VÀI CHI TIẾT VỀ BUỔI HỌP NGÀY 10/9/2011 của CLB Sách Xưa & Nay Như thường lệ, để mở đầu phiên họp, Dịch giả Vũ Anh Tuấn giới thiệu với các thành viên hai cuốn sách. Lần này cuốn sách thứ nhất được giới thiệu là một cuốn thơ Song Ngữ Việt – Anh nhan đề là Miền Dân Gian Mây Trắng (The White Cloud Popular Area) của nhà thơ Trần Nhuận Minh. Dịch giả Vũ Anh Tuấn đã dịch xong cuốn này từ một năm trước, nhưng nay cuốn sách mới được in ra. Sách dày 150 trang và được in rất trang nhã và ĐƯƠNG NHIÊN LÀ TIẾNG VIỆT ĐI TRƯỚC TIẾNG ANH… THEO SAU… Đây là dịch phẩm thứ 16 của Dịch giả Vũ Anh Tuấn và nó đã được dịch một cách thích thú vì cả 43 bài thơ đều là những chuyện đời thường rất dí dỏm, vui vui và hấp dẫn, và hấp dẫn hơn cả là bản dịch đã chả bị một ai xía vào để có nguy cơ bị sửa lành thành què! Nhận được từ ngoài Bắc gửi vào 30 cuốn, Dịch giả Vũ Anh Tuấn đã tặng gần hết cho các thành viên của CLB, nhưng không có đủ để tặng mỗi người một cuốn. Cuốn thứ nhì được giới thiệu là một cuốn sách bằng tiếng Anh và là tuyển tập các truyện ngắn của LU HSUN (Lỗ Tấn). Dịch giả Vũ Anh Tuấn kể về cuốn sách thứ nhì này như sau: “Đầu năm 1973, tôi có ghé nhà bác Lê (Nguyễn Hiến Lê) ở đường Kỳ Đồng thăm bác và thấy bác có cuốn này còn mới tinh và có lời đề tặng bằng chữ Hán, tuy sách được viết bằng Anh Ngữ và xuất bản ở Bắc Kinh. Bác Lê cho biết, một người bạn của bác ở Bắc Kinh qua chơi và tặng bác. Tôi vốn rất thích Lỗ Tấn mà tôi được biết tên thật là Chu Thụ Nhân, và là cha đẻ của nhân vật A.Q. rất nổi tiếng về việc luôn luôn áp dụng phương pháp “thắng lợi tinh thần” trong cuộc sống. Tôi có biết qua về Lỗ Tấn, ông mất năm mới có 55 tuổi, tương đối chết trẻ. Tôi giống ông ở chỗ rất thích đọc sách, nhưng còn về đời sống thì tôi thấy ông “lôi thôi” quá, thoạt đầu thì học ngành hàng hải, sau lại chuyển sang ngành mỏ, rồi khi được sang Nhật du học thì lại vào ngành y, và rồi cuối cùng mới chuyển sang viết văn vì ông quan niệm rằng “chữa bệnh thể xác, không quan trọng bằng chữa bệnh tinh thần”, rồi sau đó còn gia nhập Quang Phục Hội của Tôn Trung Sơn nữa, tức là còn dính tới “Cô chị hôi rình” nữa. Tuy nhiên khi được đọc một vài truyện về nhân vật A.Q. hồi đó do cụ Phan Khôi dịch thì tôi thích nhân vật đó quá! Do đó hôm thấy bác Lê có, tôi tính xin mượn, nhưng bị bác Lê từ chối và nói để bác đọc xong đã mới có thể cho mượn. Thế rồi việc mượn cuốn đó cũng bị tôi quên đi, để rồi 37 năm sau, tôi tình cờ thấy đúng cuốn này trong một lô sách cũ của cô bạn tôi và… ẵm được “Nàng” về mà chỉ phải trả có 20 ngàn bạc! Sau phần giới thiệu sách, BS. Đính đã lên nói chuyện về chuyến Mỹ du trong 3 tháng của mình. Các chuyện BS. Đính kể được các thành viên thích thú và chăm chú nghe. Tiếp lời BS. Đính, bà Tâm Nguyện cũng lên nói chuyện về cùng một đề tài là “Mỹ du” nhưng bà Tâm Nguyện chỉ đi có đúng 1 tháng. Những chuyện bà kể cũng được các thành viên thưởng thức một cách thích thú không kém gì khi BS. Đính kể. Kế đó A. Hữu đã lên ngâm tặng các thành viên một bài thơ bằng giọng ngâm rất truyền cảm của anh. Tiếp lời A. Hữu, bà Uyển, ái nữ của nhà văn Toan Ánh đã giới thiệu mấy cuốn sách (4) của Cụ Toan Ánh sắp được in và cho biết bà có ý định sẽ làm một buổi thuyết trình về “Tính cách sống độc lập của người Việt”, là tính cách đã giúp người Việt tồn tại được sau 1000 năm nô lệ Tàu và 100 năm bị Tây đô hộ. Buổi họp kết thúc lúc 11 giờ 10 cùng ngày.
Vũ Thư Hữu
VÀI CHI TIẾT VỀ CUỐN SÁCH “TOÀN BỘ TÁC PHẨM CỦA JONATHAN SWIFT” trong BỘ SÁCH PLÉIADE Tôi làm quen với nhà văn này năm tôi lên 10, tức là 65 năm trước, qua tác phẩm Quy ly ve Du ký của ông, do Cụ Nguyễn Văn Vĩnh dịch, và nhà Đắc Lộ Thư Xã xuất bản năm 1944. Cuốn sách này do cụ thân sinh ra tôi mua cho tôi và tôi giữ nó bên mình trong gần 50 năm trời, để rồi mấy năm trước tôi đã đem cho một bà bạn mượn, và trên đường về nhà cái giỏ bà đựng cuốn sách đã bị giật mất. Tôi buồn lắm, nhưng may thay, ba năm sau, tôi lại có duyên mua được một cuốn y chang cũng xuất bản năm 1944, với các minh họa trên cả tuyệt vời của nhà danh họa Mạnh Quỳnh. Lần này thì vật sẽ bất ly thân, và ngày nào tôi ra đi, nó cũng sẽ tháp tùng… là cái chắc! Hai tháng trước đây tôi tình cờ gặp được ở một nhà sách cũ cuốn Toàn Bộ Tác Phẩm của tác giả này được in trong có 1 cuốn khổ 11cm x 18cm, dày 1940 trang, và in bằng giấy Thánh Kinh (papier Bible), thứ giấy tuyệt vời nhất trên đời này, vì rất mỏng mà chữ in rất rõ và rõ cả trên hai mặt của một tờ; do rất mỏng nên mặc dầu gần 2000 trang, bề dày của cuốn sách cũng chỉ là 5 phân. Ngoài số 1940 trang được đánh số bằng chữ số thường, sách còn có 41 trang Lời nói đầu và Niên biểu được đánh số bằng chữ số La Mã, tóm lại là cuốn sách này có tổng cộng 1981 trang. Cuốn Cụ Vĩnh dịch in năm 1944 chỉ gồm có 2 truyện Gulliver sang nước NGƯỜI TÝ HON (LILLIPUT) và sang nước người Khổng Lồ (Brobdingnac), do đó Cụ Vĩnh mới chỉ dịch 2 chuyến đi đầu tiên, và tôi được cụ thân sinh ra tôi mua cho tôi cuốn này năm 1945. Hai mươi năm sau, vào năm 1965, tôi đã bỏ ra một ít thời gian để tìm hiểu về Jonathan SWIFT và được biết là ông viết tất cả là 4 chuyến đi của Gulliver. Hai chuyến đi sau gồm chuyến đi thứ III đi qua 4 nước Laputa, Balnibarbi, Glubbdubdrib, Luggnagg và cả Nhật Bản, và chuyến đi cuối cùng thì là đến xứ sở Loài Ngựa Houyhnhnms và ở xứ sở này mang tên là Yahoo và làm đầy tớ cho loài ngựa thay vì làm chủ bầy ngựa như bình thường… Biết vậy là biết qua sách vở, còn sách thật thì không có, mặc dầu lúc đó ở tuổi 30, tôi đã rất thông thạo Pháp và Anh văn và đã đọc cả ngàn cuốn sách đủ loại… Trong khoảng thời gian kế tiếp tôi có để tâm tìm nhưng không gặp và cũng quên dần đi, cho tới bây giờ đã “cổ lai hi” mới có duyên gặp toàn bộ tác phẩm của nhà văn mà tôi yêu thích, xin được giới thiệu qua với quý vị. Cuốn sách 1981 trang này gồm các tác phẩm như sau: 1. Từ trang 1 tới 41 (bằng số La Mã) là Lời nói đầu và Niên biểu. 2. Từ trang 1 (đánh số thường) tới trang 307 là các truyện về 4 chuyến du hành đã nói ở trên. 3. Từ trang 309 đến 406 là phần gọi là “Các bài viết thời trẻ” gồm một số thư từ viết cho nhiều nhân vật khác nhau và vài bài thơ. 4. Từ trang 407 đến 563 là gồm hai truyện: “Truyện cái thùng tô nô” (Conte du Tonneau) và “Trận chiến giữa các cuốn sách” (La bataille des livres). 5. Từ trang 564 đến 593 là “Những ý tưởng về nhiều vấn đề khác nhau”. 6. Từ trang 594 tới 684 gồm hai tác phẩm “Các bài viết của Bickerstaff” và “Hồi ký của Martin Scribblerus”. 7. Từ trang 685 tới 1600 là các tác phẩm linh tinh, các hồi ký, tự truyện và một số bài thơ. 8. Và từ trang 1601 đến 1941 gồm các ghi chú và mục lục. Thực là một cuốn sách tuyệt vời giá trị bằng cả trăm cuốn tầm thường khác, và tôi tự hứa với mình là sau khi “rửa tay, gác kiếm” không “mắc dịch” nữa thì sẽ bỏ thì giờ đọc cho bằng hết… Trích Hồi ký 60 năm chơi sách, chương VI Vũ Anh Tuấn
TỪ TU THIỀN ĐẾN TU PHẬT
(tiếp theo) Nơi trang 109, Quyển Thượng, Thiền Sư Suzuki nói rằng “Người Ấn tinh vi trong việc phân tích nội tâm, tưng bừng trong thi hứng tuyệt vời. Người Trung Hoa mãi mãi là đứa trẻ con bụi đời, vóc dáng nặng nề, không bao giờ dám bay bổng”. Nhưng nơi trang 10 của Quyển hạ, Ngài lại nói về “ngón tay trỏ của Thiên Long chỉ cho thấy vẻ huyền bí của toàn vũ trụ và trong tiếng hét của Lâm Tế chúng ta nghe bản hòa âm thiên nhạc của khối tinh cầu”! Xem ra đứa trẻ con cục mịch Trung Hoa và Thiền Sư Suzuki lại có một sức tưởng tượng còn bay bổng siêu đẳng hơn các triết gia Ấn Độ rất nhiều! Không biết có phải do Ngài quá ái mộ Thiền nên để trí tưởng tượng tha hồ nhảy múa, quên xem lại mục đích của Đạo Phật để thấy những vẻ huyền bí hay hòa âm thiên nhạc tưởng chừng như nghe thấy được đó chẳng dính dáng gì đến Sinh Tử, Phiền Não mà người tu Phật cần Thoát?! Thật vậy, trong khi Đức Thích Ca sau khi đắc đạo rồi thì bỏ ra hết cuộc đời còn lại để thuyết giảng. Những gì Ngài giảng được các Đại Đệ Tử gom lại thành 12 Bộ Kinh còn lưu truyền đến muôn đời. Trong đó, Ngài giải thích hết sức rõ ràng, từ lý do vì sao cần phải tu hành. Phải Phát Tâm như thế nào? Cách sắp xếp đồ chúng. Soi quán những gì vv… Mỗi mỗi đều tách bạch, để dù Ngài nhập diệt từ lâu nhưng người sau nương đó mà hành trì thì cũng thành tựu được. Trong khi đó, đọc hầu hết các Thiền Sư trong Thiền Tông, ta thấy các ngài không hề giảng hay nói câu nào, như Thiền Sư Suzuki đã tổng hợp lại: Chỉ là la, hét, đánh, sặp cửa cho đệ tử gãy chân, nói vu vơ, hỏi ngược lại, nói nhại, hoặc chỉ cần đưa ngón tay lên. Vậy mà Thiền Sư Suzuki hết lời khen, cho đó là “chỉ thẳng”! Hiện tượng được cho là Ngộ của Thiền Sinh xem ra cũng quá dễ dàng. Chỉ cần dám đánh lại thầy, chửi Tổ, mắng Phật là kể như đã chứng đắc! Thậm chí có vị cả đời chỉ “đưa một ngón tay lên” mà cũng là Thiền Sư! Chỉ cần mạnh dạn có những thái độ, cử chỉ khác người thôi! Có lẽ chính vì vậy mà họ có pháp đâu để giảng dạy? Do đó phải chăng cần: hét, đánh hay quăng phất tử, tích trượng khi có người hỏi pháp để dấu dốt?! Tu Phật là SỬA CÁI TÂM DÍNH MẮC ĐỂ ĐƯỢC GIẢI THOÁT. Người tu theo Đạo Phật phải TU TÂM, phải chuyển hóa nó để trở thành một con người tốt đẹp hơn chớ đâu phải để trở thành những con người nổi bật bằng những lời lẽ, cử chỉ bất bình thường! Do đó, chúng ta có thể hoàn toàn đồng ý với nhận xét của những người khích bác giới Tu Thiền từ xưa, mà Thiền Sư Suzuki đã viết lại. Bởi đúng là “Thiền như thế đã đi lạc quá xa so với hiểu biết thông thường về lời dạy của Phật được chép lại trong các Bộ Kinh”. Vì người tu Phật chân chính là phải Thân, Khẩu, ý, ba nghiệp thanh tịnh. Phải có đức Từ, Bi, Hỉ, Xả. Phải trừ Ngã chấp, Pháp chấp. Phải thu thúc Lục Căn mà xem ra các Thiền Sư tu theo như những gì đã trích lại trong các tập sách ta không thấy có được phần nào những đức tính cao đẹp đó! * Thiền Sư Suzuki không thắc mắc gì về các Công Án mắng Phật, chê Tổ, dù Ngài có đọc kinh HOA NGHIÊM, nhưng không để ý đến phần Kinh nói về THIỆN TRI THỨC như sau: “Này Thiện Nam Tử. Thiện Tri Thức như từ mẫu, vì xuất sanh Phật chủng. Như từ phụ, vì lợi ích rộng lớn. Như nhũ mẫu, vì thủ hộ chẳng cho làm ác. Như giáo sư, vì dạy sở học của Bồ tát. Như Đạo sư, vì hay chỉ đường Ba La mật. Như lương y, vì hay chữa bệnh phiền não. Như tuyết sơn, vì tăng trưởng thuốc nhất thiết trí. Như dũng tướng, vì dẹp trừ tất cả sự bố úy. Như người đưa đò, vì làm cho ra khỏi đàng sanh tử. Như lái thuyền, vì đến bửu sở trí huệ. Này Thiện nam tử! Ta lược nói tất cả Bồ Tát hạnh, tất cả Bồ Tát Ba la Mật, tất cả Bồ tát nhẫn, tất cả Bồ tát tổng trì môn, tất cả Bồ tát tam muội môn. Tất cả Bồ Tát thần thông trí, tất cả Bồ Tát hồi hướng, tất cả Bồ Tát nguyện, tất cả Bồ Tát thành tựu phật pháp đều do sức của thiện tri thức, đều dùng thiện tri thức làm căn bổn. Đều nương thiện tri thức mà sanh. Đều nương thiện tri thức mà ra. Đều nương thiện tri thức mà trụ. Đều do thiện tri thức làm nhân duyên. Đây là do Thiện Tri Thức mà phát khởi”. Công ân của Thiện tri Thức to tát như vậy, lẽ nào học xong lại quay ra mạt sát họ để trả? “Nhất tự vi sư, bán tự vi sư”. Mỗi chữ đều nhờ Thầy mà có được. Ân nghĩa đó họ còn chưa trả, thì Nhân Thừa còn chưa đạt. Người đời còn bảo nhau: “Kính Thầy mới được làm thầy”, mà họ chửi cả Tổ, chê cả Phật chỉ bằng: “Que cứt khô”, “ba cân mè”, thậm chí có vị còn cho rằng “Nhắc đến chữ Phật thì phải súc miệng”… thì làm sao còn đòi làm Thánh, làm Phật? Thiền Sư Suzuki cũng có chiếu Sáu Cửa vào Động Thiếu Thất mà không thấy Tổ Đạt Ma dạy trong PHÁ TƯỚNG LUẬN: Hỏi: Nếu có người dốc lòng cầu đạo thì nên tu theo pháp nào mới thực là cực kỳ tĩnh yếu? Đáp: CHỈ MỘT PHÁP QUÁN TÂM THÂU NHIẾP CÁC PHÁP mới thực là cực ký tỉnh yếu Hỏi: Sao một pháp nhiếp trọn các pháp được? Đáp: Tâm là gốc của muôn pháp. Tất cả muốn pháp duy một Tâm sanh. Nếu hiểu được Tâm ắt muôn pháp sẵn đủ trong đó, cũng ví như cây lớn có đủ thứ cành, nhánh, trái, bông, nhưng tất cả đều do một gốc sanh ra, nếu chặt gốc ắt cây chết. Nếu hiểu tâ m tu đạo ắt được tỉnh lực nên dễ thành. Không hiểu tâm mà tu đạo ắt nhọc công mà vô ích.” “”Nếu muốn tìm Phật, hãy cẩn Thấy Tánh. Tánh tức là Phật. Nếu chẳng Thấy Tánh thì chay lạt, giữ giới đều vô ích cả” Khi truyền pháp cho lục Tổ Huệ Năng, Ngũ Tổ dạy: “Nếu chẳng biết Bổn tâm thì học pháp vô ích. Bằng biết Bổn Tâm và thấy Bổn Tánh mình tức gọi là trượng phu, là Phật, là thầy cõi trời và cõi người vậy” Trong Pháp Bảo Đàn Kinh Lục Tổ dạy: Muốn thấy Phật phải ngó vào trong Tánh mình mà tìm, đừng ngó ra ngoài thân mà kiếm” Tổ Đạt Ma và Lục Tổ Huệ Năng được Thiền Tông phong là Tổ Sư Thiền đều dạy: “Muốn Thành Phật thì phải THẤY TÁNH hoặc THẤY BỔN THỂ TÂM. Muốn Thấy Tánh thì “Phải NGÓ VÀO TRONG TÁNH MÌNH MÀ TÌM”. Phải nhờ vào Trí Huệ. Phương tiện là Trí Bát Nhã, là Nội quang phản chiếu, là Thiền Quán… Trong khi đó, phương tiện của các Phái Thiền chỉ có “đưa ngón tay lên”. Cầm cây tích trượng hay phất tử đưa xuống, đưa lên..Thậm chí Tổ Pháp Diễn ở Ngũ Tổ Sơn còn bảo: “Chỉ cần biết “sao gọi cái này là bàn tay” thì đã có Thiền và thành Thiền”! Xem ra lời dạy của Tổ Sư, kể cả lời Phật, cũng chẳng có chút giá trị gì đối với các Thiền Gia! Phái Tu Thiền chỉ cần đắc mỗi một Công Án (Chưa biết là có thật sự đắc hay không) thì chẳng những Thành Phật, mà còn “cao hơn cả Phật” Trong khi đó, Đại Thừa Kim Cang Kinh Luận viết về Quả Phật như sau: “Phật dạy Ngài Văn Thù Sư Lợi rằng: “Quả Phật có ra là từ chỗ giữ gìn trai giới thanh tịnh. Quả Phật từ chỗ luôn chơn thật không thối lui mà được. Quả Phật từ chỗ tu hành bình đẳng, không biết oán, thân mà được. Quả Phật từ chỗ hạ mình xuống tầm cầu minh sư mà được. Quả Phật từ chỗ Từ, Bi, Nhẫn Nhục mà được. Quả Phật từ chỗ Tinh tấn tu hành, Giải Thoát Phiền não mà được. Quả Phật từ chỗ khó làm hay làm, khó Xả hay Xả, khó Học hay Học mà được. Cho đến Quả Phật là từ chỗ gieo trồng tất cả giống Trí Huệ mà được”. Như vậy, ta nghĩ thế nào khi Thiền Sư Suzuki đồng tình với những kẻ mắng Phật, chửi Tổ? Theo Nhân thừa thì đó là những người bất kính, vong ân, huống chi đây là những người tu lẽ ra phải “Thân, Khẩu, Ý Ba Nghiệp thanh tịnh”? Tu chỉ có một nghĩa là SỬA. Như vậy các Thiền Sư đang Sửa cái gì để gọi là Tu Thiền? Có lẽ là ta phải đồng ý về nhận xét của những người khích bác Thiền mà Thiền Sư Suzuki đã trích: “Thiền không phải là Phật Giáo: đó là một thứ đạo hoàn toàn xa lạ với tinh thần Phật Giáo, là một biến chứng mà ta thường thấy nẩy sinh trong lịch sử của bất cứ tôn giáo nào. Thiền là một cái gì bất thường, lớn mạnh giữa những dân tộc mang những nếp cảm nghĩ khác hẳn với dòng Phật Giáo chánh truyền “ Bởi những gì nó diễn ra rõ ràng là như thế. Tóm lại. Hẳn mọi người khi đọc THIỀN LUẬN của Ngài Suzuki thì ai cũng đinh ninh là sẻ được chỉ bảo kinh nghiệm hành Thiền của Ngài để chính mình cũng sẽ thực hành và thành công. Nhưng đọc hết cả 3 quyển, ta chỉ thấy Ngài xưng tán về Công Án của pháp môn Thiền và có công phu sưu tầm, ghi lại hầu hết những đối thoại về Thiền của các Thiền Sư từ Tổ Đạt Ma về sau cho tới khi Thiền du nhập và ảnh hưởng tới nước Nhật ra sao. Ngài cũng trích đăng rất nhiều bộ Kinh và cũng có giải thích một số từ ngữ trong Kinh, để chứng tỏ là cũng có đọc Kinh. Nhưng điều chắc chắn là Ngài chưa hề thực hành, nên không thấy rằng trong đó có cả kho tàng cho ai biết khai thác, theo lời Kinh dạy: “Chỉ cần thọ, trì, đọc, tụng, giải, nói, biên chép, y pháp tu hành thì xuất sanh chư Phật”. Vì thế, dù trích rất nhiều Kinh, nhưng Ngài cho rằng: “đã thật sự Thiền thì cần tướt bỏ những thứ rườm rà bao bọc chung quanh” - là những bộ Kinh của Đạo Phật - để cho rằng chỉ cần THIỀN thôi! Ngài ca tụng phương pháp hướng dẫn của các Thiền Sư: * Có một ông Tăng hỏi: Phật là ai? Một Thiền Sư chỉ vào Phật điện, không thêm l lời giải, không viện một dẫn chứng. - Tham vấn về Tâm, một ông Tăng hỏi: Rốt cuộc thế nào là Tâm? Sư đáp: Tâm. Bạch, con không hiểu. Hay có người hỏi: Lời dạy căn bản của Phật là gì? Sư đáp: Gió phe phẩy trong cây quạt này mát làm sao! Thiền Sư Suzuki bình: Trả lời gì kỳ cục vậy? Rõ ràng Tứ Diệu Đế, căn bản của Phật Pháp không có chỗ dùng nào hết trong pháp dạy Thiền. Cả điệp khúc bí hiểm: “Tâm gọi là Tâm vì chẳng phải là Tâm” của kinh điển Bát Nhã Ba La Mật vẫn không còn là điều đáng thắc mắc lo âu! Xem ra Ngài đồng tình với việc không dùng tới Kinh sách. Ngay cả Kinh Bát Nhã Ba La Mật được viết là: “Tam thế chư Phật y Bát Nhã Ba La Mật cố, đắc Tam Miệu tam Bồ Đề”, có nghĩa là ba đời chư Phật đều do Trí Huệ Ba La Mật mà đắc vô thượng chánh đẳng chánh giác, thì Ngài cho là “chẳng đáng thắc mắc, lo âu”! Thiền Sư mà chẳng trả lời được câu hỏi “Phật là ai”, chỉ biết chỉ tay vào chánh điện. Trong chánh điện chỉ có Tượng, làm gì có Phật? Lời dạy căn bản của Phật không bằng “gió phe phẩy trong cây quạt”! Như thế, hẳn ta đã rõ: Thiền không có chút gì liên quan đến Đạo Phật, dù các Thiền Sư thời xưa vẫn sống trong Chùa, mặc pháp phục của Đạo Phật, hưởng dụng của Thường Trụ! Tự họ đã tách ra thành một con đường riêng rẽ, bởi vì nói đến Đạo Phật là phải nói đến Giới, Bát Chánh Đạo, Thân, Khẩu, Ý, Ba Nghiệp thanh tịnh… So lại, ta thấy cách Tu Thiền như trong tập này ghi lại không giống chút gì với cách tu Phật, từ cái PHÁT TÂM, cho đến cách hành trì và sự Chứng Ngộ. · Người tu Phật Phát Tâm đi tu vì ý thức Sinh tử, vì muốn Thoát Sinh Tử. Cái Hành của người Tu Phật là phải Giữ Giiới, phải đi trong Bát Chánh Đạo. Phải làm Lục Độ, trong đó có Thiền Định. Phải trừ Ngã Chấp, Pháp Chấp. Công năng là Soi Quán. Chứng đắc là THẤY TÁNH hay thấy được BỔN THỂ TÂM. · Người tu Thiền thì phát tâm tu vì MUỐN CHỨNG ĐẮC. Công Năng chỉ là THAM QUÁN một Công Án. Chứng đắc của họ là khai được Công Án. · Cách dạy của các Thiền Sư rất là lạ. Không hề giải thích một chữ nào. Chỉ đưa lên, đưa xuống cây chỗi bằng lông đuôi ngựa gọi là Phất Tử hay cây thước tre, mà Thiền Sư Suzuki cho đó là “chỉ thẳng”. · Cái NGỘ của nhà Thiền cũng xuất phát từ những lý do cực kỳ bí ẩn! Thầy chưa hề giải thích cho đệ tử thế nào là Ngộ. Vừa toan mở miệng hỏi đã bị đánh, bị đạp. Đột nhiên một ngày nào đó, sau khi bị thầy đóng sập cửa cho gảy chân bỗng Ngộ! Bị Thầy xáng cho mấy bạt tay, choáng váng, chưa biết làm gì, thì có người kêu: “sao không lạy thầy đi”?. Người đó toan lạy bỗng… Ngộ! Một chú tiểu thấy ai hỏi gì Thầy cũng chỉ đưa ngón tay lên nên bắt chước Thầy. Thế là chú ta bị Thầy chặt phăng ngón tay đi. Sau đó nhìn ngón tay cụt bỗng… Ngộ! So với cái Ngộ Đạo của Đức Thích Ca ta thấy có một sự khác biệt hoàn toàn. Đức Thích Ca đi tìm con đường để Thoát Sinh Tử Luân Hồi. Đến lúc Ngài gặp được thì gọi là Ngộ Đạo. Nhà Thiền đi tìm chữ VÔ cũng cho là Ngộ Đạo! Mà lại thấy mình còn cao hơn cả Phật! Tìm chữ VÔ, thấy được chữ đó bỗng trở thành “thầy của cõi trời, cõi người”! “Gặp Phật giết Phật, gặp Tổ giết Tổ”?! Dạy nhau tham Công Án, chẳng dính dáng gì đến cái Tâm cũng cho là Truyền Tâm Ấn! Đọc xong các quyển Thiền Luận ta thấy kết luận đúng như Thiền Sư Suzuki viết: “Dầu có đem hết tâm trí nghiền ngẫm thiên cảo luận này vẫn không khỏi hoang mang về đại nghĩa của Thiền Pháp”! Rốt cuộc thì Ngài muốn nói gì trong hơn ngàn trang luận về Thiền? Và ta càng hoang mang hơn khi đọc câu: “Thiền khước từ tất cả, cả ý định mô tả hoặc định nghĩa Thiền”. Thiền vốn không lời. Vậy Thiền khước từ hay chính Thiền Sư khước từ? Vừa luận Thiền, vừa bảo Thiền không thể định nghĩa được. Vậy thì lấy căn bản nào để đánh giá thế nào là một Thiền Sư? Ngài đã làm gì để trở thành một Thiền Sư khi chính Ngài cũng chẳng hiểu về Thiền? Có lẽ câu hỏi đó dành cho người muốn tham khảo tự trả lời vậy. Tâm Nguyện (còn tiếp) VUA SÁCH CŨ Ở ANH NGUYỄN BÍCH THỦY Sách cũ là một thứ “đồ cổ” vô giá của mọi thời đại. Nói đến “Hay-on-Wye” thì cả những người ít đọc nhất ở Anh quốc cũng sẽ trả lời một cách chắc chắn theo phản xạ tự nhiên rằng: “Đó là nơi của những hiệu sách cũ”. Và Richard Booth là “vua” đang ngự trị tại “vương quốc” sách cũ này! Thành phố Welsh khoe mình kỳ ảo như một bức tranh, là nơi tập trung nhiều nhất những hiệu sách cũ trên thế giới: khoảng 30 hiệu sách. Trong đó, nổi tiếng là sách kinh doanh, sách đạo đức, giáo dục. Sách kinh doanh xuất hiện nhiều ở các hiệu sách được xây dựng rải rác từ một tòa dinh thự trên đồi đến rạp xinê của địa phương. Ngoài ra, sách kinh doanh cũng có trong các hiệu sách lớn nằm dọc theo các đại lộ. Cả hai khu này là một kho tàng vô giá về tinh thần với hàng trăm nghìn quyển sách từ cổ chí kim. Người đặt nền móng cho việc kinh doanh sách cũ ở đây là Richard Booth, 52 tuổi, được mệnh danh là “vua của Hay” (king of Hay). Booth là một chuyên gia đầy kinh nghiệm trong việc xếp loại và phân phối sách. Nếu bạn không thỏa mãn điều gì đó trên các trang sách mà mọi hiệu sách ở Hay không thể đáp ứng nổi? Hãy tìm đến Booth. Vẻ đẹp tự nhiên thật quyến rũ của Welsh đã lôi cuốn nhiều cây bút tên tuổi cũng như những tác giả trẻ đến đây. Nhà văn đầu tiên phải kể đến đó là Bruce Chatwin. Trong thời gian làm “lữ khách”, ông ta thường lui tới “ngọn đồi đen” kỳ lạ của những người nông dân với tâm hồn đầy hưng phấn. Kế đến là Jan Morris cũng sống một thời hết sức đẹp đẽ ở gần Welsh; rồi lần lượt nhiều nhà văn, nhà phê bình khác cũng tranh thủ đến “tận hưởng” cảnh vật thiên phú có một không hai này! Trở lại với Richard Booth, ông vua sách cũ rất thịnh vượng ở Hay. Hiện nay, Booth vẫn quản lý 4 hiệu sách lưu động và cư trú tại Welsh. Ông ta tin rằng “mọi người sẽ phải đến Hay để mua những quyển sách họ mong muốn mà không tìm được ở bất kỳ nơi nào khác… Những quyển sách cũ, những quyển sách “bửu bối” như sổ tay chỉ hy vọng tìm thấy ở Hay mà thôi”. Booth cũng để riêng những quyển sách độc đáo nhất để tham gia Festival Văn chương tổ chức hàng năm ở Hay-on-Wye. Festival năm nay đã thu hút hơn 10.000 người tham dự với nhiều cây bút danh tiếng cùng tác phẩm của họ như: Lauren Bacall, Arthur Miller, Mario Vargas và nhiều nhà văn Anh quốc đang lên khác. Booth chỉ đơn thuần là một nhà kinh doanh am hiểu về sách. Thế nhưng công lao của ông trong việc mở mang bộ mặt của thành phố thành “thủ đô” sách cũ thế giới là không thể phủ nhận được. Và bây giờ Richard Booth đang hướng công việc kinh doanh sách sang một làng nhỏ ở miền Nam nước Pháp. Tương lai ở đây cũng thật rạng rỡ. Nhưng mọi người dân Anh quốc đều mong muốn và tin rằng, Booth không vĩnh viễn rời bỏ Hay. Bạn muốn trở thành một người làm vườn thành thạo chăng? Công việc kinh doanh của bạn đang gặp nhiều trắc trở? Hay bạn muốn tìm một người bạn đời tâm đầu ý hợp? Những quyển sách cổ-kim-đông-tây ở Hay sẽ là chìa khóa “bật mí” cho bạn. Sách ở đây được phân loại rõ ràng theo thứ tự: nông nghiệp, ngư nghiệp, kinh tế, văn học, triết học, nghiên cứu ngôn ngữ các dân tộc trên thế giới, tâm lý, y học… và đặc biệt nhất là sách kinh doanh. Ngoài ra, ở Hay còn tập trung khá nhiều tạp chí nổi tiếng của các nước, rất cần cho việc tra cứu. Có nhiều ý kiến cho rằng, sự phát triển vượt bậc của ngành địa chất học Anh quốc từ năm 1940 đến 1962 là nhờ tham khảo sách báo ở Hay. Và cả Viện Hàn lâm Khoa học kỹ thuật Hoa Kỳ đã trường tồn được cũng nhờ ít nhiều vào sự đóng góp các nguồn tư liệu của Hay. “Vua” Richard Booth tuyên bố rằng: “Những quyển sách cũ không bao giờ chết… và nó luôn luôn là sự hấp dẫn không cưỡng nổi đối với 99% những người đang và sẽ cần nó từ khắp nơi trên hành tinh chúng ta”. ĐỖ THIÊN THƯ st. NHÀ VĂN
Có thể gọi đó là một mỹ từ, một tôn từ, một ngạo từ, một khoa từ, một danh từ… đều đúng cả. Tùy theo cảm quan của người gọi và người được gọi. Đúng nghĩa của hai từ “Nhà Văn” là gì? Đơn giản thôi. Nhà văn là người ghi chép lại những diễn cảnh của đời sống, qua đó đưa ra cảm nhận chủ quan lẫn khách quan của mình. Gọi lên tính chất của sự vật, sự việc một cách rõ ràng và cụ thể. Mở ra những lối ngõ, xâm nhập vào những ngóc ngách, tạo ra một nhịp dẫn và lôi kéo sự chú ý của nhiều người cho một hay nhiều vấn đề. Mối quan hệ giữa nhà văn và độc giả là mối quan hệ tương tác, từ những góc nhìn hữu hạn, gợi mở những suy tư vô hạn, góp vào đời sống chung những ước muốn, những yêu cầu, những phương cách hành xử, và cả những định luật từ vô thức đến ý thức. Cách trình bày và đi theo thể loại đề tài như thế nào thì tùy thuộc vào tính cách, quan điểm, sở trường của cứ luận, hay còn gọi là “Tạng”. Mỗi nhà văn đều có một ưu thế riêng, có người ưa hoạt náo, thích tạo ra những xung đột, đưa ra những trái chiều, phơi bày vấn đề qua nhiều góc độ khác nhau, tạo ra một thế giới mở cho người đọc. Có người thì trầm tư suy cảm, đi sâu vào những khúc mắc của vấn đề một cách âm trầm, an nhiên, tự tại, để người đọc tự ngấm vào mình những cảm nhận và đúc kết. Có người lại giỏi che giấu những ý chính của vấn đề, dùng cách nói mà như không nói, dẫn dụ độc giả từ bí ẩn này đến mơ hồ khác, buộc người đọc phải vận dụng tư duy để khám phá ra cốt lõi của vấn đề. Tóm lại. Có nhiều cách đi riêng, nhưng tất cả đều nhằm vào một cái đích. Mong muốn cho đời sống con người ngày càng được nhiều sự tốt lành, đẹp đẽ và hạnh phúc. Và thế giới con người lại quá nhiều đa phức, bản chất và cá tính con người lại quá nhiều góc cạnh, ước vọng và sự thể hiện của con người lại quá nhiều dạng thức, nhu cầu và sự phân giai của con người lại quá nhiều thang bậc. Vì thế mà trong mọi thời đại, mọi thế hệ, mọi cảnh trạng, đều luôn có những gút mắc, bí ẩn, sâu xa mà không phải ai cũng có khả năng cảm nhận rõ rệt. Vì vậy mà xã hội luôn luôn cần đến những người được gọi là “Nhà văn”. Nhưng nhà văn được gì và mất gì với công việc mình đã chọn? Được và mất. Luôn là sự song hành đối với tất cả mọi người trong cuộc sống. Thế nào là được và thế nào là mất thì lại tùy thuộc xem mỗi người xem gì là giá trị với bản thân mình. Mỗi người đều mặc nhiên mà chọn một “hiện thái” trong đời sống làm một mục đích cho quá trình phấn đấu, bơi trải cộng với khả năng tự thân để đạt được làm giá trị sống cho riêng mình. Ví dụ: Tiền bạc, danh vọng, tình cảm, hoặc một lý tưởng riêng như khoa học, đạo giáo. Khi người ta đạt được những thành quả từ mục đích ấy thì người ta cho đó là được, và khi bị thất thoát, sứt mẻ thì người ta cho đó là mất. Nhưng với nhà văn thì có khác một chút, vì những điều mà nhà văn cho là có giá trị thì có thể khá nhiều. Hơi tham lam và hơi vọng tưởng, khi những thứ giá trị với nhà văn phần lớn thuộc về bất thực thể. Điều đầu tiên là Danh vị. Mà để có được một danh vị đúng nghĩa, nhà văn phải đánh đổi rất nhiều vấn đề cá nhân. Đối với một số người, nhà văn là một thứ dở hơi. Bởi họ không hiểu vì sao phải bỏ bao nhiêu công sức, thời gian, thức đêm thức hôm, ăn uống chểnh mảng, trang phục xuề xòa, có khi còn luộn thuộm, để lia ra trên những trang giấy hàng đống hàng đống chữ, rồi chắt bóp dành dụm, vất vả in ấn, làm thế nào để đến được tay người đọc, mà không ít những trang giấy ấy sẽ rất mau chóng rơi vào một xó xỉnh nào đấy. Lại tặc lưỡi “Vốn người đời mau quên mà”. Rồi lại tiếp tục cặm cụi, cho dù biết rằng những cố gắng của mình chưa chắc đã được đền đáp thích đáng. Nhưng, không thể nào bỏ được. Không thể bỏ được là bởi ngoài khả năng tự nhiên của bản thân, lại có sự khao khát lớn hơn, là muốn được chia sẻ, được trao đổi, được nói ra những suy nghĩ của mình về đời sống, được lên tiếng trước những bất công, sự thương cảm, hay kêu gọi lòng nhân ái của con người. Không ít người thường cười thầm trước những điều mà họ cho là viển vông ấy. “Ối xời, lo mà đi kiếm gạo đổ vào bụng cho rồi, đói rã họng ra còn bày đặt lên mặt rao giảng đạo đức, chẳng ai chết vì không đọc những trang viết ấy cả, chỉ có thân lừa chịu khổ thôi”. Vậy đấy. Nhiều khi người ta quan niệm rất đơn giản về tính chất của một công việc, người ta thường đánh giá hiệu quả của công việc ấy qua giá trị vật chất. “Viết một cuốn sách thì được bao nhiêu tiền?” – Vâng! Tiền. Đó cũng là một vấn đề quan trọng của đời sống, nhà văn cũng có gì khác mọi người về mặt nhu cầu tối thiểu, cũng phải ăn, phải mặc, phải chi tiêu những khoản bắt buộc, trong khi để nhận về thù lao cho công sức của mình thì lại vô cùng rẻ rúng. Nhưng chỉ rất lạ là với những người coi nghiệp viết là một mục đích chân chính, là một điều thực sự có một giá trị tuyệt đối của nó, thì sự đối sánh vô cùng bất cập ấy lại chẳng hề có chút trọng lượng nào cả. Người ta có thể sẵn sàng chấp nhận những khuyết hạn mà vẫn dốc công cho những khát vọng của mình. Không hề viển vông một chút nào! Đúng là thế. Chắc chắn là thế. Là bởi một vườn hoa có tỏa sắc khoe hương được hay không là phải nhờ rất nhiều vào những bàn tay chăm sóc, cắt lá tỉa cành, diệt trừ sâu bệnh, phân tro tưới tắm. Đời sống con người ta cũng vậy. Nếu cứ để mọi sự phát triển theo hướng tự nhiên hóa từ khơi nguyên khởi thủy thì cuộc đời này chắc chắn không thể có được một chữ “NGƯỜI” viết hoa một cách trân trọng. Ngôn ngữ thật rành mạch đến bất dịch. Trước khi chạm được đến phần “NGƯỜI”, thì phải biết bước qua phần “CON”. Càng tước bỏ phần Con nhiều bao nhiêu thì càng có cơ hội được hiện thực phần Người bấy nhiêu. Vấn đề là ở chỗ làm sao phân ranh được thế nào là Con, thế nào là Người? Đây chính là địa hạt cho “Nhà Văn” cư trú. Chí ít cũng là một “trạm trung chuyển” các hình thái tư duy và vận động của cuộc sống tạo thành một kênh hội tụ cho tất cả những ai muốn truy cập. Để rồi từ những gợi mở, nhắc nhớ, người ta sẽ liên hệ đến bản thân, không thể quá lạc quan hay tham vọng là hoán chuyển cả một hệ tư duy trong mỗi bản thể, nhưng cũng không thể khước từ phần tác động rất cụ thể, cho dù rất mờ nhạt khó nắm bắt. Nhưng… Vẫn luôn phải có một chữ “nhưng” chen vào giữa. Nhà Văn cũng là một thành phần đa nhân dạng. Cũng chẳng khác gì những “tiểu xã hội” khác. Cũng có “quân tử” và “ngụy quân tử”, chính thống và phi chính thống, cao cả khoáng đạt và tiểu kỷ vụn vặt. Những cơ bản thành phần ấy phụ thuộc vào bản chất của mỗi người. Để nhận diện được một cách rõ nét, cần phải có sự sàng lọc, xét nét, và minh định. Chẳng thế mà qua mỗi thời kỳ, mỗi thế hệ chỉ còn lại một số rất ít những tên tuổi đáng nể trên văn đàn. Và tất cả những tác phẩm bất hủ với thời gian có thể khác nhau về văn phong, về đề tài, về bối cảnh, nhưng đều có chung một điểm then chốt, là “nêu ra được những vấn đề chân chính, đưa ra được những góc nhìn nghiêm túc, dựa trên một nhân cách đứng đắn và minh triết”. Đó cũng là mục tiêu hướng tới của cá nhân tôi. ĐÀM LAN
Phụ Bản I CA DAO THEO DÒNG LỊCH SỬ Câu hát thành khúc điệu gọi là ca, không thành khúc điệu gọi là dao. Ca dao có nghĩa là câu hát không thành chương khúc, một loại hình văn chương bình dân rất phổ biến trong dân gian với ý nghĩa thường được nghiêng về sự châm biếm những kẻ có quyền lực hoặc phản ảnh một tình trạng xã hội bất an. Ca dao thường có hai câu, thỉnh thoảng cũng có được bốn câu để làm rõ thêm ý nghĩa. Thời đại nào cũng có ca dao, xin lược kể một vài câu qua các triều đại dưới thời phong kiến ở nước ta. Vào thời Chúa Trịnh lấn quyền Vua Lê ở đất Bắc, vua Lê Chiêu Thống(1) cho người qua cầu viện nhà Thanh để giúp đỡ mong phục hồi lại quân quyền của mình. Triều đình nhà Thanh mới nhân cơ hội này sai Tôn Sĩ Nghị là Tổng đốc Lưỡng Quảng (Quảng Đông và Quảng Tây) kéo quân ang đánh chiếm nước ta. Nguyễn Huệ lúc bấy giờ đang giữ chức Long Nhượng Tướng quân cai quản đất Thuận Quảng, sau khi làm lễ tế cáo trời đất ở núi Bân Sơn (Thừa Thiên) lên ngôi xưng Đế hiệu là Quang Trung kéo quân ra Bắc để đánh quân Thanh. Tôn Sĩ Nghị ỷ mình quân đông, lợi dụng lúc Lê Trịnh đang tranh giành quyền bính, thế lực phân rẽ, nên quân Thanh kéo vào chiếm Thăng Long như chỗ không người. Quân tướng của họ Tôn cũng đâm ra khinh xuất, chỉ lo việc ăn chơi mà không lo phòng bị. Trong lúc vua Quang Trung kéo quân ra Bắc người ngậm tăm, ngựa ngậm thẻ di chuyển thần tốc bằng cách cứ hai người võng một người rồi thay đổi, vừa đi vừa chạy, sức tiến quân nhanh chóng, quân sĩ không mệt nhọc. Khi qua Nghệ An Thanh Hóa, quân Tây Sơn đã thắng được cánh quân Trịnh do Đinh Tích Nhưỡng rồi thừa thắng kéo quân thẳng tiến Thăng Long đánh úp, phá được thủy binh Trịnh dưới quyền Quận thạc Hoàng Phùng Cơ tại cửa sông Thúy Ái và thắng quân Trịnh Khải ở Tây Luông, quân Tây Sơn vào Thăng Long bái yết vua Lê Hiền Tôn với danh nghĩa phù Lê diệt Trịnh. Trong dịp này vua Lê phong cho Nguyễn Huệ làm Đại nguyên súy, phụ chính Dực vận Uy quốc công. Sau đó nhờ sự mai mối của Nguyễn Hữu Chỉnh, vua Lê thuận gả con gái là công chúa Ngọc Hân mới 16 tuổi cho Nguyễn Huệ. Vua Lê Hiền Tôn mất, Nguyễn Huệ chịu tang xong phải theo Nguyễn Nhạc (vì nghi em, cũng kéo quân ra Bắc) rút quân về Nam được vua anh phong làm Bắc Bình Vương. Nhưng sau khi vua Lê Hiền Tôn mất, vua Lê Chiêu Thống lên kế vị, vì không phục Tây Sơn, đã lên nương náu tại đất Lạng Giang, và cử Hoàng Thái Hậu nhà Lê sang nhà Thanh xin quân cứu viện. Như đã nói ở trên Nguyễn Huệ lần này sau khi xưng Vương lại kéo quân ra Bắc. Sau khi phá được quân Thanh ở tại tiền đồn Hạ Hồi, Ngọc Hồi, Bắc Bình Vương thắng trận vẻ vang tại gò Đống Đa khiến tướng nhà Thanh là Sầm Nghi Đống phải treo cổ tự tử rồi tiến vào thành Thăng Long ngày mồng 7 Tết Kỷ Dậu (1789) khiến cho Tôn Sĩ Nghị không kịp mặc binh giáp, bỏ cả ấn tín khi tới vùng Phượng Nhãn để chạy về tàu, kéo theo vua Lê Chiêu Thống không kịp đem theo triều thần, thuộc hạ. Cho nên lúc bấy giờ trong dân gian mới có câu: Gió đưa cây cải về trời Rau răm ở lại chịu lời đắng cay Trịnh Sâm, khi ở ngôi chúa có thái phi là Dương Ngọc Hoan người làng Long Thư, huyện Thạch Hà, sanh ra Trịnh Tông. Kịp đến khi một thị nữ là Đặng Thị Huệ người làng Phù Đổng được tuyển vào làm cung nữ ở phủ Chúa, vì Thị Huệ có nhan sắc, lại ăn nói khéo léo, rất được lòng Chúa, nên khi sanh ra Trịnh Cán được phong làm Tuyên phi, tục danh của thị Huệ là “Bà Chúa Chè” vì gốc tích ở nơi có trồng nhiều chè, làm nghề hái chè, càng ngày càng được Chúa yêu, nên bà chúa chè nuôi tham vọng sau này sẽ được lập con mình lên làm Thế tử, tranh với Trịnh Tông. Lúc bấy giờ dưới trướng chúa Trịnh Sâm, có Huy quận công Hoàng Đình Bảo, giữ chức Trấn thủ Sơn Nam(2), là người có quyền hành lớn trong phủ Chúa, nên Đặng Thị Huệ tìm cách cấu kết với Huy quận mong nhờ thế lực của họ Hoàng để sau này dựa thế đưa con mình lên ngôi Chúa. Huy quận công là người có thế lực nên ra vào phủ Chúa một cách rất tự do, Chúa Trịnh Sâm lúc bấy giờ lại hay đau yếu, nên trong dân gian đã có câu: Các quan có mắt như mờ Để cho Huy quận vào sờ chánh cung Đặng Thị Huệ lại âm mưu đưa người tâm phúc vào hầu việc trong phủ Chúa, nhất nhất theo dõi hành động của Trịnh Tông để về vu cáo tâu lên Chúa Trịnh Sâm, nên chúa tức giận tâu với vua Lê xuống sắc chỉ lập Trịnh Cán lên làm Thế Tử và truất ngôi Thế Tử của Trịnh Tông. Trong dân gian bấy giờ lại có câu: Đục cùn thì giữ lấy Tông Đục long cán gãy còn mong nỗi gì Quân sĩ lấy làm bất bình việc Chúa Trịnh Sâm bỏ trưởng lập thứ nên đã nổi loạn, lúc này Chúa Trịnh Sâm đổ bệnh nặng và qua đời. Quân nổi dậy phần nhiều là lính người Thanh Hóa, Nghệ An có tên là quân Tam Phủ đã đến vây phủ Huy quận và sát hại ông và tôn Trịnh Tông lên ngôi chúa, Đặng Thị Huệ rất sợ hãi và cuối cùng dùng thuốc độc để quyên sinh, Trịnh Cán còn nhỏ lại hay đau yếu, nhưng đã được Trịnh Tông truyền rao hậu thưởng cho ai chữa được bệnh của Cán, có lẽ còn nghĩ đến tình máu mủ ruột thịt, nhưng sau đó Trịnh Cán qua đời. Khi Trịnh Tông lên ngôi chúa rồi thì đám quân Tam Phủ cậy mình có công đã nổi lên phá phách hoành hành các nơi không ai chịu nổi dân chúng gọi là Loạn Kiêu Binh. Kịp đến khi quân Tây Sơn kéo ra Bắc, đánh thắng cánh quân của Chúa Trịnh Khải tức Trịnh Tông mới yên. Lúc bấy giờ có ông Lý Trần Quán, rất trung thành với Trịnh Khải, chẳng may lúc chúa lưu vong, ông có kẻ môn đệ sinh lòng phản trắc bắt chúa Trịnh nộp cho Tây Sơn, Lý Trần Quán ân hận khi hay tin Trịnh Khải tự vẫn liền sắm một cỗ áo quan và một chỗ đất chôn rồi nằm trong cỗ áo quan cho người đậy nắp, tự chôn sống lúc ông 52 tuổi. Tại Tp, HCM vùng Tân Định có con đường mang tên Thạch Thị Thanh nối liền đường Nguyễn Hữu Cầu và Võ Thị Sáu, trước kia con đường đó mang tên là Lý Trần Quán. Thời Nguyễn sơ có ông Nguyễn Khoa Đăng giữ chức Nội Tán kiêm Án sát sứ Tông Tri quân quốc trọng sự dưới đời chúa Nguyễn Phước Chu (1691 – 1725) ông đã dẹp yên đươc đám giặc cướp tại vùng Hồ Xá thuộc phủ Vĩnh Linh Quảng Trị thường giết hại khách qua đường thiên lý. Do đó trong dân gian còn truyền lại câu ca dao: Thương em anh cũng muốn vô Sợ truông(3) nhà Hồ, sợ phá Tam Giang Phá(4) Tam Giang ngày rày đã cạn Truông nhà Hồ, Nội Tán cấm nghiêm Tương truyền sau khi nhận lãnh sứ mạng bình định vùng Hồ Xá ông liền giả làm khách bộ hành đi ngang qua truông để cho bọn cướp bắt. Trên đường theo quân cướp, ông ngầm rắc lúa để làm dấu, nhờ đó quân lính của ông đã tìm ra đường vào tận sào huyệt để phá tan bọn cướp. PPT. st ghi Ghi chú: (1) Lê Chiêu Thống (1787 – 1789): tức Lê Duy Kỳ vị vua cuối cùng của nhà Hậu Lê, con của Thái Tử Lê Duy Vỹ. Cháu đích tôn của Vua Lê Hiển Tôn. Sau khi chạy theo Tôn Sĩ Nghị về Tàu, vua đã phải sống lưu vong trong vòng 5 năm dài nơi đất khách quê người và chết ở Yên Kinh thọ 28 tuổi. năm 1804 Triều Nguyễn đã cho đưa thi hài vua Lê về chôn ở làng Bàn Thạch và cho truy đặt tên thụy là Lê Mẫn Đế. (2) Trấn Sơn Nam : Triều Lê trấn Sơn Nam gồm 4 tỉnh: Hà Đông, Nam Định, Thái Bình, Hưng Yên. (3) Truông : một vùng đất cát lớn không cây cỏ, nhà cửa trải dài từ đường thiên lý đến chân núi gọi là truông. (4) Phá : là vùng nước lớn ăn thông từ đất liền ra biển, phá Tam Giang nằm trong huyện Hương Điền, tỉnh Thừa Thiên.
PHÁI TÍNH & CHUYỆN HIẾP DÂM TRONG VĂN HỌC NGUYỄN CÔNG TRỨ (1778-1858) Trong một bài hát nói về tình yêu của Nguyễn Công Trứ có hai câu thơ rất được ưa thích: Cái tình là cái chi chi Dẫu chi chi cũng chi chi với tình. Đơn giản, cực kỳ đơn giản, vậy mà hay. Chúng ta cần để ý đến hiện tượng chữ “chi chi” lặp đi lặp lại ba lần. Chữ “chi chi” thứ ba mang ý nghĩa khác hẳn hai chữ “chi chi” đầu: nó dấm dẳng, nó rất “ba trợn”. Mà Nguyễn Công Trứ thì thường có những thái độ “ba trợn” như vậy, ví dụ trong bài thơ tình dưới đây: Tao ở nhà tao, tao nhớ mi, Nhớ mi, nên phải bước chân đi. Không đi, mi nói rằng: không đến. Đến thì mi hỏi: đến làm chi? Làm chi? Tao đã làm chi được Làm được, tao làm đã chán khi. Chữ “làm” mang hai ý nghĩa khác hẳn nhau: trong câu hỏi, “làm” chi là làm; trong câu trả lời, chữ “làm” đã biến sang ý nghĩa khác, trần tục hơn, và cũng “ba trợn” hơn. Nhưng Nguyễn Công Trứ mà không “ba trợn” như vậy thì làm gì có chuyện tình giữa ông và một cô đào giữa một cánh đồng mông quạnh, dẫn đến câu thơ được truyền tụng đến bây giờ: Giang sơn một gánh giữa đồng Thuyền quyên ứ hự, anh hùng nhớ chăng? VÕ PHIẾN Nhà văn Võ Phiến (sinh 1925) chắc phải khoái chữ “ứ hự” trong câu thơ này lắm, cho nên, trong cuốn Lại thư gửi bạn, xuất bản tại Hoa Kỳ năm 1979, nhân khi so sánh phong cách tán tỉnh giữa người Việt và người Mỹ, ông cũng dùng lại chữ “ứ hự” ấy: Bạn hãy nhớ lại những buổi chiều chúng ta ngồi ở quán Kim Sơn, ở quán La Pagode, ở những bàn nhậu bên lề đường Lê Lợi, vừa nhâm nhi vừa… rửa mắt. Chúng ta quấy phá, nhảm nhí nhiều chứ. Và những khi hoặc bát phố Lê Lợi hoặc có dịp lượn vào chợ, chen vô rạp hát, vào những nơi có lắm bóng hồng: bấy giờ ngay đến những đấng trượng phu tuổi tác, mấy ai tránh khỏi mắt la mày lém, thì thầm khúc khích với nhau? So với những hoạt động nghịch ngợm ấy của chúng ta, người Mỹ xem có vẻ tỉnh bơ bên cạnh đàn bà, con gái. Như không buồn để ý đến. Cho đến khi, thoắt cái, thuyền quyên bị đè ra “ứ hự”. Và báo chí tha hồ loan báo, và xã hội lo ngại, và thống kê tha hồ ghi nhận vv… Ngày xưa, hẳn không phải chỉ một mình Nguyễn Công Trứ “ba trợn”. Một bài hát nói ngắn của Nguyễn Hàm Ninh, một bạn thơ của Cao Bá Quát, tác giả tập Tĩnh Trai thi sao và bài văn tứ lục khá nổi tiếng ‘Phản thúc ước’ còn “ba trợn” hơn nhiều: Con nhà ai ? Đi đâu đó ? Gò má hồng hồng, dây lưng đo đỏ Nhìn qua phong dạng, ước mười bảy, mười tám mà chừng Ngó lại hình dung, e có cô hai cô ba chi đó Ước chi được: như vầy…như vầy…mà rứa…mà rứa… Dã tai ! Võ Phiến vừa nói rồi đó, cái chuyện đàn ông, con trai “mắt la mày lém rồi thì thầm khúc khích” trước những người phụ nữ đẹp là chuyện khá ư bình thường. Nguyễn Hàm Ninh đi xa hơn một tí: tưởng tượng cô gái ấy là thê thiếp của mình và ước ao được “như vầy… như vầy… mà rứa… mà rứa…”. Ý nghĩa của nhóm chữ “như vầy… như vầy… mà rứa… mà rứa…” là gì thì có lẽ ai cũng đoán được. Nhưng tại sao những chữ khá ư bình thường ấy, ở đây, lại gợi lên ấn tượng về hành vi giao hợp? Có lẽ do cái âm của chúng: “vầy”’ bắt đầu bằng nguyên âm “â” rộng và khép lại bằng bán nguyên âm “i” (y) rất hẹp. Động tác phát âm của chữ “vầy” là đi từ rộng đến hẹp, như một sự siết vào. Ngược lại, “rứa” bắt đầu bằng nguyên âm “ư” khá hẹp và kết thúc bằng nguyên âm “a” rất rộng. Động tác phát âm của chữ “rứa” là đi từ hẹp đến rộng. như một sự đẩy ra. Sự khác biệt giữa “như” và “mà” cũng tương tự: “như” hẹp “mà” rộng. Việc các chữ “như vầy” và “mà rứa” được lặp đi lặp lại hai lần tạo nên cảm giác đẩy đưa nhịp nhàng và chính cái cảm giác này gợi liên tưởng đến hoạt động vợ chồng. “Ba trợn” là thế. Trong đoạn văn dẫn trên, nhà văn Võ Phiến có vẻ như cho đàn ông, con trai Việt Nam thường chỉ dừng lại những ý nghĩ “ba trợn”, chứ không đi xa hơn, như một số thanh niên Mỹ. Ở Việt Nam, cảnh “thuyền quyên bị đè ra ứ hự” chắc không nhiều. Không nhiều nhưng không phải không có. VĂN HỌC DÂN GIAN Trong văn học dân gian, chúng ta có một bằng chứng rất hay: Hôm qua em đi hái chè, Gặp thằng phải gió nó đè em ra. Em van mà nó chẳng tha, Nó đem nó đút thằng cha nó vào. Đây là lời kể của một cô gái. Chuyện xảy ra ngày hôm trước nhưng khi kể lại, cô vẫn còn tức tối: cô vừa kể vừa chửi. Lời chửi sau cùng nghe rất sướng tai: cô ví cái đầu của cha tên đàn ông khốn nạn với một cái gì người ta quen xem là “bẩn thỉu” nhất. Những chữ “nó” lặp đi lặp lại nhiều, nghe càng làm cho lời chửi càng vang vang, càng dữ dội. Hơn nữa, “nó” lúc nào cũng đối lập với “em”: trong khi hai câu lục, nói về “em”, thật nhiều vần bằng, nghe dịu dàng vô cùng, thì hai câu bát, nói về “nó”, lại ngổn ngang đầy những vần trắc, nghe thật hung hãn và thô bạo. Thế nhưng, chả cần gì phải tinh tế lắm, chúng ta cũng có thể thấy ngay là thấp thoáng đằng sau cái vẻ tức tối ấy có cái gì như… thinh thích. Cô gái tức tối nhưng rõ ràng là cô không thù hận cái gã đàn ông đã hiếp dâm cô. Cô gọi nó là “thằng phải gió” mà “phải gió”, theo Từ điển Tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên xuất bản tại Hà Nội năm 1992, là “tiếng dùng để rủa nhẹ nhàng”, còn theo Từ điển Tiếng Việt của Văn Tân, bản in năm 1994, thì việc rủa nhẹ nhàng ấy có khi chỉ ngụ ý đùa chơi mà thôi. Chửi kẻ đã hiếp dâm mình là “thằng phải gió”, do đó, là một cách… tha bổng nó. Chính vì ai cũng nhận ra điều đó cho nên ai cũng xem bài ca dao ấy là một bài ca dao hài hước. Có cái gì như nghịch lý: đọc một bài ca dao kể về chuyện hiếp dâm, tức là một tội ác hay một bi kịch mà không ai phẫn nộ hay xót xa gì cả. Người ta chỉ cười và cười hả hê. Tiếng cười ấy không những làm trắng án kẻ hiếp dâm mà còn, oái oăm thay, đảo ngược hẳn công việc luận tội: kẻ bị chê trách không phải là tội phạm mà chính là nạn nhân. Dường như tất cả những thương tổn mà cô gái phải chịu đựng về phương diện tình cảm cũng như xã hội, đều nhất loạt bị mọi người xem như không có, chỉ vì một lý do duy nhất là xác thịt của cô không kềm chế được những xúc động trước sự đụng chạm, dù một cách thô bạo của người khác phái. Dường như, dưới mắt người đời, những xúc động ấy còn đáng chê hơn cả việc làm tồi bại của gã đàn ông dâm đãng. Hơn nữa, khi nhấn mạnh vào những xúc động có tính chất bản năng của cô gái, người ta đã làm cho việc hiếp dâm không còn là một tội ác mà còn, hơn nữa, biến nó thành một ân huệ: nó thỏa mãn được những rạo rực trong cơ thể người con gái; nó mang lại cho cô những cảm giác khoái lạc bất ngờ; nghĩa là, nói cách khác, nó đáp ứng những điều cô âm thầm chờ đợi hoặc mong ước. Những cách nhìn như thế đã chi phối hầu như toàn bộ những bài Ca dao viết về đề tài Quấy rối tình dục, từ những bài nhấn mạnh vào bản năng sinh lý của người con gái, đến những bài có giọng điệu hài hước… Điều đáng nói là những cách nhìn như thế chi phối cả Văn học viết của ta, khiến cho đề tài Hiếp dâm hiếm khi nào được thể hiện một cách nghiêm túc, ở đó, hoặc chỉ có sự kiện hiếp dâm nhưng lại không có nạn nhân, hoặc, nạn nhân không phải là một… phụ nữ. - Khuynh hướng thứ nhất: chỉ mô tả sự kiện hiếp dâm mà không quan tâm đến nạn nhân, chúng ta có thể tìm thấy trong các tác phẩm của một số nhà văn ở Sài Gòn trước năm 1975 – tiêu biểu nhất là nhà văn Nguyễn Mạnh Côn (1920-1979) trong cuốn Tình Cao thượng, xuất bản năm 1968 – những người xem việc phát hiện ra những xúc động có tính bản năng trên cơ thể của những kẻ bị hiếp dâm là một phát hiện độc đáo, nhằm chứng minh vai trò lớn lao của Tình dục trong đời sống tinh thần của con người, cho nên đã không thấy hết những bi kịch khốc liệt mà nạn nhân phải gánh chịu. Trong chiều hướng mô tả này, kẻ bị hiếp dâm chỉ là một con người, chứ không phải là một nạn nhân. - Khuynh hướng thứ hai: tuy tập trung vào những bất hạnh của nạn nhân, nhưng lại chú ý đến thành phần xã hội hơn là phái tính của nạn nhân: khi nhà văn Ngô Tất Tố (1894-1954) tả cảnh “quan phủ” hay “quan cụ” tìm cách hãm hiếp chị Dậu trong tác phầm Tắt Đèn chẳng hạn, ông không nhằm mô tả một sự tấn công tình dục của một người đàn ông đối với một người đàn bà, mà chủ đích chính của ông là nhằm lột trần bản chất dâm ô và vô liêm sỉ của giai cấp thống trị mà thôi. Như vậy, ở đây nạn nhân được nhìn như một giai cấp hay một công dân, chứ không hoàn toàn là một phụ nữ. VŨ TRỌNG PHỤNG (1911-1939) Trong Giông tố, ông kết hợp cả hai cách nhìn trên. Chúng ta thử đọc lại đoạn ông tả cảnh Mịch bị Nghị Hách hiếp dâm: “Vờ tìm trong túi áo, nhà điền chủ mắt vẫn lẳng lơ nhìn chị nhà quê… “Lão này cúi xuống, hôn một cái hôn cuối cùng, lôi cái váy xuống, nhấc chị nhà quê ngồi dậy, mở cửa xe mà đẩy người ta xuống…” Đầu tiên, tác giả ‘nhảy cóc’ không tả cảnh bị hiếp. Chúng ta dễ hiểu lý do tại sao. Tuy nhiên điều đó chứng tỏ là tác giả xem cảnh Nghị Hách hiếp Mịch chủ yếu là một cảnh dâm ô chứ không phải là một tội phạm. Nhưng khi xem đó là một cảnh dâm ô, vô tình hay cố ý, tác giả đã biến một vụ hiếp dâm thành một vụ thông dâm. Mà có lẽ tác giả cố ý. Cuộc hiếp dâm được dẫn dắt như một âm mưu của Nghị Hách nhằm lừa Mịch: lừa Mịch lên xe, lừa xoa dầu cho Mịch và cuối cùng là hãm hiếp Mịch. Nghị Hách lừa. Nhưng có thể nói là Mịch bị mắc lừa không? Có lẽ là không. Trong cách tả của ông, người ta thấy rõ là thực sự Mịch đã “hiến thân” cho Nghị Hách trước khi bị hiếp. Khi trả lời câu hỏi của Nghị Hách về giá gánh rạ bằng câu “Bẩm quan chả mấy tí, quan cho mấy xu cũng được ạ”, Mịch đã biến việc mua bán thành một chuyện xin xỏ, đã hoàn toàn đặt sự tin cậy vào lòng tốt của người đối diện và, quan trọng hơn, muốn đứng ở vị thế của Nghị Hách, muốn nhìn đồng tiền bằng cái nhìn của Nghị Hách. Chứ từ cái nhìn của một cô gái nhà quê mỗi ngày chỉ kiếm được có “sáu xu và hai bát gạo” thì “mấy xu” không phải, không thể là “chả mấy tí” được. Chính với cái ý muốn đồng nhất với Nghị Hách như vậy. Mịch đã “cúi mặt không đáp” khi Nghị Hách hỏi về chuyện chồng con. Ý thức tự vệ của Mịch yếu đến độ khi Nghị Hách sấn sổ bôi dầu lên trán cô, cô cũng để yên dù cô, bằng trực giác của một cô gái 18 tuổi, đã thoáng thấy cái gì sẽ xảy ra tiếp theo khi “co ro khép đôi đùi lại, kéo cái váy xuống”. Thực ra thì cô cũng không thực tâm bảo vệ đến cùng cái “thành lũy” dưới chiếc váy ấy. Khi bị Nghị Hách “đè ra”, cô cũng chỉ van nài chứ không hẳn kháng cự. Chỉ đến khi cô kêu “ái”, tức khi “thành lũy” đã bị phá vỡ, cô mới la làng. Đó chỉ là tiếng kêu cứu của ý thức danh dự muộn màng hơn là của ý chí bảo vệ trinh tiết. Nói cách khác, trong cách tả của Vũ Trọng Phụng, Mịch là kẻ bị dụ dỗ hơn là bị lừa gạt, và đặc biệt, hơn là bị cưỡng hiếp. Cách mô tả ấy làm mờ hẳn tính cách nạn nhân của cô. Mà quả thật, tấn thảm kịch của Mịch chủ yếu là thảm kịch xã hội: có thai và bị làng xóm dè bỉu. Riêng trên da thịt và trong tâm hồn của Mịch, ấn tượng còn lại rất phức tạp, buồn vui lẫn lộn: Mịch chợt nhớ đến lúc từ con gái mà trở nên đàn bà, trên chiếc xe hơi. Cái lúc ấy thật là gớm ghiếc, thật là bẩn thỉu, thật là đau đớn; nhưng trong cơn đau đớn không phải là không có một thứ khoái lạc trong xác thịt nó làm cho đỡ thấy đau… Chính những cảm giác “khoái lạc” ấy làm cho Mịch không thực lòng căm hận Nghị Hách. Ngay cả khi cô nằm trong bệnh viện, trước khi nảy ra ý nghĩ tự tử, nhớ lại việc Nghị Hách cưỡng dâm mình, cô cũng không thấy thù oán gì. Mà chỉ thẹn: “Mịch nghĩ đến lúc ấy thì mặt lại đỏ bừng lên, tự mình cũng đủ thẹn với mình”. Và cảm giác ấy cứ còn lại hoài trong cô như một ấm ức: Những cảm giác đê mê ở cuộc hãm hiếp còn sót lại trong trí Mịch những phút hồi ức băn khoăn của một dục vọng chưa được thỏa mãn. Mịch đã phải tưởng tượng ra những cảnh dâm dục ghê gớm, hưởng với mọi kẻ qua đường. Trong những sự mơ màng càn rỡ ấy, mỗi một cái mặt đã nhìn thấy là một sự ám ảnh riêng, là một thế giới riêng, có những sự khiêu động không bao giờ giống nhau cả. Và lòng khao khát đến một điều thỏa mãn bằng cách tưởng tượng ấy không những chẳng làm cho Mịch mãn nguyện, nhưng trái lại, còn khiến Mịch càng như điên cuồng. Cách mô tả của Vũ Trọng Phụng làm cho người ta, đọc Giông tố, có thể căm ghét bọn trọc phú như Nghị Hách nhưng lại không thấy xót thương những kẻ bị hãm hiếp như Mịch. Nếu có căm ghét Nghị Hách, người ta cũng chỉ căm ghét y như một điển hình của tầng lớp giàu có, ích kỷ và độc ác chứ không căm ghét y như một kẻ dâm đãng. Mà quả thật, Nghị Hách hiếp Mịch có lẽ chủ yếu là vì thỏa mãn ý thức tự hào về quyền lực của mình hơn là vì lòng hiếu dâm. NAM CAO (1917-1951) Một cuộc hiếp dâm không có nạn nhân và cũng không có thủ phạm thì không còn là một cuộc hiếp dâm nữa. Tiêu biểu nhất cho trường hợp này là truyện “Chí Phèo” của Nam Cao. Chúng ta biết là trong truyện ngắn được nhiều người xem là kiệt tác của chủ nghĩa hiện thực tại Việt Nam này, Chí Phèo đã cưỡng hiếp Thị Nở lúc chị đang ngủ ngồi dưới bụi chuối. Tuy nhiên cho đến nay, hình như chưa ai xem việc làm của Chí Phèo là một sự hiếp dâm và cũng không có ai lên án Chí Phèo cả. Trong danh sách các tội trạng của Chí Phèo, người ta thường chỉ liệt kê các việc say sưa, ăn vạ, chửi bới thô tục và đâm thuê chém mướn chứ không hề, hầu như tuyệt đối không hề có tội danh “tấn công tình dục”. Tại sao? Dường như người ta cho với một kẻ vừa xấu xí vừa đần độn vừa dở hơi như Thị Nở, mọi sự quấy nhiễu đều được phép. Người ta khinh thường Thị Nở đến độ không xem chị là người và do đó, không xem những hành động phũ phàng mà người khác đối xử với chị là một tội ác; không xem việc Chí Phèo bất thần đè chị ra hãm hiếp là một sự sách nhiễu. Hình như chính Nam Cao cũng nghĩ như thế cho nên ông đã cố tình lố bịch hóa Thị Nở bằng cách cho chị hưởng ứng hành động cưỡng dâm của Chí Phèo một cách quá mau chóng và quá nồng nhiệt: “Chí Phèo… rón rén lại gần Thị Nở: lần đầu tiên hắn rón rén, từ khi về làng… “Thị Nở bỗng nhiên bật cười. Thị Nở vừa rủa vừa đập tay lên lưng hắn. Nhưng đó là cái đập yêu, bởi vì đập xong, cái tay ấy lại giúi lưng hắn xuống. Và chúng cười với nhau…” Dưới ngòi bút của Nam Cao, Thị Nở chỉ là một con thú giống cái sống thuần bằng bản năng. Mà hình như trong truyện “Chí Phèo”, phần lớn các phụ nữ đều thế. Trong mấy bà vợ của Bá Kiến, bà ba thì thích gọi Chí Phèo đến bóp chân mà lại đòi “bóp lên trên, trên nữa”; còn bà tư thì “gần bốn mươi rồi mà còn phây phây”, nghe bọn con trai đùa là ‘cười toe toét, tít cả mắt lại”. Con gái tự Lãng thì chửa hoang bỏ nhà theo trai; còn vợ binh Chức thì hình như sẵn sàng ngủ với mọi người đàn ông, bất kể già trẻ, lớn bé, sang hèn. Và Thị Nở nữa, vốn khùng khùng dại dại, tưởng không phải là người, đừng nói là người nữ, vậy mà khi bàn tay của Chí Phèo chạm vào, bản năng tình dục bật dậy, cũng biết cất lên tiếng cười giữa khuya khoắt. Với các nhân vật nam, nếu phải tả ngoại hình, ông chỉ phác qua vài nét để cốt nói lên tính cách của họ. Mà những nét tả phác ấy thường chỉ là cái bề ngoài của bề ngoài, tức những yếu tố mang tính xã hội hơn là thuần túy sinh lý. Với các nhân vật nữ thì ông tập trung chủ yếu vào hai chi tiết chính nhằm nói lên đời sống sinh lý và đức hạnh của họ: đôi mắt và gò má. Hầu hết các nhân vật nữ không “đàng hoàng” trong truyện “Chí Phèo” đều có hai chi tiết giống nhau: đôi mắt thì sắc mà gò má thì “hồng hồng” hay “hây hây” hay “phây phây”. Một số người đã chú ý đến Ánh trăng nhuốm đầy sắc dục trong truyện “Chí Phèo” nhưng hình như không ai chú ý đến thời điểm xuất hiện của ánh trăng ấy nên không thấy hết ý nghĩa của nó. Có cả thảy năm lần Nam Cao nhắc đến ánh trăng, nhưng trong đó, chỉ có hai lần ánh trăng nhuốm màu sắc dục, và cả hai lần đều xuất hiện trước khi Chí Phèo gặp Thị Nở. Như vậy, chức năng của ánh trăng ở đây không phải là làm cái nền cho cuộc gặp gỡ giữa hai người trở thành thơ mộng hay lãng mạn hơn như nhiều người thường tưởng. Dưới mắt Thị Nở, trăng chỉ là trăng, không có gì đặc biệt. Chỉ có ánh trăng dưới mắt Chí Phèo mới có vấn đề. Ngay từ đầu hôm, lòng tức tối đi kiếm người để gây sự, Chí Phèo đã nhìn ánh trăng một cách khác thường. Tính chất sắc dục ấy càng lộ rõ khi Chí Phèo uống rượu với tự Lãng xong, ra về, người thấy “bứt rứt” và “ngứa ngáy” vô cùng. Lúc ấy, hắn thấy ánh trăng “xanh rời rợi như là ướt nước” và dưới ánh trăng ấy, tất cả mọi vật đều biến thành… đàn bà. Như vậy, không phải chỉ đến khi nhìn thấy Thị Nở ngủ ngồi dưới gốc chuối với chiếc yếm xộc xệch, phơi ra cái “sườn nây nây” dưới ánh trăng rười rượi, hắn mới bị kích dục. Hắn đã bị kích dục sẵn. Nhưng toàn bộ sự “khám phá” của Chí Phèo lại rất đơn giản: hắn là một con đực. Và cả buổi tối hôm đó, con đực ấy đang rượn cái. Do đó, việc hắn nhào đến cưỡng dâm Thị Nở là điều có thể dễ dàng đoán được. Chỉ có điều hắn và cả người đọc không đoán trước được là: bản thân Thị Nở cũng là một con cái đang ngủ say mà thôi. Khi thức dậy, con cái ấy đã đáp ứng lại hành động tấn công của con đực một cách nồng nhiệt. Vụ hiếp dâm tự động biến thành cuộc ân ái giữa hai con thú khát tình. Nếu nhìn “Chí Phèo” như một truyện tình thì đồng thời chúng ta cũng dễ nhận ra đây là một truyện tình rất đặc biệt. Cho đến lúc ấy, đầu thập niên 40, lúc “Chí Phèo” được xuất bản, hầu hết các truyện tình Việt Nam đều là những tình cảm hết sức thiêng liêng. Phần lớn đều dừng lại ở giai đoạn ‘tiền hôn nhân’ và rất hiếm khi nhuốm mùi xác thịt. Tình yêu giữa Lan và Ngọc trong “Hồn bướm mơ tiên” của nhà văn Khái Hưng; giữa Loan và Dũng trong “Đoạn tuyệt”, giữa Mùi và Siêu trong “Xóm cầu mới” của nhà văn Nhất Linh… đều hết sức trong trắng. Trong “Giòng sông Thanh Thủy”, Nhất Linh cho Ngọc và Thanh, một thiếu phụ độc thân, ngủ chung với nhau trong một căn nhà mà không hề có chuyện gì xảy ra; hơn nữa, ông còn nhấn mạnh, một cách không cần thiết và cũng thiếu thành thực: “Cả Thanh lẫn Ngọc đêm hôm ấy không ai có ý nghĩ gì vẩn đục”. Táo bạo đến như Hiền trong “Trống mái” của Khái Hưng, thì cũng mê thân hình của Vọi như mê một bức tượng chứ không phải mê một xác thịt. Các nhà thơ còn đầy tính chất thiêng liêng và thuần khiết của tình yêu đến độ cực đoan khi đối lập nó với hôn nhân: Vũ Hoàng Chương thì cho việc đụng chạm xác thịt trong đêm tân hôn như “bùn nhơ nơi hạ giới”. Nguyễn Nhược Pháp, ở cuối bài thơ “Chùa Hương”, cho hôn nhân như là một dấu chấm hết của thơ. Huy Cận thì đang bước “bỗng e dè đứng lại” vì biết là “chân hết đường thì lòng cũng hết yêu”. Hồ Dzếnh thì dặn dò người yêu “Em cứ hẹn nhưng em đừng đến nhé” vì cho “Tình mất vui khi đã vẹn câu thề/ Đời chỉ đẹp những khi còn dang dở”. Còn Xuân Diệu, mặc dù cực kỳ tham lam. Lúc nào cũng gào thét “Trời ơi, ta muốn uống hồn em” nhưng lại năn nỉ “Hãy là hoa, xin hãy khoan là trái”. Trong không khí lãng mạn và rất “trong sạch” như thế, việc ăn nằm trước hôn nhân của một cặp tình nhân đã bị xem là tội lỗi không thể khoan thứ, huống hồ là việc ăn nằm hết sức ngẫu nhiên không những ở ngoài hôn nhân mà còn ở ngoài cả tình yêu như việc ăn nằm giữa Chí Phèo và Thị Nở. Thế nhưng dưới ngòi bút của Nam Cao, chính những chung đụng xác thịt có vẻ đầy thú tính ấy đã làm xuất hiện rất điều bất ngờ khiến ngay cả người kể chuyện – Nam Cao, trước những sự thay đổi của Thị Nở, đã ngạc nhiên đặt câu hỏi: “Hay sự khoái lạc của xác thịt đã làm nổi dậy những tính tình mà thị chưa bao giờ biết?”. Từ những đụng chạm xác thịt với Thị Nở làm cho Chí Phèo trở thành “giàu có” vô hạn. Chính vì cảm nhận được sự giàu có ấy cho nên hắn mới cảm nhận được sự mất mát lớn lao khi bị Thị Nở tuyệt tình. Và chính sự đau khổ và tuyệt vọng trước sự mất mát này đã khiến hắn vùng lên giết chết Bá Kiến và tự tử. Như vậy, có thể nói Tình dục đã đóng một vai trò lớn lao trong truyện “Chí Phèo”. Có lẽ hiếm có tác phẩm nào mô tả sâu sắc những ảnh hưởng của tình dục trong đời sống con người như vậy. Tóm lại, trong văn học Việt Nam, hiếp dâm không được mô tả như một tội phạm. Nó chỉ đơn thuần là một sự kiện, một thứ tai nạn, hay có khi, lạ lùng hơn, một thứ “may mắn” đối với nạn nhân. Rõ ràng đây là một cách nhìn đầy kỳ thị về phái tính. Nhưng điều lạ là, cho đến nay, hình như chưa có người phụ nữ nào tỏ ý bất bình về những cách nhìn này. PHẠM VŨ st Tình yêu trong ngày đầu năm Tác giả: Dương Lêh 4g30 sáng, ngày mồng một Tết. Tôi lặng lẽ đẩy chiếc xe máy ra cửa, với tay tắt ngọn đèn nhà trước, nhẹ nhàng đóng cửa cẩn thận, rồi lên máy từ từ cho xe chạy ra đường. Giờ này chồng tôi còn đang say ngủ ở phòng bên cạnh, và con gái cũng đang say sưa với giấc mơ đang ở bên cạnh anh chàng bạn trai ngày ngày đưa đón. Đường vắng hơn bao giờ hết, hầu như chỉ có mình tôi đang dong ruổi trong sương sớm. Thời tiết đang ở trong mùa lạnh. Ánh đèn đường không sáng lắm càng làm cho quang cảnh phố xá chung quanh thêm phần lạnh lẽo. Mồng một Tết. Giờ này chắc chắn mọi người đang ở nhà mê man ngủ vì cảm thấy mỏi mệt sau lễ nửa đêm hay đi chùa đón giao thừa. Tất cả mọi gia đình đều chuẩn bị cho buổi sáng mồng một, họp mặt gia đình trong trạng thái hân hoan chào đón ngày đầu tiên của đầu năm mới. Hầu như không ai muốn lấy một lý do gì để vắng mặt khỏi gia đình vào giờ phút thiêng liêng này. Nhưng, bây giờ đây tôi đã hẹn để đến với anh ấy. Khi tôi đến bãi giữ xe bên hông công viên, anh ấy đã chờ ở đấy tự bao giờ. Bãi xe trống vắng, chỉ lác đác vài chiếc. Tôi cảm thấy có một xúc động nhè nhẹ khi thấy anh cũng đã bỏ gia đình để đến với tôi vào buổi sáng đầu năm. Sở dĩ chúng tôi gửi xe bên hông công viên vì bãi xe phía trước công viên bên kia đường, chúng tôi thường gửi, đã nghỉ Tết. Tất cả mọi người làm việc tại hai bãi giữ xe này đều biết mối quan hệ chúng tôi. Họ đều cho chúng tôi rất đẹp đôi. Anh ấy cao ráo, tôi thì đứng vừa xấp xỉ ngang tai anh. Chúng tôi mặc áo ấm thong thả đi như những cặp tình nhân đang dạo chơi trên những con đường hoa Đà Lạt, ngập tràn hạnh phúc. Tôi thật sự có niềm kiêu hãnh khi đi bên cạnh anh ấy, nhất là với vẻ bề ngoài rất trí thức của anh. Cho nên tôi thường dẫn anh ấy đi ngang những nơi tôi biết có những người quen để họ nhìn thấy và ganh tị với niềm hạnh phúc của tôi. Tôi biết khi nhìn chúng tôi không ai nghĩ rằng chúng tôi đi bộ là để tập thể dục buổi sáng. Ngay cả tôi, tôi cũng không cho đây là buổi tập thể dục mà là thời gian để anh sưởi ấm tôi cho dù thời tiết nóng hay lạnh. Cũng có người ở bãi giữ xe cho rằng tôi bậy bạ, bỏ chồng, bỏ con chạy theo một ông già mà sức khỏe đang đến hồi xuống dốc. Họ chỉ đoán già đoán non là tôi kết anh ấy là để vòi tiền dù bề ngoài anh không có vẻ gì là một đại gia, mặc dù vóc dáng này cũng không phải là một kẻ nghèo hèn. Tôi mặc kệ, họ nghĩ sao thì nghĩ. Tôi thong thả đi bên cạnh anh ấy. Tôi đi thật sát, như chen, nén, tan loãng vào thân thể anh và cảm thấy vô cùng ấm áp. Điều này biến thành thông lệ và tôi trở thành một kẻ nghiện. Tôi nghiện làn hơi đàn ông của anh ấy, cho nên hầu như không buổi sáng nào tôi bỏ không đến với anh để được anh sưởi ấm trước khi bắt đầu một ngày mới tại cơ quan làm việc. Mỗi khi tôi thức dậy trễ, tôi vội vội vàng vàng chạy nhanh tới chỗ hẹn trong khi anh đang đi lòng vòng chờ đợi. Thỉnh thoảng tôi đi bơi vào buổi sáng, nhưng luôn luôn sau khi đi dạo với anh ấy, coi như động tác làm nóng trước khi nhào xuống hồ bơi. Vào những ngày nghỉ, tôi thường đưa anh đi ăn hay giải trí chỗ này chỗ nọ. Mỗi lần như vậy, tôi ngồi xe máy chở anh ngồi phía sau, giống như những anh Việt kiều mỗi khi về Việt Nam thường để người tình hay bạn gái chở xe máy ngồi phía sau đi dung dăng dung dẻ khắp đường phố Saigon . Điều này làm tôi vô cùng thích thú. Anh ngồi phía sau như bao phủ lấy tôi. Thân hình cao lớn của anh ôm tôi trọn vẹn vào lòng. Có lần anh muốn tôi dẫn anh đi khiêu vũ. Tôi đã đến nhà anh để chở anh đến một tụ điểm ở gần đó. Suốt buổi khiêu vũ, tôi chỉ nhảy với anh vài ba bản với những điệu dễ, phổ biến. Còn những điệu khó thì những người đàn ông khác mà tôi từng quen biết, mời tôi nhảy vì biết tôi nhảy giỏi. Tôi đã học khiêu vũ nhiều năm rồi. Ra về, anh có vẻ buồn và có phần ghen tức vì nhảy còn quá kém nên tôi đã phải nhảy với những người đàn ông khác mà thông thường những điệu khó có những động tác tạo dáng và ôm sát. Tôi thấy thương anh quá và an ủi anh rằng khiêu vũ thỉnh thoảng đi một lần, xong rồi về không ai biết ai. Riêng anh đã có tôi sát bên cạnh vào mỗi buổi sáng rồi. Tôi không nhớ đã cùng anh ấy vào khách sạn bao nhiêu lần, nhưng chỉ đến lần sau cùng gần đây nhất khi ra về tôi bỗng dưng tự hỏi, như vậy có phải là phản bội với chồng với con không? Thậm chí, ngày mồng một Tết tôi không ở bên cạnh chồng để cùng tận hưởng niềm hạnh phúc trong ngày đầu năm mà lại lén lút đến với một người đàn ông khác, đem thân thể cho anh ấy hưởng thụ. Tôi chưa phải ly thân, hay ly dị với chồng. Tôi vẫn còn một gia đình êm ấm, dù chồng tôi có phần cao tuổi, sức khỏe yếu kém. Con cái tôi đã trưởng thành có đứa đang sống ở nước ngoài có gia đình đàng hoàng. Đứa con gái còn ở đây cũng sắp sửa lập gia đình. Giả sử sui gia của tôi biết được mối quan hệ của tôi với anh ấy liệu họ có thông cảm được không hay là sẽ cho tôi là một người phụ nữ không đàng hoàng rồi khinh thường con cái tôi? Điều làm tôi lo lắng nhất là nếu những đứa con tôi biết được chúng sẽ nghĩ sao về tôi? Có người khi thấy tôi quán xuyến toàn bộ công việc gia đình, một tay chăm sóc con cái cho đến khi chúng trưởng thành, được đi du học nước ngoài, họ đều cho rằng tôi là “người vợ và người mẹ tuyệt vời”. Có còn tuyệt vời không nếu họ biết sáng nào tôi cũng đến với một người đàn ông khác không phải là chồng, để được ôm vai âu yếm, thong thả đi trên những con đường có nhiều bóng cây cơ-nia. Tuy nhiên tôi thấy có phần bất công đối với phụ nữ. Trong khi nhiều người đàn ông được có quan hệ lãng mạn hết người phụ nữ này đến người phụ nữ khác, thì người vợ ở nhà lúc nào cũng phải âm thầm chịu đựng cuộc sống khép kín cho đến khi về bên kia thế giới. Mặt trời dần dần xuất hiện đem ánh sáng lan tỏa trên khắp những mặt đường giờ này vẫn còn trống vắng. Tôi từ giã anh ấy lên xe ra về làm người đầu tiên “đạp đất” vào nhà trong năm mới. Dương Lêh Làm thế nào để nhớ THỨ TỰ CỦA CÁC SÁCH TÂN ƯỚC Khi còn nhỏ ai cũng phải qua cầu: “Tôi đi học” và ai cũng phải học bài. Nhưng làm cách nào để thuộc những bài dài lòng thòng thì chỉ có cách học thuộc lòng. Sau này khi hỏi ba tôi, ông nói xưa kia các cụ học như đọc vè, ví dụ như cuốn Tam Thiên Tự: “Thiên trời địa đất trữ cất tồn còn Lục sáu tam ba gia nhà quốc nước…” Đến khi lớn lên, lượng kiến thức mỗi ngày mỗi nhiều, phải học theo nhiều cách: học dựa theo mục lục, hoặc theo cách nắm bắt nội dung, tóm tắt những ý chính của bài, hoặc những công thức toán học được đặt thành những bài thơ, bài hát…; ngoài ra còn có thêm nhiều công cụ để hỗ trợ như băng, dĩa, máy ghi hình nữa chứ. Như thế, mỗi thời đại công cụ mỗi khác, hay nói đúng hơn là càng ngày các cách học lại càng đa dạng: khi thì vè, thơ lúc thì disco, rap… khi thì băng cassette, lúc thì đầu DVD…và hiện nay ở nước ta cách học đang có xu hướng áp dụng phương thức “lập bản đồ tư duy” (mindmap). Nhưng tất cả các công cụ ấy dù ở bất cứ dạng nào, hình thức nào thì cũng không ngoài mục đích là để giúp mỗi người chúng ta dễ thuộc, dễ nhớ… Trong một chuyến tham quan tại Tp. Buôn Ma Thuật, tôi được nghe một bài hát kể lại thứ tự của 27 cuốn Tân Ước (bài hát trang sau). Ố! Sao lại có cách dễ học và dễ thuộc đến thế. Nhớ lại xưa kia khi học Kinh Thánh biết bao người đã phải thốt lên: “Sao mà khó nhớ quá!!!”. Sau này khi được cha Đaminh Đinh Lượng chỉ cho một câu bùa: “Rõ có cô gàn, ép phi cơ the thé, gan tím tịt, phi do” tôi vui mừng vì ít ra cũng nắm được gần hết 27 cuốn, nhưng khi nhớ khi quên, khó có khi nào nhớ đủ 27 cuốn. May quá, sau thánh lễ Sr. Nga đã cho tôi xin một bản, tiếc là không biết tác giả là ai và có bài nào tương tự cho bộ Cựu Uớc gồm 46 cuốn không? Mở đầu bài hát là lời khẳng định của Thánh Giê-rô-ni-mô: “Không biết Kinh Thánh là không biết Đức Ki-tô”. Kế tiếp là phần diễn tả lợi ích của việc sống bàn tiệc Lời Chúa. Phần cuối là phần kể ra thứ tự của các sách Tân Ước: - 4 cuốn Tin Mừng: Mát-thêu Mác-cô Lu-ca Gio-an - Sách Công vụ Tông đồ - 14 thư của Thánh Phao-lô Rô-ma Cô-rin-tô I Cô-rin-tô II Ga-lát Ê-phê-sô Phi-lip-phê Cô-lô-sê Thê-xa-lô-ni-ca I Thê-xa-lô-ni-ca II
Ti-mô-thê I Ti-mô-thê II Ti-tô Phi-lê-môn Do-thái - 7 thư khác của các Thánh: Gia-cô-bê, Phê-rô, Gio-an, Giu-đa: Gia-cô-bê Phê-rô I Phê-rô II Gio-an I Gio-an II Gio-an III Giu-da - Sách Khải Huyền Bài hát đã lấy những chữ đầu của các thư. Và quả thật, chỉ cần hát thuộc bài hát này là chúng ta có thể đạt hiệu quả đúng như phần đọc theo nhạc Rap ở cuối bài: “nhớ ngay, nhớ mau, nhớ lâu và nhớ dai”. Hà Mạnh Đoàn BẢN ĐỒ TƯ DUY Công cụ tổ chức thông tin và tăng cường tư duy Trong cuộc sống có biết bao nhiêu điều cần ghi nhớ và suy nghĩ. Bởi vậy, bộ não con người như một nhà kho khổng lồ chứa tất cả các thông tin ấy. Làm thế nào để có thể phân loại chúng thành các thể loại, chuyên đề riêng? Phương pháp bản đồ tư duy hay giản đồ ý (Mindmap)(BĐTD) sẽ giúp bạn rất hiệu quả đấy. Phương pháp này được phát triển vào cuối thập niên 60 (của thế kỷ 20) bởi Tony Buzan như là một cách để giúp học sinh "ghi lại bài giảng" mà chỉ dùng các từ then chốt và các hình ảnh. Cách ghi chép này sẽ nhanh hơn, dễ nhớ và dễ ôn tập hơn. Đến giữa thập niên 70, Peter Russell đã làm việc chung với Tony và họ đã truyền bá kĩ xảo về giản đồ ý cho nhiều cơ quan quốc tế cũng như các học viện giáo dục.
Phương pháp bản đồ tư duy (BĐTD) là phương pháp được đưa ra để tận dụng khả năng ghi nhận hình ảnh, màu sắc của bộ não. Đây là cách để ghi nhớ chi tiết, để tổng hợp, hay để phân tích một vấn đề ra thành một dạng của lược đồ phân nhánh. Khác với máy tính, ngoài khả năng ghi nhớ kiểu tuyến tính (ghi nhớ theo một trình tự nhất định chẳng hạn như trình tự biến cố xuất hiện của một câu truyện) thì não bộ còn có khả năng liên lạc, liên hệ các dữ kiện với nhau. Phương pháp này khai thác cả hai khả năng này của bộ não: khả năng liên kết và tưởng tượng. BĐTD là một công cụ tổ chức tư duy nền tảng. Với phương pháp này, bạn có thể chuyển tải thông tin vào bộ não của bạn rồi đưa thông tin ra một cách vô cùng dễ dàng. Nó là một công cụ tổ chức, sắp xếp thông tin, tư duy; một phương pháp ghi chép đầy sáng tạo và hiệu quả cao. Hãy so sánh bộ não của bạn và kiến thức chứa trong nó với một thư viện. Những thông tin, kiến thức chứa trong não bạn nhiều như một kho sách vở, báo chí, băng đĩa đồ sộ trong thư viện ấy. Nếu thư viện ấy không tổ chức sắp xếp, phân loại các tài liệu thì sao nhỉ? Khi bạn đi tìm một cuốn sách hay một cái CD trong đó, bạn sẽ phải đánh vật với một đống tài liệu mà cũng chưa chắc đã tìm ra. Khi thư viện đó được sắp xếp một cách gọn gàng, khoa học theo từng thể loại, chuyên đề, xuất xứ, năm xuất bản, tác giả… với mã số riêng được ghi trên từng cuốn sách… thì việc tìm kiếm của bạn sẽ trở nên dễ dàng rất nhiều.
Tương tự như vậy, nếu bộ não của bạn được tổ chức tốt thì việc ghi nhớ thông tin và sự tư duy sẽ hiệu quả rất nhiều hơn là một mớ bòng bong thông tin trong đầu, nhiều mà chẳng dùng được. BĐTD giúp bạn như thế nào? BĐTD giúp bạn rất nhiều, rất nhiều cách khác nhau! Sau đây chỉ là một vài cách… BĐTD giúp bạn: - Sáng tạo hơn - Tiết kiệm thời gian - Giải quyết các vấn đề - Tập trung - Tổ chức và phân loại suy nghĩ của bạn - Ghi nhớ tốt hơn - Học nhanh hơn và hiệu quả hơn - Nhìn thấy “bức tranh toàn thể” … Bảy bước để tạo nên 1 BĐTD a. Bắt đầu từ TRUNG TÂM của một tờ giấy trắng rồi kéo sang một bên. Việc bắt đầu từ trung tâm giúp cho bộ não của bạn sự tự do để trải rộng một cách chủ động và để thể hiện phóng khoáng hơn, tự nhiên hơn. b. Dùng một HÌNH ẢNH hay BỨC TRANH cho ý tưởng trung tâm của bạn, bởi vì hình ảnh giúp bạn sử dụng trí tưởng tượng của mình và làm cho bộ não tập trung hơn. c. Luôn dùng MÀU SẮC, vì màu sắc cũng có tác dụng kích thích não như hình ảnh. d. NỐI các NHÁNH CHÍNH đến HÌNH ẢNH trung tâm và nối các nhánh cấp 2, cấp 3… với nhánh cấp 1, cấp 2… để tạo ra sự liên kết. Không có kết nối trong BĐTD của bạn thì mọi thứ - đặc biệt là kiến thức và trí nhớ - sẽ rời rạc. e. Vẽ nhiều nhánh CONG hơn đường thẳng để tránh sự buồn tẻ, tạo sự mềm mại, cuốn hút. f. Sử dụng một TỪ KHÓA TRONG MỖI DÒNG. Khi bạn sử dụng những từ khóa riêng lẻ. Mỗi từ khóa đều không bị ràng buộc, do đó nó có khả năng khơi dậy các ý tưởng mới, các suy nghĩ mới. g. Dùng những hình ảnh XUYÊN SUỐT. Mỗi hình ảnh có giá trị thông tin bằng với một ngàn từ. Nếu bạn có 10 hình ảnh thì bạn có 10 ngàn từ rồi. Tác dụng của Bản đồ tư duy trong cuộc sống Trong phần này, chúng ta hãy cùng tìm hiểu một số ứng dụng của BĐTD trong cuộc sống thực tế. 1. Tác dụng của BĐTD trong buổi thuyết trình Thuyết trình là khi bạn đứng trước đám đông trình bày về kế hoạch, phương pháp hay công việc của mình. Thuyết trình tốt là một lợi thế cho bạn nhưng đôi khi nó cũng tạo cho bạn một số áp lực. Nguyên nhân vì sao? Thưa: Do tâm lý của bạn. > Bạn muốn trình bày thật tốt nhưng vẫn xảy ra những lỗi nho nhỏ. > Bạn tập trung sức lực vào bài thuyết trình của mình, hy vọng nó thành công, nhưng bạn vẫn gặp phải tình trạng dù đã cố gắng nhưng kết quả vẫn không làm bạn hài lòng. > Bạn cũng luôn tuân theo một quy luật, trình bày theo một khuôn mẫu có sẵn. Bạn lại trong tư thế bị động phụ thuộc vào từ ngữ và máy móc. Bạn đã mất đi sự thoải mái trong lúc thuyết trình và BĐTD sẽ giúp bạn. > Với BĐTD bạn hãy đặt các chủ đề của bài thuyết trình ở trung tâm của trang giấy và phát triển dựa trên các hình ảnh và từ khoá mà bạn định trình bày. Cách làm này rất khoa học giúp bạn tự tin rất nhiều. > BĐTD được hình thành, các nhánh, các ý trung tâm sẽ được sắp xếp theo trật tự, làm nổi bật vấn đề và liên kết giữa các nhánh. > Với bản BĐTD hợp lý bạn chỉ cần nửa giờ đồng hồ để trình bày ý kiến của mình một cách hiệu quả, khoa học… > BĐTD đang được áp dụng rất nhiều, nó giúp cho não bộ đánh giá được vấn đề một cách tổng quan. Bạn có thể linh hoạt trong cách trình bày, kiểm soát được thời gian cũng như nội dung bạn muốn truyền tải. > Thuyết trình tốt với BĐTD là bạn đang tự khẳng định mình, thuyết phục được người nghe và nhận được sự tán dương của mọi người. Đó chính là những gì bạn nhận được khi làm việc với BĐTD. 2. Tác dụng của BĐTD cho khởi sự một dự án kinh doanh BĐTD rất hữu hiệu cho bạn khi lập kế hoạch, dự án. Nó cho bạn một cái nhìn tổng thể, cách đánh giá khách quan. Nếu bạn đang “thai nghén” một dự án kinh doanh thì đừng quên sử dụng BĐTD khi làm việc. Khi bạn chưa định hướng được kế hoạch rõ ràng, vẫn chỉ là những ý tưởng, sử dụng phương pháp BĐTD chắc chắn bạn sẽ thành công. Khi bắt đầu cho một dự án kinh doanh khởi nghiệp, bạn phải lo quá nhiều việc một lúc. Có khi nào bạn nản trí vì đuối sức? BĐTD sẽ giúp bạn tư duy thông suốt và biết sắp xếp công việc theo một trật tự ngay từ đầu. Với công cụ này cho phép bạn đoán trước được những vẫn đề có thể phát sinh, từ đó đưa ra những biện pháp ứng phó.
Phụ Bản II Công việc kinh doanh đang phát triển, bạn đừng vì thế mà bỏ qua vai trò của BĐTD. Công cụ này đang giúp bạn kiểm soát mọi hoạt động, và xác định rằng mọi việc đang đi đúng theo quỹ đạo của nó. Để các ý tưởng, các suy nghĩ của mình không bị quên khi bạn bị cuốn vào guồng quay công việc. Hãy dành một chút thời gian nhỏ để kiểm tra lại BĐTD của mình, đồng thời bổ sung kịp thời những ý tưởng mới. Với một BĐTD trong tay, bạn đang có một SỰ KHỞI ĐẦU THUẬN LỢI để THÀNH CÔNG. 3. Sử dụng BĐTD để tóm lược cuốn sách trong một trang giấy Một cuốn sách được viết ra để tạo nên một BĐTD, điều này rất có giá trị cho việc học tập. Đầu tiên nên đọc lướt qua cuốn sách một lượt, chia những mục chính và tiêu đề của các chương thành các nhánh trong bản đồ, từ đó bạn có thể bổ sung, chỉnh sửa sao cho hoàn thiện. Dựa vào BĐTD bạn sẽ nắm được diễn biến cuốn sách, tăng khả năng hiểu và đọc hiểu của bạn, giúp bạn thấy thú vị khi học tập. Lập BĐTD cho cuốn sách để khi xem lại bạn có thể nắm được toàn bộ nội dung của nó giúp cho trí nhớ của bạn chính xác hơn. Bạn sẽ được tăng cường vốn từ vựng khi tiếp cận với càng nhiều các cuốn sách. Các nhân tố giúp bạn tóm lược một cuốn sách: > Cốt truyện > Các nhân vật > Bố cục > Ngôn ngữ > Hình tượng > Chủ đề > Biểu tượng hoá > Tính triết lý > Thể loại Khi có BĐTD rồi bạn sẽ hiểu rõ nội dung, tăng cường khả năng hiểu biết và vốn từ vựng khi tiếp cận những gì bạn đọc được. Với bất kỳ ứng dụng nào thì BĐTD vẫn luôn đem lại cho bạn những lợi ích thiết thực. Lập BĐTD trong cuộc sống sẽ giúp ta kiểm soát được công việc, thực hiện được mục tiêu đề ra. Chúc bạn thành công với phương pháp lập BĐTD. Hoàng Chúc st
Nhớ BA
Hôm nay con trở về nhà Cái bàn còn đó bình trà thì không Con đi lạc xứ phiêu bồng Những điều Ba uớc đã không thỏa lòng Nhớ thuở con buớc theo chồng Lấy nguời cùng xứ nên lòng Ba vui Ngờ đâu vật đổi sao dời Con đi biền biệt sống đời xa quê Ốm đau con chẳng cận kề Dường dài dằng dặc đi về khó khăn Những ngày sau cuối nhọc nhằn Bầy con tám đứa cũng bằng như không Nước mắt chảy xuống xuôi giòng Luân xa xoay chuyển sắc không một bề Ba ơi sống gửi thác về Con tin Ba đuợc về Quê Phật rồi Gió thu thổi lá vàng rơi Con như thấy bóng Ba ngồi bên hiên ttth, tháng 9.2011 ĐOM ĐÓM Lập lòe đom đóm đan đêm Như đường kim sáng tay em thêu thùa Hình em, anh dệt bao giờ Mà nhìn đâu cũng tỏ mờ dáng em? VŨ ĐÌNH HUY Đồng Chanh, 14.4.1964 GLOW-WORMS Flickering glow-worms are knitting the night Like the bright needle in your embroidering hand Since when have I embroidered your image That wherever I look at, I always see your blurred visage? VŨ ĐÌNH HUY Đồng Chanh, 14.4.1964 Translated by Vũ Anh Tuấn TRƯỜNG HỌC Mái trường như cảng sâu và rộng Mở đón bao tàu: những học sinh Khi đến, tàu bập bềnh, nhẹ bỗng, Khi đi, nặng tri thức, nặng tình. VŨ ĐÌNH HUY Hà Nội, 06.10.1963 THE SCHOOL The school is like a wide and deep harbour Welcoming so many ships: the students Bobbing up and down, and quite light when arriving Heavily loaded with knowledge and love when departing. VŨ ĐÌNH HUY Hà Nội, 06.10.1963 Translated by Vũ Anh Tuấn Ẩn dật Người đời chỉ biết có ngọc Trai Ai biết thân Trai phận nhỏ này Ngậm ngọc thà cam trầm đáy nước Ngàn năm vui thú chốn trùng khơi HẢI ĐĂNG TRẦN VĂN HỮU Nhìn ảnh qua gương Nhìn qua gương không còn trai trẻ Một mảnh đời chia rẽ làm đôi Nửa thanh xuân đã qua rồi Chỉ còn nửa mảnh nổi trôi đường trần HẢI ĐĂNG - TRẦN VĂN HỮU Cô gái bán sen
Em xinh, em gánh sen hồng, Cho anh hỏi nhỏ “có chồng hay chưa?” Sen em lấm tấm hạt mưa, Nụ ôm trong nụ cho vừa mến thương, Anh mua một bó sen hường, Cho anh theo hết dặm trường được chăng? Em khua guốc mộc tung tăng, Gánh hoa, gánh bướm, gánh tình về đâu? Võ Thanh Liêm Tiếng thơ
Tiếng thơ êm ả mênh mông Lời thơ trang trải nỗi lòng đầy vơi Thơ bay cao vút lưng trời Thơ nghe ngào ngạt hương đời ngất ngây Thơ về quyện gió cùng mây Thơ thêm hương vị tháng ngày trong ta Thơ mang tình nghĩa đậm đà Thơ gieo bao nỗi thiết tha với đời Thơ làm vui cả đất trời Thơ xoa dịu mọi đầy vơi nỗi lòng Thơ hòa gió mát trăng trong Thơ nguồn an ủi hoài mong cuộc đời Thơ như tiếng sáo ngàn khơi Thơ là câu hát đẹp trời yêu thương Thơ liền tình bạn bốn phương Thơ ơi ta mãi vấn vương bên lòng Bốn mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông Hãy xin gởi chút hương nồng cùng thơ. XUÂN VÂN Lối về
Bụi vướng theo chân bước nặng nề Nằm nhờ quán trọ tưởng là quê Nụ cười tạm bợ say cùng mộng Giấc ngủ chưa tròn tỉnh hóa mê Sáu khắc nhớ trăng bờ lệ liễu Năm canh quên gió ngọn bồ đề Chuông chiều bỗng chợt khơi tiềm thức Cửa ngõ bâng khuâng một lối về TRẦN LỮ VŨ Lời lão tiều Quải gánh hàng hoa bán chợ đời Nghêu ngao rao giá xuống ngàn chơi Thẹn cùng nghiên bút nhìn trơ bóng Tủi phận mày râu xấu hổ cười Bàn luận văn chương lời đã cạn Ngâm nga mấy vận nỗi niềm vơi Thà làm tiều lão vui non nước Hơn bả phù danh phải lụy người HẢI ĐĂNG - TRẦN VĂN HỮU Mong ước ngàn năm Ngàn năm mới có ngày này Cơ duyên hiếm gặp dịp may đời người Chào mừng đất nước đẹp tươi Từ đây thỏa nguyện ngàn đời sáng trong Bởi chưng chưa có nên mong Ước mơ day dứt trong lòng không yên Mong sao “vua sáng tôi hiền” Mọi người đồng thuận, mọi miền đồng tâm Môi trường sinh sống sạch trong Dân an, quốc thái, bất công không còn Mong sao cho hết cơ hàn Hết đời mê muội gian tham lọc lừa Mong sao hòa thuận gió mưa Thành tâm sửa chữa tội xưa lỗi lầm Mong sao mạnh khỏe tấm thân Mong sao chữ phúc chữ nhân mãi dày Nước non đổi mới từ nay Của tiền vật chất càng ngày càng tăng Mong sao đất nước ngàn năm Vượt qua ghềnh thác khó khăn từng giờ Đời tôi chỉ một ước mơ Mong sao con cháu tới bờ vinh quang LÊ MINH CHỬ Ở cuối đường hoa
Ai chờ em cuối đường hoa Có chăng… chỉ bóng trăng tà chênh vênh Con thuyền đơn lẻ bồng bềnh Biển khơi sóng gió mông mênh ngút ngàn Ai chờ em cuối đường hoa Có chăng… sa mạc bao la hững hờ Bước chân hiu quạnh bơ vơ Suốt đời thao thức thầm mơ xa vời Ai chờ em cuối đường hoa Có chăng… một cánh sao sa lưng trời Rưng rưng nước mắt nghẹn lời Câu thơ đau đớn buông lơi nghẹn ngào Ai chờ em cuối đường hoa Có chăng… ảo ảnh mặn mà thuở xưa Bên nhau huyền thoại chiều mưa Lênh đênh trên chuyến đò đưa cuối cùng Ai chờ em cuối đường hoa Có chăng… kỷ niệm chan hòa nên thơ Nụ cười trìu mến nhung tơ Dịu dàng ánh mắt lửng lơ tia nhìn Ai chờ em cuối đường hoa Có chăng… thác lũ phong ba gập ghềnh Mảnh hồn phiêu bạt lênh đênh Cô đơn Hờn tủi Đứng bên cuộc đời NGÀN PHƯƠNG
ĐỜI LÝ NƯỚC TA ĐÁNH TỐNG HAI LẦN - Một ngàn năm nô lệ giặc Tàu - Một trăm năm đô hộ giặc Tây… Trịnh Công Sơn đã viết như vậy trong ca khúc “Gia tài của Mẹ”. Trong suốt một ngàn năm qua 3 thời kỳ Bắc thuộc, dân tộc ta nuốt căm hờn, nén thương đau mà Phật hoàng Việt Nam Trần Nhân Tông viết trong bài thơ: - “Tịch hiệp thiên hà tẩy chiến trần” Có nghĩa là: Kéo dài cả dải ngân hà về để rửa sạch mọi oán hờn, khổ đau và mâu thuẫn từ chiến tranh. Vì thế chúng ta rất hãnh diện vì dưới triều vua Lý Thái Tông (1028-1054) – triều vua kế nghiệp vua cha Lý Thái Tổ đã ban chiếu dời đô từ Hoa Lư đến Thăng Long – nước ta đã hai lần đem quân đánh nhà Tống. LẦN THỨ NHẤT: NÙNG TRÍ CAO Thổ dân vùng Cao Bằng, Lạng Sơn là người sắc tộc Thái (Tày), có tù trưởng họ Nùng. Lý Thái Tổ phong Nùng Tồn Phúc trị nhậm châu Thảng Do, em là Nùng Tồn Lộc quản châu Vạn Nhai, em vợ là Dương Đạo trị châu Vũ Lạc. Năm 1038, Nùng Tồn Phúc bất mãn với nhà Lý, giết chết hai em, chiếm đất và xưng là Chiêu Thánh Hoàng Đế, đặt tên nước là Trường Sinh, đắp thành luyện quân, không chịu nộp cống cho vua Lý Thái Tông. Năm 1039, Lý Thái Tông thân chinh đi đánh. Nùng Tồn Phúc nghe tin đem cả bộ lạc, vợ con trốn vào núi thẳm. Quân Lý đuổi đánh, bắt được Tồn Phúc và con Trí Thông mang về chém. Nùng Trí Cao là con Tồn Phúc chạy thoát. Năm 1041, Nùng Trí Cao trở về chiếm cứ châu Thảng Do, tự xưng là vua nước Đại Lịch. Lý Thái Tông cử binh đi đánh, bắt sống được Trí Cao đem về kinh sư. Biết rõ việc cai trị người Thái phải dùng người Thái, mà dân Thái vùng này vẫn tôn trọng họ Nùng nên không giết Trí Cao, mà lại cho về giữ châu Quảng Nguyên và châu Tư Lang (Trùng Khánh). Tình hình tạm yên một thời gian. Năm 1044, Trí Cao về chầu vua ở Thăng Long. Năm 1048, Trí Cao lại làm phản, chiếm động Vật Ác, tây bắc Cao Bằng. Lý Thái Tông sai quân đi đánh, Trí Cao xin hòa, hứa không mở mang bờ cõi trên đất nhà Lý mà chỉ đánh chiếm sang đất Tống. Sau Nùng Trí Cao quay sang đánh Tống, chiếm đất An Đức dựng nước Nam Thiên, lại được các người cùng sắc tộc Thái ở Lưỡng Quảng theo phò, nhất là thổ hào cùng họ Nùng là Nùng Trí Trung, Nùng Kiến Hậu liên kết. Năm 1052, Nùng Trí Cao đánh chiếm trại Hoành Sơn, rồi tiến vào Ung Châu, giết tri châu Trần Cung, tự xưng là Nhân Huệ hoàng đế, đặt quốc hiệu là Đại Nam, niên hiệu Khải Lịch. Nùng Trí Cao tiến đánh thêm các châu ở Quảng Đông, Quảng Tây, rồi đánh thành Quảng Châu, nhưng không phá được. Sau đó lại vào Châu Ung đánh giết, các tướng Tống đều bị đánh thua. Thế quân của Nùng Trí Cao lên mạnh, triều đình nhà Tống lấy làm lo. Năm 1053, Tống Nhân Tông sai Địch Thanh là tướng giỏi, nhiều kinh nghiệm, đem quân đi đánh khiến quân Nùng Trí Cao tan vỡ, các tướng đều tử trận, Trí Cao yếu thế, chạy sang nước Đại Lý – mà dân cũng cùng sắc tộc Thái. Vua Đại Lý phần sợ nhà Tống, phần e ngại Trí Cao anh hùng sẽ tranh quyền cướp nước mình nên lừa bắt giết Trí Cao, chặt đầu đóng hòm đem dâng vua Tống. Sau khi Nùng Trí Cao bị diệt, quan quân nhà Lý thu hồi đất cũ. LẦN THỨ HAI: LÝ THƯỜNG KIỆT (1019 – 1105) Danh tướng, đại thần nhà Lý, tên thật là Ngô Tuấn, được ban quốc tính, mang họ vua, do đó có họ tên Lý Thường Kiệt, làm Thái Úy, trải ba triều vua Lý Thái Tông, Thánh Tông, Nhân Tông. Ông là vị thái giám đầu tiên của các vương triều Việt Nam có công đức và đóng góp cho đất nước. Năm 1075, để gỡ cho tình trạng khó khăn, Vương An Thạch tâu với vua Tống là Đại Việt bị Champa đánh phá, quân còn sót lại không đầy vạn người, có thể lấy được để chiếm đoạt của cải. Vua Tống sai Thầm Khởi ngầm dấy binh, đóng thuyền bè, tập thủy chiến, tích trữ lương thực, đồng thờ cho sứ sang dụ người Champa và Chân Lạp cùng tiến đánh nước ta. Vua Lý biết tin - lại được Lý Thường Kiệt bàn rằng: “Ngồi im đợi quân giặc đến mới đánh, không bằng ra quân trước, chặn thế mạnh của giặc. Đây là biện pháp phòng ngự tích cực nhất” – Vua nghe theo, liền sai Thường Kiệt và Tôn Đản đem hơn 10 vạn binh đi đánh. Chiếm Khâm Châu, Liêm Châu và Ung Châu: Lý Thường Kiệt chỉ huy quân thủy cùng voi chiến đi đường biển từ châu Vĩnh An (Quảng Ninh) đổ bộ lên đánh các châu Khâm, Liêm; Tôn Đản vây châu Ung. Ngày 30-12-1075, quân Nam tiến chiếm thành Khâm Châu, bắt toàn bộ quan quân mà không phải giao chiến một trận nào. Ba ngày sau, Liêm Châu cũng thất thủ. Khi được tin hai châu Khâm, Liêm đã mất, nhà Tống rất hoang mang, lo ngại, các tướng ở địa phương bối rối. Vua Tống thay tướng làm kinh lược sứ Quảng Tây, chỉ huy kháng cự. Trên các mặt trận, quân Lý hoàn toàn làm chủ. Thường Kiệt cho đạo quân ở Khâm và Liêm Châu tiến lên phía bắc, kéo thẳng lên Ung Châu. Đây là một thành kiên cố, do tướng Tô Giám cố thủ, dù được cứu viện, quân Tống giữ thành được hơn 40 ngày. Sau cùng, quân Lý dùng hỏa công, bắn các chất cháy như nhựa thông vào thành nên thành bị hạ vào 2 ngày sau. Thường Kiệt phá xong thành Ung Châu, lại lấy đá lấp sông, ngăn cứu viện rồi đem quân lên phía bắc đánh chiếm thành Tân Châu. Cuộc Bắc phạt đã làm Vương An Thạch phải từ chức, cuộc xâm lược của chúng phải chậm lại do tiền đồn ở Ung Châu bị phá tan, nhà Tống phải điều động thêm nhân lực và lương thảo. Trận Như Nguyệt và Chiến tranh Tâm lý: Tháng 3 - 1076, nhà Tống sai Quách Quỳ đem quân, hẹn với Champa và Chân Lạp sang xâm lấn Đại Việt, nhưng quân hai nước này không dám tiến vào Đại Việt. Quân Tống viễn chinh khí thế rất mạnh mẽ. Tuyến phòng thủ của quân Nam, Lý Thường Kiệt dựa vào sông núi, các đèo hiểm trở, các sông rộng và sâu. Về đường thủy, để chặn địch qua sông, quân Nam chỉ cần đóng thuyền ở bến Lục Đầu thì đi đường nào cũng rất tiện và chóng. Năm 1077, quân Tống tràn xuống, theo đường tắt qua dãy núi Đâu Đinh, tới bờ sông Như Nguyệt (sông Cầu, khúc xã Như Nguyệt, huyện Bắc Ninh). Vua Trần Nhân Tông sai Thường Kiệt đem quân đón đánh, lập chiến lũy sông Như Nguyệt để chặn quân Tống. Quân Tống có kỵ binh mở đường tiến công quyết liệt, có lúc đã chọc thủng chiến tuyến quân Nam tràn qua sông Như Nguyệt, nhưng quân Nam đều kịp thời phản kích, đẩy lùi quân Tống. Địch chặt gỗ làm máy bắn đá sang như mưa, nhiều thuyền của ta bị thủng nát, binh sĩ chết hại tới vài ngàn. Để giữ vững tinh thân quân đội, Thường Kiệt còn dùng chiến tranh tâm lý để khích lệ tinh thần quân Nam chiến đấu, bí mật sai người đêm vào trong đền thờ Trương Hống, Trương Hát (là tướng của Triệu Quang Phục có đền thờ ở bên bờ sông Cầu) ngâm to bài “Nam quốc sơn hà” do Thường Kiệt viết: Nam quốc sơn hà Nam đế cư Tiệt nhiên định phận tại thiên thư Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư. Đang đêm, nghe tiếng vang trong đền đọc bài thơ ấy, quân ta ai nấy đều phấn khởi, nức lòng đánh giặc. Quân Tống tiến không được, thoái không xong, hao mòn vì chiến sự và khí hậu, không được thủy quân tiếp viện. Quân Nam lại tập kích, doanh trại bị phá, quân Tống 10 phần chết đến 6,7. Nhưng quân Tống cũng giết được hoàng tử quân Nam là Hoàng Chân và Chiêu Văn… Lý Thường Kiệt biết tình thế quân Tống đã lâm vào thế bí, mà người Nam bị chiến tranh liên miên cũng nhiều tổn thất, nên sai sứ sang xin “nghị hòa” để quân Tống rút về. Quách Quỳ vội chấp nhận giảng hòa và rút quân. Năm 1078, vua sai Đào Tông Nguyên đi sứ sang Tống dậng 5 con voi và xin Tống trả lại các đất đã bị chiếm và người đã bị bắt. Bên Tống trả lại tù binh và các châu Tư Lang, Tô Mậu. Năm 1079, triều đình ta trả tất cả 221 tù binh bị bắt trước kia về Tống, nhà Tống mới chịu trả châu Quảng Nguyên, tuy vẫn tiếc vì có nhiều khoáng sản quý. Năm 1084, vua Lý Nhân Tông sai Lê Văn Thịnh sang Tống bàn việc cương giới, sau khi phân giải mọi lẽ, nhà Tống trả nốt cho ta mấy huyện còn giữ lại trước đây có tranh chấp. Từ đấy bang giao tốt đẹp. Năm 1087, Tống Triết Tông lên ngôi năm trước, gia phong Lý Nhân Tông làm Nam Bình vương. TÓM TẮT Dưới thời vương triều Lý, nước ta đã hai lần đem quân sang đánh nhà Tống. Đặc biệt, chiến thắng Như Nguyệt đã đè bẹp ý chí xâm lược của phong kiến phương Bắc - Chính nhờ bài thơ “Thần” bất hủ: Nam quốc Sơn hà (được coi là bản Tuyên ngôn Độc lập đầu tiên của Việt Nam) nhà Tống còn tồn tại trên 200 năm nữa ờ Trung Quốc, nhưng chúng đã không dám xâm phạm đến bờ cõi nước ta nữa. Đọc đến đây, chúng ta càng hãnh diện với hai Chiến công lừng lẫy dưới đời nhà Lý - Hai lần duy nhất trong lịch sử Việt Nam – Nước ta đã dám tiến đánh nhà Tống khổng lồ thắng lợi, nên nhân dân ta hào hứng có câu ca dao: Nhìn xem châu chấu đá xe Tưởng rằng chấu ngã ai dè xe nghiêng. Và cùng ca bài hát – lời mới của bài “London Bridge”, như sau: Đời Lý hai lần đánh sang Tống Chấu đá xe, ai dè (xe) nghiêng Trí Cao, Thường Kiệt kinh hoàng (vua) Tống Đại Việt sáng ngời! (Tham khảo: các tài liệu Lịch sử Việt Nam và trên Internet)
Phạm Vũ
Chùa Phúc Minh, đời Lý
Phụ Bản III BẠN TÔI VI Từ cả chục năm nay, bạn tôi mỗi sáng đều ngồi từ năm mười phút tới nửa tiếng tại một tiệm sách cũ trên đường Trần Huy Liệu ở Phú Nhuận. Bạn tôi quen biết hầu hết những người bán sách cũ, từ những người thuộc thế hệ trước cách đây gần một nửa thế kỷ như quý ông Nguyễn văn Thực, Trần Công Liễu, Tư Chà vv… cho tới con cháu những người đó như Minh, Hiếu, Nam, Kinh vv… Chủ nhân tiệm sách mà bạn tôi thường tới ngồi chơi mỗi sáng cũng đã gần 60 tuổi và cũng quen bạn tôi nhiều năm rồi. Mỗi sáng bạn tôi đều có mặt, trước tiên là để xem có gì “hay và ho” không, và sau đó là để nói chuyện tếu và cười năm bảy cười trước khi bắt đầu một ngày mới. Thường thì sáng nào bạn tôi cũng kiếm được dăm ba cuốn hoặc một hai tờ báo ngoại, mà ở đó giá rẻ như bèo… tuy nhiên, cũng có những buổi chẳng có gì để mua. Nhưng có sách hay không thì vẫn vui vì, tiệm sách tuy rất nhỏ, chỉ có độ 3m chiều sâu và 4m chiều dài, nhưng ở ngoài mặt đường, và đương nhiên là mặt đường thì… có thiếu gì hồng nhan tri kỷ qua lại! Do đó mỗi sáng bạn tôi và anh Th. chủ tiệm sách bắc 2 cái ghế ngồi song song để nghía các người đẹp qua lại… hơi bị đông. Với bạn tôi đây là một dạng thể dục… mắt vì bạn tôi rất cần một đôi mắt thật khỏe mạnh, tráng kiện để đáp ứng nhu cầu đọc và đọc của anh ta. Dần dần bạn tôi thật sự cảm thấy việc chiêm ngưỡng những nhan sắc qua lại quả là… đã mắt quá, khỏe mắt quá, và sự việc này dẫn đến việc anh đặt tên cho tiệm sách nhỏ này là MÃN NHÃN LÂU và phong cho anh bạn chủ tiệm sách là Lâu Chủ, một cái tên khá ấn độ, ấy chết tôi viết nhầm… ấn tượng, vâng, rất ấn tượng. Để mô tả việc anh mỗi sáng ngồi thể dục… mắt, bạn tôi có tức cảnh sinh tình mấy vần thơ trường phái Thiên Cữu sau đây: Thầy Tuân Sắc vốn người nước Lỗ Chữ Tây Tàu lỗ mỗ một vài câu Ngày ngày Thầy ngồi ở Mãn Nhãn Lâu Nghía ngàn vạn “Cao Phâu” qua lại… Ai ngờ mấy chữ Mãn Nhãn Lâu đó đã gây ra một sự hiểu lầm tai hại, khiến bạn tôi xuýt mất một người bạn thân… Câu chuyện đó xảy ra như sau: 7 năm về trước khi ông Lê Ngộ Châu, chủ nhiệm tờ báo Bách Khoa danh tiếng còn tại thế, vì từ ngày ông Châu qua đời tới nay đã là 5 năm rồi. Trước ngày Giải Phóng và ngay cả sau ngay Giải Phóng, tòa soạn báo Bách Khoa được coi như một khách thính, rất có thể là duy nhất ở Miền Nam, thường quy tụ hàng ngày rất nhiều văn nhân, nghệ sĩ, như cụ Vương Hồng Sển, ông Khai Trí Nguyễn Hùng Trương. bà Minh Quân, GS Nguyễn văn Trung, Dịch giả Nguyễn Minh Hoàng, nhà báo Lê Phương Chi, nhà báo Nguyễn Ngu Ý, nhà báo Châu Hải Kỳ, nhà văn Thiên Giang và phu nhân là nữ sĩ Vân Trang, Dịch giả - nhà văn Trần Phong Giao, tác giả Nguyễn Quốc Thắng, nhà văn Đặng Trần Huân, nhà văn Lê Hương, Nhà báo Như Phong Lê văn Tiến vv… và bạn tôi. Thật ra số văn nhân nghệ sĩ cộng tác với tờ Bách Khoa, cả già lẫn trẻ phải lên tới trên 50 người, nhưng trong số những người đó bạn tôi chỉ giao thiệp với những người có tên ở trên và 2 vị anh thân thiết nhất chính là ông Lê ngộ Châu và nhà văn Trần Phong Giao. Ông Châu có qua Mỹ sống một thời gian khoảng 1 năm (hay hơn nữa tôi không nhớ rõ) rồi mới lại trở về sinh sống nơi quê nhà. Ngày ông trở về, những văn nhân nghệ sĩ thường lui tới số 160 Phan Đình Phùng (nay là Nguyễn Đình Chiểu) cũng đã phân tán đi gần hết, người thì đi Mỹ, kẻ thì về “Bên Kia”… chỉ còn độ trên dưới 20 người, trong số đó có bạn tôi. Trong những buổi sáng lại thăm ông Châu, bạn tôi thường xuyên gặp một vài vị khác cũng có mặt… và đã có vài lần bạn tôi khoe với ông Châu là sáng nào cũng ngồi ở Mãn Nhãn Lâu với anh bạn để tập thể dục… mắt! Bạn tôi đã chẳng bao giờ ngờ rằng ba chữ Mãn Nhãn Lâu đã lọt rất sâu vào tai một vị khách vừa là bạn thân với ông Châu, vừa thân cả với bạn tôi.Vị khách này liền năn nỉ bạn tôi cho địa chỉ Mãn Nhãn Lâu, nhưng mấy lần vị này năn nỉ, bạn tôi đều tìm cách đánh trống lảng để không phải cho, lý do rất đơn giản là vì người này cũng chơi sách như bạn tôi, và những người chơi sách đều hơi bị ích kỷ vì không thích chia sẻ những địa chỉ có quý thư với ai khác! Bạn tôi đã tưởng từ chối vài lần rồi thì… yên chuyện, nhưng nghĩ vậy mà không phải vậy, ông kia thấy bạn tôi lẩn tránh hoài không chịu cho địa chỉ nên đã đem chuyện nói với ông Châu, nhờ can thiệp để bạn tôi phải cho. Vài ngày sau đó, vào một buổi chiều, trong khi bạn tôi đang ngổi chơi với ông Châu thì người bạn kia tới. Ông Châu liền bảo bạn tôi là nên chia sẻ địa chỉ cái Mãn Nhãn Lâu, Mãn Nhãn Liếc gì đó với người bạn, chứ giữ bo bo một mình làm gì? Bạn tôi nể lời ông Châu,nên đã viết địa chỉ lên đầu tờ báo mà người xin cầm trên tay. Sáng hôm sau, mới 7 giờ sáng, người bạn của bạn tôi, đã gọi điện thoại cho anh và cho biết là tối hôm qua, trong lúc đi về nhà đã không may làm rớt tờ báo, nên lại xin lại địa chỉ. Bạn tôi đành đọc lại địa chỉ cho người kia ghi. Hai giờ đồng hồ sau, vào lúc 9 giờ, bạn tôi kể lại với tôi là anh lại nhận được một cú điện thoại của ông bạn. Lần này ông bạn của bạn tôi chu chéo lên trong máy: “Ông tệ quá, ông chơi sỏ tôi! Lâu với Các gì cái tiệm sách nhỏ téo! Bạn bè với nhau mà ông đối xử với tôi như thế này à? Ông là đồ tồi!” Bạn tôi đã bình tĩnh nghe, và để người bạn hỏi hả! hả! mấy câu, anh mới dõng dạc trả lời: “Ông nên bình tâm lại nghe tôi nói đây: Tôi có tự nhiên cho ông địa chỉ đâu? Ông năn nỉ xin đấy chứ! Tôi đã cố tình không cho, thì ông lại nhờ ông Châu nói hộ. Rồi sáng nay ông kêu đánh mất tờ báo và lại xin lại cái địa chỉ đó! Vậy ông trách tôi cái gì đây? Vì cớ gì trách?” Và bạn tôi kể cho tôi hay như sau: “Ông ta nói: “Ông chơi sỏ tôi, vì cái tiệm sách nhỏ téo mà Lâu với Các gì?”. Quý vị thử nghĩ xem bạn tôi đã trả lời ra sao? Anh ta lại dõng dạc nói: “Này ông làm ơn dỏng tai ra mà nghe nhé: “Nơi nào có tao nhân mặc khách thì đó là Lâu là Các dù nhỏ bé thế nào đi nữa; còn nơi nào chỉ có lũ trọc phú và những quân điếu đóm tụ hội với nhau để ca cẩm lẫn nhau, thì dù có là Lầu Vàng Gác Ngọc chính cống Bà Lang Trọc đi nữa, cũng vẫn chỉ là… cái Hèo Chuông!... Ở phía đầu giây đàng kia ông bạn của bạn tôi bỗng “bược cười” và phán: “Ôi cha nội! Ông tếu quá! Thôi tôi tha, không thèm giận ông nữa!” Vài ngày sau gặp nhau lại, người bạn của bạn tôi tâm sự với bạn tôi, để biện minh cho lý do hôm đó anh ta đã nổi đóa: “Ông biết không, có được cái địa chỉ, mình bỏ cả ăn sáng và hộc tốc phóng xe từ Củ Chi lên! Trên đường đi, lảng vảng trong đầu óc mình biết bao giai nhân trong y phục nghèo nàn nhất! Bao giai nhân sẵn sàng ngả vào lòng mình… vân vân và vân vân… để rồi khi tới nơi… tất cả những hình ảnh hấp dẫn đó biến vào hư không… khi trước mắt mình chỉ hiện ra một tiệm sách nhỏ téo tèo teo! Ông phải thông cảm cho mình nhé! Hôm đó những lời siêu tếu của ông đã làm mình phì cười và hết giận… vì dù sao đi nữa những lời ông trả lời tôi, tuy tếu thực… nhưng hơi bị có lý đấy!... Điểm sách HUYỀN THOẠI THÀNH CỔ QUẢNG TRỊ Cuốn đại sách độc bản lưu danh tên tuổi các liệt sĩ Lần đầu tiên, tên tuổi của hơn 4.000 liệt sĩ được ghi danh trong cuốn sách độc bản mang tên Huyền thoại thành cổ Quảng Trị có kích thước 1m x 0,7m vừa được xuất bản. Sách do Trung tâm Thông tin truyền thông vì môi trường phát triển, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân và Giáo hội Phật giáo Việt Nam phối hợp thực hiện. Đây là tác phẩm thứ 7 nằm trong bộ sách Huyền thoại Việt Nam của Dự án Văn hóa uống nước nhớ nguồn (dự án xuất bản phi lợi nhuận của Trung tâm Thông tin truyền thông vì môi trường phát triển). Sáu cuốn sách đã được xuất bản trước đó gồm Huyền thoại Trường Sơn; Huyền thoại Điện Biên; Huyền thoại Phú Quốc; Huyền thoại Côn Đảo; Huyền thoại Thanh niên xung phong Việt Nam và Huyền thoại U Minh. Đại sách độc bản Huyền thoại thành cổ Quảng Trị được hoàn thành trong vòng hai năm. Tác phẩm có bốn phần chính: Quảng Trị, Thành cổ Quảng Trị - Địa danh và những dấu ấn lịch sử (viết về truyền thống hào hùng, kiên cường, bất khuất của đất và người Quảng Trị trong cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc); Thành cổ Quảng Trị , huyền thoại mùa hè đỏ lửa – 1972 (tái hiện sức mạnh quả cảm của quân và dân ta trong 81 ngày đêm chiến đấu giữ thành); Tên anh đã thành tên Đất nước (lưu danh tên tuổi của hơn 4.000 liệt sĩ đã anh dũng hy sinh trên mảnh đất đầy nắng, gió Lào và cát trắng); Thành cổ Quảng Trị, một thời và mãi mãi (đó là những ký ức, những bài ca, vần thơ về Thành cổ Quảng Trị của những người lính đã đi qua cuộc chiến). Đại sách độc bản Huyền thoại thành cổ Quảng Trị được rước từ Quảng trường Ba Đình, Hà Nội vào Quảng Trị bằng xe Nghi lễ Quân đội nhân dân Việt Nam và đặt tại Bảo tàng Thành cổ Quảng Trị nhằm lưu danh các anh hùng liệt sĩ đã hy sinh vì sự bình yên của Tổ quốc, góp phần giáo dục truyền thống yêu nước cho thế hệ trẻ mai sau. Cùng với lễ dâng đại sách, vào tối 10/7/2011 tại thành cổ Quảng Trị còn có đại lễ cầu siêu, thả hoa đăng trên sông Thạch Hãn, lễ tri ân và lưu danh các liệt sĩ. Đây cũng là một trong những hoạt động lớn nhân kỷ niệm 64 năm ngày Thương binh – liệt sĩ (27/7/1947 – 27/7/2011). Ngoài cuốn sách duy nhất có kích thước lớn như trên được xác lập kỷ lục Việt Nam “Cuốn đại sách lớn nhất lưu danh tên tuổi liệt sĩ hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc”, Huyền thoại thành cổ Quảng Trị sẽ được in 10.000 cuốn để tặng gia đình, thân nhân các liệt sĩ. THANH HÀ HÀ LAN & VATICAN: Con tem là quyển sách nhỏ Ø Tuần lễ Sách (Boekenweek) là một chiến dịch quảng bá sách do những nhà xuất bản chính thức ở Hà Lan xuất bản hàng năm, được tổ chức từ năm 1935 bởi quỹ CPNB (Collectieve Prepaganda van het Nederlandse Boek) – một tổ chức có mục tiêu thúc đẩy việc đọc sách và quyền sở hữu sách tiếng Hà Lan. Để kỷ niệm Tuần lễ Sách lần thứ 75 được tổ chức từ ngày 10 đến ngày 20.3.2010, ngày 09.3.2010, lần đầu tiên trên thế giới. Bưu chính Hà Lan phát hành một con tem trong hình dạng quyển sách tí hon do Richard Hutten thiết kế, có kích thước 30mm x 40mm, khi mở ra gồm 8 trang sách chứa một truyện ngắn 500 từ có tựa đề “Wat is erger” (Điều gì tồi tệ hơn) của Joost Zwagerman. Tem có giá mặt 2.2 Euro, có thể dùng để gửi một quyển sách nặng đến 500 gram. Ø Thư viện Tòa thánh Vatican (Bibliotheca Apostolica Vaticana) tọa lạc trong thành Vatican. Đây là một trong các thư viện cổ nhất thế giới, lưu giữ hơn 1.000.000 cuốn sách cổ, trong đó có hơn 75.000 bản thảo viết tay và Codex B (bản kinh thánh hoàn chỉnh cổ nhất hiện nay). Thư viện do Giáo hoàng Nicolas V thành lập vào thế kỷ 15 (khoảng 1448). Để kỷ niệm sự kiện này, Bưu chính Vatican đã phát hành một con tem cũng là quyển sách nhỏ có kích thước 30mm x 40mm với số lượng 110.000 tem. Bìa sách, cũng là mặt trước của tem, in hình Giáo hoàng Sixtus V, người đã cho xây dựng một tòa nhà mới cho Thư viện Tòa thánh Vatican vào thế kỷ 16 (khoảng 1587), hiện vẫn đang sử dụng. Bên trong sách có 6 trang in một số thư tịch cổ và hình minh họa hiện đang lưu trữ tại Thư viện. HOÀNG ANH THI BỘ SƯU TẬP NHỮNG QUYỂN SÁCH THU NHỎ JOZSEF TARI, người Hungary bắt đầu sưu tầm những quyển sách thu nhỏ từ năm 1972. Đến nay ông đã có hẳn một thư viện với hơn 4.500 quyển sách, trong đó có quyển sách nhỏ nhất thế giới (2,9 x 3,2mm). Hầu hết các quyển sách của ông có nguồn gốc từ Hungary, nhưng cũng có khá nhiều quyển xuất xứ từ Mỹ, Mexico, Canada, Australia, Indonesia và Japan. Ông quan tâm đến mọi chủ đề từ tôn giáo đến thể thao, văn học thậm chí là sách nấu ăn nhưng yêu cầu kích thước phải dưới 76mm. Ngoài sách ông còn có 15 tờ báo thu nhỏ, trong đó có tờ báo kích thước chỉ 19 x 26mm. Q.L.(Theo OddityCentral) CUỐN SÁCH ĐẸP NHẤT NĂM 2010 Hội đồng giám khảo Hội chợ Sách quốc tế tổ chức tại Lepzig (Đức) đã thẩm định chu toàn tất cả 626 đầu sách đề cử từ 34 quốc gia, để chọn ra ấn phẩm đoạt danh hiệu “Cuốn sách đẹp nhất của năm 2010”. Đó là quyển sách kiến thức khoa học có tiêu đề “Geohistoria de la Sensiblidad en Venezuela” do nhà địa lý học nổi tiếng người Chile Pedro Cunil Grau đứng tên chủ biên và được quỹ Empresas Polar tại Caracas (Venezuela) tài trợ xuất bản. Được biết tham gia hội chợ sách năm nay có sự hiện diện của gần 2.000 văn sĩ chuyên nghiệp đến từ khắp thế giới. K.D (Theo Reuters) TRANG SÁCH DÀI 140 MÉT Đông đảo người tình nguyện cùng nhau đưa một ấn phẩm duy nhất chỉ có 1 trang nhưng dài tới 140 mét ra khỏi nhà in tới nơi trưng bày lộ thiên thuộc ngoại vi hải cảng Rotterdam. Tác phẩm độc nhất này do 2 tác giả nổi tiếng người Hà Lan là nhiếp ảnh gia Eppo Noterboom và ký giả Henk Schroedea đồng biên tập soạn ghi lại những nét văn hóa đặc trưng cho xứ sở hoa tulip. Đại diện sách Guinnes tại Vương quốc Hà Lan đã chính thức ghi nhận kỷ lục của trang sách dài nhất thế giới (Theo DPA) BỘ SƯU TẬP TRUYỆN TRANH LỚN NHẤT THẾ GIỚI Kỷ lục này được Brett Chilman (biệt danh “Anh chàng truyện tranh”) sống tại Henley Brook, vùng ngoại ô thành phố Perth (bang Tây Úc, Úc) xác lập vào ngày 6.7.2011, với bộ sưu tập có sơ sơ… hơn 68.000 quyển truyện tranh mà anh bỏ công sưu tầm trong hơn 30 năm! Trong số đó có bản sao của cuốn truyện tranh quý hiếm nhất thế giới “Action Comic No.1” (từng được bán đấu giá 500.000USD). Chúng được lưu trữ đầy 2 ngôi nhà lớn của anh và có giá hơn 1,3 triệu USD. Anh mê đọc truyện tranh từ thuở bé và lúc ấy anh thường xuyên nhịn ăn quà vặt để dành tiền mua truyện tranh. Sau này, anh chơi bóng rổ chuyên nghiệp và trong một lần bị chấn thương nặng, phải điều trị dài ngày, anh nảy ý sưu tập và đọc truyện tranh. Anh đặt hàng tại nhiều nhà sách và mua mỗi đợt 1.000 cuốn truyện tranh, dùng nylon bao truyện cẩn thận cho khỏi rách. Vợ anh cũng phải lắc đầu chào thua trước ông chồng nướng mỗi tháng vài trăm đôla vào truyện tranh. “Tôi sống và thở bằng… truyện tranh. Tôi biết một thư viện ở Mỹ có 250.000 cuốn truyện tranh, nhưng đó là do nhiều người tặng lại cho thư viện. Còn tôi mua truyện tranh bằng tiền của mình và không nhờ ai tặng truyện cả. Bởi thế, tôi đang sở hữu bộ sưu tập tư nhân về truyện tranh lớn nhất”, anh nói. Từ 22.3 – 22.7.2011, bộ sưu tập khổng lồ của anh với tên gọi “Các anh hùng và những kẻ hung ác” đã được triển lãm tại gallery ở Ellenbrook (vùng ngoại ô đông bắc thành phố Perth), thu hút nhiều thiếu nhi đến xem. Vì quá ấn tượng với truyện tranh nên anh dùng tên các nhân vật anh hùng trong truyện tranh để đặt cho các con: Tristen trong truyện “Stardust”, Logan trong truyện “Wolverine” và Isabelle trong truyện “Beauty and the Beast”! Hiện nay, anh đang lên kế hoạch xây dựng căn phòng khổg lồ có thể chứa được “kho báu vật” của mình trong tương lai: 300.000 quyển truyện tranh trong các tủ kính chống nấm mốc! 11 TÁC PHẨM ĐOẠT GIẢI THƯỞNG SÁCH HAY 2011 * Sách lẽ sống : sách viết: không có; sách dịch: khuyến học (Fukuzawa Yukichi, Phạm Hữu Lợi dịch, NXB Trẻ, 2004, Nhã Nam & NXB Trí Thức, 2008). * Sách giáo dục : sách viết: Phương pháp nghiên cứu giáo dục và tâm lý (Dương Thiệu Tống NXB ĐHQG TP.HCM, 2002, Phương Nam Book & NXB KHXH, 2005); sách dịch: Dân chủ và giáo dục (John Dewey, Phạm Anh Tuấn dịch, NXB Trí Thức, 2008). * Sách nghiên cứu : sách viết: không có; sách dịch: Nền dân trí Mỹ (Alesiz de Tocqueville, Phạm Toàn dịch, NXB Trí Thức, 2007). * Sách kinh tế : sách viết: Tư duy kinh tế Việt Nam 1975-1989 (Đặng Phong, NXB Trí Thức, 2008); sách dịch: không có. * Sách quản lý : sách viết: Công ty: vốn quản lý và tranh chấp (Nguyễn Ngọc Bích & Nguyễn Đình Cung, Phương Nam Book & NXB Trí Thức, 2009); sách dịch: bộ ba cuốn Chiến lược cạnh tranh; Lợi thế cạnh tranh và Lợi thế cạnh tranh và lợi thế cạnh tranh quốc gia (Michael Porter, nhóm dịch giả, DT Books &NXB Trẻ, 2009). * Sách Thiếu nhi – Văn học : sách viết: Vừa nhắm mắt vừa mở cửa sổ (Nguyễn Ngọc Thuần, NXB Trẻ, 2008); sách dịch: Hoàng tử bé (Antoine de Saint Exupery, Bùi Giáng dịch, NXB Văn Nghệ, 2005). * Sách văn học (tiểu thuyết) : sách viết: Nỗi buồn chiến tranh (Bảo Ninh, NXB Hội Nhà Văn, 1991); sách dịch: Nghệ nhân và Margrita (Mikhail Bulgacow, Đoàn Từ Nguyên dịch, TT Ngôn ngữ Đông Tây &NXB Lao Động, 2006). Lễ trao giải thưởng diễn ra sáng 8.9.2011 tại khách sạn Kim Đô, Saigon (Sài gòn Tiếp Thị, số 103, 9.9.2011) Bùi Đẹp st Hoan chiến: MỘT THỨ CHIẾN TRANH MỚI LẠ, KỲ THÚ VŨ ANH TUẤN L oài người đã trải qua hai trận thế chiến: Đệ Nhất Thế Chiến 1914-1918 đã làm chết trên 8 triệu người mà hai nước bị chết nhiều nhất là Đức Quốc mất 1.800.000 người, và Pháp mất 1.400.000 người; hai nước bị chết ít nhất là Nam Tư cũ mất 400.000 và Thổ Nhĩ Kỳ cũng mất 400.000 người. Đệ Nhị Thế Chiến 1939-1945 đã làm thiệt mạng khoảng từ 42 đến 52 triệu người, trong đó nước chết nhiều nhất là Liên Xô khoảng hai mươi triệu người, thứ đến là Ba Lan chiếm hạng nhì với khoảng 5.000.000 người, và hạng ba là Đức Quốc với khoảng 4.500.000 người, không kể khoảng 5.100.000 người Do Thái vừa bị sát hại vừa bị lưu đày. Cùng với 60 triệu người chết, quả là đã có sông máu, biển nước mắt, và là người, chắc chẳng có ai lại yêu thích chiến tranh. Tuy nhiên, con người với những hỷ, nộ, ái, ố, với những tham vọng, nhiều lúc đi tới cuồng vọng, và với những ham muốn thống trị, làm cha kẻ khác, nên chiến tranh là điều khó có thể tránh được. Cái chính là phải tìm ra một hình thức chiến tranh nào mang lại ít tổn thất nhất, ít khổ ải nhất, ít cảnh cha mẹ mất con, con mất cha mẹ, anh em mất nhau, vợ mất chồng, chồng mất vợ nhất! Trong lịch sử loài người đã có hàng trăm, hàng ngàn vị, lớn là các giáo chủ, nhỏ cũng là các ông đạo, đã vỡ óc lập ra đủ thứ đạo để khuyến cáo con người làm điều lành, tránh điều dữ, tránh cho nhân quần khỏi phải chịu đựng những khổ ải của chiến tranh, nhưng than ôi, chưa có vị nào thành công viên mãn – bằng chứng là thế giới vẫn luôn luôn có chiến tranh, không ở nơi này thì ở nơi khác, và ngay giờ phút này, chúng ta đang có một ngòi lửa rất có khả năng đưa tới Thế Chiến Thứ Ba… Do đó, nhân loại đành phải chấp nhận là chiến tranh khó tránh được. và ngày xoá bỏ được mọi dấu vết chiến tranh trên toàn thế giới vẫn còn xa lắc xa lơ. Vậy thì điều chính yếu lúc này là phải tìm ra ngay được một hình thức chiến tranh nào đỡ tổn hại nhất, đỡ đau thương nhất, để loài người có thể thoả mãn nhu cầu chiến tranh của mình mà vẫn còn tồn tại được, không đến nỗi tuyệt diệt… Điều chính yếu này, ở nước ta có một người bạn của chúng tôi đã tìm ra được, thấy hay, chúng tôi mạn phép trình bày, chia sẻ với quý vị: “Theo anh bạn chúng tôi, với hai trận Thế Chiến và hàng ngàn các cuộc chiến lớn nhỏ từ thời thượng cổ, nhân loại đã quá quen với hình thức chiến tranh cũ, chỉ mang lại có chết chóc đau thương, do đó đã tới lúc nhân loại phải làm quen với một hình thức chiến tranh mới, mà anh bạn tôi tạm gọi là Hoan chiến – đây là một thứ chiến tranh có giá trị ngang bằng với Hoà Bình, mới nghe thấy hơi lạ tai, nhưng thực tế thì thứ Hoan chiến này không mang lại chết chóc, thiệt hại tài sản, nhân lực vật lực, không mang lại tiếng khóc thảm thiết của các cô nhi quả phụ, không mang lại những hậu quả kinh tế xã hội, có khi nhiều thế hệ chưa khắc phục nổi. Trái lại, trong phần lớn các trường hợp, thứ chiến tranh này chỉ mang lại sự hân hoan, hứng thú, hưng phấn, tốt đẹp, ngoại trừ một khuyết điểm duy nhất là nó làm những con người lâm chiến, nếu không biết tự kiềm hãm, thì một đôi khi hơi… mệt, nhưng vẫn sống nhăn! Thấy hay quá, chúng tôi hỏi anh bạn là thứ chiến tranh anh nói diễn tiến như thế nào, thì được anh bạn nheo mắt cười cười và giải thích: “Đây là một thứ chiến tranh mà hai phe lâm chiến, một phe đánh sâu vào lòng địch, còn phe kia thì bao vây trọn địch thủ, nhưng vẫn mở lòng hiếu sinh để một lối thoát ra, cho hắn tưởng bở xông vào nhào ra tuỳ thích, và cái hay nhất là khi chiến trận kết thúc, cả hai phe đều toàn thắng, lử khử ra về; nói toàn thắng chưa lột tả hết, nên nói ĐẠI THẮNG mới đúng, và sau khi đại thắng, chả ai còn hơi sức và cũng chả ai lại dại mà đi thù oán gì ai nữa! Như vậy là Hoà Bình, là đâu còn chinh chiến! Hơn nữa, với Hoan chiến, con người đạt luôn cả ước vọng ngàn đời là có một THẾ GIỚI ĐẠI ĐỒNG, và với Hoan Chiến, sẽ chẳng còn phân biệt màu cờ, sắc da, ai, người nước nào cũng cùng giao chiến được hết, và như vậy thì đại đồng quá xá đi chứ còn gì nữa! Đồng thời với Hoan Chiến, dân số thế giới sẽ không thể chỉ còn là 6 tỷ mà sẽ vượt lên 60 tỷ, 600 tỷ mấy hồi. Chúng ta cùng con cháu chúng ta bành trướng trên khắp mọi hành tinh, để cuối cùng, con người sẽ thực sự làm chủ Vũ Trụ. Khi được hỏi có cần được giới thiệu với các độc giả không, bạn chúng tôi, cha đẻ của Hoan Chiến, chỉ cười khì và nói: “Thôi khỏi! Giới thiệu làm chi thứ mọt sách vô danh như tôi. Bạn hãy cầu mong sao cho thiên hạ sớm áp dụng Chiến thuyết của tôi để không có Thế Chiến Thứ Ba… và rồi mọi thứ chiến tranh khốc hại khác cũng chạy dài chào thua trước Hoan Chiến thì thiên hạ được nhờ nhiều lắm…” Bán chồng cho bạn Nàng không ngủ được, câu chuyện nàng nghe hồi sáng cứ vang vọng mãi trong đầu, hành hạ nàng. Quay sang thấy anh vẫn thở đều, giấc ngủ ngon với gương mặt đầy toại nguyện.Nàng cố dằn để không đánh thức anh dậy nửa đêm hỏi cho ra lẽ. Kinh nghiệm của người phụ nữ nhạy cảm và từng trải dạy cho nàng biết sự điềm tĩnh và thận trọng không bao giờ thừa. Dạo này công việc làm ăn gặp nhiều trục trặc đã khiến nàng trở nên lơ là gia đình, có lẽ đây là cái giá nàng phải trả cho sự tham vọng của phụ nữ, nàng đã quá chủ quan và đặt niềm tin không đúng chỗ. Nàng đã từng rất tự hào vì có một người chồng luôn ủng hộ sự nghiệp của mình,không đòi hỏi ở nàng trách nhiệm quá cao trong việc làm vợ. Nàng không thể thường xuyên nấu cho chồng những bữa cơm ngon, không thể mỗi tuần cùng chồng về thăm ba mẹ hai bên, không thể có những ngày lễ lãng mạn để ngủ nướng và cùng nhau ăn sáng trên giường, nhưng nàng đã cố gắng rất nhiều để gia đình được no đủ, để họ hàng hai bên được chăm lo chu đáo và hơn hết là để chồng nàng chuyên tâm nghiên cứu. Nàng không muốn chồng nàng vì mưu sinh mà bỏ phí tài năng và đam mê trong góc phòng thí nghiệm. Anh đã từng nói rất biết ơn nàng vì điều đó. Lẽ nào nàng đã sai? Nàng may mắn có một cô bạn gái thân thiết như chị em ruột từ những ngày ấu thơ. Bạn nàng khôn ngoan lanh lợi, sớm thành đạt và có một người chồng giàu có dù đôi khi nàng thấy những tia buồn trong mắt bạn khi nghe cô tâm sự về cuộc hôn nhân không có tình yêu. Họ hiểu nhau, tin nhau, trong lúc việc kinh doanh sa sút chính cô bạn thân đã không ngần ngại cho nàng mượn một số tiền lớn mà không cần thế chấp. Và cũng chính nàng đã là bờ vai, là chỗ dựa, là nơi trút lòng, sẵn sàng bỏ buổi họp để bên cạnh bạn khi cuộc hôn nhân thiếu tình yêu kia có dấu hiệu rạn nứt. Lẽ nào nàng đã sai? Đôi ba tin đồn ác ý về mối quan hệ mập mờ giữa hai người nàng hết sức tin tưởng đến tai nàng cũng chẳng mảy may nghi ngờ. Nàng vẫn biết thói đời thêu dệt nhiều chuyện oái oăm, con người ta luôn thấy chút gì đó thích thú trước những bất hạnh của đồng loại. Tuy nhiên nàng cũng thừa nhạy cảm và đủ thông minh để thiết lập một hàng rào bảo vệ hạnh phúc của chính mình. Những câu chuyện vu vơ về mối quan hệ ngoài luồng của ai đó. Những tâm sự đàn bà về người chồng đầu ấp tay gối. Những tín hiệu ngầm như cảnh báo. Những khẳng định chắc nịch của lòng tin về sự chung thủy và cả những tia quan sát ngấm ngầm sẵn sàng chặn đứng mọi tội lỗi có thể. Nàng đã chu đáo, đã cẩn thận, đã tự tin như thế. Lẽ nào nàng đã sai? Nàng nhìn hai con người trước mặt mình, hai con người nàng đã yêu thương tin tưởng biết dường nào, nay bắt tay cùng nhau phản bội nàng. Cuộc gặp gỡ ba người mà nàng cố tình sắp xếp khiến cho đối phương không dấu kịp sự ngỡ ngàng. Nàng thấy lòng hơi hả hê khi nhận ra vị trí phán xét của mình trước hai con người tội lỗi không dám nhìn thẳng vào mắt nàng. Họ không nhìn nàng và cũng không dám nhìn nhau. Nàng đã hồi hộp chờ đợi giây phút này, để tuôn ra muôn ngàn lời chì chiết chửi rủa thậm tệ, nàng nghĩ ra tất cả những câu đau đớn nhất có thể, nàng biết rõ từng điểm yếu của đối phương vì đã có thời nàng coi họ là máu thịt của chính mình. Nàng có thể giết họ, chỉ bằng một câu nói. Vậy mà giờ đây, nàng không thể thốt nên lời, nàng nhìn họ đăm đăm rồi vội quay đi, cố ngăn không cho những giọt nước mắt trào ra. Không được khóc, nàng tự nhủ, mình không được khóc. Chính họ mới là người phải khóc vì đã phản bội mình. Lòng kiêu hãnh giúp nàng ngẩng mặt lên ngạo nghễ. Họ cất lời xin lỗi càng khiến nàng thêm tức giận. Đồng thanh đồng khí làm sao! - Tại sao lại là hai người? – nàng hỏi mà không mong một câu trả lời- hai người thèm nhau tới thế sao? - …! - Dù sao đây cũng chẳng phải chuyện tốt đẹp gì. Tôi cũng không muốn làm to chuyện để mọi người cười chê, chúng ta nên giải quyết trong nội bộ ba người thôi. Nàng nhếch môi cười khi bắt gặp cái thở phào dù rất khẽ. Dám làm mà còn sợ người ta biết, hèn thế! - Nếu em mở lòng tha thứ, chúng ta sẽ bắt đầu lại từ đầu như không có chuyện gì xảy ra, anh hứa sẽ… Nàng giơ tay ngăn chồng nói tiếp - Em sẵn sàng để hai người đến với nhau mà tận hưởng hạnh phúc! Cứ yên tâm! - Không, mình không…! Nàng lại trừng mắt khi cô bạn vừa mở lời. Trong lúc này, nàng mới là người được quyền lên tiếng và quyết định chứ không phải họ. Bất kỳ câu nói nào phát ra từ hai cái miệng đáng ghét kia cũng có nguy cơ làm cơn giận trong lòng nàng bùng nổ. - Đổi lại chúng ta có một thỏa thuận – nàng nhìn cô bạn đang ủ dột cúi đầu – cậu đã cho mình mượn năm trăm triệu cách đây ba tháng. Mình là người sòng phẳng và không muốn nợ nần ai, nhất là với cậu, cho nên mình bán anh ta cho cậu để trừ nợ. Cậu lấy anh ta và chúng ta không còn nợ nần gì nhau. - Em! Sao em có thể…? - Tại sao không? Điều kinh tởm nhất là ngoại tình với bạn vợ anh còn làm được thì anh có quyền gì mà trách móc ai? Đúng, tôi bán anh cho cô ta đó, năm trăm triệu là quá tốt rồi chứ con người anh thực ra không đáng một xu. Tuy nhiên cô ta thèm khát anh như vậy thì bỏ năm trăm triệu ra lấy anh về mua vui chắc cô ta chẳng tiếc đâu, đúng không? Nàng nhìn hai gương mặt tái xanh vì hổ thẹn và bị xúc phạm, biết mình đã đánh đúng chỗ yếu nhất. Trái tim nàng có giây lát sung sướng hả hê. Hai con người trí thức, tự tôn và hiểu biết kia, câu nói của nàng còn đau đớn, nhục nhã hơn vạn lần xỉa xói chửi rủa mỉa mai. Nàng xách túi đứng lên, nhìn hai người ngồi đó bằng ánh mắt khinh bỉ nhất mà nàng có thể. - Thế nhé, nếu có ai quen hỏi thăm tôi sẽ nói ngắn gọn là bán chồng cho bạn thân với giá năm trăm triệu, còn những việc khác hai người muốn giải thích thế nào thì tùy, tôi không quan tâm, từ nay chúng ta không còn bất cứ quan hệ nào với nhau nữa. Chúc may mắn! Nàng kiêu hãnh quay bước đi, biết chắc hai người ngồi lại sẽ vì câu nói của mình mà không thể yên ổn. Đối với nàng đây mới thực sự là đòn trừng phạt đáng giá. Nàng dắt xe, nổ máy, cố giữ cho tay mình bớt run rẩy. Trong sự thích thú hả hê khi làm cho đối thủ kinh hãi, nàng nhận thấy cả nổi đau ngấm ngầm mà giờ đây chỉ còn riêng với mình, nàng cảm nhận nó trào sôi dữ dội. Nàng đeo khẩu trang, đeo kính, mặc áo khoác, che đậy mình thật kỹ và chạy đi. Dưới lớp bọc kín đáo, nỗi đau vùng lên thổn thức và nước mắt nàng không ngừng tuôn rơi. Trong dòng người hối hả trên đường, không ai hay có một người đang dấu gương mặt đầm đìa sau lớp khẩu trang. Nàng lướt đi như trôi vào cõi mộng du. Sân bay Tân Sơn Nhất một ngày nhiều gió, người đàn bà trung niên quấn lại chiếc khăn quàng cổ, dõi mắt nhìn trời xanh như tìm kiếm một hình ảnh quen thuộc, một mảnh trời quê mà bà nghĩ có lẽ suốt đời mình chẳng bao giờ gặp lại. Đã hai mươi năm kể từ ngày bà rời bỏ quê hương, mang theo trong tim nỗi đau như cắt và cả lòng tin đã vụn vỡ, hy vọng xứ người xa lạ có thể làm hàn gắn một vết thương. Nhưng người đàn bà càng thành đạt bao nhiêu càng thấy lòng mình nhức nhối bấy nhiêu vì vết thương tưởng chứng như hóa thạch vẫn thầm âm ỉ trong tim. Sống trong nỗi giận hờn đau đớn suốt hai mươi năm, một ngày chợt nhận ra tóc đã bạc màu, môi thôi thắm tươi và mắt đã hằn những vết thời gian, lại chợt thèm quay quắt trở về, trở về để thứ tha, để quá khứ không còn hành hạ đêm đêm, để tìm cho mình phút bình an cuối cuộc đời. Tha thứ cho người và cho cả chính mình. Căn nhà nhỏ hơn bà nghĩ, giản dị đến không ngờ. Trước sân trồng bụi hoa nguyệt quế xum xuê, loài hoa mà bà vẫn yêu thích. Bà hít một hơi rồi nhấn chuông, lòng không dưng hồi hộp kỳ lạ. một người phụ nữ gầy gò khắc khổ bước ra mở cửa, họ nhìn nhau, sững sờ, ca nước trên tay chủ nhà rơi xuống vang một tiếng khô khốc. Họ ngồi trong phòng khách, đã hai mươi phút trôi qua mà vẫn chưa ai cất nên lời, ngập ngừng bà hỏi một câu khách sáo: - Hai người vẫn khỏe chứ? - Tôi vẫn khỏe, nhưng ông ấy thì… Chủ nhà ngập ngừng đưa mắt nhìn vào nhà trong - Ông ấy bệnh à? - Ông ấy đột quỵ, nằm một chỗ đã năm năm nay rồi! - Vậy ư? Ông ấy vốn rất khỏe mà. Hai người thay đổi nhiều quá, suýt nữa tôi không nhận ra. - Còn bà vẫn đẹp như xưa, thậm chí còn đài các hơn rất nhiều, thời gian có vẻ như không làm ảnh hưởng tới bà mấy. Chắc bà sống rất hạnh phúc? - Hạnh phúc? Nếu tôi thật sự hạnh phúc liệu hai người có thấy thanh thản hơn không? Hai người cũng đang rất hạnh phúc cơ mà. Bà chủ nhà giật mình trước cái nhìn của vị khách, bà thu người trong cái ghế, thân hình gầy ốm càng có vẻ teo tóp lại trước vẻ tự tin và ánh mắt nhiều hàm ý kia. Mất một lúc lâu bà chủ nhà mới lên tiếng: - Chúng tôi không hạnh phúc như bà nghĩ đâu. Ngày đó, sau khi bà bỏ đi, chúng tôi đã sống những ngày thật kinh khủng dưới sự lên án và dè bỉu của những người thân quen. Chúng tôi có lỗi và phải chịu hình phạt. Nhưng hình phạt lớn nhất, kinh khủng nhất không phải là cái nhìn của dư luận mà chính là câu nói sau cùng của bà: “bán chồng cho bạn với giá năm trăm triệu!”. Câu nói đó ám ảnh hai chúng tôi đến tận bây giờ. - Tôi không nghĩ sau việc làm của hai người thì còn có điều gì khiến hai người phải e ngại! - Thật ra mối quan hệ của chúng tôi chỉ là một phút không kiềm chế mình. Tôi không phải là thanh minh! Nhưng chúng tôi chưa bao giờ có ý nghĩ đến với nhau, nhất là ông ấy, ông ấy vẫn rất yêu bà và chưa bao giờ có ý định bỏ bà cả. - Nhưng rốt cuộc hai người vẫn đến với nhau! - Phải, có lẽ vì chúng tôi quá cô đơn và cùng chịu chung một nỗi dày vò. Điều đó đã đưa chúng tôi đến gần nhau hơn, chứ không phải là tình yêu. Chúng tôi sống cùng nhau để động viên nhau, an ủi nhau, cùng nhau chờ đợi… - Chờ đợi điều gì? - Sự tha thứ của bà! - Thật khó tin! - Phải, có lẽ bà không tin, nhưng hơn hai mươi năm sống chung chúng tôi trên danh nghĩa luật pháp vẫn không phải là vợ chồng. Chúng tôi không có giấy hôn thú, ông ấy không muốn đăng ký kết hôn vì đối với ông ấy bà là người vợ duy nhất! cuộc sống của chúng tôi thật chẳng dễ dàng. Ông ấy không còn đam mê nghiên cứu, công việc của tôi cũng gặp khó khăn, có lẽ đó là quả báo. Chúng tôi ở chung một nhà, ăn chung một mâm cơm, ngủ chung một giường và cùng chung một người để nghĩ đến. Chúng tôi không dám nhìn vào mắt nhau, không dám ôm nhau ngủ, thậm chí không dám cả việc có con, tất cả chỉ vì nỗi ân hận và sợ hãi dày vò. Chúng tôi cô đơn và mệt mỏi, tận cùng, như một cái giá phải trả. Năm năm trước ông ấy đột quỵ, nằm liệt một chỗ, nói năng cũng trở nên khó khăn, vậy mà ông ấy vẫn luôn gọi tên bà. Chúng tôi luôn cầu mong một ngày nào đó bà quay về và tha thứ cho chúng tôi. Người đàn bà ngồi nghe, lặng người, tâm trí hoang mang. Lẽ ra bà phải thấy thích thú, hả hê lắm khi chứng kiến cộc sống thương tâm của hai người đã từng hủy hoại lòng tin yêu trong bà. Vậy mà giờ đây, trước người đàn bà một thời bà căm hận, bà chỉ thấy một nỗi xót xa không nói nên lời. - Bà cho tôi vào thăm ông ấy! Bà không dám tin vào mắt mình nữa, hai mươi năm, hai mươi năm làm người ta thay đổi đến thế này ư? Nằm bất động trên giường là một người đàn ông gầy gò, già nua và mỏi mệt. Bà không dám tin đây chính là người đã từng là chồng mình, đã từng là người đàn ông bà hết mực yêu thương, đã từng là người đàn ông làm bà đau đớn vì yêu và hận suốt mấy chục năm trời. - Ông có nhận ra ai đây không? Đôi mắt người đàn ông nhìn bà thật lâu, cái nhìn ban đầu vốn lãnh đạm phút chốc trở nên thảng thốt - Yến… Yến!...em Yến, …vợ…vợ anh! Người đàn ông lắp bắp, khuôn miệng méo xệch, những âm từ rời rạc vang lên, vội vã, vui mừng lẫn tủi hổ. Bà nhìn ông, bật khóc. Bà bước tới, nắm bàn tay giơ ra chờ đợi, bà căm giận ông, nhưng muôn ngàn lần không muốn ông phải khổ sở thế này. Đôi mắt người đàn ông ầng ậc nước, cái nhìn dán vào mặt bà như tìm kiếm, van nài, cái nhìn khẩn khoản đầy hy vọng. - Đừng…đừng…bán …anh! Bà sửng sờ nhìn ông nghe lòng nghẹn đắng. Trời ơi, hóa ra câu nói của bà đã ám ảnh ông đến tận bây giờ. Thốt nhiên bà thấy ghê sợ chính mình, bà thấy mình cũng độc ác, cũng hèn hạ, cũng nhẫn tâm, thậm chí nỗi đau bà gây ra cho đối phương còn kinh khủng gấp mấy lần. Tại sao, tại sao khi đó bà lại nói ra câu nói độc địa đó? Phải chăng vì lời nói tàn nhẫn đó mà chính bản thân bà suốt hai mươi năm vẫn không được một ngày vui vẻ? - Tha… tha thứ… cho anh! Ông vẫn lắp bắp nói, ông có lẽ nuốn nói rất nhiều, phải chi ngày đó bà cho ông một cơ hội lên tiếng, bà đã để cơn giận lôi mình đi quá xa. Nước mắt ông vẫn ứa ra làm hai người đàn bà nghẹn ngào tức tưởi không thốt nên lời. - Ông ấy vẫn còn rất yêu bà! Ông ấy và cả tôi nữa đều mong nhận được sự tha thứ từ bà, có vậy chúng tôi chết mới nhắm mắt được. - Khi tôi quay về đây là tôi biết mình cần phải làm gì. Bản thân tôi mang nỗi căm hận trong lòng cũng chưa từng có một ngày được sống yên ổn. Tôi tha thứ cho hai người, và tôi cũng muốn tha thứ cho chính mình. Chúng ta đều đã già, hãy sống những ngày còn lại thật vui vẻ. Những hỉ nộ ái ố của cuộc đời đã không còn dành cho chúng ta nữa rồi. Bà quay sang ông, dùng tay lau đi những giọt nước mắt đang ứa ra trên gương mặt nhăn nhúm vì xúc động của người bà một thời yêu thương, và nở một nụ cười nhẹ nhàng. - Em đã tha thứ cho anh từ rất lâu rồi! tha thứ cho cả hai người! anh và cô ấy! Người đàn ông gật gật đầu, môi nở một nụ dẫu méo mó nhưng đầy sức sống, nước mắt vẫn cứ chảy ra, chảy ra không sao ngăn lại. Người đàn bà rời khỏi căn nhà đơn sơ sau buổi trùng phùng. Bà chủ nhà bịn rịn tiễn chân, lúc quay vào nhận ra trên bàn một phong bì trắng. Có một lời nhắn gửi lại: “ đây là năm trăm triệu ngày xưa bà cho tôi mượn, tôi xin trả lại đồng thời rút lại lời nói khi đó, tôi không bao giờ bán chồng cho bạn với giá bao nhiêu đi nữa. Mọi chuyện đã xảy ra xin hai người hãy quên đi để cả ba chúng ta có thể có những ngày cuối đời thanh thản! thân ái. Bạn gái thân của bà: Phi Yến.” MĐ st từ Internet ♣ 8 MÓN ĂN CÓ LỢI CHO SỨC KHỎE --Sau nghiên cứu, điều tra cụ thể, các nhà dưỡng sinh và các chuyên gia dinh dưỡng đã phát hiện thấy những người sống trường thọ thường có 10 sở thích sau : 1. Cháo Nhìn từ thói quen ăn uống, trong những người sống trường thọ thì không có một ai là không thích ăn cháo. Nhà kinh tế học nổi tiếng của Trung Quốc Mã Dần Sơ và phu nhân Trương Quế Quân đều là những người trường thọ trăm tuổi. Hai người đặc biệt thích ăn cháo sáng và mỗi sáng đều lấy 50g yến mạch và 250g nước nấu thành cháo. Người sống thọ trăm tuổi ở Thượng Hải (Trung Quốc) là Tô Cục Tiên mỗi ngày ba bữa đều ăn cháo nấu từ gạo, định lượng mỗi bữa là một bát nhỏ. Các nhà y học và dinh dưỡng từ bao đời nay đều cổ động người già nên ăn cháo vì nó tốt cho sức khoẻ. Cháo dễ tiêu hóa, hấp thụ, có thể điều hòa dạ dày, bổ tỳ, tha nh lọc phổi, mát đường ruột. Nhà dinh dưỡng học thời nhà Thanh Tào Từ Sơn đã từng nói: “Người già, mỗi ngày nên ăn cháo, không kể bữa, có thể tăng cướng sức khoẻ cho cơ thể và hưởng đại thọ”. 2. Các món kê Người già thích nhất ăn kê và xem kê là thực phẩm bổ dưỡng tốt nhất cho cơ thể. Kê từ trước đến nay đều được xứng danh là “món đầu đàn của ngũ cốc”. Người có thể chất ốm yếu, bệnh tật thường dùng kê để bồi bổ sức khoẻ. Y học Trung Quốc cho rằng, hạt kê có ích cho ngũ tạng, đặc biệt là dạ dày (làm dày đường ruột, dạ dày), bổ sung tinh dịch, mạnh khoẻ gân cốt, cơ bắp. Có một danh sư nổi tiếng thời nhà Thanh đã nói: “Hạt kê là dinh dưỡng tốt nhất cho sức khoẻ con người. Khi dùng hạt kê nấu cháo, dầu kê trong cháo có tác dụng tốt hơn cả canh nhân sâm”. Có thể nói, người già trường thọ thích ăn kê là rất đúng và có cơ sở. 3. Bắp Bắp còn có tên gọi khác là Ngọc trân châu, là “thực phẩm vàng” được toàn thế giới công nhận và cũng là món ăn chính mà người trường thọ không thể “rời xa”. Các nhà khoa học Mỹ nhận thấy người Pueblo bản địa không ai bị cao huyết áp và xơ cứng động mạch. Nghiên cứu thì được biết là do người dân vùng này thường xuyên ăn bắp. Các nhà khoa học cho biết: trong bắp hàm chứa đại lượng lecithin, acid linoleic, vitamin E vì vậy không dễ gây ra cao huyết áp và xơ cứng động mạch.. 4. Khoai lang Ăn khoai lang là một trong những sở thích lớn của người già trường thọ. Một trong những người trường thọ tâm sự: “Khoai lang là một báu vật, bữa ăn nào cũng phải có nó”. Theo nghiên cứu, khoai lang có 5 tác dụng lớn : thứ nhất dinh dưỡng phong phú, điều hòa bổ máu; thứ hai là nhuận tràng thông khí, có lợi cho đại tiện; thứ ba là ích khí, tăng cường hệ thống miễn dịch; thứ tư là khoai lang hàm chứa chất chống ung thư, có thể phòng chống ung thư; thứ năm là phòng chống lão hóa, ngăn chặn xơ cứng động mạch. Khoai lang hàm chứa đại lượng chất keo protit vì vậy có thể ngăn ngừa các bệnh gan và thận, tăng cường hệ miễn dịch, tiêu trừ các gốc tự do, tránh bệnh ung thư do các gốc tự do gây ra. Trong khoai lang lại còn chứa khá nhiều calci, magie, vì vậy có thể phòng ngừa chứng xương cốt rời rạc. Từ đó có thể thấy, khoai lang là một báu vật không thể thiếu của người trường thọ. 5. Tàu hũ Người già thường thích ăn tàu hũ, họ cho rằng: “Ăn cá sinh nóng, thịt sinh đờm, bắp cải, tàu hũ đảm bảo bình an”. Thành phần chủ yếu của tàu hũ là protein và isoflavone. Tàu hũ có công dụng ích khí, bổ hư, lọc chì trong máu, bảo vệ gan, thúc đẩy chức năng trao đổi chất trong cơ thể. Thường xuyên ăn tàu hũ có lợi cho sức khoẻ và phát triển trí lực. Người già thường xuyên ăn tàu hũ có tác dụng rất tốt để trị liệu các chứng như xơ cứng mạch máu, xương cốt lỏng lẻo, rời rạc. 6. Cải thảo Cải thảo là một trong những loại rau củ người già thích ăn nhất. Cải thảo có mùi vị tươi ngon, dinh dưỡng hài hòa, là loại rau tốt nhất trong mùa đông. Đại sư Tề Bạch Thạch Trung Quốc đã để lại một bức tranh cải thảo rất có ý nghĩa, bức tranh độc luận cải thảo là “vua của các loại rau” và ca ngợi “ trăm loại rau không bằng cải thảo”. Thường xuyên ăn cải thảo cơ lợi cho việc đánh đuổi bệnh tật, kéo dài tuổi thọ. Cải thảo hàm chứa chất khoáng, vitamin, protein, chất xơ, carotine, ngoài ra còn hàm chứa một loại chất có thể phân giải nitrosamine - một chất gây ra ung thư. Nhìn từ công dụng dược lý, cải thảo có 7 công dụng lớn : đó là dưỡng dạ dày, nhuận tràng, giải rượu, lợi tiểu, giảm mỡ, thanh nhiệt và chống ung thư. 7. Củ cải Người già trường thọ mùa đông không rời xa củ cải. Họ nói: “Mùa đông ăn củ cải, mùa hè ăn gừng, 1 năm 4 mùa đảm bảo an khang”. Củ cải hàm chứa nhiều loại vitamin và khoáng chất, không chứa chất béo, có tác dụng đẩy mạnh trao đổi chất cũ mới, tăng cường cảm giác thèm ăn và giúp tiêu hóa. Củ cải đích thực là thực phẩm bảo vệ sức khoẻ của người già. Y học Trung Quốc cho rằng, củ cải có thể “hóa giải” và tiêu hóa thực phẩm tích trữ trong dạ dày, trị mất tiếng do ho, đờm gây ra; trị ho ra máu, chảy máu mũi; giải khát, trị kiết lỵ, giảm đau đầu, lợi tiểu.... Nếu ăn sống có thể giải khát, t ha nh nhiệt, giải đờm, ngăn hen suyễn và trợ giúp tiêu hóa; Luộc chín ăn có tác dụng bổ ích, khoẻ tỳ. “Củ cải và trà” tức là ăn củ cải, sau đó uống trà, có thể tiêu trừ khô nhiệt, bài trừ khí nóng độc tích tụ trong cơ thể, có tác dụng rất tốt để khôi phục t hanh khí và tinh thần. Củ cải nấu với thịt sẽ là ngon nhất nhưng không được ăn cùng với nhân sâm và cam quýt. 8. Cà rốt Cà rốt hàm chứa nhiều vitamin A, có chứa phong phú chất carotine. Nghiên cứu chỉ rõ, cà rốt có thể cung cấp các thành phần dinh dưỡng cần thiết để phòng ngừa bệnh tim mạch, trúng gió, cao huyết áp và xơ vữa động mạch. Chất carotine ít bị phá hủy dù ở nhiệt độ cao mà cơ thể lại dễ hấp thụ. Vào cơ thể, carotine sẽ chuyển hóa thành vitamin A, giúp trị các chứng khô mắt và quáng gà do thiếu vitamin A gây nên. Chất carotine chỉ dễ hấp thu khi có dầu mỡ vì vậy, những người già “trường thọ” có kinh nghiệm thường cắt cà rốt thành miếng nhỏ và xào với dầu mỡ, như thế khả năng bảo tồn của carotine có thể đạt trên 79%. Cà rốt cắt miếng vuông dài rán trong chảo dầu thì chất carotine có thể bảo tồn đến 81%. Cà rốt cắt miếng nấu với thịt, tỉ lệ bảo tồn chất carotine đạt đến 95%. Cà rốt còn có tác dụng tăng cường trí nhớ. Trước khi đọc sách hay học bài nếu ăn một đĩa cà rốt xào, rất có lợi cho việc tăng cường và củng cố trí nhớ . Bs Nguyễn Lân Đính st
Phụ Bản IV 14 lý do để bạn uống nhiều nước Trên 70% cân nặng của một người trưởng thành là nước. Cơ thể chúng ta không thể hoạt động nếu thiếu nước: chết khát nhanh hơn chết đói nhiều. Nước quan trọng hơn lương thực. Đó là những lý do chính khiến chúng ta uống nhiều nước. Một người nặng 68 kg có đến 40 lít nước trong người. 23-26% nước nằm trong các tế bào, 7,5% trong khoảng không gian giữa các tế bào và 4 lít nước trong máu.Thể tích nước này là không đổi. Lương thực do ăn không đủ độ ẩm vì theo tính toán trung bình mỗi ngày chúng ta phải bổ sung 2 lít nước để bù vào lượng nước mất đi do bị thải ra ngoài qua nước tiểu, mồ hôi (ngay cả dưới 0 0, chúng ta vẫn ra mồ hôi), phân và hơi thở. Nước chẳng bao giờ đủ: bạn sẽ phải tạo cho cơ thể khả năng loại trừ nước bằng cách uống khoảng 7,5 lít nước trong 24 giờ. Nước quan trọng hơn lương thực. Có 14 lý do vì sao bạn phải uống đủ nước hàng ngày: 1. Sự thiếu nước ảnh hưởng đến chức năng hoạt động của các cơ thể: Đặc biệt quá trình tiêu hoá, bài tiết. Thân nhiệt sẽ không duy trì được thường xuyên nếu nước trong cơ thể ở dưới mức bình thường. Cân bằng nước liên quan đến mức điện ly của các dịch thể (tỷ lệ các muối khoáng trong máu chẳng hạn). Hàm lượng natri trong máu “nói” cho ta biết mức độ nước trong cơ thể thiếu hay đủ. Khi có quá nhiều natri trong máu, cơ thể sẽ giữ lại nước để pha loãng lượng natri dư thừa khiến lượng nước tiểu thải ra để loại bỏ chất cơ thể không cần thiết nữa sẽ ít đi. 2. Khát: Là cảm giác xuất hiện trên nhân của não bộ và dễ dàng bị “che giấu”, bởi vậy cơ thể dù thiếu nước cũng không làm ta thấy khát ngay. Có khi thiếu nước mà vẫn không khát. Khi bạn khát, có nghĩa là đã thiếu nước trầm trọng. 3. Ăn kiêng: Ăn kiêng là ăn ít nên cũng đưa ít nước vào cơ thể. Bạn phải bù lượng nước ấy bằng cách uống thêm một lượng nước tương đương. 4. Thân nhiệt: Mùa hè nóng nực, cơ thể tự điều chỉnh thân nhiệt bằng cách ra mồ hôi. Cho nên vào mùa hè phải uống nhiều nước hơn. Khi tập thể thao hoặc lao động nặng, thân nhiệt cũng tăng, mồ hôi ra nhiều cũng phải uống nhiều nước hơn. 5. Thận: Thường xuyên uống thiếu nước sẽ gây sỏi thận và có thể gây nhiễm trùng đường tiết niệu. Càng uống nhiều nước thận càng hoạt động tốt. Uống đủ nước da sẽ mịn màng. 6. Da: Thiếu nước làm da bị lão hoá. Đủ nước, da mịn màng, không bị nhăn nheo. Nước làm da bóng bảy và góp phần loại chất độc ra khỏi cơ thể (qua da). 7. Các chất độc: Nước xúc tiến các phản ứng chuyển hoá. Các món ăn kiêng thường giàu protid càng cần phải uống nhiều nước, vì các hợp chất chuyển hoá của đạm có thể là chất độc đối với cơ thể và dễ bị các vi sinh vật loại trừ trong điều kiện có nhiều nước (vì thận và các tuyến mồ hôi hoạt động tích cực hơn) 8. Sự tăng bài niệu (Diuresis): Nước uống đẩy nhanh việc loại trừ các chất lỏng và các thuốc uống vào ra khỏi cơ thể. 9. Với người già: Người cao tuổi cảm giác khát kém nhạy cảm, đặc biệt khi họ bị lãng trí và có thói quen hay đi giải. Thận của họ mất nhiều nước hơn nên khi chăm sóc người già cần quan tâm đến điều này và duy trì cứ 2 tiếng cho họ uống nước một lần. 10. Giảm cân: Nước không chứa calo. Hãy uống nước trước khi ăn, điều đó làm giảm cảm giác dạ dày mình đang trống rỗng, tức cảm giác đói. Đừng uống nước sau khi ăn. Nó sẽ pha loãng những thức ăn đã tiêu hoá trong dạ dày, khiến các chất bổ thấm qua niêm mạc ruột nhanh hơn và cảm giác đói sẽ quay trở lại sớm hơn. Sẽ ăn nhiều hơn và... béo. Nước rất quan trọng đối với sự sống.
11. Khi nôn mửa: Chắc bạn không nhận thấy nôn mửa làm mất một lượng lớn nước và các chất điện ly. Bị tiêu chảy và sốt cao (ra mồ hôi nhiều) cũng mất đi một lượng lớn natri và kali,rất quan trọng trong sự cân bằng chất điện ly. Khi bị nôn mửa và tiêu chảy có thể mất đi đến 4 lít nước nên nhất thiết phải bổ sung lượng muối mất đi. Cấn uống dung dịch đẳng trương hoặc dung dịch kiềm. 12. Người bị tiểu đường: Triệu chứng duy nhất của người bị tiểu đường là đói giả tạo và đi giải nhiều. Bệnh có thể phát ra từ từ hoặc đột biến ở bất cứ tuổi nào và kết quả là thiếu homon kháng bài niệu (antidiuretic hormone), ngăn cản sản xuất nước tiểu quá nhiều. Một người có thể uống một lượng rất lớn (từ 4 đến 30 lít) nước để bù vào lượng nước giải mất đi. 13. Cà phê và trà: Cà phê và trà là những chất lợi tiểu nhẹ,thúc đẩy sự tiết nước tiểu,nhưng đồng thời, lấy đi mất canxi và các chất điện ly (cùng với nước tiểu). Cà phê còn làm tăng sự mất nước qua phân vì nó tác động như một chất nhuận tràng. 14. Bia rượu: Bạn muốn giải khát (bổ sung nước bằng bia). Không được đâu. Làm như vậy chỉ mất nước nhiều hơn mà thôi. Bia không chỉ là chất lợi tiểu. Sau khi uống 1 cốc bia, phải uống bù ba cốc nước mới đủ nước cho cơ thể vì tác động làm lợi tiểu còn lại của bia. Rượu còn tệ hại nhiều hơn nữa. Hoàng Chúc st ♫ C Ư Ờ I
Lẽ ra tôi chết trong bồ khoai lang Ở làng nọ, có người đàn bà sinh tình ý với ông hàng xóm. Gặp lúc chồng đi làm, chị chàng nằm võng ru con và ca ghẹo rằng: "À ơi... Hôm nay nhà tớ đi cày, Có sang làm cái... ban ngày, thì sang. À ơi..." Được lời như cởi tấm lòng, người đàn ông nhà bên đang bế con cho vợ đi chợ vắng nhà vội trả lời: "À ơi... Tình tang tích tịch tình tang, Ờ, tớ ru con tớ, tớ sang bây giờ. À ơi..." Khi con thiu thiu ngủ, anh lật đật chạy sang vui vầy cùng chị chàng. Đang lúc hai người quấn quít nồng thắm, ai dè người chồng dắt trâu về nhà. Anh nhân tình vội úp ngược cái bồ đựng khoai ở góc nhà lên, rồi rúc vào đó để trốn. Chị chủ nhà thì nằm võng ôm con. Thấy chồng còn lúi húi rửa chân ngoài giếng, chị bèn ru bâng quơ: "À ơi... Có ra, thì ra lúc này, Không ra, thì chết cả mày lẫn tao. À ơi..." Anh hàng xóm vội lật bồ, vạch bờ giậu lủi về nhà, may mà thoát. Ngày hôm sau, người chồng đánh trâu ra đồng cày nốt thửa ruộng. Ở nhà, chị chàng vẫn còn ham làm lại cái việc dở dang hôm qua, vừa nựng con vừa ca rằng: "À ơi... Hôm nay nhà tớ lại đi cày, Có sang làm cái í a... ban ngày, thì sang. À ơi..." Anh nhân tình vẫn còn sợ chuyện hôm trước, nên hát vọng sang: "À ơi... Thôi thôi, tôi xin lạy cô, Lẽ ra tôi chết trong bồ khoai lang, À ơi...." Sao không nói ngay từ đầu Ông nọ nổi tiếng trong đám bạn bè là người tiết kiệm, kể cả trong lời nói. Hôm ấy có một người phụ nữ ở công ty sản xuất đồ bếp đến gõ cửa xin gặp vợ ông để chào hàng, ông đáp rằng bà ấy không có ở nhà. - Vậy tôi có thể chờ bà nhà được không? - Người phụ nữ hỏi. Người đàn ông đưa chị ta vào nhà và để chị ta ngồi chờ trong 3 tiếng đồng hồ. Cuối cùng, sốt ruột quá chị ta hỏi: - Ông có thể cho biết bà nhà bây giờ ở đâu không? - Bà ấy ở ngoài nghĩa trang - Người đàn ông trả lời. - Thế bao giờ bà ấy về? - Tôi không biết, bà ấy ở ngoài đó đã 11 năm rồi. Ưu tiên đặc biệt Nữ nhân viên của bệnh viện cầm giấy giới thiệu đến xin vé xem phim tư liệu. Trưởng rạp thấy cô khá xinh đẹp nên vui vẻ nói: - Tôi ưu tiên giải quyết cho cô mấy vé đặc biệt, nhưng với điều kiện tôi vô bệnh viện cô cũng phải ưu tiên săn sóc tôi đặc biệt một chút, cô chịu không? - Ồ, vụ đó thì quá dễ, em hứa sẽ ưu tiên đặc biệt cho anh! - Đặc biệt là sao? Thử bật mí coi nào? - Tức là chính em sẽ lau chùi, tắm rửa và sửa sang giường nệm cho anh yên giấc... - Trời ơi! Nếu quả tôi được cô ưu tiên săn sóc như vậy thì thật là sướng mê hồn... Không biết chừng ngày mai tôi xin nhập viện liền... Nhưng tìm cô ở khoa nào? - Anh cứ việc hỏi cô Xuân, nữ hộ lý phục vụ ở... nhà xác! Xúc xích và con bò Giờ tự động hoá. Giáo sư thuyết trình: - Độ 20 năm nữa sẽ có những máy tự động hoàn hảo. Chỉ cần nhét con bò vào một đầu, thì đầu kia sẽ có xúc xích chạy ra. - Thế liệu có cái máy ngược lại, nhét xúc xích vào một đầu, đầu kia ra con bò không ạ? - một sinh viên hỏi. - Anh bao nhiêu tuổi? - Dạ, 19. - 20 năm trước có một cái máy như vậy. Không thể hưởng thụ Có một ông cụ 60 tuổi sau bao nhiêu năm cống hiến sức khỏe cho công việc và sự nghiệp đến khi về già ông tích cóp được số tiền kha khá. Ông quyết định đi Thái Lan để du lịch vì ông nghe nói bên đó mấy vụ “vui vẻ, tươi mát” rất nhiều, ông muốn thử một lần cho biết chút vị với đời. Sau khi xuống sân bay và thuê khách sạn, ông ta liền hỏi anh phục vụ khu vực nào có vui vẻ tươi mát, anh ta chỉ dẫn ông tận tình. Buổi tối ông diện đồ láng coóng đi ra vực đó. Ông thấy một ngã ba trên có 2 tấm bảng chỉ về 2 hướng. Một tấm ghi là: “Dành cho người nhiều tiền”, tấm còn lại ghi: “Dành cho người ít tiền”. Ông lão nghĩ: “Thôi, mình gom góp có chút ít tiền thì nên đi vào đường dành cho người ít tiền vậy”. Ông cắm cúi đi đến cuối đường lại gặp một ngã ba trên đó có 2 tấm bảng chỉ về 2 hướng. Một tấm ghi: “Dành cho người trẻ” tấm còn lại ghi: “Dành cho người già”. Thế là ông lại lọ mọ quẹo vào đường dành cho người già cắm cúi đi. Đi đến cuối đường ông lại gặp một ngã ba trên có 2 tấm bảng. Một tấm ghi là: “Dành cho người đẹp” tấm còn lại “Dành cho người xấu” ông bụng bảo dạ: “Mình 60 rồi còn đẹp cái gì nữa chứ”, thế là ông đành quẹo vào đường dành cho người xấu, vừa đi ông vừa tự động viên mình: “Sắp được hưởng sung sướng rồi ráng lên”. Đi đến cuối đường này ông lại nhìn thấy một ngã ba trên lại có 2 tấm bảng rẽ ra 2 hướng. Một tấm ghi: “Dành cho người dẻo dai và nhiều xí quách” tấm còn lại ghi: “Dành cho người hết xí quách”. Ông tự nghĩ: “Mình già rồi làm gì còn xí quách nữa, mình chỉ ráng đi để tận hưởng chút lạc thú cuối đời cho biết với người ta thôi mà” thế là ông rẽ vào con đường thứ 2. Ông lụm cụm xiêu vẹo bước đi một cách khó nhọc trên con đường với bao suy nghĩ tưởng tượng ra cảnh vui thú, nhưng khi đến cuối đường ông nhìn thấy chỉ một tấm bảng treo thật cao. Ông bèn ráng kiếm vật để kê lên nhìn cho rõ bảng ghi chỉ dẫn gì tiếp theo. "Ít tiền, già lão, xấu trai, lại còn hết xí quách nữa, thôi quay về nhà đi cha”. Trẻ con thật đáng yêu Jonny : - Mẹ ơi, cô giáo bảo khi có dịch cúm gà thì chúng ta nên tránh xa tất cả những thứ gì liên quan tới gà, đúng không ạ?". Mẹ: - Đúng rồi. Jonny (lí nhí): - Thế khi mẹ xem xong sổ liên lạc này, mẹ không được dùng chổi lông gà nhé oOo Người bố vừa đánh đòn đau cậu con trai vừa hỏi: - Thế con có biết vì sao bố đánh con thế này không?" Đứa con bật khóc nức nở: - Thật là vô lý. Ngay cả bố cũng không biết lý do, vậy mà bố cứ đánh con..." Hoa hạnh phúc Ở cửa hàng hoa, một người đàn ông trung niên chọn 3 bông hồng và bảo bà bán hàng: "Mấy bông hoa này là để gửi cho vợ tôi nhân kỷ niệm ngày cưới". - Bà hãy đính kèm vào đây một dải băng lụa thật đẹp có dòng chữ: "Mỗi bông hoa này đánh dấu một năm anh được hưởng hạnh phúc vợ chồng". Bà bán hàng tỏ vẻ xúc động: - Ông mới lấy vợ 3 năm thôi hả? - Không, 30 năm. Buôn lậu Cô gái chạy xe đạp qua biên giới với 2 bao cát trên lưng, chạy đến chỗ mấy anh biên phòng giữ lại kiểm tra, cô nói chỉ là cát, 2 anh đồn biên phòng không tin bắt bỏ bao xuống kiểm tra. Sau 1 hồi kiểm tra kỹ thì chỉ là bao cát không và cứ thế 2 năm liền cô chạy xe đạp qua biên giới với 2 bao cát trên lưng. Sau này 1 trong 2 anh biên phòng đã nghỉ việc, gặp cô và hỏi: - Tao được đào tạo chuyên nghiệp mà vẫn không biết mày buôn lậu cái quái gì nữa? Cô gái trả lời: - Em buôn lậu xe đạp! Công Dụng Máy Vi Tính Khách hàng hỏi về công dụng máy tính: Khi tôi mua máy tính tôi sẽ được những gì? Người bán hàng trả lời: máy tính sẽ giúp cho công việc của anh giảm còn một nữa. Người khách liền nói: Bán cho tôi 2 cái. Những động vật nguy hiểm Cô giáo yêu cầu học sinh lớp một làm văn tả động vật. Đề bài tuần thứ nhất là tả một con mèo. Một học sinh viết gọn lỏn: "Nhà em có một con mèo". Khi trả bài, cô giáo hỏi: - Sao em không tả rõ hơn? Học sinh đáp: - Dạ, nhà em có nuôi một con mèo nhưng em chưa được thấy. Vì mẹ em nói ba em có mèo, ba em ra sức giấu còn mẹ em ra sức tìm. Khi nào mẹ em tìm thấy, em sẽ tả kỹ ạ! Tuần thứ hai, đề bài yêu cầu tả con chó. Học sinh nọ lại viết cộc lốc: "Nhà em có một con chó". Cô giáo bảo: - Em nên tả kỹ hơn! - Học sinh: - Dạ, con chó còn ở ngoài đường, vì một hôm mẹ em nói với ba em: "Hôm qua đi với con chó nào cả ngày?". Khi nào nó về nhà em, em sẽ tả kỹ hơn ạ. Tuần thứ ba, cô ra đề tả con khỉ. Vẫn em học sinh bữa trước viết, lần này thì dài hơn: "Nhà em có nuôi một con khỉ. Một hôm có một cô rất trẻ đến ngõ nhà em, ba em chạy ra và nói với cô ấy: Con khỉ già đang ngồi trong nhà đấy!". Đối Thoại Cô gái nói với cha: - Tuần sau con và Anh ấy sẽ kết hôn, Bố ạ - ...thế thằng đó có nhà cửa đàng hoàng không? - Không ạ. Anh ấy ở nhà trọ - ...Nó có xe không? - Cũng không có. Anh ấy đi xe đạp - Bố mẹ nó thế nào? - Anh ấy mồ côi ạ. - ...Ôi! Ở đời phải biết tích phúc, tích đức con ạ, nó đã khổ thế rồi thì con tha cho nó đi, đừng làm khổ người ta nữa. Cẩn Thận - Mẹ ơi! Có phải ngày xưa bố mẹ quen nhau bởi một vụ đụng xe phải không hả mẹ? - Ừ - Con cũng đoán vậy, vì bố cứ dặn đi dặn lại rằng con lái xe phải hết sức cẩn thận, lỡ xảy ra tai nạn, nếu không chết, thì cũng khổ cả một đời!!! Làm cho sáng tỏ Một đứa bé túm lấy thầy cảnh sát và nói: - Ông ơi, đằng kia có người đánh ba tui! - Hai người chạy lại về phía hai người đàn ông đang giằng co với nhau. Ông cảnh sát hỏi: - Ông nào là ba mày? - Đó là điều hai ổng đang làm cho sáng tỏ. Hãnh diện về sự thành đạt của các con ! Sau 30 năm xa cách, 4 người bạn học gặp nhau trong 1 nhà hàng… rượu vào thì lời ra… Người thứ nhất: Tôi rất hãnh diện với thằng con trai tôi, siêng năng thông minh, giỏi giang. Sau khi lấy bằng Master ra rồi nó còn học tiếp, không chịu nghỉ, giờ thì nó là tổng giám đốc 1 tập đoàn lớn nhất Âu Châu. Nó nhiều tiền lắm, vừa tặng thằng bạn thân nó 1 cái Mercedes S600 mới toanh… Ông thứ hai tiếp: ... Ừ giỏi thiệt! Chúc mừng anh. Thằng con tôi cũng chả kém mấy anh biết không. Tốt nghiệp đại học xong, nó lấy ngay bằng lái máy bay và hiện giờ nó có 50% cổ phần của hãng hàng không lớn nhứt nhì Âu Châu, tiền nhiều quá không biết làm gì nó tặng luôn cho thằng bạn thân của nó 1 chiếc Boeing 737-700 để đi du lịch. Đến lượt ông thứ ba: … Vậy là 2 anh ngon quá rồi còn gì, nhưng mà tui cũng phải kể chút về con trai tui chứ!!! Tui cũng hãnh diện không kém 2 anh, thằng con tui nó cũng là đại gia có tầm cỡ, sau khi lấy bằng kiến trúc sư, nó mở ngay 1 hãng xây dựng, trúng thầu xây khu nhà chọc trời và resorts cho tụi trùm dầu hỏa bên Dubai đó! Nó cũng giống như 2 thằng con của 2 anh, tiền hô hậu ủng, nó xây cho thằng bạn thân nó 1 cái Villa 10 phòng ngủ có cả sân đáp trực thăng trên sân thượng, nghe nó kể mà phát ớn… Lúc đó ông thứ tư mới đi... tè ra, chả hiễu ất giáp gì thì được 3 ông bạn chí thân dồn dập hỏi: -Tụi tui mới vừa kể về mấy thằng con trai yêu quý của tụi tui. Sao? Còn cậu ấm nhà anh ra sao? Ông thứ tư vỡ lẽ ra, chậm rãi: Ối giào! Thằng con tui nó… pê-đê, làm việc trong 1 quán Bar và vũ sexy kiêm làm Callboy luôn ấy mà... có gì mà nói đâu!“Trời ơi, sao mà anh bất hạnh quá vậy ??? 3 ông bạn đồng thanh lên tiếng. “Sao lại bất hạnh" ông thứ tư tiếp luôn. "Nó làm vợ chồng tôi vui lắm chớ! Mấy anh biết không ? Mới đây nè, cháu nó về khoe với tôi và mẹ nó là có ba thằng bồ vừa tặng quà cho nó: Thằng thứ nhất sắm cho 1 chiếc Mercedes S600, thằng thứ hai thì tặng 1 chiếc Boeing 737-700, còn thằng thứ 3 thì dâng cho 1 cái villa khổng lồ. Cháu nó không chịu học hành gì cả, tưởng chịu ngu si; ai dè có những thằng ngu hơn nó !!!!!! Em là tất cả Vợ chồng nhà nọ, ít khi có chuyện cãi cọ. Rất im lìm. Suốt cả năm. Nhưng một hôm, người vợ ghen tức chịu không nổi bèn vào phòng kéo cổ ông chồng ra khỏi cửa mà nói những lời tuy nhẹ nhưng thấm thía, rằng: - Sao cả ngày anh cứ chúi đầu vào mấy cuốn sách mà không nhớ gì đến ai cả? Suốt ngày, không thấy anh mở miệng nói với em đến nửa lời, là làm sao? - Hôm nay có chuyện gì mà em “làm ầm” lên thế? Vách tường có tai đấy! - Anh cứ nhìn mà xem! Quanh anh toàn là sách với sách không à! Anh không thèm biết vợ con sống chết ra sao ư? Giá như em là cuốn sách có khi còn hay hơn. Còn được anh đầu ôm tay ấp chứ thế này, thật rõ chán! - Đừng nghĩ thế, tội anh em ơi! Em là tất cả của đời anh mà! Mấy sách này, mỗi cuốn anh chỉ đọc có vài ngày rồi đem đổi lấy cuốn mới. Em có chịu đổi chác như vậy không?... - Ừ nhỉ… Cũng có lý, đấy chứ! MĐ st
RÔ BIN SƠN
TIẾP THEO VÀ HẾT
|