh xâm lược sau 10 năm đã giải phóng đất nước khỏi ách đô hộ của nhà Minh (Trung Quốc).

Quân Mông Cổ sau khi làm chủ khắp dãi đất rộng lớn từ Á sang Âu thông qua Trung Đông và chiếm cả đất nước Trung Quốc dưới đời nhà Tống (tiêu diệt các triều đại Bắc và Nam Tống, Tây Hạ, Kim, Đại Lý) thành lập triều đại Nguyên thống nhất (1234), vua Nguyên Thế Tổ là Hốt Tất Liệt (Koubilai) kế vị Thành Cát Tư Hãn – Gengis Khan, A Loa Đài – Agotai, Quý Do – Gouyouk và Mông Kha - Mongké liền cử đại quân sang đánh nước ta lúc ấy ở đầu đời nhà Trần của vua Trần Thái Tông (vừa chuyển tiếp triều đại của nhà Lý) sau khi nhà vua không chịu đầu hàng và bắt giam sứ giả. Cuộc xâm lược của quân Mông – Nguyên có cả thảy ba lần trong vòng 30 năm (1257-1287). Cả ba lần thế giặc đều mạnh nên lúc đầu đã đánh chiếm được nhiều nơi, trong đó có cả kinh đô Thăng Long (nay là thủ đô Hà Nội). Nhưng sau đó, tướng Trần Quốc Tuấn tức Hưng Đạo Vương biết tạo được sự đoàn kết trong nhân dân và triều đình, huy động nhiều tướng tài và lực lượng dân quân các nơi hiệp lực chống trả quyết liệt. Với tài thao lược, ông đã vận động, giáo dục binh sĩ bằng “Hịch tướng sĩ” và “Binh thư yếu lược”, còn nhà vua thì mở hội nghị Bình Than và hội nghị Diên Hồng để hỏi ý kiến các bô lão, nên đã đánh thắng hàng vạn quân Nguyên – Mông, giết và bắt được các tướng giặc như Toa Đô, Ô Mã Nhi và thắng các trận nổi tiếng như Vạn Kiếp, Chương Dương, Bạch Đằng giang… Chiến thắng Nguyên – Mông đã bẻ gãy ý chí xâm lược của triều đình phong kiến phương Bắc gần hai thế kỷ.

Cho tới năm 1408, đời vua thứ hai là Thành Tổ nhà Minh (tức Chu Đệ là con của Chu Nguyên Chương, dân tộc Hán đã thay nhà Nguyên - dân tộc Mông Cổ - từ năm 1368) đã áp dụng chính sách “viễn giao, cận công” nên đã thừa lúc triều đại nhà Trần bị cha con Hồ Quý Ly lật đổ đưa quân sang đánh dẹp và đặt ách đô hộ trở lại. Nhưng chỉ đến mùa xuân năm Mậu Tuất (1418) Lê Lợi phát động cuộc khởi nghĩa ở núi Lam Sơn (Lam Kinh) tự xưng là Bình Định Vương mở cuộc kháng chiến chống Minh trong 10 năm trời (1427) giải phóng đất nước giành độc lập dân tộc, có Nguyễn Trãi là một nhân tài giúp sức và chính ông đã biên sọan “Bình Ngô đại cáo” – được coi như là bản tuyên ngôn độc lập thứ hai dưới thời phong kiến. (Bản tuyên ngôn thứ nhất là bài thơ thất ngôn tứ tuyệt nổi tiếng của lão tướng Lý Thường Kiệt oanh liệt phá Tống bình Chiêm, ngẫu hứng sáng tác trên mặt trận sông Như Nguyệt đang cầm quân ngăn giặc Nam Tống, có câu “Nam quốc san hà Nam đế cư….”). Mở đầu “Bình ngô đại cáo” bằng đọan văn mang tính tuyên ngôn độc lập cao: “Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân, quân điếu phạt chỉ vì khử bạo. Như nước Việt ta từ trước, vốn xưng văn hiến đã lâu. Sơn hà cương vực đã chia, phong tục Bắc Nam cũng khác. Từ Đinh, Lê, Lý, Trần gây nền độc lập, cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên hùng cứ một phương. Dẫu cường nhược có lúc khác nhau, song hào kiệt đời nào cũng có”. Trong đó, lại có nhiều nội dung chứa đựng ý nghĩa nhân sinh quan của triều đại nhà Lê, thể hiện đường lối cuộc kháng chiến nhân dân của Bình Định Vương, như câu “Đem đại nghĩa thắng hung tàn, lấy chí nhân mà thay cường bạo.”

Trong thời kỳ Bắc thuộc kéo dài trên một ngàn năm trước đó, dân tộc Việt Nam luôn luôn có nhiều anh hùng không ngừng tổ chức nhiều cuộc chiến tranh nhân dân, khởi đầu là Hai Bà Trưng, Bà Triệu… để chống lại ách đô hộ tàn bạo của các triều đại phong kiến phương Bắc. Từ năm 179 trước Công nguyên, nước ta đã bị phong kiến phương Bắc lúc đó là Triệu Đà đem quân tiêu diệt triều đại An Dương Vương sáp nhập nước Âu Lạc vào Nam Việt. Năm 111 trước CN, vua Vũ đế nhà Hán lại đánh chiếm Nam Việt và khi ấy trực tiếp cai trị nước ta. Mãi tới năm 939 Ngô Quyền đánh thắng quân Nam Hán ở sông Bạch Đằng chấm dứt thời kỳ ngàn năm đô hộ.

Từ đó, nước ta trải qua các triều đại Đinh, Lê, Lý, Trần mới bị phương Bắc xâm chiếm trở lại nhưng không chiếm đóng lâu dài nữa (trừ mấy năm trước khởi nghĩa của Lê Lợi, Thăng Long bị chiếm đóng mấy ngày trước cuộc kháng chiến của anh hùng áo vải Tây Sơn chống quân Thanh mà đầu tháng 8 vừa qua đất Tây Sơn (tỉnh Bình Định) đã tổ chức lễ hội kỷ niệm. Đó là nhờ vào tinh thần yêu nước và sự quật khởi quyết liệt của nhân dân Việt Nam mà “Bình Ngô đại cáo” đã tuyên ngôn “Hào kiệt thời nào cũng có”.

Dưới triều nhà Nguyễn, nước ta bị thực dân Pháp xâm lược và cai trị gần một trăm năm nhưng cuối cùng, cuộc kháng chiến thành công của nhân dân ta lần này có Đảng lãnh đạo và Anh hùng dân tộc Hồ Chí Minh kiệt xuất đã giành lại độc lập nửa nước phía Bắc (trong 9 năm) và giải phóng miền Nam sau hai mươi năm bị đế quốc Mỹ chiếm đóng để rồi đất nước hoàn toàn thống nhất từ đó (30/4/1975).

Vương Liêm

CHÚNG TA BIẾT GÌ VỀ “GÃ CÙNG TỬ” ?

Đọc Kinh DIỆU PHÁP LIÊN HOA ta thấy có Phẩm TÍN GIẢI viết về các Ngài Huệ Mạng Tu Bồ Đề, Đại Mục Kiền Liên, sau khi thấy Đức Phật Thọ Ký cho Ngài XÁ LỢI PHẤT sẽ thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, biết rằng những Thanh Văn như mình rồi cũng sẽ được Thọ Ký, nên lấy làm vui mừng xin Phật cho dùng một thí dụ để chỉ rõ nghĩa đó.

Các Ngài kể: “Có một đứa bé từ thuở nhỏ đã trốn cha đi chơi qua xứ khác, mấy mươi năm sau thì tuổi đã lớn mà lại nghèo khổ, rong ruổi bốn phương để kiếm sống tình cờ lần về quê nhà.

Người cha sau nhiều năm tìm con không được nên ở tại một thành lớn trong xứ đó. Nhà ông rất giàu, của cải quý giá nhiều vô số, tôi tớ, xe cộ, voi ngựa rất nhiểu. Ông cho vay tới tận nước ngoài. Bạn buôn cũng rất đông.

Gã nghèo kia lang thang nhiều nơi, lần hồi đến ngay thành của người cha đang ở.

Người cha vẫn hằng thương nhớ con, nhưng không nói cho ai biết, chỉ tự nghĩ rằng: Mình có nhiều của cải, vàng bạc như thế mà không có con cái, nếu mai kia có chết chẳng biết giao lại cho ai. Ước gì mình được gặp lại con để giao tài sản cho nó thì mới yên lòng nhắm mắt.

Gã cùng tử đi làm thuê lần hồi tình cờ đến trước nhà của cha mình. Nép bên cửa nhìn vào, thấy có ông trưởng giả ngồi trên giường sư tử, các hàng Bà la môn, Sát Đế Lợi, cư sĩ... bao quanh. Trên mình ông đeo chuỗi ngọc đáng giá nghìn vạn, kẻ hầu đứng hai bên, màn che, trướng phủ… Thấy vậy gã sợ quá, tự nghĩ chắc người ở trong nhà là bậc vua quan, e khó lòng xin làm thuê được, thôi thì tạm đến xóm nghèo để kiếm việc, nếu cứ đứng lâu sợ người trong nhà thấy được sẽ làm khó dễ. Nghĩ xong bèn bỏ chạy. Người cha lúc đó trông thấy, biết đó là đứa con mình hằng thương nhờ, tìm kiếm, nên rất vui mừng. Nghĩ rằng từ lâu mình rất mong nhớ nó, nay bỗng dưng nó đến, nên sai người hầu đuổi theo bắt lại.

Gã cùng tử thấy có người đuổi bắt thì khiếp sợ kể lễ rằng mình không có làm tội gì sao lại bị bắt? Người đi bắt cũng cố dắt hắn về cho bằng được. Hắn sợ quá nên té xỉu, mê man... Người cha thấy vậy bèn nói với Người hầu lấy nước rưới lên cho hắn tỉnh rồi thả cho đi đâu tùy ý.

Được thả đi, gã cùng tử mừng quá vội qua xóm nghèo để tiếp tục làm thuê kiếm sống. Người cha biết vậy sai hai thủ hạ ăn mặc tầm thường, đến gặp gã, rủ cùng đi xin hốt phân để kiếm sống qua ngày.

Sau khi thỏa thuận giá cả, gã theo hai người về nhà cha để hốt phân. Người cha ở xa nhìn con thấy con ăn mặc dơ dáy, làm việc hạ tiện, muốn đến gần con nên ông cũng phải thay quần áo dơ dáy như nó. Ông bảo nó cứ ở lại làm, đừng đi, ông sẽ trả thêm lương, đồng thời nếu hắn có cần dùng gì, thậm chí có người tớ già, ông sẽ ban cho. Ông bảo rằng mình tuổi đã già, mà gã thì siêng năng làm việc, ông hứa sẽ xem hắn như con đẻ, và từ đó ông đặt tên cho hắn và gọi hắn là con.

Gã cùng tử rất vui mừng thấy mình được cư xử như vậy, và ròng rả hai muơi năm vẫn làm công việc hốt phân… Cho tới một ngày kia, ông trưởng giả biết mình sắp chết mới bảo với hắn là ông có rất nhiều vàng bạc, châu báu, sẵn sàng giao phó cho hắn.

Dù giữ châu báu, nhưng hắn cũng không hề dám động đến. Cho tới khi người cha thấy con đã trưởng thành, đã hiểu biết, nên hội cả thân tộc, vua quan, cư sĩ và tuyên bố trước mọi người rằng: “Gã này là con ta, do trước kia bỏ nhà trốn đi. Hơn năm mươi năm qua, ta vẫn tìm kiếm nó, bây giờ được gặp lại. Nó chính là con của ta. Giờ đây, ta giao hết gia tài cho nó”. Gã cùng tử nghe cha tuyên bố như thế thì rất vui mừng, nghĩ là mình vốn không hề mong cầu mà nay lại được kho báu”.

Các Ngài Thanh Văn đã dùng thí dụ này để nói về mình. Trước đây các Ngài vốn ưa thích các pháp Tiểu Thừa, dù có nghe Phật giảng Pháp Đại Thừa nhưng không quan tâm, cho là pháp mình biết đã đầy đủ. Thật ra Tiểu Thừa cũng là một phương tiện của Đạo Phật, có điều không thể đưa Người tu đến rốt ráo Giải Thoát, và theo như lời thú nhận của các Ngài thì: “Đối với Pháp Đại Thừa không có chí cầu”. Các Ngài lại “vì các Bồ Tát chỉ bày trí huệ của Phật, nhưng chính mình lại không có chí muốn nơi pháp đó” (tr. 161) Các Ngài ví các pháp hí luận - tức là những điều bàn cãi về Phật Pháp, không đưa đến việc thực hành, đế tiến bộ trên con đường Giải Thoát - như là phân dơ. Vậy mà trước kia ngày nào các Ngài cũng hốt để cầu được chút Niết Bàn! Cái Niết Bàn đó không bền, giá trị chỉ tính được từng ngày mà thôi!

Nói đến Tiểu Thừa là nói đến những Người chỉ biết giữ những Giới cấm cho kiên cố và rập khuôn theo hình tướng của Phật ngày trước để mong “được độ”, không biết rằng mình là con của trưởng giả, đáng lý phải vào nhà để nhận gia tài! Cũng thế. Lẽ ra, là Phật Tử thì phải được như Phật. Nhưng các Ngài Thanh Văn từ xưa chỉ biết nương tựa, cầu xin, ví như đứa con của vị trưởng giả rất giàu sang nhưng không dám nhận cha, chỉ lang thang làm thuê mướn kiếm ăn qua ngày! Đó là nói về sự cầu xin được độ trong từng pháp của hàng Nhị Thừa, không dám can đảm tự mình tìm lại cội nguồn của mình, để biết rằng mình cũng sẵn có một gia tài Giải Thoát như Phật không khác!

“Đứa con trốn cha, rong ruổi bốn phương để kiếm sống là để nói về việc chạy theo cái thân Tứ Đại, tìm mọi cách để cung phụng, để thỏa mãn những nhu cầu của nó”. “Người cha trưởng giả” là cái ‘PHẬT TÁNH”, cái mà mỗi Người đều sẵn có, chỉ cần trừ đi Tham Sân Si là sẽ gặp. “Có rất nhiều tài sản, của báu, là nói về sự an lạc, tự tại, Niết Bàn sẵn có nơi Tâm của mỗi Người. “Vào nhà cha hai mươi năm mà vẫn làm thuê” là nói về những người Nhị Thừa, dù đã ở trong Đạo Phật, nhưng thay vì Tự Độ thì lại cứ cầu xin! “Ông trưởng giả đặt tên cho gã cùng tử” là nói về khi Quy Y mỗi Người đều được đặt cho một Pháp Danh, để được chính thức gia nhập vào hàng ngũ Phật Tử. “Hai thủ hạ” mà Người cha sai đi kiếm dụ mang con về gần với mình chính là GIỚI và HẠNH. Người nào kiên trì hành theo một cách nghiêm túc, thì sớm muộn cũng gặp được Phật Tánh, tức là nhận được Người cha trưởng giả của mình. Sự “lưu lạc trong năm muơi năm” là nói về phàm phu chạy rong ruỗi theo Ngũ Uẩn. Cho tới lúc quay vào thành - tức quay vào nội tâm - thì mới gặp được Người cha vẫn ở trong thành - tức là gặp được Phật Tánh ở nơi Tâm của mình, vẫn hằng chờ đợi, trông ngóng mình. “Giữ kho báu mà không dám động đến” là nói về những Người sẵn có Tánh Giải Thoát nhưng không ngó ngàng tới!

Đạo Phật, dịch đúng nghĩa ra là “Con đường Giải Thoát”. Con đường này nói về tình trạng bị cột buộc và Giải Thoát của cái Tâm, thuộc về phần Vô Tướng, vì thế nên rất khó diễn tả. Hơn nữa, những lời Phật giảng mà những vị Đại Đệ tử kết tập lại cách đây đã hơn 2.550 năm. Thời đó chữ nghĩa chưa phong phú như thời nay, nên khi muốn diễn tả những diễn biến trong nội tâm rất là khó. Chính vì vậy mà Phật phải vận dụng cách này, cách khác, đa phần phải dùng hình ảnh bên ngoài để minh họa, cho nên rất dễ gây ra sự hiểu lầm! Muốn tả sự an lạc thì nói đến một cảnh Niết Bàn, nghĩa của Niết Bàn là: Ra khỏi rừng phiền não. Muốn nói đến một cái Tâm thanh tịnh, về những tư tưởng không còn dính mắc, ô nhiễm bởi lục dục, thất tình… thì tả một Phật Quốc, với những chúng sinh được đưa về đó trên hoa Sen. Biết con Người bản chất tham lam, không thể nào bỏ những thứ đang đeo bám nếu không tin rằng sẽ có những thứ khác còn tốt đẹp hơn vạn lần… chính vì vậy mà Phật mô tả Tây Phương Cực Lạc, hay Đông Phương Tịnh Quốc với đầy dẫy vàng, bạc, kim cương, xà cừ, trân châu, mã não… là những thứ mà Người đời ai cũng ham muốn, tìm mọi cách để sở hữu, để họ vì mong đến đó mà bớt đi những quyến luyến, đeo bám cảnh trần rồi bớt tạo ác nghiệp và theo hướng dẫn của Đạo Phật để đến được bờ Giải Thoát! Muốn nói đến sự cứu độ thì phải dùng đến những vị Bồ Tát thần thông quảng Đại, luôn “tầm thinh cứu nạn”. Về sự thành tựu công việc tự Giải Thoát là những vị Phật với những tướng tuyệt hảo, ngồi trên tòa sen báu! Chính vì vậy, những Người không chịu tư duy để tìm NGHĨA, thường vướng vào NGỮ, nên lại càng sùng bái, ngưỡng mộ, rồi dùng vàng, bạc, đồng, xi măng… để đúc hình, tạc tượng Phật, ngày mấy thời thắp hương cúng lạy, và ăn chay, tụng Kinh, Niệm Phật, sống thiện để cầu mong được về cõi Tịnh Độ của các Ngài! Biết trước tâm địa của chúng sinh luôn tham cầu, sợ e họ sẽ tiếp tục vướng vào phương tiện, nên Phật đã ân cần dặn dò Người tu phải thực hành theo TỨ Y, tức:

Y NGHĨA BẤT Y NGỮ.
Y PHÁP BẤT Y NHÂN
Y TRÍ BẤT Y THỨC.
Y KINH LIỄU NGHĨA BẤT Y KINH VỊ LIỄU NGHĨA.

Như vậy, nếu chúng ta chưa phân biệt được thế nào là NGỮ, thế nào là NGHĨA? Đâu là Nhân, đâu mới là PHÁP? Đâu là TRÍ, đâu là THỨC. Y kinh như thế nào là LIỄU NGHĨA? thì chúng ta sẽ Y vào đâu? Sẽ tu hành như thế nào? Nếu chúng ta cứ Y NGỮ thì sẽ chắc chắn sẽ rơi vào Nhị Thừa, tức là sẽ Y theo văn tự, tin rằng có những cảnh Phật ở Phương Đông, Phương Tây, có những vị Bồ Tát bay lướt mười phương để cứu độ chúng sinh rồi cứ cầu xin, chờ mong chờ được độ! Người tin và hành trì như thế, dù giữ GIỚI kiên cố, các Hạnh không khiếm khuyết, nhưng chắc chắn không bao giờ vào được Nhất Thừa, vì luôn hướng ngọai, tin vào sự cứu độ của Phật, Bồ Tát bên ngoài!

Cũng do sự hiểu lầm được nhiều lớp Người đi trước truyền lại, cho nên tới thời nay ta thấy: mọi Người vẫn tự xưng là PHẬT TỬ, tức là ‘CON CỦA PHẬT”, mà lại chỉ thích lê la ngoài ngõ, chỉ biết cầu xin, để “ăn mày cửa Phật”, không chịu quay vào Tâm mình để thấy rằng mình cũng sẵn một Phật Quốc nơi đó! Bản thân mình cũng là một vị “Phật sẽ thành”, thì không tìm cách để làm Phật, lại cứ “mang Phật ra lạy Phật” (Sáu Cửa vào Động Thiếu Thất”), ngày ngày cúng kiến, thờ lạy tượng xi măng, gỗ, chờ “Được Độ”! Rồi cả đời giữ Giới, sống thiện, không phải vì cái Tâm bình đẳng, vì đức Từ, Bi, Hỉ, Xả… mà để được về Phật Quốc của Người khác, quên mất những căn bản được chư Tổ nhắc đi nhắc lại : “Phật tại Tâm”, “Tức Tâm tức Phật”, “Tu Phật là tu Tâm”, “Muốn được Tịnh Độ phải tịnh tâm”! Thậm chí có Người cả đời buông lung, làm ác, khi chết, thân nhân lại nghĩ rằng chỉ cần mời những thầy có uy tín đến tụng Kinh cầu siêu thì Phật và Thánh Chúng sẽ rước thẳng về Tây Phương Cực Lạc! Xem ra, có lẽ những GÃ CŨNG TỬ không chỉ nói riêng về các Ngài Thinh Văn trong Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, mà chính là để nói về tất cã những kẻ tin Phật, thờ Phật kiểu nói trên… Bởi có xem Giải thích về từ THINH VĂN, ta sẽ thấy: Đó là những Người chỉ cần NGHE Phật nói là đã vội tin nhận suy gẫm để chứng lấy (DPLH tr.97) không chịu tìm hiểu ý nghĩa thật sự của lời Phật, để biết rằng tất cả đều chỉ là phương tiện, nhằm mục đích đưa con Người đạt tới cứu cánh Thoát Khổ ngay trong hiện kiếp, chẳng cần phải chờ kiếp nào khác. Cõi Phật thật sự ở nơi cái tâm của mỗi Người, chỉ cần gạn bỏ Thương, ghét, Tham Sân Si là sẽ gặp, không phải ở nơi xa xôi huyền hoặc Đông Phương, Tây Phương như nhiều Người vẫn lầm tưởng! Chưa hết, sự hiểu lầm dường như vẫn chưa dừng ở đó, bởi có xem ngay phần mở đầu, ta thấy Phật thọ ký cho các vị Thanh Văn sẽ thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, đâu có phải thành “Tối Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác”! Vậy mà hình như hiếm Người tu lâu năm lại thấy mình Không Cao đúng với nghĩa lý của Kinh! Không biết những sự hiểu lầm như thế sẽ còn tiếp tục tồn tại cho đến bao giờ đây!

Tâm-Nguyện
(tháng 4/2008)

Trở lại Lệ Chi Viên –
một tác phẩm xúc phạm danh nhân, xuyên tạc lịch sử

Đọc truyện ngắn Trở lại Lệ Chi Viên trong tập truyện Tột đỉnh tình yêu của Nguyễn Thúy Ái (Nguyễn Thúy Ái - NXB Trẻ – 6-2008 ) tôi hoàn toàn bất ngờ cách thể hiện về Nguyễn Trãi, một danh nhân văn hóa thế giới, một anh hùng dân tộc và người vợ đắc ý nhất của ông. Tôi thấy cần phê phán mạnh mẽ cách viết về Nguyễn Trãi và Nguyễn Thị Lộ của Nguyễn Thúy Ái, một người chà đạp lên lịch sử, phủ nhận công lao to lớn của danh nhân đối với dân tộc. Thật buồn cho chúng ta có một nhà văn, nhà giáo dạy văn như vậy.

Ở truyện ngắn này Nguyễn Thúy Ái đã thể hiện Nguyễn Trãi như là một kẻ tiểu nhân, một ông già háo sắc, đa dâm mà bất lực, nhỏ nhen, hèn hạ. Ông đã hạ mình xin cho vợ nhỏ là Nguyễn Thị Lộ cái chức chỉ có tên mà không có miếng: Lễ nghi học sĩ để được gần vua, hiến thân cho vua từ đó cầu cạnh xin danh cho Nguyễn Trãi. Còn Nguyễn Thị Lộ thì được tả như một gái điếm vô học, dùng cái vốn tự có để lo cho mình, gia đình mình.

Tôi đồng ý lịch sử là một kho dữ liệu qua đó các nhà văn khai thác để tạo nên tác phẩm của mình. Nhưng nhà văn không thể cho mình cái quyền bôi nhọ đến xúc phạm nhân phẩm của một vĩ nhân và xuyên tạc lịch sử dân tộc mình. Người sáng tác văn học phải là người có tâm, có tình, phải có sự hiểu biết và tôn trọng ngưỡng mộ lịch sử và danh nhân nước nhà.

Ngày 2/10 báo Sài Gòn Giải Phóng có đăng ý kiến của bà Quách Thu Nguyệt, Giám đốc nhà xuất bản Trẻ với tựa đề “Một góc nhìn khác về lịch sử” tôi lại càng buồn hơn và bất ngờ hơn về nhận thức của bà Nguyệt. Bà cho rằng đó là cách nhìn “đời thường hơn, thực tế hơn”. Ôi! đau đớn thay cho một hành động xúc phạm tới danh nhân và xuyên tạc lịch sử lại được một vị giám đốc nhà xuất bản có danh tiếng bênh vực vì cho đó là cách nhìn “đời thường hơn, thực tế hơn”.

Chắc Bà Thu Nguyệt và bà Nguyễn Thúy Ái chưa biết nhà văn Pháp Yveline Feray đã viết Vạn Xuân, một tác phẩm văn học dày hơn 1200 trang ca ngợi cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Trãi và Nguyễn Thị Lộ. Bà đã viết: “Sự cao thượng vĩ đại của Nguyễn Trãi là luôn biết lựa chọn và phục vụ đức hạnh chống lại sự lạm dụng quyền bính, dầu là quyền bính của Hoàng đế”. Bà cũng ca ngợi Nguyễn Trãi “...vừa là một thi hào, một nhà văn cừ khôi, vừa là một chiến lược gia có tầm mắt viễn thấu, một nhà ngoại giao tài tình, một nhạc sĩ lịch lãm, một nhà điạ lý thông thái và là một nhà sư phạm tuyệt vời”. Đấy một nhà văn nước ngoài chỉ được biết đến Nguyễn Trãi trong dịp lễ kỷ niệm 600 năm ngày sinh của ông do UNESCO tổ chức, bà đã cảm nhận được sự vĩ đại của Nguyễn Trãi, từ đó bà đã thu thập, nghiên cứu tài liệu và gặp nhiều nhà sử học, nhà nghiên cứu, chuyên viên văn hóa, thậm trí nhiều vị lãnh đạo cao cấp của nước ta như cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng, Đại tướng Võ Nguyên Giáp để tham khảo và tư vấn cho tác phẩm của bà. Vâng! chúng tôi cảm ơn bà Yveline Feray đã trân trọng tôn vinh danh nhân nước tôi. Vậy mà hơn 600 năm sau ngày Nguyễn Trãi mất lại có “con cháu” của ông bôi nhọ ông và được cho rằng đấy là “dưới một cái nhìn khác, đời thường hơn, thực tế hơn”.

Qua đây tôi muốn chuyển đến Nguyễn Thúy Ái và bà Thu Nguyệt một thông điệp: Chúng ta có được ngày hôm nay là có công sức rất lớn của các bậc Tiền Nhân mà đặc biệt là các bậc vĩ nhân, các anh hùng dân tộc, ta hãy trân trọng công lao của các bậc ấy như trân trọng ơn nghĩa sinh thành của cha mẹ mình.

Phạm Thế Cường

Cuộc đối đầu giữa Phạm Ðình Trọng
và Hạng Võ Nguyễn Hữu Cầu

Nguyễn Hữu Cầu

Nguyễn Hữu Cầu ( ?– 1751 ) là người xã Lôi Động, huyện Thanh Hà , Hải Dương , Việt Nam . Lúc bấy giờ là khoảng triều đại vua Lê Hiển Tông (1740- 1786). Ông là thủ lĩnh một cuộc khởi nghĩa nông dân Đàng Ngoài vào giữa thế kỷ 18 thường được mọi người ca ngợi là Hạng Võ nước Nam. Nguyễn Hữu Cầu xuất thân trong gia đình nông dân nghèo, nhưng lại có tài cả văn lẫn võ . Ông bơi lội rất giỏi nên được gọi là quận He, từ tên một loài cá ở biển Đông.

Hữu Cầu vì nhà nghèo nên đi làm cướp, sau theo Nguyễn Cừ khởi nghĩa, được Cừ yêu quý gả con gái cho. Chẳng bao lâu ông nổi tiếng là một viên tướng giỏi võ nghệ, dũng cảm gan dạ và nhiều mưu lược làm cho triều đình ở Thăng Long kinh hoàng, lo lắng .

Vì ngày thường cướp được thóc gạo của thuyền buôn, đem cho dân nghèo, cho nên quận He đi đến đâu cũng có người theo, muốn lấy bao nhiêu quân lương cũng có. Nguyễn Hữu Cầu được các sử gia đánh giá là người kiệt hiệt, nhiều mưu mẹo nhất trong số các thủ lĩnh khởi nghĩa lúc đó. Có khi bị vây hàng mấy vòng, ông chỉ một mình một ngựa phá vây ra, rồi chỉ trong mấy ngày lại có hàng vạn người đi theo.

Các tướng Trịnh ai cũng sợ quận He, duy chỉ có Phạm Đình Trọng là bạn học thuở nhỏ là người hiểu quận He. Hai người đố kỵ nhau từ trước, sau đó lại đối địch, Hữu Cầu đào mồ mẹ Trọng đổ xuống sông. Từ đó Phạm Đình Trọng thề không cùng sống ở đời với Nguyễn Hữu Cầu.

Năm 1746, quận He cho người đem vàng về đút lót cho Đỗ Thế Giai và người nội giám là Nguyễn Phương Đĩnh để xin hàng, Trịnh Doanh thuận cho và lại phong cho làm Hướng Nghĩa Hầu.

Nguyễn Hữu Cầu tuy đã xin về hàng, nhưng vẫn cứ cướp phá các nơi, sau lại về phá ở đất Sơn Nam. Phạm Đình Trọng đánh đuổi Hữu Cầu ở Cẩm Giàng, Hữu Cầu nhân lúc kinh thành không ai phòng bị, nên lẻn về đánh, ngay đêm hôm ấy kéo quân về bến Bồ Đề. Đến nơi thì trời vừa sáng; có tin báo, Trịnh Doanh tự đem quân ra giữ ở bến Nam Tân. Phạm Đình Trọng biết tin ấy lập tức đem quân về đánh mặt sau, Hữu Cầu lại thua bỏ chạy, về cùng với Hoàng Công Chất cướp ở huyện Thần Khê và Thanh Quan. Phạm Đình Trọng và Hoàng Ngũ Phúc lại đem binh xuống đánh đuổi. Hoàng Công Chất chạy vào Thanh Hóa, Hữu Cầu chạy vào Nghệ An, hợp với thủ lĩnh khởi nghĩa tên là Diên ở Hương Lãm (thuộc huyện Nam Đường).

Năm 1751, Phạm Đình Trọng đem quân vào đánh phá trại. Hữu Cầu chạy đến làng Hoàng Mai thì bị bắt, đóng cũi đem về nộp chúa Trịnh. Trịnh Doanh , cùng lúc đó dẹp được Nguyễn Danh Phương, bắt mang về Kinh đô, đi đến làng Xuân H y , huyện Kim Anh, gặp người của Phạm Đình Trọng giải Nguyễn Hữu Cầu đến. Trịnh Doanh bèn mở tiệc khao quân, bắt Danh Phương dâng rượu, Hữu Cầu thổi kèn.

Hữu Cầu nuốt nhục hầu chúa, khi về kinh thành định vượt ngục nhưng không thành. Tháng 3 năm 1751, ông bị hành hình. Phạm Đình Trọng mang quân về quê ông, quật mộ bố Nguyễn Hữu Cầu, giết 3 họ gia quyến ông.

Tiểu sử Phạm Đình Trọng

Phạm Đình Trọng (1714 - 1754), là danh tướng đời Lê - Trịnh. Quê: Khinh Dao, huyện Giáp Sơn, phủ Kinh Môn, trấn Hải Dương (nay là huyện Kinh Môn, tỉnh Hải Dương). Đỗ Tiến sĩ 1739, làm phó đô ngự sử, vào Phủ chúa làm Bồi tụng, sau chuyển làm Thống lĩnh quân, đánh dẹp cuộc khởi nghĩa Nguyễn Hữu Cầu ở Hải Dương, Kinh Bắc và Nghệ An. Đầu 1751, bắt được Nguyễn Hữu Cầu đưa ra Thăng Long, được thăng làm thượng thư Bộ Binh, tước Hải quận công. Sau làm trấn thủ Nghệ An. Ông mất tại trấn sở. Triều đình truy tặng tước Đại vương.

Thuở hàn vi

Tương truyền thuở nhỏ Nguyễn Hữu Cầu và Phạm Đình Trọng cùng học một thầy. Trọng hay được thầy khen nhưng Cầu không phục. Một hôm đi đám ma về, thầy cho cả hai người đi theo. Nhà đám biếu thủ lợn, Cầu và Trọng tỵ nhau không ai chịu xách. Thầy bèn ra vế đối, bảo ai đối được thì không phải xách:

Huề trư thủ (xách đầu lợn)

Trọng đối lại:

Phan long lân (Vịn vây rồng)

Còn Cầu đối:

Diệt Tần phá Sở

Phụ Bản II

Thầy gõ quạt lên đầu Cầu, nói câu đối không chuẩn, thừa chữ và bắt xách thủ lợn. Nhưng Cầu vẫn gân cổ cãi:

“ Tôi đối sai thật, nhưng ý tôi là muốn bóc vẩy rồng kia, chứ không thèm vịn vây rồng như Trọng! ”

Một lần khác thày lại ra vế đối:

Mười rằm trăng náu, mười sáu trăng treo

Trọng đối:

Tháng giêng rét đài, tháng hai rét lộc

Cầu lại đối rằng:

Tháng mười sấm rạp, tháng chạp sấm động

Thầy nghe xong bảo:

“ Thằng Trọng có khẩu khí làm quan to, còn thằng Cầu thì chỉ làm giặc! ”

Rồi từ đó ông đồ sợ không dám nhận dạy Cầu nữa. Sau này quả nhiên Trọng làm quan cho nhà Lê còn Cầu khởi nghĩa chống triều đình.

Ngoài chiến trận

Tương truyền có lần hai bên đối trận, Phạm Đình Trọng ra vế đối sai người đưa cho Cầu như sau:

Thổ triệt bán hoành, thuận giả thượng, nghịch giả hạ

Nghĩa là: chữ “thổ” bỏ nửa một nét ngang, để xuôi là chữ “thượng”, để ngược là chữ “hạ”. Câu này có ý đe doạ Cầu nếu thuận theo triều đình thì có chức, chống lại thì bị diệt.

Hữu Cầu viết thư đối lại rằng:

Ngọc tàng nhất điểm, xuất vi chúa, nhập vi vương

Nghĩa là: bộ “ngọc” có một dấu chấm, để lên đầu là chữ “chúa”, bỏ đi là chữ “vương”. Ý nói chí lớn của mình chẳng làm chúa cũng làm vua chứ không chịu hàng.

“Chim trong lồng”

“Chim trong lồng” là bài thơ nổi tiếng trước khi bị đem hành hình của Nguyễn Hữu Cầu còn lưu truyền đến ngày nay. Bài thơ làm cả tiếng Hán cả tiếng Nôm, có những từ cổ mà có lẽ tiếng Việt thời đó quen dùng.

Khi Cầu bị bắt, Trọng lại gần xem Cầu có kêu cầu gì không, nhưng Cầu thản nhiên ngồi hát xướng rất ngang tàng. Trọng hỏi:

“ Anh bây giờ như con chim trong lồng, còn gì mà hát? Nghe nói anh có tài thơ, trong trường hợp nào cũng làm được, vậy anh thử làm bài thơ “Chim trong lồng” xem sao? ”

Cầu không cần đợi giục hai lần, liền ngâm:

Nhất lung thiên địa tàng thân tiểu
Vạn lý phong van cử mục tần
Hỏi sao sao luỵ cơ trần
Bận tài bay nhảy, xót thân tang bồng
Nào khi vỗ cánh rỉa lông
Hót câu thiên túng trong vòng lao lung
Chim oanh nọ vẫy vùng giậu bắc
Đàn loan kia túc tắc cành nam
Mặc bay đông ngữ tây đàm
Chờ khi phong tiện dứt dàm vân lung
Bay thẳng cánh muôn trùng tiêu Hán
Phá vòng vây làm bạn kim ô
Giang sơn khách diệc tri hồ?

Theo Việt Nam sử lược , khi Cầu bị bắt mang nộp chúa Trịnh cùng lúc với Nguyễn Danh Phương, chúa sai bày tiệc, bắt Phương rót rượu và Cầu thổi kèn hầu tiệc. Không rõ có phải đó chính là lúc Cầu ngâm bài thơ này hay không.

Nguyễn Hữu Cầu và Phạm Đình Trọng một đời đối địch. Những người tin vào tâm linh có thể coi hai người như có nợ từ kiếp trước, chẳng những đối địch từ khi đi học đến khi cầm quân, khi ra mặt trận không chỉ đối gươm mà đối cả chữ. Hai người chí hướng khác hẳn nhau, người ra làm quan, người đi làm giặc. Cầu đào mộ mẹ Trọng thì đúng là hành động quân cường khấu, nhưng Trọng là đại quan triều đình cũng trả thù quật lại mộ cha Cầu thì cũng không khá hơn giặc cướp. Dẹp được Cầu, Trọng được phong làm Binh Bộ thượng thư . Nhưng cũng chỉ 3 năm sau (1754), Trọng chết lúc mới 40 tuổi. Có Cầu thì có Trọng đối địch, Cầu không còn thì Trọng cũng ra đi, như truyện dân gian "Trạng chết thì chúa băng hà".

Đền thờ

Ngày nay có nhiều nơi thờ Nguyễn Hữu Cầu. Tại thôn Cựu Điện, xã Nhân Hò a , huyện Vĩnh Bảo ( Hải Phòng ) có đền thờ Nguyễn Hữu Cầu rất lớn. Tại Đồ Sơn , ông được thờ ở miếu Ngọc Xuyên, trong 6 vị tiên công và 2 vị thần có Nguyễn Hữu Cầu (gọi là “ bát bộ tôn thần ” ). Cũng tại Đồ Sơn có “ đài lên ngôi ” của quận He.

Tại thôn Kinh Giao (An Hưng, An Nại, Hải Phòng ) quê của Phạm Đình Trọng, bên cạnh đền thờ Đình Trọng có cả đền thờ Nguyễn Hữu Cầu.

Trên đường Yên Tử, gần Suối Tăm, có miếu nhỏ thờ Nguyễn Thị Quán (được tôn là Nguyệt Nga công chúa) là em gái quận He - người cũng tham gia khởi nghĩa, vợ của bộ tướng Giang Tâm. Tương truyền bà tự vẫn ở bến Đầu Cầu.

Giữa cánh đồng xã Lôi Động, gần sông Ngựa Lồng (Thanh Hà, Hải Dương), có đền thờ nơi phát tích của quận He, có bia ghi: Tiên triều Ninh Đông vương phát tích mộ .

Tại làng Trà Cổ, thị xã Móng Cái ( Quảng Ninh ) có đình Trà Cổ thờ các vị tổ (Thành Hoàng làng), đồng thời là nơi thờ Quận He.

Ghi chú thêm : Có tài liệu viết Phạm Đình Trọng và Nguyễn Hữu Cầu là đôi bạn thân từ thưở nhỏ và thường dùng cờ tướng đem ra thí ứng. Sở trường Nguyễn Hữu Cầu là dùng cặp Mã với một chiến pháp vô lường và thường nói với bạn rằng “Con mã chạy được khắp nơi, sức phi ngàn dặm, phá được chiến trường. Sau khi nhập cung cặp cổ được con Tướng mà nên việc lớn. Sau này lớn lên, với con ngựa Ô Long, tôi đột nhập Hoàng Thành thì cái ngai vàng của vua, cái ngôi của chúa khó gì không nắm được!”. Phạm Đình Trọng lại có sở trường ở cặp Pháo, thường trị được cặp Mã song toàn của bạn nhưng cũng lắm khi thất bại. Đình Trọng thường nói với bạn rằng: “Con Mã của anh lợi hại nhưng nước dài và lanh lợi đâu bằng cặp Pháo. Nếu sau này con ngựa Ô Long của anh làm mưa làm gió thì Pháo tôi cũng rượt mã đến cùng, đâu để anh lọt vào Hoàng Thành mà ngồi lên ngai được!”. Quả nhiên về sau Hữu Cầu thi đỗ làm giặc xưng là Đông Hải Quận Vương. Phạm Đình Trọng thi đỗ Tấn sĩ làm tướng đi dẹp Hữu Cầu. Cuối cùng Trọng tóm được Hữu Cầu giải về kinh đô trị tội.

Duong Leh (tổng hợp từ Internet)

BẢN ĐÍNH CHÍNH MỘT SỐ LỖI TRONG BẢN TIN SỐ 28

Số thứ tự

Trang

Dòng

In sai

Xin đọc là

1

40

9

(trên xuống)

… nhạc buốt

… nhạc biếc

2

56

11

(trên xuống)

“Should you see my hope so long cherished will get to nothing?”

“Should your generosity keep on strictly holding?

3

56

12

(trên xuống)

Listening in silence to these earnest luling words

“Don’t you see my hope so long cherished will get to nothing?

PHÒNG CHỐNG GIẶC GIÀ

Nhân Ngày Quốc tế Người Cao Tuổi 01-10-2008

Thanh niên phòng chống nạn Sida
Phụ lão lo toan đuổi “giặc già”
Tim mạch, dạ dày, đừng giỡn tớ!
Đại tràng, phong thấp, chớ đùa ta!
Đường thi, lục bát rèn tâm tuệ
Thể dục, dưỡng sinh triệt bệnh tà
Tám chín mươi Xuân còn trẻ mãi
Hàng hòm, tiệm thuốc ế rên la!
Hàng hòm, tiệm thuốc ế rên la!
Thưa kiện đưa đơn đến nhị tòa
Phá luật thiên nhiên trời có thứ?
Chối phần nghĩa địa đất không tha?
Đình trên Ngọc Đế liền cười ngất
Ngục dưới Diêm Vương cũng giảng hòa
Rằng “Cháu ông Bành (1) nay quý hiếm
Truyền cho : kính lão đắc nên già!”

Thùy Dương

(1) Ông Bành Tổ, nhân vật huyền thoại sống 800 tuổi.

VIÊN NGỌC LONG LANH

Tưởng nhớ Nguyễn Hồng Ngọc

Giữa đám cháy hãi hùng đầy khủng khiếp
Khách sạn Marriott…
Trong biển lửa kinh hoàng
Vụ đánh bom đau đớn phủ màu tang
Một viên ngọc long lanh bừng tỏa sáng.
Cô gái Việt đã hy sinh tính mạng
Lao thẳng vào lửa đỏ cứu bao người
Đã thản nhiên lìa bỏ tuổi xuân tươi
Thật dũng cảm bao dung đầy ý nghĩa
Một hành động thanh cao và thấm thía
Rất kiên cường nhân hậu thắp niềm tin
Đang lung lay đổ vỡ
Sống quên mình
Cô gái trẻ - Tương lai đầy hứa hẹn
Một cái chết chẳng ai không biết đến
Một cái tên ghi đậm nét thương yêu.
Đáng tự hào trân trọng biết bao nhiêu
Niềm xúc động dâng cao toàn thế giới.
Viên Hồng Ngọc
giữa cuộc đời tăm tối
Đã xóa tan bụi bặm – Cảnh âm u
Trái tim xanh nhân hậu
giữa thiên thu
Đã vĩnh viễn âm thầm
ghi ấn tượng
Xin thắp nén tâm hương
đầy vọng ngưỡng
Xin cúi đầu tưởng niệm
trước anh linh
Cô gái Việt Nam
yêu độc lập hòa bình
Người giải cứu
khơi lòng tin sống lại.

NGÀN PHƯƠNG

CHẮP CÁNH CHO THƠ

Cảm đề bản dịch Việt-Anh tập thơ Bốn mùa (Four Seasons)
của nhà thơ Trần Nhuận Minh do Dịch giả Vũ Anh Tuấn dịch

Người chắp cánh
bốn mùa bay vạn dặm
Tám hướng đời
qua xứ lạ đường xa
Cho vườn thơ
lộng lẫy nở ngàn hoa
Cho mơ ước ươm nồng duyên mật ngọt
Gieo ánh sáng cho bốn mùa chim hót
Cho khung trời
lồng lộng ánh trăng xanh
Gieo sương rơi
cho trái ngọt cây lành
Cho đông lạnh
thành mùa xuân nắng ấm.
Người chắp cánh bốn mùa bay vạn dặm
Như mây trời theo gió khắp muôn phương
Như cánh buồm lướt sóng vượt trùng dương
Lời nhắn gởi hồn thiêng dân nước Việt
Người chắp cánh
cho bốn mùa diễm tuyệt
Mang tâm tư nguyện vọng của nhà thơ
Vút lên cao – Cao mãi đến không ngờ
Tô điểm nẻo tương lai đầy xán lạn
Người chắp cánh
bốn mùa thêm tỏa sáng
Thơ vươn mình bay đến đỉnh vinh quang

NGÀN PHƯƠNG

LỜI VÔ NGÔN

Một sáng mùa Đông lạnh,
Tôi đưa tiễn một người,
Trên quan tài cô quạnh,
Là hình ảnh một thời.
Đôi mắt người trong ảnh,
Như mang vẻ ngậm ngùi,
Chút gì như muốn nói
Với người sống trên đời.
Người muốn nhắn gởi gì ?
Cho bao người ở lại ?
Phải chăng Lời Vô ngôn,
Tự nhìn rồi sẽ thấy ?
Hẳn người từng lăn lóc,
Mòn mỏi với cuộc đời ?
Hẳn người từng chìm nổi ?
Qua những cuộc đổi dời ?
Từng như tôi giờ đây,
Bon chen trong kiếp sống,
Cơm áo với gạo tiền,
Làm đời thêm xao động ?
Người cũng từng mỏi mệt,
Bởi cuộc sống dập vùi,
Thấy ngày vui quá ngắn,
Chuỗi Khổ vẫn luôn dài ?
Rồi nắm mồ khép lại.
Chấm hết kiếp gian truân.
Cả đời bôn ba mãi,
Đây mới là điểm dừng ?
Chỉ vì ăn, mặc, ở,
Và chút đồ tiêu dùng,
Mà quay cuồng đắm đuối,
Chưa từng được yên thân !
Rời cái thân nằm đó,
Người về đâu ? Về đâu ?
Ai từng sống trong đó,
Giờ đi đâu ? Đi đâu ?
Khi thân còn hoạt động,
Còn tranh chấp, hơn thua,
Giờ chỉ là chút gió,
Bên ngoài thân dật dờ..
Tách ra rồi mới biết,
Thân chẳng phải là Mình,
Thì trễ rồi, muộn hết,
Đã gây bao tội tình !
Cảm ơn lời nhắn nhủ,
Cho tôi nhìn lại Mình,
Để kịp thời nhận rõ,
Phận bọt bèo, linh đinh !
Dại gì không dừng lại,
Khỏi sức hút cuộc đời,
Cho Thân, Tâm nhẹ nhõm,
Đời hơn thua, kệ đời !
Tiễn người tôi cũng tiễn
Những nhận lầm trong tôi.
Để phần đời còn lại
Còn được chút an vui.

Tâm Nguyện (12/2001 )

CÁC QUY LUẬT VỀ MỘT BÀI THƠ ĐƯỜNG
THẤT NGÔN BÁT CÚ

Gần đây có nhiều bạn trẻ làm thơ mới rất hay, muốn làm thơ Đường nhưng vì chưa nắm rõ luật nên thường bị sai mà không biết. Thật ra quy luật không có gì phức tạp, chỉ cần nhớ kỹ và mỗi khi làm xong nên kiểm tra lại. Vì nhiều khi bài thơ đọc lên nghe rất hay, không thấy câu nào, chữ nào ngang tai, nhưng lại có lỗi. Ngược lại, đôi khi có những câu hay chữ nghe rất chối tai, nhưng lại đúng luật. Tất nhiên dù đúng luật nhưng chối tai hay ngang tai thì cũng nên sửa lại. Để có được một bài thơ hay, điều cần thiết là đúng luật và êm tai, chưa kể đến nội dung và nhiều yếu tố khác.

Thơ Đường Luật được đặt ra từ đời nhà Đường (618-907) ở Trung Quốc. Trước đó, những thơ không có luật nhất định được gọi là Thơ cổ phong, sau này vẫn được nhiều người làm. Nền văn học của ta chịu ảnh hưởng của Trung quốc rất nhiều, do đó các nhà Nho ta rất thích Thơ Đường Luật, một loại thơ bác học, và các cụ thường làm thơ Đường bằng chữ Hán. Từ khi chữ Nôm ra đời, thơ chữ Hán vẫn được trọng, nhưng một số nhà Nho cũng thích làm Thơ Đường Luật bằng chữ Nôm, luật tương tự như chữ Hán nhưng đọc lên nghe rất êm tai và mọi người đều hiểu, không cần phải những người rành Nho mới hiểu.

Thơ Đường Luật có 2 thể chính: bát cú (8 câu) và tứ tuyệt (4 câu). Số chữ trong câu có thể là thất ngôn hay ngũ ngôn.

Sau đây ta chỉ xét thể “thất ngôn bát cú” là thể chính được phổ biến nhiều nhất.

Các luật về thơ Đường gồm có:

1. Luật bằng trắc.
2. Luật niêm
3. Luật đối

1. Luật bằng trắc.

Trước hết ta phải phân biệt:

- Vần bằng: là những chữ không có dấu hoặc dấu huyền
- Vần trắc: là những chữ có dấu sắc, hỏi, ngã, nặng.

Một bài thơ thất ngôn bát cú có 5 vần (v) ở cuối các câu:

1, 2, 4, 6 và 8.

Có 2 loại: Thơ vần bằng thì cả 5 câu đều vần bằng.

Thơ vần trắc thì cả 5 vần đều trắc.

Trong bài này ta chỉ đề cập đến loại thơ vần bằng là loại phổ biến, đọc lên nghe rất êm tai.

Còn loại thơ vần trắc đọc nghe hơi chối tai, thường dùng trong các bài thơ hài hước hoặc châm biếm có khi người ta nói “nghe như đấm vào tai!”.

* Riêng thơ vần bằng cũng có 2 loại:

- Vào bằng: bắt đầu bằng 2 chữ vần bằng (B)
- Vào trắc: bắt đầu bằng 2 chữ vần trắc (T)

Hai mô hình sau đây, các bạn cần thuộc lòng:

Vào bằng

Vào trắc

1

BB

TT

TBB

(v)

1

TT

BB

TTB

(v)

2

TT

BB

TTB

(v)

2

BB

TT

TBB

(v)

3

TT

BB

BTT

3

BB

TT

BBT

4

BB

TT

TBB

(v)

4

TT

BB

TTB

(v)

5

BB

TT

BBT

5

TT

BB

BTT

6

TT

BB

TTB

(v)

6

BB

TT

TBB

(v)

7

TT

BB

BTT

7

BB

TT

BBT

8

BB

TT

TBB

(v)

8

TT

BB

TTB

(v)

Trên đây là 2 mô hình tuyệt đối. Trong thực tế, thông thường người làm thơ được phép linh động, các chữ thứ 1, 3, 5 trong mỗi câu không bắt buộc đúng theo mô hình trên mà có thể bằng đổi thành trắc, trắc đổi thành bằng, gọi là “nhất tam ngũ bất luận”. Chỉ các chữ thứ 2, 4, 6 mới bắt buộc phải theo đúng luật, gọi là “nhị tứ lục phân minh”.

* Ta để ý: chữ thứ 2 và chữ áp chót luôn cùng vần B hoặc T

2. Luật niêm.

Trong hai mô hình trên, ta để ý 2 chữ đầu câu.

Hai câu thơ gọi là niêm với nhau khi hai chữ đầu câu đều là BB hay đều là TT. Ta thấy ngay trong cả 2 mô hình.

Câu 1 niêm với câu 8
Câu 2 niêm với câu 3
Câu 4 niêm với câu 5
Câu 6 niêm với câu 7

Lưu ý: Vì nhất tam ngũ bất luận nên ta chì cần để ý chữ thứ 2 trong câu.

Nếu kiểm tra lại bài thơ của ta không đúng như vậy thì gọi là thất niêm cần sửa lại.

3. Luật đối:

Trong một bài thơ Đường thất ngôn bát cú ngoài 2 câu đầu và hai câu chót thì:

Câu 3 phải đối với câu 4
Câu 5 phải đối với câu 6.

a) Đối về bàng trắc: bằng đối với trắc và ngược lại

(tất nhiên các chữ 1,3, 5 không bắt buộc)

b) Đối về chức năng, văn phạm: danh từ đối với danh từ, động từ đối với động từ, tính từ đối với tính từ, trạng từ đối với trạng từ…

c) Đối về ý nghĩa (không bắt buộc lắm): có thể nghĩa tương phản hay tương loại…

Thí dụ:

Lom khom dưới núi tiều vài chú (tương loại)
Lác đác bên sông rợ mấy nhà

(Qua đèo ngang - BHTQ)

Giàu sang âu yếm, tính quen thuộc (tương phản)
Bần tiện, thờ ơ, dạ bạc đen

(Thói đời – Trần Tế Xương)

Trên đây là câu trên đối với câu dưới. Nhưng cũng có thể đối ngang trong mỗi câu:

Thẹn đèn, hổ lửa, đau lòng mẹ
Nay thét, mai gầm, rát cổ cha

(Biếng học – Lê Quý Đôn)

Thẹn đèn đối với hổ lửa (đối ngang trong câu)
Nay thét đối với mai gầm

d) Đối từng cụm từ: Có khi những cụm từ 2-3 hoặc 4-5 chữ nếu tách rời thì không có ý nghĩa, có thể đối cả cụm theo ý nghĩa.

Thí dụ:

Lấy của, bắt người quân tệ nhỉ!
Xương già, da cóc, có đau không?

(Hỏi thăm bạn mất cướp – Nguyễn Khuyến)

Lấy của, bắt người xương già, da cóc là đối ngang trong câu. Còn quân tệ nhỉ! đối với có đau không? Là đối từng cụm. Câu than đối với câu hỏi.

Trên đây là mấy quy luật cơ bản để hình thành một bài thơ Đường Thất ngôn bát cú vần bằng không có gì là phức tạp khó nhớ phải không các bạn? Chỉ cần nhớ hai mô hình vào bằngvào trắc ở trên và mỗi khi làm xong đọc lại đừng tin ở lỗ tai mình mà nên kiểm tra lại.

* Cách kiểm tra: ta để ý 3 điều sau đây:

1) Trong mỗi câu, chữ thứ 2 và chữ thứ 5 phải cùng vần (bằng hay trắc)
2) Chữ thứ 2 trong câu 1 và câu 8 phải cùng vần

Chữ thứ 2 trong câu 2 và câu 3 phải cùng vần
Chữ thứ 2 trong câu 4 và câu 5 phải cùng vần
Chữ thứ 2 trong câu 6 và câu 7 phải cùng vần.

3) Xem lại các câu đối nhau có chỉnh không, nếu không thì sửa lại.

Nếu 2 mô hình trên các bạn thấy khó nhớ thì có thể mượn bài thơ quen thuộc của Bà Huyện Thanh Quan mà hầu hết mọi người đều thuộc là Qua Đèo Ngang (vào trắc) và Hoàng hôn (vào bằng): Trời chiều bảng lảng bóng hoàng hôn… làm mô hình chuẩn để so sánh và kiểm tra bài sáng tác của bạn.

* Các quy luật phụ:

Để bài thơ của bạn hoàn chỉnh hơn về hình thức, ngoài các quy luật chính bắt buộc trên đây, chúng ta cần biết thêm một số quy luật phụ:

1) Điệp ngữ: Một bài thơ Đường luật 56 chữ, thông thường không được có một chữ nào lặp lại 2 lần hay hơn nữa. Nếu có thì được gọi là điệp ngữ, cần được loại bỏ, thay bằng chữ khác.

Tuy nhiên, nhiều khi điệp ngữ cũng cần thiết: nếu là để nhấn mạnh thêm chủ đề bài thơ.

Thí dụ:

- Một bài thơ Xuân có thể có nhiều chữ “Xuân”
- Để than cảnh đêm dài, mong trời sáng để dậy:

Đêm sao đêm mãi tối mò mò
Đêm đến bao giờ mới sáng cho.
………………………………..
Hàng xóm làng giềng ai đã dậy?
Dậy thì lên tiếng gọi nhà Nho!

(Đêm dài – Tú Xương)

- Để so sánh nhiều loại tài và đức không thể chỉ dùng 1 chữ tài, 1 chữ đức:

Tài mà không đức nên tài tặc
Đức chẳng hiếu danh ấy đức thành

(Tài và Đức – Thùy Dương)

2) Ngang tai và khổ độc (khó đọc):

Như trên đã nói “nhất tam ngũ bất luận”, các chữ thứ 1, 3, 5 trong câu có thể bằng đổi thành trắc, trắc đổi thành bằng mà vẫn đúng luật. Ta hãy mượn bài thơ Qua Đèo Ngang của bà Huyện Thanh Quan làm thí dụ và mạn phép tác giả đổi 2 câu 5 và 6 như sau:

5 Nhớ nước đau lòng cái cuốc cuốc
6 Thương nhà mỏi miệng con gia gia

Tất nhiên vẫn đúng luật nhưng chắc các bạn không chấp nhận vì nó nghe rất kỳ. “cái quốc quốc” thì khó đọc (gọi là khổ độc), “con gia gia” thì nghe ngang tai.

Nhưng xét câu thứ 7 và 8:

7 Dừng chân đứng lại trời non nước
8 Một mảnh tình riêng ta với ta

Chữ ta ở câu 8 trắc đổi thành bằng thì lại tuyệt vời. Không như con gia gia ở câu 6.

Thế nhưng giả thử tác già không cô đơn như Bà Huyện mà có người bạn đời đi bên cạnh và viết câu cuối cùng như sau:

Một mối tình chung mình với ta.

Vẫn đúng luật, nhưng chắc các bạn thấy chữ mình làm cho câu thơ ngang tai phè phè, dù so với câu trên vẫn chỉ là đổi trắc thành bằng, một đằng thì tuyệt vời, một đằng thì ngang tai. Như thế ta không nên áp dụng luật “nhất tam ngũ bất luận” một cách máy móc mà còn tùy ở tai nghe.

* Luật Khổ độc được quy định như sau: Chữ thứ 3 của các câu chẵn và chữ thứ 5 của các câu lẻ nếu đang bằng mà đổi thành trắc thì sẽ là khổ độc.

Các luật phụ về điệp ngữ và khổ độc này chỉ nêu ra để lưu ý người làm thơ chứ không bắt buộc. Câu thơ êm tai, trầm bổng du dương hay chối tai còn tùy ở cả những chữ khác trong câu và âm hưởng của nó. Theo ý người viết nếu ta thấy câu thơ ưng ý mà rơi vào khổ độc hay điệp ngữ, nếu sửa lại thấy mất hay thì ta nên giữ, dù cho ai có cố chấp bới lông tìm vết. Riêng người viết cũng thường làm thơ khổ độc.

7 Bồi hồi tấc dạ như vang bóng
8 Một thuở thiếu thời rạng ước mơ…

(Bất chợt Xuân về - Thùy Dương)

Câu thứ 8 là khổ độc nhưng có lẽ không đến nỗi chối tai.

Trên đây là những điều cơ bản giúp bạn hoàn thành một bài thơ Đường Thất ngôn bát cú đúng luật. Nhưng xin nhớ rằng trong 1 bài thơ Đường việc hoàn chỉnh vềquy luật mới chỉ là bước đầu cần thiết. Số điểm tối đa của phần này chỉ là 2đ/10. Phần còn lại 8đ/10 sẽ dành cho nội dung, ngôn từ, âm hưởng, cảm xúc… và nhất là HỒN THƠ.

THÙY DƯƠNG
Nguyên Trưởng Nhóm Thơ Đường
HƯƠNG XƯA CLB Thơ Ca TTVHQ3

ĂN SAO CHO TRẺ MÃI KHÔNG GIÀ ?

Mới đây, có một sản phẩm tung ra quảng cáo “Làm trẻ bộ xương” để mong người ta đổ xô đi mua về uống. Giá mà đưa ra lý lẽ “da sẽ bớt nhăn, và không bị nổi đốm đồi mồi thì dễ thuyết phục hơn vì người lớn tuổi ít ai tin được là trong tươi, ngoài héo!

Cơ thể cũng có những phương tiện phòng vệ tự nhiên chống ôxy-hoá (natural anti-oxidant defenses), là những men có tên “khó nhớ” như superoxide dismutase và glutathione peroxidase.

Dễ nhớ hơn thì có những chất khác nhiều người biết tới là Vitamin C, Vitamin E, Vitamin A.

Muốn trẻ lâu theo thuyết này, chúng ta cố gắng làm sao đưa vào bữa ăn những chất kháng ôxy-hóa nổi tiếng hay ít ai biết nhằm chống lại các gốc tự do gây lão hoá.

Ăn uống hợp lý khi lớn tuổi cũng cần tới Calo và các chất dinh dưỡng như mọi người, tuy có phần ít đi.

Nhu cầu năng lượng

Càng thêm tuổi thì càng nên nạp vào ít Calo hơn trước - vì nhịp chuyển hóa của cơ thể chậm lại. So với lúc còn thanh niên, người ta có khuynh hướng giảm khối cơ bắp (mỗi năm giảm kh oả ng 200g) vì ít họat động hơn trước – nếu không có thói quen vận động hay tập thể dục.

Giảm từ 200 đến 400 c alo/ngày là sẽ đáp ứng với hiện tượng chuyển hóa chậm v ì bớt h oạ t động chân, tay: Một khẩu phần cho người “có tuổi” thường chỉ 1,600 c alo /ngày là vừa.

Chọn lựa thức ăn khôn ngoan, nên theo Tháp dinh dưỡng đặt trên 8 ly nước lấy ngũ cốc nguyên hạt, rau, trái nhiều chất xơ (ký hiệu f+) làm căn bản cho bữa ăn, sẽ tránh được táo bón hay bệnh “túi thừa”, ung thư ruột kết, phổi, vú vv… và bệnh tim.

Chất Đạm Protein

Trái với calo, chất đạm là dưỡng chất cần duy trì trong bữa ăn để gìn giữ khối cơ bắp và hệ thống miễn dịch. Thịt, cá, giàu đạm nhưng đôi khi dai, khó nhai hoặc vì tăng giá trong khi thu nhập lại kém đi, nên ngại mua… à Nên chú ý tới những thức ăn vừa giàu đạm vừa dễ ăn, có thể mua được giá tương đối “nới” như trứng, đậu hạt, lạc, vừng, tầu hũ, sữa tươi, yaourt. Sau 40 tuổi ai ai cũng nên đi nha sĩ 1 năm 1 lần để giải quyết kịp thời những vấn đề về răng – thật hay giả, cũng cần nha sĩ!

Nước uống

Càng thêm tuổi người ta thường hay quên, vậy xin nhắc có nhiều triệu chứng do thiếu nước mà các bác hay bỏ qua như:

Nhức đầu

Mặt hay chân hơi sưng

Hoa mắt, lú lẫn

Tim đập mau hơn

Đi tiểu ít

Nước tiểu màu sậm

Và l àn da thiếu nước càng dễ khô cằn, nhăn nheo!

Về phương diện này, một số thuốc dùng thường xuyên, lại lợi tiểu nên dễ bị “mất nước”. Chỉ cần uống 8 - 12 ly nước/ngày thôi là tránh được mọi triệu chứng nêu trên. Nước có nhiều trong nước ép trái cây, nước dừa, sữa, canh. Để khỏi mất ngủ – giới hạn trà, cà phê và nước ngọt có cafein. Xin gợi ý, sáng dậy nên đong sẵn 1 chai 2 lít nước để sẵn trên “bàn nước” – miễn cuối ngày cạn chai là đủ nước.

Tháp Dinh dưỡng Cho Người Nhiều Tuổi (muốn trẻ lâu).

Chú thích:

1 Từ đáy lên đến đỉnh tháp: Nước cứ 2 tiếng uống 1 ly 200 (1 ngày 8 ly).
2. Ngũ cốc, thức ăn nhiều bột cần đi kèm nhiều chất xơ (f +).
3. Nhớ ăn nhiều rau, trái cây đậm màu sắc, xanh, đỏ vàng.
4. Vừa phải thịt cá, đậu hạt, cố gắng ngày uống 2 ly sữa.
5. Rất giới hạn đường, muối ≤ 1 muỗng càphê, ít đồ chiên, kẹo, bánh. Tránh hút thuốc. Uống rượu có mức độ.
6. Nếu cần uống thêm 1 viên đa sinh tố/ngày

TPHCM Ngày 27 tháng 9, 2008
Bác sĩ Nguyễn Lân-Đính
Chuyên viên dinh dưỡng

KỲ ĐỒNG NGUYỄN CẨM -
Một chiến hữu của vị anh hùng
Hoàng Hoa Thám

Ở phía Bắc châu thành Sài Gòn hiện nay có con đường Kỳ Đồng. Vậy Kỳ Đồng là ai? Để đáp câu hỏi này, thường thường người ta chỉ cho biết một cách tóm tắt rằng đó là một tên danh nhân của đất nước, hay hơn nữa là một nhà cách mạng đã bị thực dân Pháp bắt đày đi Châu Phi và bặt vô âm tín.

Kể cũng không sai, nhưng cuộc đời Kỳ Đồng không phải chỉ thu gọn trong mấy hàng chữ đơn giản ấy mà phải nói cả một trang dài sự kiện đáng ghi.

Tại sao?

Vì Kỳ Đồng ngoài con người cách mạng còn là một thi sĩ đã vang bóng một thời, và là một người Việt Nam đầu tiên đã đỗ tú tài Pháp.

Tại sao lại gọi là Kỳ Đồng?

Có người bảo Kỳ Đồng họ Kỳ tên Đồng, nhưng ở Việt Nam hẳn không có ai họ Kỳ cả. Và thế là ngộ nhận.

Thực ra Kỳ Đổng chỉ là tên hiệu do nhà vua đặt cho. Còn chính tên là Nguyễn Cẩm.

Ông người thôn Ngọc Đình, làng Trung Lập, phủ Tiên Hưng, tỉnh Hưng Yên (nay thuộc tỉnh Thái Bình), sinh ngày 8 tháng 10 năm 1875 tức năm Ất Hợi, niên hiệu Tự Đức thứ 28. Thân phụ là một nhà nho, thưở nhỏ, ông được vỡ lòng bằng sách Tam tự Kinh.

Ông học chỉ mấy hôm thuộc hết, và qua sách khác ngay. Bản chất ông thông minh lạ thường, mỗi ngày đọc cả hàng trăm trang sách. Chỉ trông thoáng qua là nhớ. Vì thế, năm lên 7 tuổi, ông đã lầu thông kinh sử cùng các thể văn chương thi phú, tiếng tăm lừng lẫy một vùng, ai ai cũng lấy làm kinh lạ. Do đó, có người đã cho ông là Trạng, là đã ứng vào hai câu sấm truyền:

“Bao giờ Nhân lý có đình Trạm Chay, có chợ Ngọc đình là có Trạng sinh”

Người ta nô nức rủ nhau đi xem, kẻ muốn thấy mặt Trạng, người thử tài bằng cách ra những câu đố hóc búa. Câu nào, bài nào, Nguyễn Cẩm cũng xem như trò đùa và đôi khi lại tỏ ra là một người có chí khí phi thường.

Quan huấn đạo phủ Tiên Hưng lúc ấy là cụ cử Bùi Tam Đồng, một hôm mời cha con ông lại chơi. Gặp trời mưa, thân phụ ông phải cõng con vào dinh, quan Huấn mỉm cười nói:

- Trạng gì mà bắt cha cõng thế?

Nguyễn Cẩm đáp:

- Đó không phải cõng mà là chữ “cửu” là lâu vậy, tức nghĩa quan lớn chờ lâu đó.

Quan Huấn hỏi:

- Sao gọi là chữ “cửu”?

Nguyễn Cẩm đáp:

- Chữ “cửu” không phải do chữ “nhân” con (tức nhân nhỏ) ở trên chữ “nhân” bố (tức nhân lớn) là gì?

Quan Huấn lấy làm lạ, ra một câu:

- Đứng giữa làng Trung Lập (trung lập có nghĩa là đứng giữa)

Cẩm đối ngay:

- Dấy trước phủ Tiên Hưng (Tiên Hưng có nghĩa là dấy trước)

Quan Huấn ra nữa:

- Tam tài thiên địa nhân (Tam tài là trời, đất và người)

Cẩm lại đối:

- Tứ nhi: Phong, Nhã, Tụng (Tứ nhi là bốn thể thơ: thể phong, thể nhã (gồm 2 tiểu nhã và đại nhã, nhưng chỉ kể là một) và thể tụng)

Trong lúc quan Huấn cùng cha con Nguyễn Cẩm đang đàm đạo, có cụ Thủ khoa Nguyễn Đình Khanh tới, gặp Cẩm, cụ Thủ Khanh cũng ra một câu đối rất khó:

- Tùng mộc do lai thập bát công (Thập bát là chữ mộc, ghép với chữ công thành chữ tùng)

Cẩm ứng khẩu đối lại:

- Quý hòa tự hữu bát thiên tử (Bát thiên là chữ Hòa để lên chữ tử là chữ quý)

Năm ấy, năm Tự Đức thứ 35, dương lịch 1882, tỉnh Hưng Yên có kỳ thi chọn các sĩ tử sang năm dự trường thi hương Nam Định, cha con ông đều lên tỉnh dự. Các quan trong Hội đồng khảo hạch thấy Cẩm còn nhỏ quá, lấy làm lạ, cho gọi đến thử tài. Một vị quan ra đối:

- Bát thế nhân xưng kỳ, kỳ phùng hữu nhật (Tám tuổi người đều cho là lạ, có ngày gặp lạ).

Cẩm đối ngay:

- Thất niên nhân dĩ sĩ, sĩ chính cập thời (Bẩy tuổi mà mình đã làm quan, làm quan đúng lúc).

Một vị quan khác ra:

- Mã xa theo tướng, tốt làm sao?

Cẩm đối lại:

- Nam Bắc sang Tây. Đông biết mấy!

Một vị quan nữa ra:

- Thần đồng thất thế thần đồng tử (Thần đồng 7 tuổi thần đồng chết).

Cẩm đối ngay:

- Nguyễn Cẩm thập tuế Nguyễn Cẩm đăng (Nguyễn Cẩm 10 tuổi, Nguyễn Cẩm sẽ vượt lên tất cả).

Các quan muốn biết thêm tài Cẩm, lại ra một câu lắt léo:

- Khổng môn truyền đạo chư hiền, Tăng Tử, Tử Tư, Mạnh Tử (Đạo Khổng truyền cho các thầy giỏi là Tăng Tử, Tử Tư, Mạnh Tử).

Cẩm không ngần ngại, đối lại như đã học thuộc lòng:

- Chu thất khai cơ liệt thánh Thái Vương, Vương Quý, Văn Vương (nhà Chu mở nghiệp cho các thánh Thái Vương, Vương Quý và Văn Vương).

Các quan đều phục tài, làm sớ tâu về kinh, kèm cả những câu đố. Vua Tự Đức xem thấy sắc cho hai chữ “Kỳ Đồng”, có nghĩa là “cậu bé lạ lùng” và châu phê vào sớ “Thử hệ niên khinh, vị khả lục dụng, trước giao Hưng Yên tỉnh thần giáo dục, trừ vi quốc gia nhật chi” (tên này còn ít tuổi quá, chưa lục dụng đuợc, vậy giao các quan tỉnh Hưng Yên dạy dỗ để dùng vào việc nước sau này).

Thiên hạ từ đấy không gọi chính tên ông nữa mà chỉ gọi “Kỳ Đồng”.

Cũng vì chỗ chưa được lục dụng ấy, Kỳ Đồng mới có bài thơ “tức sự” bằng chữ Hán:

Thiên hạ phân phân nại nhược hà
Đương kim thời sự chính phiền đa
Kinh niên dân bị phong nhị lạo;
Kỷ độ tặc xâm chiến dữ hòa
Hữu loại vị nhiên tân hỏa tá
Hội kỳ nan kiến thủy ngư gia
Thiên tâm như đục khai bình trị,
Xả ngã kỳ thùy tá quốc gia.

Xin tạm dịch:

Bời bời thiên hạ biết sao đây!
Thời sự ngày nay rắc rối thay
Bão lụt hàng năm dân vướng mãi
Chiến hòa mấy lớp, giặc còn gây
Lẫn chừng củi lửa chưa tay đốt
Gặp gỡ vua tôi mỏi mắt chầy
Bình trị trời kia như muốn mở
Bỏ ta ai giúp nước non này?

Bởi Cẩm có kỳ tài và khẩu khí như vậy nên mọi người đều kính phục, kính phục đến mức cho Cẩm tương lai sẽ là một cứu tinh dân tộc, khiến không biết bao nhiêu danh nhân, sĩ tử đến kết thân với Cẩm, mặc dù tuổi Cẩm chỉ đáng con cháu.

Một nhà thơ đã vang bóng một thời

Thuở ấu thơ, Nguyễn Cẩm chẳng những đã làm thiên hạ phải giựt mình về những câu chuyện văn nghệ trên, mà sau này còn những tác phẩm khác đến nay, trong giới sĩ phu vẫn còn người thuộc lòng, chẳng hạn như bài “Lời non nước” dưới đây:

Nước xanh biếc lững lờ một giải
Kế trên bề một trái non cao
Nhân khi ngẫu nhĩ gặp nhau
Nước non bày tỏ nông sâu sự đời
Non bảo nước: “bác người lịch duyệt
Khắp xa gần đi khắp mọi nơi
Đục trong đã trải mùi đời
Gốc nguồn xin kể cho tôi biết cùng
Nước nghe nói, nỗi lòng tỏ giải
Rằng: tôi nay tứ hải vi gia
Thênh thênh đâu cũng là nhà
Khi vào lục địa khi ra hải tần
Khắp thiên hạ nhân dân mong mỏi
Mong gặp tôi cho khỏi khô khan
Khắp loài sinh vật thế gian
Công tôi vun tưới dư vàn năm nay
Thở hơi ra thành mây ngũ sắc
Phun ra mưa nhuần khắp mọi nơi
Đục trong đã trải mùi đời
Đầu non xin kể cho tôi biết cùng!
Non nghe nói trong lòng chán ngắt
Bảo nước rằng: chắc thực rỗi hơi,
Công đâu chìm nổi với đời
Mà trong mà đục mà vơi mà đầy?
Cứ như tôi thế này cũng đủ
Riêng một bầu một thú làm vui
Trơ vơ đứng ở giữa trời
Còn trời còn đất vui chơi còn nhiều
Nước nghe nói mấy điều trái ý
Mắng non rằng: nghĩa lý phải đâu
Thử xem một quả địa cầu
Cổ kim từng mấy bể dâu đổi vời
Kìa cứ lấy mặt trời mà nói
Sáng phương Đông, chiều tối phương Tây
Trăng còn khi khuyết khi đầy
Bốn mùa khí hậu đêm ngày khác nhau
Máy tạo hóa ngẫm âu vô định
Phải tìm đường mưu tính mới xong
Chí tôi đã quyết gia thông
Dẫu rằng trong, đặc, đục, đâu quản gì
Ai lại cứ ngồi ỳ như bác
Coi sự đời chẳng khác chiêm bao
Đêm ngày mượn thú tiêu dao
Dù ai muốn khoét muốn đào cũng thôi
Thế còn mọc ra đời chi nữa
Chật đất thêm mà có ích gì
Mau mau phải tính phải suy
Đá kia nước chảy có khi cũng mòn.

Và bài “Thu dạ lữ hoài” viết theo thể song thất lục bát và cũng toàn bằng Hán văn như của Đinh Nhật Thuận, nhưng nội dung như sau:

Thiên khí nhập Trung thu chí dạ
Tiêu điều kinh tứ tọa sương hàn
Tiêu gia biệt chiếm thanh nhàn
Đã tàn kỳ trận, ẩm tàn cúc bôi
Cửu thiên ngoại lâu đài ca quản
Bích khê liên mãn gián đào hoa
Phương tôn nhất cảm tuế hoa
Du nhiên bất giác nhị hà càn khôn
Hào đỗ vũ thiên thôn tịch mịch
Tức trùng thanh tứ bích thê lương
Khả lân tự cổ chiến trường
Đài phong kim thốc, điểu nhương cô hồn
Quần hùng trục hoành bôn chủ lộc
Tứ hải chiêm chi ốc chi ô.
Thiên tâm vị yếm Hồ xô
Thủy thâm hỏa nhiệt lai tô giả thùy?
Quỳ hoắc hữu tâm nhi hướng nhật
Thu oanh hà vật khước tri thu
Tây thiên đường bệ giao phu
Hoa cừu cạnh sắc, chiên hồ đồng chương
Thiên tầm bách kinh sương bất biến
Xong nan kim bách luyện di cương
Cẩu năng thiết thạch can trường
Di danh trúc giản, lưu phương báo bì
Y thị nhật nghĩa kỳ xướng xuất
Tương trung tam thủ nhật Ngu uyên
Tẩy thanh cựu quốc sơn xuyên
A đồng khí khái, nhất thiên cao hoành
Cái trung nghĩa thiên thanh nhật bạch
Nhi vinh hoa vân bạch cẩu thương
Lập thân sở quý cương thường
Hiu tương nhất mộng hoàng lương tráng hoài
Thế nhân hãn phùng khai khẩu tiếu
Xi nhi diệc vị liễu công gia
Khả lân lục đại hào hoa
Du mi Lương quán, đề nha Tổng đài
Nhân thế bất tri giai kiểu ngã
Dung tài vô chủ khả lân quân
Bồi hồi nhân sự thiên thần
Hoa kinh nhỡn tữu nhập thần na kham
Dục vấn thiền đàm nhi phụng Phật
Thiền đàm phi thạch thất lan đài
Kim liên tòa hạ Như Lai
Nan tương cự chúc đại khai hôn cờ
Dục vấn bồng hồ chư tiên tử
Bồng hồ không lưu thủy đào hoa
Thương sơn tịch mịch chi ca
Vũ lăng vãn tích yên hà thâm thâm
Âm ảm nguyệt nhi trầm trầm dạ
Chỉ thu giang dục hạ cô châu
Giang phong ngư hỏa đối sầu
Phong giao quế chạo, nguyệt phần kim tôn
Nhân khuyến ngã hầu môn nhất kiến
Tức thanh niên khả tiện phong hầu
Ngã trì kỳ khúc như câu
Nhân khuyến ngã cao phi viễn tẩu
Khủng tây trần dục cấu nhân trần
Ngã tri ngã trực như huyền
Vì luân vì đạn tùy thiên phú hình.
Ngã tất vị nhân sinh tự cổ
Vị phùng thời hà khổ lao tâm
Bàn khê nhất xích truy tầm
Khả năng thùy điếu mộng ngâm bi hùng
Ngã tất vị anh hùng vô tận
Đãi minh quân phương dẫn cấp thăng
Sằn nguyên bảo đạo kỷ tằng
Sính xa tam chí khả năng đỉnh điều
Tư thế vị phùng Nghiêu Thuấn thiện
Bất như cao ngoại tiện gia xan
Đổng tri cố quốc giang san
Nhân dân thành quách triều ban thuộc Hồ
Thức thời vụ tại hồ tuấn kiệt
Tinh cạnh quang nhì nguyệt vị minh
Phong trần hà nhật tảo thanh
Long nhương thủ khởi, cốc thành vũ phi
Nhân cảm hứng ngâm thi tuyệt dạ
Nhất tiên trung tự khả châu ky
Thế nhân nhận tác thi quy
Tỵ hung xu cát lưỡng kỳ phân minh.

Bản dịch của cụ giải nguyên Hy Tô:

Khí trời bước sang hiu hắt
Đêm sương rơi lạnh ngắt quanh ngồi
Xuất trần một cõi thảnh thơi
Cờ vây mấy cuộc, rượu mời mấy chung
Ngoài trời đất riêng vòng đài các
Bên ngòi khe lác đác hoa rơi
Chén say nghĩ đến sự đời
Lờ mờ nào biết đất trời là nao
Tiếng khắc khoải nơi nào cũng cuốc
Giọng véo von vách suốt là sâu
Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu
Hồn siêu mả mốc là khâu chiến trường
Một hươu chạy, mấy phường đua đuổi
Đàn quạ bay bốn cõi trông theo
Giặc kia trời hãy còn chiều
Vớt chìm cứu cháy biết kêu người nào?
Có hướng nhật cớ sao còn biết
Oanh tri thu có việc gì quên
Giao hoan chủ khách một đền
Cân đai lộn vẻ, áo xiêm lẫn hàng
Cây nghìn thước gió sương vẫn đứng
Vàng trăm rèn thân cứng chẳng mềm
Sắt là ruột, đá là tim
Hy sinh để tiếng thơm nghìn muôn thâu
Cờ khởi nghĩa bắt đầu phấp phới
Lặn vực sâu gắng với lòng trung
Non sông quyết rửa cho xong
Trời Nam cao ngất, A đồng tiếng vang
Lòng trung nghĩa trời quang đất rạng
Cái vinh hoa là áng phù vân
Nặng vì hai chữ quân thân
Kê vàng một giấc cõi trần kể chi
Đời người được mấy khi cười rống
Trẻ thơ còn lúng túng việc đời
Hào hoa thuở trước than ôi,
Quán Lương đài Tống khắp nơi hoang tàn
Đã không hiểu lại càng làm khác
Cảm thương ta lưu lạc giữa đời
Trông trời lại ngẫm đến người
Hoa lác mắt rượu mềm môi sao đành
Có lúc muốn tu hành cho rảnh
Biết kiếp tu là tránh sự đời
Tòa sen Phật pháp Như Lai
Khôn đem đuốc tuệ sáng soi cõi hèn
Có lúc muốn theo tiên vào núi
Biết đời tiên là cõi nhàn du
Non Thương tiếng hát xa vù
Vũ Lăng dấu cũ mịt mù khói sương
Đêm vắng lặng chập chờn bóng nguyệt
Trỏ giòng thu xuống chiếc thuyền con
Bóng cây bóng lữa bồn chồn
Khỏa buông trèo gió, giốc dồn chén trăng
Cũng có kẻ bảo rằng ta hố
Phỏng cúi lòn ắt khá phong hầu
Nghĩ rằng câu có thắng đâu
Dù xe dù ngựa nọ cầu mà chi
Cũng có kẻ bảo đi cho rãnh
Bụi hôi tanh ngăn ngạnh đường đi
Nghĩ rằng dây có vậy gì
Ừ luân ừ đạn cũng thì thời cho
Ta tự nghĩ từ xưa đã thế
Chưa gặp thời nọ hệ lụy đâu
Khe Bàn thủng thẳng ngồi câu
Mộng hùng ứng xá Văn cầu thoát rong
Ta tự nghĩ anh hùng nào hết
Hội minh lương sẽ kết duyên lành
Nội Sằn vừa đọc vừa canh
Ba lần xe rước vạc sanh khá điều
Đời chưa gặp Đường Nghiêu thịnh trị
Chi cho bằng nằm nghĩ ăn no
Thương ơi, nước đã ra hồ
Nhân dân thành quách khác mô cả rồi
Người tuấn kiệt nên soi thời vụ
Sao sáng kìa, trăng nọ còn lu
Bao giờ quét sạch bụi mù
Cất đầu vỗ cánh mặc dù phong lưu
Nhân cảm hứng đêm thâu ngâm khúc
Toàn thiên đều ngọc đúc châu soi
Ai ơi nhận lấy kẻo hoài!
Này hung này cát đôi lời phân minh.

Cả hai bài Nôm chữ Hán đều là những tiếng ca bi hùng cảm khái vì thời cuộc, đau buồn vì thế sự. Giá trị ở đó và ở chỗ đọc nó ta thấy tác giả quả là một con người chí khí, ham hoạt động, lúc nào cũng sẵn một hoài bão ngang tàng, muốn nối gót các nhà cách mạng Cần vương, toan tính những công việc lấp biển vá trời. Không rõ ông viết năm nào nhưng xuyên qua nội dung, chúng ta cũng có thể đoán được rằng đó là những tác phẩm ra đời vào những năm đã bước chân lên con đường quốc sự, tức khi đã trưởng thành, chớ không phải ở thời gian còn là 1 cậu bé để chỏm.

Một cuộc nổi dậy chống Pháp bằng gươm gỗ và âm binh thần tướng

Bởi có chí khí và thấy được mọi người tin phục, kẻ cho là Trạng, người cho là Thần, kẻ thì cho là “người trời” sai xuống để cứu nước dân trong lúc lãnh thổ đang bị gót giày xâm lược của lũ thực dân Pháp xéo lên, nên Kỳ Đồng không bỏ lỡ cơ hội, ông lợi dụng ngay những người ấy để đưa họ vào cuộc khởi nghĩa chống Tây.

Để tác động tinh thần, tay chân tín của ông là Mạc Thiên Đình, một thày pháp trứ danh đã bày ra kế tuyên truyền để đánh vào óc dị đoan mê tín của đồng bào bằng cách phao tin lên rằng Kỳ Đồng Nguyễn Cẩm ngoài tài văn chương quán chúng, còn có phép tàng hình biến tướng, biết đủ các phép bùa bèn cùng nhâm, cẩm, độn, giáp làm cho những người đi theo không thể nào chết được, và ủ đậu thành binh…

Phụ Bản III

Ấy thế là thiên hạ nô nức đi theo. Kể ra cũng khéo đánh vào tâm lý quần chúng lúc ấy, nhưng xét ra, thật không căn bản thành số người theo đông mà thật tâm thật tài rất hiếm, nên khi đụng vào thực tế đấu tranh thì hóa rã tan ngay.

Trở lại câu chuyện, khi thấy công cuộc vận động tuyên truyền có kết quả sâu rộng. Nguyễn Cẩm mới bắt đầu khởi sự. Ông họp đồ đảng hàng mấy trăm lại, gồm những thanh niên cùng lứa tuổi với mình, phát cho mỗi người một lá bùa đeo ở trước ngực để trừ súng đạn và gươm đao của giặc. Trong số này ông tuyển ra 28 người làm tướng, gọi là “Nhị thập bát tú” để kéo đạo binh trên võ trang bằng gươm gỗ đánh tòa sứ (Résidence) tỉnh Nam Định.

Hôm ấy Nguyễn Cẩm dẫn đầu, và cho đi trước bằng hai lá cờ lệnh một lá cờ “nhị thập bát tú” một lá đề năm chữ nho: “khai thiên thần tướng Nguyễn”

Đạo quân này xuất phát từ Thái Bình, qua đò Tân Đệ, đổ lên thị xã Nam Định, đi đến đâu đồng bào ra xem như kiến cỏ đến đấy. Người Pháp tưởng cuộc chơi đùa của một đoàn thiếu nhi, nên mặc. Nhưng sau biết đi tấn công tòa sứ, họ cho lính khố xanh vây bắt.

Trước sự đàn áp, bọn Kỳ Đồng chạy tan. Nguyễn Cẩm trốn vào Quý Kỳ, nhưng sau đó ít phút cũng bị lính bắt với một số đồng đảng, dẫn đến trước mặt viên công sứ Nam Định. Viên này cho là một đám trẻ ngông cuồng nên khuyên giải ít lời rồi tha, chỉ giữ Nguyễn Cẩm là người Cẩm đầu lại.

Chỉ học chữ Pháp mấy năm đã đỗ Tú tài khoa học kiêm văn chương… và đây là người Việt đầu tiên.

Trong khi xét hỏi, viên công sứ thấy Nguyễn Cẩm quả là người thông minh kỳ lạ nên mến tài, muốn tạo thành một tay đắc lực sau này cho chánh phủ bảo hộ. Y khuyên Cẩm sang Pháp học. Ông nhận lời. Thế rồi chỉ vài tuần sau có giấy viên toàn quyền Đông Dương chấp thuận: bao nhiêu phí tổn đều do chánh quyền Pháp đài thọ.

Nguyễn Cẩm vượt trùng dương sang học trường trung học Alger. Tất cả những người ngoại quốc ai cũng phải lấy làm lạ về cái óc thông minh tuyệt vời của ông. Ông học chỉ mấy năm đã độ cả Tú tài khoa học, Tú tài văn chương.

Có lẽ đây là một người Việt đầu tiên đã đỗ tú tài Pháp.

Lại làm cách mạng và chuyển hướng cách mạng

Sau khi tốt nghiệp, Nguyễn Cẩm sang Pháp học và nghiên cứu thêm nữa. Người Pháp tưởng đã cải hóa được tư tưởng, nên sau mấy năm, họ cho ông về nước, thực không dè trong những ngày du học và ở trên đất Pháp, nhà cách mạng tí hon Việt Nam, vì tiêm nhiểm được nhiều tư tưởng mới về tự do dân chủ, lại tiềm tàng trong óc một ý chí chống mạnh hơn với những âm mưu khác.

Năm Bính thân, niên hiệu Thành Thái thứ 8, Dương lịch 1898, Kỳ Đồng Nguyễn Cẩm về Việt Nam lúc ấy 21 tuổi. Nhà Cẩm quyền Pháp muốn bổ làm quan, ông cố ý từ nói:

- Tôi làm quan không ích lợi gì cho dân tôi, nay xin mở mang việc làm ruộng có lẽ hơn, vậy xin nhà nước dành cho một khu đất và cấp cho ngưu canh điền khí để khẩn.

Nhà Cẩm quyền Pháp chiều ý, tư lên phủ Thống sứ Bắc kỳ để ông tùy ý lựa chọn đất.

Năm sau tức năm 1897. Kỳ Đồng Nguyễn Cẩm được nhà Cẩm quyền Pháp chấp thuận cho mở đồn điền ở Yên Thế, và giúp cho tiền bạc, phương tiện. Họ nghĩ công việc ấy của ông không ngoài mục đích kinh doanh sau khi đã du học Pháp về, chớ có ngờ đâu chính nó là một kế để gây lại cơ sở hoạt động.

Một điều cũng nên biết là trong những ngày Kỳ Đồng xuất dương, các đồ đảng cũng như người cảm tình vẫn rằng “một ngày kia ông sẽ trở lại để dẹp loạn yên dân, vì người như thế không thể chết, còn cuộc thất bại trước chẳng qua là không đúng vào ngày giờ đấy thôi”.

Bởi thế, khi ông mộ phu mở đồn điền, người ta lại theo ông nườm nượp thành cả một phong trào.

Ấy thế là Kỳ Đồng lại tụ được phe đảng khá đông. Ông lại quả quyết phải làm cuộc cách mạng chống Pháp. Nhưng lần này nhờ tiếp xúc với văn minh Tây phương, ông đã thay đổi kế hoạch và phương châm hoạt động. Ông tích trữ lương thảo, tiền bạc, mua lậu khí giới và bí mật với ông Đề Thám ở Phồn Xương để chuẩn bị họp thành một lực lượng hùng hậu.

Muốn đồng bào tin tưởng mạnh hơn, ông đặt ra câu sấm:

“Phá đền thiên tử xuất, bất chiến tự nhiên thành” cho đồ đảng đi tuyên truyền khắp nơi, nói đó của Trạng Trình, nay ứng vào vì ông hai chữ “phá điền” là vỡ ruộng (lúc khai khẩn đồn điền)…

Ông tính như thế để sửa soạn cho sau này một cuộc nổi dậy lớn lao, trường kỳ. Song có lẽ vì phương châm chưa đủ, nhân tài không có, kế hoạch phòng gian bảo mật không cẩn thận, nên mưu toan lại bị lọt vào con mắt theo dời của nhà Cẩm quyền Pháp và bè lũ Việt gian lúc ấy đang nhung nhúc như đỉa đói mùa mưa.

Rồi khi quân Đề Thám bị thua ở mấy tình Bắc Giang, Bắc Ninh, Thái Nguyên; bao nhiêu chủ trương bí mật của Kỳ Đồng cũng hoàn toàn bại lộ. Kết quả, ông cùng một số đồng đảng bị bắt giải về Hải Phòng. Vì là chính phạm, nhà Cẩm quyền Pháp bắt ông đi đày sang đảo Marquises. Thời gian ấy vào khoảng đầu năm 1898.

Thành một chuyên viên thí nghiệm dược khoa và thôi không trở về nước nữa

Kỳ Đồng đi rồi, chuyến này không phải như chuyến trước, tuy nhiên số người còn lại vẫn tin một ngày kia ông sẽ trở về để tiếp tục sứ mạng.

Song càng ngày càng biệt vô âm tín.

Té ra trong lúc người ta hy vọng thì ông ở Marquises đã cưới một cô gái thổ dân làm vợ, sinh hạ được con trai tên là Pierre Văn Cẩm, một gái là Bernadette Văn Cẩm, cô sau này lấy chồng Pháp, còn cậu kia thì làm nghề ấn loát.

Theo một tài liệu của Pháp, thì năm 1911, vì sinh kế, ông theo thống đốc Bonhoure đến đảo Tahiti, vào làm tại một bệnh viện với chức vụ chuyên viên thí nghiệm dược khoa. Ở đây chỉ có mình ông người Việt Nam, nên ông đã sinh hoạt hoàn toàn theo lối Âu tây, và cũng vì thế ông không nghĩ gì đến nước non nhà nữa.

Ông cũng thường làm thơ nhưng toàn bằng chữ Pháp.

Ông chơi thân với họa sĩ Paul Gauguin, và có soạn một vở kịch bằng thơ Pháp để đùa lại lấy tên là “Les amours d’un vieux peintre aux Marquises” tức “Những mối tình của một họa sĩ già ở đảo Marquises”.

Ông mất ở Tahiti năm 1929 sau 31 năm lưu đày, thọ 55 tuổi.

Than ôi! Cứ như cuộc đời của Kỳ Đồng Nguyễn Cẩm thì cái thuyết “con người kỳ lạ tất có những thành công kỳ lạ” của các Thánh Hiền xưa, hẳn đã không còn linh ứng gì nữa vậy!...

Đỗ Thiên Thư st

(Phụ trang Nhật báo TIN LỬA)

CỐ ĐÔ HUẾ -
MỘT DI SẢN VĂN HÓA THẾ GIỚI

Ngược dòng lịch sử

Từ xa xưa, Huế đã là thủ phủ của xứ Đàng Trong - xứ Đàng Trong bắt đầu từ lộ Thuận Hóa được thiết lập dưới Vương triều Trần (1366). Lộ Thuận Hóa vốn là đất châu Ô, châu Lý của Vương quốc Chăm Pa xưa kia. Nhưng châu Ô, châu Lý lại là đất thuộc bộ Việt Thường của nước Văn Lang thuở trước.

Huế ở trong vùng đất hẹp, ít được thiên nhiên ưu đãi. Nắng mưa khắc nghiệt, chiến tranh triền miên. Trong quá trình hình thành, ngoài cư dân bản địa xứ Huế còn có cư dân tiền trú ngoài Bắc vào, từ Nam ra và cư dân miền biển lên và cả từ trên non cao xuống.

Huế là nơi tiếp giáp giữa hai vùng khí hậu Nam - Bắc. Trong các khu vườn của xứ Huế đều có hoa trái của hai miền Nam - Bắc. Ca nhạc Huế có chất cội nguồn phía Bắc lại có sắc thái Chàm phương Nam. Cho nên có cái gì xa xưa của Huế còn lại là sự tích hợp, tiếp thu, kế thừa và phát triển của cả hai miền.

Từ thế kỷ XVI, do sự biến động lịch sử dữ dội của dân tộc, nên nhiều cộng đồng người Việt, người Chăm và các dân tộc anh em khác đã diễn ra một làn sóng di dân triền miên và tiêu biểu là cuộc “Nam tiến” lớn nhất do chúa Nguyễn Hoàng vào lập trấn thủ trên đất Thuận Hóa, từ đất Ái Tử - Quảng Trị trở vào từ năm 1558:

- Năm 1774, thừa cơ họ Nguyễn khó khăn, đang đối phó với quân Tây Sơn, quân Trịnh tràn qua sông Gianh vào chiếm Phú Xuân.

- Năm 1786, quân Tây Sơn do Nguyễn Huệ chỉ huy, đánh chiếm Phú Xuân.

- Năm1788, để chuẩn bị Bắc tiến đuổi quân xâm lược ra khỏi kinh thành Thăng Long, Nguyễn Huệ lên ngôi vua, đặt niên hiệu là Quang Trung, lấy Phú Xuân, thủ phủ xứ Đàng Trong làm thủ đô của đất nước.

- Năm 1802, sau khi đánh bại nhà Tây Sơn, Nguyễn Phúc Ánh (hậu duệ của chúa Nguyễn) thành lập Vương triều Nguyễn lấy niên hiệu là Gia Long. Các công trình kiến trúc những di sản của Huế còn lại ngày nay được Ủy ban UNESCO công nhận là một trong những di sản văn hóa thế giới đều được các vị vua triều Nguyễn kế tiếp nhau dựng xây vào những năm sau đó.

Sơ lược kiến trúc kinh thành Huế.

Kinh thành Huế, nghiêng mình soi bóng bên bờ bắc sông Hương, vốn xưa kia Huế là phủ Phú Xuân được mở rộng trên dải đất của 8 làng thuộc hai tổng An Vân và Phú Xuân, thuộc huyện Hương Trà. Kinh thành Huế được bao bọc bởi ba vòng thành cùng chung một trục hướng lấy núi Ngự Bình làm tiên án, lấy cồn Hến làm tả Thanh Long, cồn Dã Viên làm hữu Bạch Hổ. Diện tích toàn kinh thành là 520 hecta.

Thành ngoài cùng gọi là Kinh thành hay Phòng thành, dạng hình vuông, chu vi 9.950m. Để phù hợp với việc phòng thủ, các cạnh đều được xây dựng theo hình “dích dắc” theo kiểu thành Vauban, một kiểu thành phòng ngự hiện đại của Châu Âu thời bấy giờ. Lối kiến trúc này và trên 4 mặt thành có bố trí 24 pháo đài và đường di chuyển binh lính lúc lâm trận, trợ giúp đắc lực cho người lính có thể kiểm soát và yểm trợ cho nhau lúc bị tấn công: Thành cao 6,60m, mặt trên rộng 6m, dưới chân rộng 21m. Có tiết diện hình thang vuông. Mặt ngoài thẳng đứng, mặt trong thoai thoải. Cốt thành đắp đất nện chặt. Hai lớp áo ngoài xây gạch vồ dày 1,50m. Ngoài thành có hào sâu, rộng gọi là Hộ thành hà. Hộ thành hà được thông với sông Hương tạo nên một mạng lưới giao thông thuận tiện. Bốn phía thành có 11 cửa ra vào.

Phía Nam (mặt tiền) có 4 cửa:

- Cửa Đông Nam môn (Thượng tứ)
- Thế Nhỡn môn (cửa Ngân)
- Quảng Đức môn (Cửa Sập)
- Chính Nam môn (cửa Nhà Đồ)

Phía Bắc (mặt sau) có 2 cửa:

- Chính Bắc môn (cửa Hậu)
- Tây Bắc môn (cửa An Hòa)

Phía Đông (bên trái) có 3 cửa:

- Chánh Đông môn (cửa Đông Ba)
- Đông Bắc môn (cửa Kẻ Trài)
- Trấn Bình môn (cửa Mang Cá)

Phía Tây (bên phải) có 2 cửa:

- Chánh Tây môn (cửa Chánh Tây)
- Tây Nam môn (cửa Hữu)

Trên mặt thành ngoài 24 pháo đài, quanh thành còn bố trí 400 pháo nhãn để phòng ngự lúc lâm chiến.

Cấu trúc đặc biệt của các cổng kinh thành là xây tầng cao, tiện quan sát không gian bên ngoài. Để đảm bảo độ bền chắc, người ta xây gạch theo kiểu núi cao, tạo nên những vòm cuốn cao, rộng vững chãi mà bớt cảm giác nặng nề.

Trong kinh thành có hàng trăm công trình của triều đình như: Lục Bộ, Tôn Nhơn, Xã Tắc…

Thành giữa gọi là Hoàng Thành, xây gạch cao 4m, dày 1m, có hào sâu bao bọc phía ngoài. Người ta đã xây 10 cầu để vượt qua hào này đi vào thành. Hoàng Thành có hình gần vuông mỗi cạnh khoảng 600m, có 4 cửa:

- Ngọ Môn (mặt trước) cửa Nam
- Hòa Bình (mặt sau) cửa Bắc
- Hiển Nhơn (bên trái) cửa Đông
- Chương Đức (bên phải) cửa Tây

Mặt bằng Hoàng thành chia thành từng khu vực riêng gần ứng với 9 ô cửa Cửu Trù, Hà Đồ trong Kinh Dịch:

- Ô chính diện từ Ngọ môn qua sân chầu đến điện Thái Hòa, nơi cử hành đại lễ.
- Ô số 2 bên phải khu miếu thờ các vua Nguyễn có Hiển Lâm Các, Thế Miếu, Hưng Miếu…
- Ô số 3 bên trái khu điện thờ các chúa Nguyễn có Thái Miếu, Triệu Miếu…
- Ô số 4 giữa bên trái là khu nội phủ, vườn Cơ hạ.
- Ô số 5 giữa bên phải, khu điện Phụng Tiên, cung Diên Thọ, cung Trường Sinh, Trường Du tạ… dành cho nữ giới và là nơi ở của Hoàng Thái Hậu và Thái Hoàng Thái Hậu.
- Các ô 6, 7, 8 từ trái qua phải ở phía sau là hồ Bắc Đẩu, còn gọi là Hồ Hòa Bình.
- Ô số 9 nằm ở vị trí trung tâm là Tử Cấm Thành (thành trong cung) có hình gần vuông mỗi cạnh dài chừng 300m, xây gạch cao 3,7m, dày 0,8m có 10 cửa mở ra 4 phía:
· Trước có Đại Cung môn (sau điện Thái Hòa)
· Sau có Tường Loan môn, Nghi Phụng môn, Văn Phòng môn.
· Bên phải có Gia Tường môn, Tây An môn.
· Bên trái có Đông An môn, Cấm Uyển môn, Hưng Khánh môn và Duyệt Nghi môn.

Các cổng đó bị phá hầu hết trong chiến tranh. Về kiến trúc các cổng này thường chia làm 3 lối ra vào: lối giữa cao, rộng hơn (kiểu kiến trúc tam quan miền bắc). Cổng được xây cao hơn thành, phía trên tạo nên nhiều lớp xếp nhau có mái giả uốn cong ra ngoài, phía trong cổng chia nhiều ô trang trí đẹp. Các lớp này càng lên càng nhỏ dần, tạo nên cảm giác của mái tháp tầng tầng lớp lớp (phong cách tháp Chàm phương nam).

Tử Cấm Thành, trung tâm cẩn mật của kinh đô, nơi ăn ở, sinh hoạt làm việc của nhà vua. Nơi có nhiều cung điện nguy nga diễm lệ như điện Cần Chánh, điện Cẩn Thành, Khôn Thái, Điện Kiến Trung. Ngoài phi tần, mỹ nữ và thái giám ra không một ai được phép vào khu vực này.

Những công trình kiến trúc quan trọng còn lại của Huế hôm nay.

Quần thể kiến trúc Huế nói chung, kinh thành Huế nói riêng, còn lại không nhiều.

Chỉ riêng Hoàng thanh thuở xưa đã có 147 công trình lớn nhỏ. Trong Tử Cấm Thành có 40 công trình kiến trúc, nhưng do chiến tranh, thiên tai khắc nghiệt và sự phá hoại vô thức của con người đã làm cho di sản Huế nghèo kiệt. Trong hàng chục lăng tẩm, đền chùa, cung điện… đã có những di tích bị phá hủy hoàn toàn như điện Cần Chánh, Cẩn Thành, Kiến Trung… lăng Gia Long. Một số hư hỏng khá nặng, như lăng Tự Đức, Minh Mạng… Ngọ Môn, điện Thái Hòa…

Với ý thức bảo tồn di sản văn hóa dân tộc, ngay khi nước nhà thống nhất, Đảng và Nhà nước đã có chủ trương bảo vệ, phục hồi các di tích Huế. Với sự giúp đỡ của ủy ban UNESCO, một số công trình kiến trúc đã được tu bổ, phục hồi, trong đó đáng chú ý là:

NGỌ MÔN: cửa chính của Hoàng Thành, xây năm 1833 dưới thời Minh Mạng. Ngọ môn dài 57,95, cao 14,80m, gồm 2 phần chính:

- Phần dưới: nền lát bằng đá ghép, có 5 lối ra vào. Kiến trúc theo lối “thượng thu hạ thếch” với độ dốc gần như thẳng đứng tạo một thế đứng hơi choãi chân bền vững mà vẫn có cảm giác sừng sững thành vại của những dãy nhà kín cổng cao tường. Cùng với gạch nung già đỏ au còn có những tảng đá xanh vuông vẫn được lắp ghép thành những đường diềm chạy viền quanh cổng và diềm chân càng làm tăng vẻ đẹp cho công trình.

- Phần trên: lầu Ngũ Phụng, 2 tầng, bằng gỗ sơn son thếp vàng, có 100 cột lớn nhỏ. Kiến trúc theo lối liên kết 9 bộ mái riêng biệt, to nhỏ, cao thấp khác nhau đặt trên một nền dài bằng đá hình chữ U đồ sộ, tạo nên vẻ nhấp nhô của các hình khối trong không gian như hình chim phụng xòe cánh đang bay. Vì vậy nhân dân quen gọi là lầu Ngũ Phụng.

Điều đặc biệt, từ xa nhìn lên nóc Ngọ Môn với nhiều đầu đao uốn cong, uyển chuyển, ta có cảm giác như đây là những con thuyền san sát ra khơi.

Về cấu trúc lầu Ngũ Phụng các kiến trúc sư có sự tính toán kỹ để cho công trình tối ưu về mặt công năng và rất đẹp. Trước hết, đó là sự bỏ trống các liếp che quanh lầu (trừ phía lưng) và làm mái hiên ngắn cao hẳn lên, tạo cho công trình thoáng đãng và tầm nhìn từ trên lầu xuống được mở rộng ở cả trục tung lẫn trục hoành.

Về trang trí dùng ngói ống tráng men xanh có in hình hoa văn ở diềm mái. Những hình trang trí như dơi ngậm tiền, bướm và rồng cách điệu được ghép bằng những mảnh sành sứ màu. Trong khi lắp ghép, các nghệ nhân hết sức mài dũa, chọn lọc màu sắc sao cho vừa khớp, lại vừa hòa nhập vào toàn bộ khung cảnh. Nhờ vậy những trang trí này nổi lên rất đẹp.

Ngọ môn, một kiệt tác nghệ thuật kiến trúc xứng đáng là biều tượng của kinh đô Huế, được người đời ngợi ca qua bài thơ khắc trên lầu Ngũ Phụng:

Công tương gia ngôn lặc
Côn Cương danh cửu tri
Âm tiêu dương trưởng hậu
Thiên đại thái lai thì

Bài thơ nói đến công người thợ như lời nói khắc vào đá, lưu lại tiếng đẹp như núi Côn Cương. Khi khí âm suy, khí dương thịnh, ấy là lúc đạo trời mở đường lớn đưa lại thái bình.

ĐIỆN THÁI HÒA:

Xây tháng 2-1805, gồm 2 ngôi nhà lớn ghép lại theo kiểu “Trùng thiềm, điệp ốc”. Với 2 tầng mái trước của tiền doanh và mái trước của hậu doanh làm thành 3 lớp, gây nên ấn tượng trùng điệp thể “tam tài”, để cho 9 con rồng uy nghi trên nóc điện bay vút lên trên giữa nền trời bao la ẩn hiện của mái ngói thanh lưu ly, hoàng lưu ly, tạo thành sức mạnh đầy quyền uy của triều đình.

Là tòa nhà chính nơi cử hành các nghi lễ lớn của triều đình và thể hiện uy quyền quốc gia, điện Thái Hòa được xây trên một nền cao 1m, diện tích 1.200m2, nguy nga bề thế, trông ra sân chầu rộng.

Nét đặc sắc của nghệ thuật kiến trúc điện Thái Hòa là sự ghép nối giữa hai ngôi nhà dường như để tạo nên không gian nội thất lớn, nhưng không gây ấn tượng lạc lõng, mà đồng nhất, phong quang. Cấu trúc này là sự ghép sát hai công trình riêng, chứ không phải là một bộ khung thống nhất. Ở đây, các nhà xây dựng ứng dụng kiểu trần vòm mai cua ở dưới máng nước nối của hai mái nhà này, thuật ngữ kiến trúc gọi “máng thừa lưu”. Chính trần mai cua này nối với trần nửa trong công trình tạo ra được một không gian nội thất liên tục, thống nhất rộng rãi, không còn cảm giác hai tòa nhà ghép nối lại nữa. Việc ứng dụng làm trần dưới máng thừa lưu là một sáng tạo của những người xây dựng diện Thái Hòa, nó chẳng những che kín được sự lõm xuống của không gian nơi nối hai mái mà độ cong vòm cuốn của nó tạo nên nhịp điệu cho không gian nội thất các kiến trúc. Nhờ có mảng trần vòm cuốn mai cua này mà người xem đỡ hẩng khi đi từ không gian nửa trong điện là nhà có trần và không gian nửa ngoài điện là nhà không trần và ngược lại. Lối kiến trúc đó là một dụng ý trí tuệ của những nhà thiết kế vì nửa ngoài là nơi mọi người đến hành lễ, nên cần có không gian cao rộng, thoáng, sáng sủa. Người ta không làm trần là để tận dụng hết chiều cao của kiến trúc, là nơi cần có nhiều diện tích để thực hiện hình trang trí đẹp theo ý đồ của người nghệ sĩ. Ngược lại, nửa trong điện là nơi vua ngồi, để quần thần bái vọng chiêm ngưỡng, cần kín đáo, thâm ngiêm, nên cần che trần làm hạn chế không gian góp phần đem lại hiệu quả tôn nghiêm, uy quyền.

Đã gần 2 thế kỷ trôi qua, nhưng điện Thái Hòa vẫn còn đó. Nơi này đã ghi lại được dấu ấn của 197 bài thơ dạt dào tâm hồn các thi nhân đầu thế kỷ XIX, nói lên niềm khao khát của người dân Việt là Hòa bình, kiến quốc và lòng tự hào đất nước văn hiến ngàn xưa.

KHU THẾ MIẾU:

Nơi thờ các vua Nguyễn còn lại khá nguyên vẹn. Đáng chú ý có 9 đỉnh đồng cực lớn còn gọi là cửu đỉnh được đúc vào cuối năm 1835, dưới thời Hoàng đế Minh Mạng và sau một năm lao động sáng tạo, đầu năm 1837 thì hoàn thành. Đây là một tác phẩm nghệ thuật đúc đồng hoàn mỹ, độc đáo có một không hai của Việt nam. Trên mỗi đỉnh đồng đều có chạm nổi 18 hình sông, núi, biển, trời, cỏ cây, cầm thú, trăng sao, mưa gió và phong cảnh của mọi miền đất nước, tượng trưng cho sự bền vững, thịnh vượng của Tổ quốc Việt nam.

Cửu đỉnh đứng cạnh Hiển Lâm Các, ngôi nhà 3 tầng duy nhất của kinh đô Huế, mang biểu tượng tam tài: Thiên, Địa, Nhân; như là một sự bố cáo trước Trời, Đất và Người về công mở mang bờ cõi và đại định của triều đình.

Cũng như các kiến trúc của thời Lý-Trần (thế kỷ XI-XIV) tính đối xứng trong bố cục mặt bằng của kiến trúc thường quy về một điểm trung tâm. Trong một quần thể kiến trúc, người xây dựng thường dựa vào một kiến trúc chính và lấy đó làm tâm điểm như một nhân tố quy chiếu tất cả kiến trúc lại thành một khối, từng cặp một đối xứng nhau qua tâm điểm đó. Lối bố cục đó mang nhiều yếu tố cộng đồng tất cả đều quây quần nhau quanh một cái chung bình đẳng và nhất quán. Và lối kiến trúc này tạo cho môi trường kiến trúc một không gian trang nghiêm, trật tự chỉn chu. Trên dưới, phải trái, trước sau, chính phụ… đều có quy định và được phân biệt một cách rành mạch. Kiến trúc kinh thành Huế cũng áp dụng lối bố cục mặt bằng đăng đối này.

Nhìn chung, các cung điện Huế tuy có lớn, nhưng hầu như chỉ mới phát triển theo mặt bằng không gian 2 chiều, còn chiều cao chưa được chú ý đến. Cả Hoàng Thành với hàng trăm công trình mà chỉ có một Hiển Lâm Các, một Ngọ Môn vói 3 tầng lầu (cao 15m) là cao nhất. Đó phải chăng là thói quen truyền thống của việc sử dụng chất liệu gỗ, hay những quy định nghiêm ngặt nào đó đã trở thành một nếp hằn cố hữu dẫn đến sự bảo thủ! Phải chăng kỹ thuật xây dựng thời bấy giờ chưa cho phép các nhà thiết kế xây dựng những công trình kiến trúc cao tầng?...

Kinh đô Huế dịu dàng, kín đáo, trầm lặng nên thơ như giòng nước Hương Giang trôi êm ả, như tán phượng vĩ lao xao trong thành nội, như đồi thông u tịch buổi chiều hôm xứ Huế. Đi thăm kinh thành Huế du khách sẽ thấy lòng mình thanh thản, tự hào, và dễ bị chìm đắm trong sự quyến rũ bởi các công trình kiến trúc tráng lệ mà khiêm nhường, e ấp hòa quyện trong cảnh mây, nước, cỏ hoa, đất trời tạo nên những cảm xúc tuyệt mỹ cho thơ ca và nhạc họa.

Di Sản Thế Giới – Bùi Đẹp

Phụ Bản IV

|  01 |
 02 |
 03 |
 04 |
 05 |
 06 |
 07 |
 08 |
 09 |
 10 |
 11 |
 12 |
 13 |
 14 |
 15 |
|  16 |
 17 |
 18 |
 19 |
 20 |
 21 |
 22 |
 23 |
 24 |
 25 |
 26 |
 27 |
 28 |
 29 |
 30 |
|  31 |
 32 |
 33 |
 34 |
 35 |
 36 |
 37 |
 38 |
 39 |
 40 |
 41 |
 42 |
 43 |
 44 |
 45 |
|  46 |
 47 |
 48 |
 49 |
 50 |
 
|  01 |
 02 |
 03 |
 04 |
 05 |
|  06 |
 07 |
 08 |
 09 |
 10 |
|  11 |
 12 |
 13 |
 14 |
 15 |
|  16 |
 17 |
 18 |
 19 |
 20 |
|  21 |
 22 |
 23 |
 24 |
 25 |
|  26 |
 27 |
 28 |
 29 |
 30 |
|  31 |
 32 |
 33 |
 34 |
 35 |
|  36 |
 37 |
 38 |
 39 |
 40 |
|  41 |
 42 |
 43 |
 44 |
 45 |
|  46 |
 47 |
 48 |
 49 |
 50 |
 
Netadong.com thiết kế