VÀI CHI TIẾT VỀ KỲ HỌP NGÀY 14/4/2012 CỦA CÂU LẠC BỘ SÁCH XƯA VÀ NAY Như thường lệ Dịch giả Vũ Anh Tuấn đã giới thiệu với các thành viên 2 cuốn sách một bằng tiếng Việt và một bằng tiếng Pháp. Cuốn tiếng Việt là một cuốn mới ra lò và cuốn tiếng Pháp là một cuốn thơ được in năm 1913, tức là 99 năm trước. Cuốn tiếng Việt mang tựa đề là Nụ Hôn Muộn – nhà xuất bản Hội Nhà Văn – và là một tuyển tập truyện ngắn gồm 22 truyện (11 truyện dịch và 1 truyện ngắn Việt-Anh của Dịch giả Vũ Anh Tuấn được in chung với 10 truyện ngắn của nhà văn nữ Đàm Lan). Đây là một tuyển tập truyện ngắn do Hội Từ Thiện Hoa Mai ở bên Úc xin giấy phép xuất bản của nhà xuất bản Hội Nhà Văn và in ở Việt Nam, sau đó sẽ chở sang Úc để tặng cho các ông bà già người Việt đang sống ở Úc. Vì là để đóng góp vào một việc từ thiện, nên Dịch giả Vũ Anh Tuấn và nhà văn nữ Đàm Lan cũng làm từ thiện luôn, nghĩa là không nhận tiền tác quyền. Do đó khi Hội Từ Thiện Hoa Mai có nhã ý thông báo là CLB Sách Xưa và Nay và nhà văn nữ Đàm Lan tặng 500 cuốn sách, thì Dịch giả Vũ Anh Tuấn đã cảm ơn và từ chối nhã ý đó, đơn giản là vì ông và nhà văn nữ Đàm Lan chỉ không nhận tiền tác quyền chứ đâu có bỏ tiền ra in 500 cuốn sách đó. Mười truyện ngắn của nhà văn nữ Đàm Lan rất dễ thương nhưng không kém phần sâu sắc, rất dễ đi vào lòng người, còn mười một truyện dịch của Dịch giả Vũ Anh Tuấn cũng là những truyện hình sự pháp lý mà ông đã cất công chọn lựa, chỉ dịch các truyện đấu trí, không mảy may cổ võ bạo lực. Ngoài ra bản dịch của ông cũng hết sức thuần Việt, y chang như truyện ngắn Việt Nam, chỉ khác ở chỗ tên các nhân vật là tên ngoại. Tóm lại bản dịch của ông rất “thanh bình” chứ không “loạn” như những bản dịch loạn hiện đang được rà soát và thu hồi… Còn về truyện ngắn Hảo Mộng đăng ở cuối sách, với bản dịch Anh ngữ, thì lại là một truyện đã được rất nhiều độc giả thưởng thức, bằng chứng là, nếu muốn đọc trên mạng, người đọc chỉ cần đánh hai chữ Hảo Mộng vào Google là có để đọc ngay. Cuốn sách bằng Pháp văn mang tựa đề là “Poèmes Infernaux” (Những bài thơ thuộc về Địa ngục) của tác giả Octave Charpentier, được in trên giấy “Croquis” vào năm 1913. Dịch giả Vũ Anh Tuấn mới mua được cuốn này, chủ yếu là ông muốn chơi như là chơi một cuốn sách 99 tuổi đời và được in trên giấy croquis là một loại giấy quý dùng để vẽ các ký họa, còn thành thật mà nói ông không chú trọng lắm về nội dung; lý do là vì ngay khi mang về tới nhà, ông đã tra cứu ngay 3 bộ tự điển văn học Pháp to đùng mà không thấy tên Octave Charpentier ở đâu cả, do đó ông không hăng say đọc ngay, mà tự nhủ khi nào rỗi sẽ đọc cho biết nội dung. Sau phần giới thiệu sách của Dịch giả Vũ Anh Tuấn, bà Thùy Dương, cựu giáo sư trường Trưng Vương, đã giới thiệu một số khách mời của bà tới nghe bà thuyết trình về những huyền thoại thời các vua Hùng, nhân dịp ngày Giỗ Tổ. Cuộc nói truyện của bà kéo dài gần một giờ và được các thành viên thích thú theo dõi. Tiếp lời bà Thùy Dương, ông Đồ Bổng Hành Thiện, một vị khách mời, đã lên nói và giải mã 2 chữ đồng bào dưới thời các vua Hùng và có nói qua về 18 đời Hùng Vương. Kế đó anh Phạm Vũ Động có lên nói truyện về Tượng Nữ Thần Tự Do ở Mỹ vì anh vừa làm một cuộc Mỹ du về. Sau đó chị Tường Uyển, ái nữ cố nhà văn Toan Ánh đã giới thiệu mấy bài cụ đã viết về huyền thoại Lạc Long Quân. Sau khi chị Uyển nói xong, để thay đổi không khí buổi họp, anh Lê Minh Chử đã có một bài “hát thơ” để tặng các thành viên. Trong cuộc họp ngày hôm nay đã có một sự kiện rất đáng chú ý là bà Tâm Nguyện đã có mấy lời giới thiệu cuốn sách mới của bà mới vừa được nhà xuất bản Tôn Giáo in nhan đề là Từ Tu Thiền tới Tu Phật, sách khổ 14cm x 20cm và dày 296 trang. Sau phần giới thiệu, bà Tâm Nguyện đã ký tặng các thành viên và khách mời mỗi người một cuốn. Mọi người ai nấy đều hân hoan đón nhận cuốn sách hay với nội dung thật mới lạ. Cuộc họp kết thúc lúc 11 giờ 15 cùng ngày. Vũ Thư Hũu
VÀI CẢM TƯỞNG NHÂN DỊP LƯU HÀNH BẢN TIN SỐ 72 KỶ NIỆM 6 NĂM NGÀY THÀNH LẬP CLB SÁCH XƯA & NAY Thưa toàn thể các thành viên CLB Sách Xưa và Nay, Với bản tin số 72 này, CLB của chúng ta đã được đúng 6 năm hoạt động liên tục. Trong mấy năm gần đây, mọi sinh hoạt của chúng ta vẫn diễn ra đều đặn, sinh động và thân thiết, vui vẻ. Chúng ta cũng đã không bỏ mất một cuộc họp nào vào mỗi ngày thứ bảy thứ nhì trong tháng, ngoại trừ những kỳ chúng ta đi thăm các nhà lưu niệm các danh nhân, hoặc cùng nhau đi du ngoạn như đi thăm Vườn Kiều của ông Bá Khoát, đi thăm Khu Vườn Kỳ Lạ ở Long An vv… Chủ nhiệm Vũ Anh Tuấn vẫn tiếp tục hăng say lo cho bản tin ra kịp mỗi kỳ họp. Các cây viết như chị Tâm Nguyện, anh Dương Lêh, anh Phạm Vũ, bác Bùi Đẹp, anh Vương Liêm, nhà thơ Lê Minh Chử, nhà thơ Xuân Vân, nhà thơ Ngàn Phương, nhà thơ Hải Đăng Trần Văn Hữu, nhà thơ Thanh Châu, Bác sĩ Nguyễn Lân-Đính, anh Phạm Thế Cường, anh Phạm Phú Thành, chị Thùy Dương, LM Nguyễn Hữu Triết, nhà giáo Hán Nôm Nguyễn Văn Thoa, nhà sưu tầm Đỗ Thiên Thư và anh Vũ Anh Tuấn vẫn luôn luôn miệt mài viết lách, sáng tác, mặc dù tất cả chẳng ai nhận được 1 xu… nhuận bút. Tất cả đều viết lách và sáng tác… chùa! Trong hai năm gần đây, chúng ta đã không thực hiện được đều đặn ước nguyện mỗi tam cá nguyệt sẽ đi thăm một nhà lưu niệm hoặc một Niệm tổ đường một danh nhân văn hóa, hay lịch sử, ước mong là trong năm sắp tới chúng ta sẽ có nhiều cơ hội hơn trong việc này. Trong năm sắp tới chúng ta cũng sẽ cố gắng tổ chức thêm các cuộc triển lãm sách báo cổ, để mọi người cùng được thưởng thức các công trình đáng nể của tiền nhân, cũng như nhiều cuộc nói chuyện hơn, cả ở CLB lẫn ở các nơi khác, như anh Dương, chị Tâm Nguyện và anh Vương Liêm đã từng làm. Một trong những công việc của CLB được rất nhiều người ưa thích và khen là việc chúng ta đã duy trì được một cách rất đều đặn Bản Tin nội bộ của chúng ta, khi mà chúng ta không giàu có như nhiều câu lạc bộ khác. Hơn nữa chúng ta chẳng cần một sự tài trợ nào của bất cứ ai, bất cứ tổ chức, cơ quan nào. Tất cả những gì chúng ta có chỉ duy nhất là một lòng yêu sách nóng bỏng mà tất cả chúng ta đang cùng nhau chia sẻ. Bản tin đang được những người yêu thích mỗi khi có liền đem photocopy để phổ biến cho bạn bè, thân nhân họ đọc, và một số độc giả khác thì thường xuyên theo dõi trên trang web sachvatranh của Dịch giả Vũ Anh Tuấn là một trang web có lúc có 50, 60 mươi người vào cùng một lúc… Một trong những lý do khiến bản tin của chúng ta được rất nhiều người ái mộ là nó hoàn toàn “phi cô chị” và chỉ có “chính Em” thơm phức! Xin hãy tiếp tục tay trong tay MANG LÒNG YÊU SÁCH HAY, SÁCH ĐẸP VÀ VĂN HÓA ĐỌC ĐẾN VỚI MỌI NGƯỜI… Vũ Anh Tuấn HỒI KÝ 60 NĂM CHƠI SÁCH MỤC LỤC Chương 1 .- Những ngày thơ ấu – Những cuốn sách vào lúc đầu đời –Những tủ sách của cha và của chú tôi – Sưu tập tí hon đầu tiên – Những cuốn sách và tạp chí tuyệt vời bằng tiếng ta và những truyện tranh cực đẹp và hay bằng tiếng tây – Những ngày đầu chơi sách. Chương 2.- Bắt đầu sưu tập và tìm kiếm các sách hay để lưu giữ – Sách Việt đi với sách Việt, Pháp đi với Pháp, đôi khi lạc vào một vài cuốn tiếng Anh – Những truyện kiếm hiệp trong đời tôi. Chương 3. - Theo cha mẹ vào Nam, sưu tập đầu đời coi như bị tiêu tan vì phải bỏ lại gần hết chỉ mang theo được một số cuốn – Gần như bắt đầu lại từ đầu. Chương 4. - Tình trạng sách vở ở Saigon thời kỳ những năm 50 – Các chợ sách – Các người bán sách cũ các thế hệ ông và cha của thời điểm đó – Các bạn chơi sách – Sưu tập sách thực sự hình thành và phát triển không ngừng. Chương 5. - Những duyên may với sách – Những tiếp xúc với các người bán sách kỳ cựu – Những kỷ niệm đẹp với những con người lương thiện khả kính đó – Những chuyến đi săn lùng sách khó quên – Những nhà sưu tầm sách thứ thiệt – Những chợ sách khác nhau qua từng thời kỳ – Những nhà đóng sách thật tuyệt tác. Chương 6. - Những cuốn sách của các tác giả Pháp thời thuộc địa thường được gọi là sách Đông Dương – Giới thiệu nội dung một số các sách Đông Dương thuộc các lãnh vực xã hội, lịch sử, phong tục, văn học vv… Chương 7. - Những cảm nghĩ, những kinh nghiệm, những lợi ích thiết thực đã được thụ hưởng sau 60 năm chơi sách… Hết Trên đây là mục lục cuốn “Hồi ký 60 năm chơi sách” mà tôi hy vọng sẽ sớm được cho ra chào đời bởi một nhà xuất bản đứng đắn. Cách đây mấy tuần, một cô bạn tôi, một nhà báo kiêm nhà văn nữ, cũng được rất nhiều người biết tiếng, đã hứa với tôi là cô có thể nói với nhà xuất bản mà cô đang phục vụ với tư cách là người truy tìm bản thảo in cuốn Hồi Ký cho tôi. Tôi được biết là nhà xuất bản mà cô đang làm việc là một nhà xuất bản lớn, nên cũng có đôi chút hy vọng, tuy nhiên tôi vẫn không thể cảm thấy yên tâm vì kinh nghiệm cho thấy là vào những năm tháng chúng ta đang sống này CHỈ KHI NÀO TAY SỜ ĐƯỢC VÀO CUỐN HỒI KÝ ĐÃ ĐƯỢC IN THÌ HÃY NÊN TIN… LÀ THẬT! Tôi nói vậy vì câu chuyện về việc in cuốn Hồi Ký này cũng hơi bị rất li kì. Năm 2010, một chuyên gia về in ấn phát hành sách có gặp tôi và cho biết ông ta đã có đọc những trích đoạn tôi đăng trên Bản Tin của CLB Sách Xưa và Nay và rất thích, nên ông đề nghị tôi ký một hợp đồng với ông để cho ra đời cuốn sách. Tôi đồng ý nhưng xin ông ta cho tôi thêm 7 tháng để hoàn tất bản thảo – khi gặp ông là vào tháng 3 năm 2010, do đó tôi xin ông ta cho tôi nộp toàn bộ bản thảo vào tháng 10 năm 2010 – ông đồng ý và có đặt cọc cho tôi 3 triệu đồng, và khi đưa tiền cọc ông có hứa sẽ cứ 2 tháng lại liên lạc và nhắc tôi một lần về chuyện hoàn tất bản thảo… Nhưng rồi không biết sự việc gì đã xảy ra mà ông ta chẳng hề liên lạc, nhắc nhở gì cả; phía tôi cũng có phần lỗi là hơi bị… lười, nên khi không được nhắc, tôi cũng quên luôn sau khi chỉ mới viết thêm được một số đoạn. Thoáng một cái tháng 10 đã đến, tôi sực nhớ liền tìm cách liên lạc với ông thì được thân nhân của ông cho biết là nhà xuất bản của ông gặp rắc rối sự cố gì đó nên đã ngưng hoạt động, còn ông thì đã xuất ngoại sang Âu châu lo một công việc gì quan trọng gấp bội… Tôi chán nản quá nên có dặn thân nhân của ông là khi nào liên lạc với ông thì làm ơn nhắc hộ tôi là tôi muốn liên lạc với ông ta luôn để nếu cần, thì tôi sẵn sàng hoàn lại cho ông số tiền cọc sau khi hiểu rõ tình hình của ông ra sao. Tới nay đã gần 20 tháng trôi qua, mà ông vẫn bặt hơi âm tín, nên chính vì vậy mà tôi cũng đâm lười không chịu để tâm hoàn chỉnh bản thảo. Nay nghe thấy cô bạn tôi nói là có thể giúp được, tôi cũng có nói với cô ta là lần này sau khi ký hợp đồng tôi sẽ cố gắng hoàn chỉnh bản thảo trong vòng 3 tuần lễ thôi. Để rồi 10 hôm trước tôi được cô cho biết là phải chuyển ngay đến cô ấy bản mục lục để cho nhà xuất bản lớn đó duyệt, nên tôi mới viết bản mục lục ở trên. Nhưng tới nay, hai tuần lễ đã trôi qua, mà tôi vẫn chưa thấy cô phán gì cả, nên cũng đang… lại rất nản! Tuy nhiên, trên đời này, rất nhiều khi trong cái dở lại có cái hay. Rất có thể, khi thấy sự việc cứ lề mề như thế này, tôi có thể nổi nóng lên và bỏ tiền ra in lấy không biết chừng! VÀ NHƯ VẬY THÌ HƠI… BỊ HAY ĐẤY! Trích Hồi ký 60 năm chơi sách, Chương VII Vũ Anh Tuấn Tháng tư về Bến Tre thăm lăng mộ cụ Đồ Chiểu & đền thờ cô Ba Định Nhân kỷ niệm 37 năm ngày giải phóng miền Nam thống nhất đất nước (30/4/1975-30/4/2012), Hội Người cao tuổi quận 1 đã tổ chức chuyến đi về nguồn tại tỉnh Bến Tre – quê hương Đồng khởi để viếng lăng mộ nhà thơ yêu nước cụ Đồ Nguyễn Đình Chiểu (huyện Ba Tri) và đền thờ AHLLVTND Thiếu tướng Nguyễn Thị Định (huyện Giồng Trôm). 1-Cuộc đời và sự nghiệp cụ Đồ Nguyễn Đình Chiểu: Lăng cụ Đồ Chiểu tọa lạc trên khu đất rộng 3.200m2 gồm có khu đất lăng mộ cụ Đồ, vợ và một số người thân, trong đó có con gái thứ tư của cụ là bà Nguyễn Thị Khuê tức nữ sĩ Sương Nguyệt Anh, chủ bút tờ báo Phụ nữ đầu tiên ở nước ta (Nữ giới chung); nhà thờ cũ nằm giữa khu lăng mộ với tòa nhà kiến trúc mới theo kiểu phương Đông mà tầng trên thờ cụ Đồ và tầng dưới là phòng trưng bày một số tác phẩm của cụ và bút tích của các nhà lãnh đạo và nhiều nhân vật nổi tiếng khác trong cả nước từng đến viếng lăng và tưởng niệm cụ. Cụ Đồ Nguyễn Đình Chiểu (1822-1888) là một nhà văn hóa lớn của miền Nam đồng thời nhà trí thức (sĩ phu) yêu nước lão thông Nho học, Khổng học từng tham gia và tham mưu cho các cuộc khởi nghĩa của các anh hùng Trương Định, Nguyễn Trung Trực, Thủ Khoa Huân sau thời kỳ quân Pháp đánh chiếm thành Gia Định (2-1859), đặc biệt giúp ông Phan Công Tòng khởi nghĩa chống Pháp ở Ba Tri (1869), nơi cụ lui về ở ẩn sau khi ba tỉnh miền Đông lọt vào tay thực dân Pháp. Tác phẩm nổi tiếng của cụ là Lục Vân Tiên và các bài văn tế như Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc (viết ở Cần Giuộc năm 1861 sau ngày nổi dậy chống quân Pháp xâm lăng của nhân dân ba xứ Cần Giuộc, Tân An và Gò Công), Văn tế Trương Công Định (viết vào cuối tháng 8/1864 sau khi vị anh hùng này hy sinh),Văn tế Lục tỉnh tử sĩ dân (bài văn tế chung cho tất cả anh hùng liệt sĩ và nhân dân hy sinh trong các cuộc kháng chiến chống Pháp ở Nam bộ lúc bấy giờ theo yêu cầu của Chủ tỉnh Bến Tre Michel Ponchon nhưng tiên sinh đã chủ động ra nhà lòng chợ nhờ các con thắp hương rồi đọc bài văn tế này trước khi chính quyền Pháp đến tổ chức) và bài thơ Đường “Chạy giặc” nói lên tấm lòng của cụ trước cảnh tang thương của đất nước bị giặc Pháp tàn phá: Tan chợ vừa nghe tiếng súng Tây Một bàn cờ thế phút sa tay Bỏ nhà lũ trẻ lơ sơ chạy Mất ổ bầy chim ráo rác bay Bến Nghé của tiền tan bọt nước Đồng Nai tranh ngói nhuốm mày mây Hỡi trang dẹp loạn giờ đâu vắng ? Nỡ để nhân dân mắc nạn này? Ngoài ra, cụ còn nổi tiếng về hai câu thơ mang tính chiến đấu cao trong nền văn học – báo chí, đó là: Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà ! Nhà Nho đất Gia Định chẳng may bị mù lòa vì cảm thương mẹ qua đời (năm cụ 24 tuổi) khi ra Huế thi Hương và quay về thọ tang mẹ nhưng khí tiết trung dũng, kiên cường và lòng yêu nước thương dân trước họa ngoại xâm chẳng những được nêu cao từ sự nghiệp văn học mà còn bày tỏ sự bất khuất từ khước với giặc khi quan đầu tỉnh tới lui gọi mời cụ hợp tác và ban nhiều ơn huệ. Đây là tấm gương yêu nước thương dân đáng kính phục để đời của một sĩ phu trung hiếu vẹn toàn. Chúng ta chưa có dịp nghe người Việt Nam nào kể chuyện về cuộc viếng thăm hay đàm đạo với cụ Đồ Chiểu lúc sinh thời, nhất là thời gian về cư ngụ ở Ba Tri. Nhưng chúng ta lại nghe hai người Pháp có dịp tới thăm cụ và kể lại về con người của cụ. Ông Pillet nhà doanh nghiệp Pháp ở Bến Tre lúc bấy giờ đã đến thăm cụ và viết trên báo Indépendance de SaiGon tháng 11/1883 như sau: “Tiên sinh là một đặc trưng của hạng người Việt Nam đẹp. Tóc cao vóc tròn, tuy tóc đã lấm chấm pha sương và mặc dù bệnh đã hơn một năm nhưng vẫn trông còn vẻ xuân lắm”. Còn ông M.Ponchon chủ tỉnh Bến Tre từng tới thăm viếng cụ Đồ Chiều nhiều lần, trong đó có tặng cụ quyển Lục Vân Tiên chữ Nôm in đẹp đã nhận xét về cụ như sau: “Thật tiên sinh là người tinh thần rất mực thanh cao và khiêm tốn. Tiên sinh nói với tôi rằng rất ngạc nhiên khi thấy ngày nay người ta để ý tới mình và rất lấy làm vinh hạnh được người đời chú trọng đến thi phẩm và đến thân thế của mình… Tôi rất vui thích nghe tiên sinh, một bậc lão thành bày tỏ lòng mình một cách hết sức tự nhiên và tốt đẹp ít có trong hàng ngũ chúng ta. Trong buổi tiếp chuyện, những người có mặt tại đó rất đông và xem ra ai nấy đều kính cẩn nghe tiên sinh nói, tỏ vẻ tôn trọng lắm”. (Nguyễn Đình Chiểu 1822-1888, NXB Sống Mới, Sài Gòn năm 1957). 2-Đôi nét về bà Nguyễn Thị Định: Chưa đầy nửa thế kỷ sau, tại xã Lương Hòa huyện Giồng Trôm, nơi chỉ cách lăng mộ cụ Đồ Chiểu chưa đầy 30km, một người con gái yêu thích thơ ca của cụ – tác phẩm Lục Vân Tiên – và kính phục lòng yêu nước của cụ, cô Ba Nguyễn Thị Định (1920-2007) sớm căm thù nền đô hộ của Pháp và tay sai nên chỉ mới tròn 16 tuổi đã bắt đầu tham gia cách mạng và đứng vào hàng ngũ của Đảng Cộng sản Đông Dương (nay là Đảng Cộng sản Việt Nam), tham gia cướp chính quyền Nhật - Pháp vào mùa thu cách mạng tháng 8/1945 và nhờ có mưu trí, dũng cảm nên được Tỉnh ủy Bến Tre cử ra Bắc bằng đường biển để gặp Trung ương xin vũ khí về Nam đánh giặc, đầu tiên mở “đường Hồ Chí Minh trên biển”. Trong thời kỳ chống Mỹ cứu nước, cô Ba trở thành nữ tướng lãnh đạo đội quân tóc dài tổ chức nên phong trào Đồng Khởi Bến Tre vẻ vang nổi tiếng (17/1/1960) làm tiền đề cho sự nghiệp giải phóng miền Nam đi đến thắng lợi giải phóng hoàn toàn miền Nam (30/4/1975) tiến tới thống nhất Tổ quốc, trong đó cô được phong quân hàm Thiếu tướng giữ chức Phó Tư lệnh quân giải phóng miền Nam Việt Nam góp phần không nhỏ cho ngày chiến thắng vẻ vang này. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đánh giá: “Phó Tư lệnh quân giải phóng miền Nam là cô Nguyễn Thị Định, cả thế giới chỉ nước ta có vị tướng quân gái như vậy. Thật vẻ vang cho cả miền Nam, cho cả dân tộc ta”. Sau ngày thống nhất đất nước, cô còn đảm trách nhiều chức vụ quan trọng, trong đó có chức vụ Bộ trưởng Bộ Lao động Thương binh – Xã hội, Chủ tịch Hội LH Phụ nữ và chức vụ tương đương Phó Chủ tịch nước ngày nay. Trước ngày mất vài ngày, cô còn làm việc với lãnh đạo tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu và được yên nghỉ tại nghĩa trang thành phố Hồ Chí Minh, được Nhà nước truy tặng danh hiệu cao quý AHLLVTND. Đền thờ của vị anh hùng này được xây dựng nơi quê quán của người (khánh thành ngày 20/12/2003) đúng theo lời nói của GS Trần Văn Giàu: “Những người như chị, sống làm tướng, chết làm thần”. Đoàn Người cao tuổi quận 1 hôm nay về lại quê hương Đồng Khởi để viếng lăng mộ nhà thơ yêu nước Nguyễn Đình Chiểu và đền thờ AHLLVTND Nguyễn Thị Định để thắp hương tưởng niệm hai nhân vật lịch sử đáng trọng vọng và làm gương cho mọi thế hệ - hai danh nhân đáng tự hào điển hình của nhân dân Nam Bộ đã có tinh thần đấu tranh cách mạng kiên cường từ kháng chiến Pháp đến kháng chiến chống Mỹ cứu nước thật có ý nghĩa. Hai con người, hai thế hệ ở chung một quê hương, một là nhà Nho yêu nước sống và chiến đấu bằng thơ ca và thái độ từ thời kỳ đầu thực dân Pháp xâm lược miền Nam Việt Nam và một là chiến sĩ cách mạng tham gia kháng chiến chống ngoại xâm bằng vũ khí để giành lại độc lập, tự do cho đất nước đều xứng đáng là anh hùng dân tộc đáng noi gương. Đó là một người ở đầu cuộc kháng chiến và một người ở cuối cuộc kháng chiến chống ngoại xâm gần một thế kỷ của dân tộc Việt Nam. Nay đất nước đã sạch bóng quân thù. Nhân dân đã trở lại cuộc sống hòa bình và xây dựng sánh vai cùng năm chân bốn biển trong thời kỷ mới. Đã là người Việt Nam thì không ai là không tự hào về một quá trình chiến đấu chống ngoại xâm đầy gian khổ và nhiều hy sinh mất mát của hàng hàng triệu người nằm xuống cho nền độc lập, tự do của Tổ quốc. Vương Liêm Tìm hiểu di ngôn tiền nhân qua câu chuyện thần thoại TRĂM TRỨNG TRĂM TRAI Lĩnh Nam chích quái của Trần Thế Pháp, sau khi được Vũ Quỳnh hiệu chính vào năm 1492 đã xếp truyện Hồng Bàng lên đầu. Đây là một câu chuyện thần thoại xuất hiện có lẽ từ thủa sơ khai của dân Việt, liên quan tới triều đại đầu tiên của nước Việt. Khi học giả Nguyễn Đổng Chi “Lược khảo về Thần Thoại Việt Nam” đã dành riêng chương VII trong quyển sách của ông để nói về Lạc Long Quân, trong đó có câu chuyện TRĂM TRỨNG TRĂM TRAI. Câu chuyện Trăm trứng trăm trai, trong nhiều sách giải trí bậc tiểu học có nhắc tới, và ngay cả trong những sách sử ký trước đây cũng không bỏ qua. Cụ Trần Trọng Kim trong “Việt Nam Lược Sử” trong mấy trang đầu sách cũng có nhắc lại. Chúng tôi xin phép được nhắc câu chuyện thần thoại này. Vua Kinh Dương Vương lấy con gái thần Động Đình hồ, sinh Sùng Lãm tức Lạc Long Quân sau này một phần lớn được di truyền tính chất của mẹ. Lạc Long Quân thay cha để trị nước, dạy dân ăn mặc, bắt đầu có trật tự về quân thần tôn ty, có luân thường về phụ tử phụ phu. Về sau Lạc Long Quân kết duyên với Âu Cơ có thai, đến kỳ sinh ra được một bọc thịt; quá bảy ngày bọc nở ra trăm trứng, mỗi trứng nở ra một người con trai. Những đứa trẻ này đều chóng lớn và đều khỏe mạnh, trí dũng khác thường. Một ngày kia Lạc Long Quân bảo vợ: - Tôi vốn thuộc giống rồng mà nàng thì là giống tiên. Tính tình tập quán của hai bên kẻ ở cạn, người ở nước khác nhau, khó mà ăn ở với nhau một nơi lâu dài được. Bây giờ trong số các con, một nửa theo tôi về thủy phủ ở nơi Nam Hải, một nửa ở lại với nàng. Âu Cơ chấp thuận ý kiến của chồng. Nàng cùng 50 con kéo nhau về Phong Châu, nơi trung tâm đất Lạc. Đất Lạc được chia làm nhiều khu vực, mỗi người con cai quản một nơi, ngoại trừ một số ở lại với mẹ, trong số đó có người anh cả được tôn làm vua gọi là Hùng Vương. Một chế độ mới dần dần được thành lập bắt đầu từ cung điện Phong Châu mà ra: vua có tướng văn tướng võ, có tôi tớ nô lệ con trai vua là lang, con gái là mệ nàng (mị nương), cha chết truyền ngôi cho con trưởng, người nào cũng đều lấy danh hiệu Hùng Vương. Câu chuyện trên, đọc qua, chúng ta thấy đầy vẻ hoang đường, nào Lạc Long Quân là rồng, nào Âu Cơ là tiên, nào truyện sinh bọc trứng vv…, nhưng chúng ta chớ quên đây là một câu chuyện thần thoại. Thần thoại là một loại truyện cổ tích trong đó hoặc vai chủ động là một vị thần, hoặc những sự việc xảy ra có phép thần, bao hàm ít nhiều chất hoang đường quái đản. Theo Nguyễn Đổng Chi trong Lược khảo về Thần Thoại Việt Nam thì “cũng như ca dao, tục ngữ, thần thoại… thành một món văn nghệ”. Người ta dùng hình thức thần thoại để phô diễn một cách cụ thể tư tưởng, cảm tình và nguyện vọng của họ, đồng thời để trình bày ý kiến và quan niệm thô sơ của họ về vũ trụ và nhân sinh, ghi nhớ sự việc lịch sử xảy ra lúc đó” (trang 11) Và ông cũng viết thêm: Đặc điểm của thần thoại là “sự phản ảnh xã hội chất phác, ấu trĩ đời cổ” (trang 12) Qua nhiều câu chuyện thần thoại chúng ta phải công nhận những lời của Nguyễn Đổng Chi là đúng, tuy nhiên nếu xét cho kỹ, đúng nhưng chưa phải là đầy đủ. Gần đây, trên nguyệt san Văn và tạp chí Bách Khoa, nhiều nhà nghiên cứu cũng đã đề cập tới thần thoại với những ý kiến thật là mới mẻ. Có học giả cho rằng thần thoại chính là lịch sử linh thiêng của dân tộc, là lý do của nền văn hóa, là chân lý tối cao của cuộc sống, là di ngôn của tổ tiên để lại cho muôn đời về sau. Hôm nay đây với câu chuyện Trăm trứng trăm trai, chúng tôi muốn thử tìm hiểu di ngôn tiền nhân chứa đựng trong câu chuyện. Trước hết, Lạc Long Quân là dòng dõi Rồng. Rồng là con vật ở cả khô lẫn nước, nhưng trên thực tế không ai trông thấy rồng. Rồng chỉ có trong tưởng tượng của người Việt, và đây là một con vật chúa tể anh hùng, không chịu thua bất cứ con vật nào, như Lạc Long Quân đã trừ được hết các loài yêu quái: Ngư tinh, Mộc tinh, Hồ tinh… chúng ta là con cháu Lạc Long Quân, chúng ta phải làm sao cho xứng đáng với tổ tiên, anh hùng dũng mãnh không thua kém dân tộc nào, nhưng đây phải là sự dũng mãnh của Rồng, sự dũng mãnh người ta chỉ có thể tưởng tượng mà không bao giờ biết đích xác, như người ta chỉ nghe nói rồng mà không bao giờ thấy rồng. Là dòng dõi Rồng, chúng ta lại là dòng dõi Tiên qua bà Âu Cơ. Đã gọi là Tiên thì bất diệt, dân tộc chúng ta phải là một dân tộc bất diệt, muốn như vậy chúng ta phải khôn khéo và dũng mãnh. Dũng mãnh chúng ta thừa hưởng của loài Rồng, và khôn khéo, chúng ta được Tiên truyền lại. Kể chuyện chúng ta là con Rồng, cháu Tiên phải chăng tổ tiên dân Việt muốn con cháu vừa anh hùng vừa khôn khéo để trường tồn với núi sông! Trong câu chuyện Trăm trứng trăm trai, điểm đáng chú ý khác là việc chia con. Con trưởng ở lại trị vì, 50 con theo cha xuống biển, 49 con theo mẹ lên núi. Sự chia con như vậy, tất nhiên phải có một ý nghĩa, và trong câu chuyện thần thoại này, số một trăm con trai, phải chăng tượng trưng cho bách tính, trăm họ, nghĩa là cho toàn thể nhân dân ta hồi đó. Và sự chia con xuống biển và lên núi phải chăng đây là một di ngôn của tiền nhân để lại cho chúng ta. Như vậy nửa số con theo cha xuống biển có ý nghĩa gì, và nửa số con theo mẹ lên núi có ý nghĩa gì? Nói xuống biển, đây là biển Nam Hải, và nhắc tới biển Nam Hải là nhắc tới phương Nam. Ta thường nói tiền rừng bạc biển, nghĩa là rừng và biển là tất cả của cải của thiên nhiên dành cho con người. Muốn sống, con người phải khai thác biển và rừng. Sự chia con xuống biển và lên rừng trước hết tiền nhân có ý nguyện chúng ta phải biết chia sức lực khai thác sự giàu có của rừng của biển để mưu sự sinh tồn cho dân tộc. Ngoài ra, đi xuống biển có nghĩa là hướng về Nam. Tổ tiên chúng ta, theo truyền thuyết, đã từ vùng Triết Giang, trước sức bành trướng của Hán tộc, phải di cư xuống phương Nam, tạm định cư tại miền Bắc Việt. Tạm định cư tại nơi đây, vì dân số còn ít ỏi, nhưng các cụ già biết rõ về miền Nam còn đất đai phì nhiêu, con cháu muốn sống, muốn mạnh, muốn vươn lên phải hướng về Nam. Hướng về Nam để tiến, để mở mang bờ cõi, nhưng nếu chỉ hướng về Nam không quay về Bắc, chúng ta sẽ không tránh được sự nhòm ngó của miền Bắc, và sức lan tràn của Hán tộc mà tổ tiên chúng ta đã kinh nghiệm. Bởi vậy, hướng về Nam, tiến về Nam, nhưng chúng ta luôn luôn canh chừng miền Bắc để ngăn ngừa sự ham tiến của Bắc phương. Năm mươi người con theo mẹ lên núi phân chia nhau thành bộ lạc, ngoài việc khai thác tài sản thiên nhiên của rừng núi, đây còn là những sức mạnh để kháng cự lại Bắc phương. Năm mươi con là nửa phần tính, tiền nhân muốn nhắn nhủ con cháu phải chống giữ miền Bắc cùng với một nhiệt tâm để giữ vững cương giới cũng như với nhiệt tâm đó con cháu phải hướng về Nam để mở mang bờ cõi. Giữ vững miền Bắc, mở mang về miền Nam, đó là sách lược của dân tộc chúng ta, lịch triều hằng theo nên ngày nay đất nước chúng ta mới mở rộng được cho tới Cà Mau, trong khi biên giới miền Bắc ngày nay vẫn là biên giới từ ngày lập quốc. Chúng ta đã tuân theo di ngôn của tổ tiên trên phương diện này. Ngoài hai ý nghĩa trên, với đoạn cuối của câu chuyện, chúng ta còn thấy một ý nguyện thầm kín nữa của tiền nhân: Âu Cơ cùng năm mươi con kéo nhau về trung tâm đất Lạc ở Phong Châu. Đất Lạc được chia làm nhiều khu vực, mỗi người con cai quản một nơi và người con cả được tôn làm vua gọi là Hùng Vương. Mỗi người con cai quản một khu vực, sống theo chế độ bộ lạc, rồi dần với thời gian, mỗi bộ lạc tới ngày nay mang một sắc tộc. Tất cả các sắc tộc miền rừng núi đều là đồng bào ruột thịt của chúng ta, cùng là ruột thịt, cùng chung sống trên một địa bàn, kinh hay thượng chúng ta đều là con Lạc cháu Hồng, con cháu Rồng Tiên! Có lẽ tiền nhân đã lo xa, sợ con cháu sau này, kẻ ở miền xuôi, người nơi miền ngược sẽ nhìn nhau bằng con mắt kinh thượng, nên đã thầm kín nhắn nhủ chúng ta qua câu chuyện Trăm trứng trăm trai này. Và ở đây, chúng tôi tưởng cũng cần nhắc tới vai trò của người con trưởng ở lại nối ngôi cha làm vua. Ngôi vua đây tượng trưng cho chính quyền trung ương. Nếu một nửa dân tộc hướng về Nam để mở mang bờ cõi, một nửa dân tộc lên miền Bắc để trấn giữ biên cương, không có một sự phối hợp điều hòa, một sự liên lạc mật thiết qua một chính quyền trung ương, ắt hẳn với thời gian, người miền Nam, kẻ miền Bắc sẽ không còn hiểu nhau nữa, có thể quên mình là đồng bào với nhau, trở thành thù địch. Nam Bắc vẫn hiểu nhau, người đường biển, kẻ đường rừng luôn luôn cùng nhau đồng tâm hiệp lực xây dựng đất nước và phát huy dân tộc, đó chính là có sự phối hợp và liên lạc chặt chẽ với nhau, qua chính quyền trung ương tượng trưng bởi người con trưởng trong câu chuyện thần thoại này. Sài gòn, 28.3.1973 TOAN ÁNH LƯU HỮU PHƯỚC VỚI HAI QUỐC CA & MỘT BÀI HÁT TƯỞNG NIỆM Thật là một hi hữu trong Lịch sử âm nhạc Việt Nam: Nhạc sĩ Lưu Hữu Phước là tác giả của hai bài Quốc ca của hai Quốc gia khác nhau. NHẠC SĨ LƯU HỮU PHƯỚC (1921 – 1989) Nhạc sĩ, Viện sĩ (Cộng hòa Dân chủ Đức cũ), sinh ngày 12-9-1921 tại Cái Răng, Cần Thơ. Thuở nhỏ học ở Cần Thơ, Sài Gòn (trường Petrus Ký, nay là Lê Hồng Phong), năm 1940 ra Hà Nội học tại trường Đại học Y Dược. Cách mạng tháng 8 bùng nổ, ông tham gia các công tác xã hội, văn hóa và sáng tác nhiều bài hát ca ngợi tinh thần bất khuất của dân tộc Việt Nam; nhất là khơi dậy tinh thần yêu nước nơi thanh niên, như các bài: - Bạch Đằng giang - Hội nghị Diên Hồng - Ải Chi Lăng - Lên đàng - “Tiếng gọi Thanh niên”… Phần lớn nhạc phẩm của ông sống mãi trong nền âm nhạc Việt Nam. Năm 1945, Lưu Hữu Phước về lại Sài Gòn tham gia tổ chức Thanh niên Tiền Phong, rồi hoạt động trong Mặt trận Việt Minh, cướp chính quyền tại Sài Gòn. Sau ngày Nam Bộ kháng chiến (23-9-1945) ông làm Phó giám đốc công binh xưởng Nam Bộ, Tổng thư ký Ủy ban kháng chiến Nam Bộ, Phó trưởng phòng Bộ Nội vụ. Năm 1946, ông ra Hà Nội làm Giám đốc trường Văn hóa Thiếu nhi, Phó trưởng đoàn Văn công Trung ương… Từ năm 1959-1964, ông giữ chức: Vụ trưởng Vụ Âm nhạc, Tổng thư ký Hội Nhạc sĩ Việt Nam. Năm 1965, ông vào chiến trường miền Nam, thời gian này ông viết ca khúc “Giải Phóng miền Nam” với bút danh Huỳnh Minh Siêng, rồi giữ chức Bộ trưởng Thông tin - Văn hóa (chính phủ Cách mạng lâm thời miền Nam Việt Nam, 1969 - 1975). Sau năm 1975, ông làm Viện trưởng Viện Âm nhạc, năm 1986 ông được Viện Hàn lâm nghệ thuật Cộng hòa Dân chủ Đức tặng Viện sĩ Thông tấn ngành âm nhạc. Lưu Hữu Phước là một nhạc sĩ đầu đàn của phong trào nhạc hùng ca, sử ca phục vụ giới thanh niên, sinh viên và học sinh. Các sáng tác của ông có giá trị nghệ thuật cao và nói lên được hoài bão, ước mơ của thanh thiếu niên Việt Nam trong thời mất nước và cả trong thời hòa bình. Ông mất ngày 8.6.1989 tại Tp.HCM, thọ 68 tuổi. BÀI “TIẾNG GỌI THANH NIÊN” TRỞ THÀNH QUỐC CA Lưu Hữu Phước sáng tác bài Tiếng gọi Thanh niên thời Cách mạng tháng 8 mới bùng nổ, nhằm mục đích khơi gợi lòng yêu nước của thanh niên toàn quốc, tham gia cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền từ tay Nhật - Pháp. Nguyên văn bài hát: 1. Này Thanh niên ơi, tiến lên dưới cờ giải phóng Đồng lòng cùng đi, đi, đi sá gì thân sống Nhìn non sông nát tan, thù nung tâm chí cao Nhìn muôn dân khóc than, hờn sôi trong máu đào Liều thân xông pha ta tranh đấu Cờ nghĩa phất phới vàng pha máu Cùng tiến quét hết những loài dã man Hầu đem quê hương thoát vòng u ám Thề quyết lấy máu nóng mà rửa oán chung Muôn thuở vì sông núi nêu tiếng anh hùng Vung gươm lên! Ta quyết đi tới cùng Vung gươm lên! Ta thề đem hết lòng Tiến lên đồng tiến sá chi đời sống Chớ quên rằng ta là giống Lạc Hồng. 2. Này Sinh viên ơi, đứng lên đáp lời sông núi Đồng lòng cùng đi, đi, đi mở đường khai lối Kìa non sông nước xưa, truyền muôn năm chớ quên Nào anh em Bắc Nam cùng nhau ta kết đoàn. Hồn thanh xuân như gương trong sáng Đừng tiếc máu nóng tài xin ráng Thời khó, thế khó, khó làm yếu ta Dù muôn chông gai vững lòng chi sá Đường mới kíp phóng mắt nhìn xa bốn phương Tung cánh hồn thiếu niên, ai đó can trường. Sinh viên ơi! Mau tiến lên dưới cờ Anh em ơi! Quật cường nay đến giờ Tiến lên cùng tiến, gió tung nguồn sống Cháy trong lòng ta ngàn mớ lửa hồng. Sau khi âm mưu của Pháp lập chính phủ Nam Kỳ quốc thất bại (thủ tướng Nguyễn Văn Thinh tự tử), chính phủ này sử dụng Lá cờ biến cải từ cờ Quẻ Ly của chính phủ Trần Trọng Kim – cờ nền vàng với quẻ Ly có 3 sọc màu đỏ đứt quãng – thành lá “Cờ Nam Kỳ quốc” có nền vàng với 3 sọc màu xanh liên tục, tượng trưng cho 3 con sông ở Nam Kỳ (Tiền giang, Hậu giang và Vàm Cỏ) và sau khi việc điều đình với chính phủ Hồ Chí Minh không thành, vào năm 1949, Pháp cho thành lập chính phủ Quốc gia Việt Nam, mời Bảo Đại về làm Quốc Trưởng, Nguyễn Văn Xuân làm Thủ tướng, vội vàng lấy lá “cờ Nam kỳ quốc” - thay đổi màu của 3 sọc xanh thành 3 sọc màu đỏ trên nền cờ màu vàng – trở thành “Quốc kỳ”. Cũng vì hấp tấp thành lập nên họ vội vàng lấy ngay bài “Tiếng gọi Thanh niên” (đang được thịnh hành thời đó) của Lưu Hữu Phước làm bài Quốc ca. Như vậy, họ đã có đầy đủ quốc kỳ và quốc ca của chính phủ “Quốc gia Việt Nam” với thủ đô là Sài Gòn. Đến năm 1956, Ngô Đình Diệm do Mỹ đưa về Sài Gòn làm thủ tướng, truất phế Bảo Đại để lên làm Tổng thống “Việt Nam Cộng hòa” với nền Đệ nhất Cộng Hòa, rồi Nguyễn Văn Thiệu với nền Đệ nhị Cộng Hòa – tiếp tục sử dụng Quốc kỳ và Quốc ca của “Quốc gia Việt Nam”. Quốc ca của “Quốc gia Việt Nam” và “Việt Nam Cộng hòa” (Sài Gòn trước đây) với Lời ca được sửa đổi như sau: Này Công dân ơi, Quốc gia đến ngày giải phóng Đồng lòng cùng đi hy sinh tiếc gì thân sống Vì tương lai Quốc dân, cùng xông pha khói tên Làm sao cho nước Nam từ nay luôn vững bền Dù cho thây phơi trên gươm giáo Thù nước lấy máu đào đem báo Nòi giống lúc biến phải cần giải nguy Người Công dân luôn vững bền tâm trí Hùng tráng quyết chiến đấu làm cho khắp nơi Vang tiếng người nước Nam cho đến muôn đời. Công dân ơi! Mau tiến lên dưới cờ Công dân ơi! Mau làm cho cõi bờ Thoát cơn tàn phá, vẻ vang nòi giống Xứng danh ngàn năm dòng giống Lạc Hồng. Mặc dù Lưu Hữu Phước đã từng lên tiếng phản đối việc sử dụng bài Tiếng gọi Thanh niên làm Quốc ca, nhưng chính quyền Sài Gòn vẫn tiếp tục dùng bài hát đó làm Quốc ca - từ năm 1949 cho tới ngày Giải phóng miền Nam 30-4-1975. Kể từ đây, bài hát “Tiếng gọi Thanh niên” mới trở về vị trí là bài hát của giới thanh niên, chấm dứt sứ mệnh làm bàì Quốc ca. “BÀI CA GIẢI PHÓNG MIỀN NAM” Ngày 20-12-1969, Mặt trận Giải phóng Miền Nam được thành lập. Năm 1965, Lưu Hữu Phước vào chiến trường miền Nam, ông đã sáng tác bài ca Giải phóng miền Nam: Giải phóng miền Nam chúng ta cùng quyết tiến bước Diệt đế quốc Mỹ, phá tan bè lũ bán nước Ôi! Xương tan, máu rơi, lòng hận thù ngất trời Sông núi bao nhiêu năm cắt rời. Đây Cửu Long hùng tráng Đây Trường Sơn vinh quang Thúc giục đoàn ta xung phong đi giết thù Vai sát vai chung một bóng cờ. Vùng lên! Nhân dân miền Nam anh hùng Vùng lên! Xông pha vượt qua bão bùng Thề cứu lấy nước nhà! Thề hy sinh đến cùng! Cầm gươm, ôm súng, xông tới! Vận nước đã đến rồi Bình minh chiếu khắp nơi Nguyện xây non nước sáng tươi muôn đời. Sau khi chính phủ Lâm thời Cộng hòa miền Nam được thành lập, thủ đô ở Lộc Ninh (tỉnh Tây Ninh) và bài hát trên của Lưu Hữu Phước được sử dụng làm “Bài ca Giải phóng miền Nam” (tương đương với bài Quốc ca) trong các buổi lễ chính thức tiếp đón các đoàn ngoại giao khi họ tới thăm Lộc Ninh. Trước đó vào năm 1945, bài Tiếng gọi Thanh niên ghi là của “Hoàng Mai Lưu” - do nhóm 3 người bạn thân gồm: Huỳnh Văn Tiểng – Mai Văn Bộ - Lưu Hữu Phước cùng sáng tác, nên ghi tác giả là Hoàng Mai Lưu (là Họ của 3 người). Bài hát Giải phóng Miền Nam này lẽ ra ghi tên tác giả là “Huỳnh Minh Liêng” (do Họ của 3 người: Huỳnh + M từ Mai + L từ Lưu) nhưng do in sai ra Huỳnh Minh Siêng, về sau Lưu Hữu Phước cũng đồng ý với tên mới này. Như vậy nhạc sĩ tài năng Lưu Hữu Phước là tác giả của 2 bài Quốc ca của hai Quốc gia khác nhau. BÀI HÁT TƯỞNG NIỆM Nguyên Lưu Hữu Phước sáng tác bài này lúc đầu mang tên “Hát Giang trường hận” nhằm để tưởng nhớ Hai Bà Trưng – hai vị anh thư đầu tiên của nước ta - tuẫn tiết tại sông Hát Giang sau khi thua trận. Sau đó vì tiết tấu của bài hát này ai oán não nùng mà oai hùng cảm động như đi vào lòng người khi vĩnh biệt người quá cố, nhất là trong các buổi Tang Lễ của các Chiến sĩ trận vong, nên bài tưởng nhớ Trưng Nữ Vương được đổi tên là “Hồn Tử Sĩ” cho đúng với chức năng là bài hát Tưởng niệm trong các Tang lễ chính thức. Bài “Hồn Tử Sĩ” của Lưu Hữu Phước Đêm khuya âm u, Ai khóc than trong gió đàn Sóng cuốn Trưng Nữ Vương, Gợi muôn ngàn bên nước tràn Hồn ai đang thổn thức trên sông, Hồn quân Nam đang khóc non sông Sát khí ngất đất bao lớp thây muôn bóng huyền Không gian như lắng nghe bao oan hồn Đang xao xuyến xót thương hai Nữ Hoàng tuẫn thân Dù mạng vong lửa hờn chưa tan Làn sóng đang thét gào gió vang tiếng nguyền cùng gươm đao Nguyện cùng sông đẫm máu, Tấm thân nát không nao Nhìn thấy quân Hán dầy xéo, Sông núi nhà dòng châu rơi Khắp nước non mờ tối dưới trời. Nào ai yêu nước nhà, Vì giống nòi vì hận thù Làm sao đưa dân qua cơn đau khổ Người Nam anh hùng quyết dâng đời sống cho non sông Liều mình vào tên khói, Cùng người thù ta quyết không đạp đất chung Trai hùng tráng lúc quốc biến xả thân, Lấy máu nóng cứu dân khỏi hồi nguy nan. Chí hiên ngang, bao năm công đức, Xây đắp nên non nước nhà, Sóng gió nguyện khắc trong Tấm quốc dân không xóa nhòa Vì đâu vua Trưng Nữ ra quân, Vì non sông tử tiết vong thân. Nước cuốn réo rắt như thiết tha gọi quốc hồn, Thiên thu trên Hát Giang vang tiếng lòng Dân đau đớn khóc giang san phải hồi ngửa nghiêng Cùng nhau khấn non nước thiêng liêng. TÓM TẮT Thật là hi hữu trong lịch sử âm nhạc Việt Nam, là chỉ duy nhất có người nhạc sĩ tài hoa Lưu Hữu Phước đã sáng tác ra hai bài Quốc Ca của hai chế độ khác nhau và đặc biệt là bài “Hồn Tử Sĩ” được sử dụng làm bài hát tưởng niệm trong các buổi Lễ Tang chính thức để tưởng nhớ đến các anh hùng liệt sĩ và người quá cố, với lòng tôn kính và biết ơn, ở cả hai miền Bắc và miền Nam trước đây và trên Đất nước thống nhất thân yêu của chúng ta ngày nay. (Tham khảo: Từ điển Tác Giả VN của Nguyễn Q Thắng - NXB Văn hóa TT-1999 và các bài hát trên Internet) PHẠM VŨ CHUYỆN HỌC HÀNH THUỞ ẤY (Phần 4 và hết) Kể từ năm đệ ngũ, chương trình học có thay đổi về hai môn ngoại ngữ Anh văn và Pháp văn. Học sinh không còn phải học hai sinh ngữ song song như trước đây mà chỉ chuyên học một sinh ngữ, hoặc Anh hoặc Pháp, gọi là sinh ngữ chính, hay sinh ngữ 1, khi lên đến năm đệ tam sẽ tiếp tục học sinh ngữ còn lại gọi là sinh ngữ phụ, hay sinh ngữ 2. Trước khi vào năm học, chúng tôi phải đến trường ghi tên và chọn sinh ngữ để học và cũng để nhà trường sắp lớp. Việc thay đổi chương trình học này được diễn ra trên toàn quốc để phù hợp với các kỳ thi Trung học hoặc Tú tài sau này. Ở hai năm đệ thất và đệ lục, dù rằng học hai sinh ngữ song song nhưng tôi thấy tiếng Pháp có phần ưu thế vì chiếm nhiều giờ hơn. Tuy nhiên một số lớn phụ huynh học sinh đã tính toán lợi hại làm sao đó nên cho con em mình chọn Anh ngữ là sinh ngữ chính. Cha mẹ tôi cũng ở trong số đó. Lên đến lớp đệ ngũ, chúng tôi đã thấy có một số bạn bắt đầu chuẩn bị cho kỳ thi Trung học đệ nhất cấp diễn ra vào cuối năm. Đúng ra chúng tôi phải học hết năm đệ tứ mới tham dự kỳ thi này. Tuy nhiên một số bạn bị trễ tuổi cho nên tìm cách “thu ngắn cách biệt” bằng cách dự thi sớm hơn một năm, nếu đậu các bạn này sẽ vào học lớp đệ tam trong năm học kế tiếp, tức là qua mặt chúng tôi một năm học. Chuyện vượt lớp để đi thi như thế này ngày xưa chúng tôi gọi là “thi nhảy”. Để thực hiện kế hoạch “thi nhảy” của mình, các bạn trễ tuổi đó phải sắp xếp đi học thêm lớp đệ tứ ở một trường tư thục như trường Tân Thanh, trường Quốc Tuấn, trường Trường Sơn vv... Học phí mỗi tháng lúc bấy giờ ở trường tư thục không hề gây khó khăn cho những gia đình có con muốn vượt vũ môn trước kỳ hạn như thế này. Thời đó những gia đình có con đủ sức theo học ở trường công lập, còn gọi là trường Nhà nước, coi như không phải lo lắng gì cho đứa nhỏ vì không có học phí, kể cả khi nó lên tới cao đẳng hay đại học. Chỉ việc cho nó cơm ăn, áo mặc một ít l’argent de poche (tiền tiêu vặt) và giao cho ông… Khổng Tử rồi cha mẹ cứ bình chân như vại chờ tới kỳ hạn nó đem tin thi đậu về cho khoái và đi khoe với bạn bè. Chương trình học năm đệ tứ ở trường tư thục bắt đầu từ khi khởi sự nghỉ hè của trường công lập để giải quyết cấp tốc chương trình lớp đệ ngũ cho kịp đến khi kết thúc kỳ nghỉ hè, trường bắt đầu dạy chương trình lớp đệ tứ cho đến ngày đi thi. Chuyện đi học thêm ở trường tư thục để thi nhảy của một số bạn trong lớp được giữ bí mật ghê lắm. Tôi may mắn chơi thân với một thằng bạn, ngồi ở cuối lớp, năm đó nó rục rịch đi học thêm tư thục để thi nhảy. Nó bắt tôi phải tuyệt đối không được bép xép rủi tới tai mấy thầy, cô, nó sẽ bị trù dập bằng cách truy bài ở lớp. Tôi thực sự không tin ở khả năng của mình nên lủi thủi học từng lớp cho chắc ăn và tạo căn bản vững vàng để lên lớp cao hơn không bị vấp ngã. Đúng ra tôi cũng muốn kiếm một cái mention, gọi là thứ hạng cao, ở kỳ thi Trung học để xin học bổng khi lên đệ tam. Vào thời điểm đó ở Saigon, mỗi năm đều có tổ chức thi Trung Học đệ nhất cấp, Tú Tài 1 và Tú Tài 2. Mỗi loại văn bằng có 2 lần thi trong thời gian nghỉ hè cách nhau khoảng hai tháng. Nếu thi lần một bị trượt được phép thi lại lần hai, nếu thi lần hai cũng không đậu, sang năm được thi lại nữa. Có người vừa thi Tú Tài 1 vừa thi lại Trung học đệ nhất cấp. Riêng trường hợp muốn thi Tú Tài 2 bắt buộc phải đậu xong Tú Tài 1. Những người lớn tuổi học ở các lớp Bình dân giáo dục, bây giờ gọi là Bổ túc văn hóa, muốn thi lấy những văn bằng này họ phải nộp đơn xin thi chung với những học sinh các trường công lập và tư thục, nếu đủ sức thì đậu không đủ sức thì rớt ráng chịu. Sang năm cố gắng ôn luyện rồi tiếp tục thi nữa. Lúc bấy giờ các kỳ thi Tú Tài đều có phần thi vấn đáp, học trò thường gọi là thi “oral”. Thí sinh trả lời trực tiếp trước giám khảo từng môn học. Cách thi này gây đau khổ không ít cho các thí sinh vì có người đậu các môn thi viết nhưng không đủ điểm trong đợt thi oral, phải thi lại trong kỳ thi thứ hai của năm đó. Nếu không đậu nữa sang năm phải thi lại đầy đủ cả hai thứ viết và oral. Qua đầu năm đệ tứ, thầy điểm danh thấy thường xuyên có những bạn vắng mặt, chúng tôi biết chắc chắn rằng họ là những học sinh vừa thi nhảy năm rồi và đã thi đậu nên đã xin vào lớp đệ tam của trường Pétrus Ký, Chu Văn An, Hồ Ngọc Cẩn vv... hoặc có bạn lấy bằng Trung học vừa mới đậu, thi vào các trường cao đẳng như Điện, Điện tử, Công chánh, Sư phạm vv... để sớm có việc làm sau khi tốt nghiệp. Một công chức tốt nghiệp một trường cao đẳng thường được coi là một cán sự với mức lương đủ sức nuôi vợ con thoải mái. Nhiều bạn sau khi vào được lớp đệ tam rồi, biến thành đàn anh của những bạn thuở đệ thất đệ lục đang bắt đầu vào năm đệ tứ chuẩn bị cho kỳ thi Trung học, lại thừa thắng xông lên đi học song song một lớp đệ nhị ở một trường tư thục để chuẩn bị nhảy một lần nữa, để thi lấy bằng Tú Tài 1. Sau này khi tôi lên đệ tam, tôi cũng bắt chước các bạn chuẩn bị một màn thi nhảy như vậy, nhưng “lực bất tòng tâm”, chỉ sau hai tháng tôi phải ngưng học lớp đệ nhị ở trường tư thục vì phải tham gia vào một công việc ở nhà với tư cách là một người làm công bán thời gian cho gia đình. Bỏ đi cái gánh nặng về việc học nhảy lớp, tôi theo học lớp đệ tam ở trường Pétrus Ký một cách thoải mái dù phải làm thêm công việc nhà và tôi cũng còn dành được chút thời gian để tập một vài môn thể thao khác. Chuyện học nhảy dần dần phổ biến rộng rãi. Các trường tư thục sẵn sàng cấp chứng chỉ học trình để lập hổ sơ dự thi. Sau này nhiều trường tư thục tổ chức cho học sinh học cấp tốc 3 năm cho 6 lớp, Thất-Lục, Ngũ-Tứ, Tam-Nhị và đảm bảo học sinh đủ khả năng dự thi bằng Trung học và Tú tài 1 chung với các học sinh công lập và tư thục khác. Đa số những học sinh theo học những lớp này thường là những người lớn tuổi muốn học lại để thi lấy bằng bổ sung vào hồ sơ tăng lương hoặc lên ngạch, thay đổi chức vụ. Tôi có may mắn là trong suốt con đường ăn học, tôi đều “mài đũng quần” ở trường công lập nên cha mẹ tôi không phải tốn tiền học phí cho tôi kể cả thời gian sau này khi tôi lên học cao đẳng và đại học. Tuy nhiên cha mẹ tôi cũng có cho tôi thêm tí tiền còm để học luyện thi trong những kỳ nghỉ hè ở các năm chuyển cấp. Mấy đứa bạn cùng xóm đang học ở các trường tư thục thường than thở mỗi tháng về nhà xin tiền ông bà già đóng tiền học thấy “quê” quá. Tụi nó cảm thấy buồn khi nhìn đám học trò trường Nhà nước cứ việc cắm đầu lo học hết năm này tới năm khác không hề biết đến chuyện đóng học phí là gì. Tụi nó cũng thấy tiếc là trước đó không thi đậu vào các trường trung học công lập. Trường Pétrus Ký hồi đó rất quan tâm đến sức khỏe của học sinh. Mỗi năm một lần, có một đội ngũ bác sĩ, y tá đến khám sức khỏe cho tất cả các lớp. Các vị thầy thuốc này làm việc rất tận tụy, “cân đo đong đếm” đàng hoàng. Nếu phát hiện đứa nào có bệnh, họ sẽ chuyển đến các bệnh viện công lập để điều trị, khi nào hết bệnh trở về trường đi học tiếp cha mẹ học sinh đó không hề tốn kém một tí tiền còm nào cho bệnh viện. Các bệnh viện Nhà nước hồi đó như Bình Dân, Chợ Rẫy, Sàigòn vv… thường được gọi là “nhà thương thí”. Mọi người dân vô khám và nếu có bệnh được ở lại điều trị cho đến khi hết bệnh không mất tiền. Ở các trường trung học lúc bấy giờ các thầy cô đều được gọi là giáo sư, ở cấp đại học gọi là giảng sư. Các giáo sư trung học thường “đá hai chân” tức là vừa dạy ở trường công lập vừa dạy ở trường tư thục, cho nên một số lớn các nhà giáo này đều sở hữu một cái “xế hộp”, tức là xe hơi, thường là Peugeot 203, Simca 9, Volkswagen, Dauphine… Thầy Tốn dạy sử địa ở cư xá giáo sư trên đường Nguyễn Hoàng đi chiếc Renault 2CV, tụi học trò thường lén leo lên sau đuôi xe nhún lên nhún xuống, đến khi thấy thầy bước ra, tụi nó cắm cổ chạy trốn. Bước vào năm đệ nhị, và nhất là ban B, chúng tôi bắt đầu mở hết ga đặt mục tiêu quan trọng là phải thi đậu bằng Tú tài 1 trong năm này, có như vậy mới tính được việc lấy bằng Tú tài 2 trong năm sau mở đường đi vào đại học xây mộng ước “phải có danh gì với núi sông”. Lúc bấy giờ ở Saigon có phong trào thi văn đoàn mọc lên thành từng nhóm gồm những cây bút sinh viên học sinh gom lại viết văn, làm thơ đăng lên báo này, tạp chí nọ. Một thằng bạn trước đây học chung ở lớp đệ ngũ, sau đó nó thi nhảy đậu trung học, rồi lên đệ nhị nó đậu Tú tài 1 trước tôi một năm. Nó sinh hoạt ở thi văn đoàn Lệ Giang lấy bút hiệu là Hoài Thương. Lúc bấy giờ nó đã hai chục tuổi hơn tôi một tuổi nhưng sao thấy nó già dặn, lịch lãm hơn tôi nhiều. Thấy tôi muốn tập tành viết lách, nó vẽ đường đi nước bước cho tôi: “Muốn viết văn làm thơ mầy phải có đối tượng để viết, có nghĩa là mầy phải có bồ, có người để mầy yêu thương mới viết được”. Tôi đang yêu bóng đá, yêu đua xe đạp, bây giờ nghe nó bảo tôi phải có bồ, có người yêu, sao nghe lạ tai quá. Tôi vào mục “tìm bạn bốn phương” trên một tờ báo, chọn một địa chỉ của một người con gái ở Gò Công rồi kêu mấy tên bạn cùng xóm bàn kế viết thư làm quen. Khoảng một tuần sau, cô gái đó trả lời. Lần đầu tiên cầm trong tay lá thư của một người con gái mà tôi cố ý làm quen, tôi đã vô cùng hồi hộp. Tôi nhanh chóng mở ra xem, tay còn run run. Trong thư cô ấy nói đồng ý làm bạn với tôi và muốn cùng tôi trao đổi thơ văn. Cô này có nét chữ giống con trai, rất mạnh mẽ, lời trong thơ lưu loát tự nhiên, đơn giản. Trên một tờ giấy pelure khác cô chép một bài thư do chính cô sáng tác có nhan đề là “Đôi bờ”. Bài thơ thuộc loại thơ mới gồm năm hay sáu khổ, mỗi khổ bốn câu tám chữ. Tôi tần ngần đưa bài thư cho thằng Thương xem, nó bày: “Mầy đọc cho hết cuốn Thi nhân Việt Nam, tự nhiên mầy làm thơ được liền. Còn nếu muốn hay hơn, mầy phải tập uống cà phê. Chất đắng của cà phê làm cho mầy sảng khoái, rồi mầy hút một điếu thuốc, rít một hơi, tâm hồn mầy lâng lâng, ý thơ trào ra lai láng mầy tha hồ viết, có khi viết không kịp”. Tôi phục thằng Thương sát đất vì sau khi đọc vài tác giả trong cuốn Thi nhân Việt Nam tôi tập tễnh làm vài bài thơ bốn câu tám chữ mang đầy âm hưởng “Nhớ Rừng” của Thế Lữ hoặc “Chợ Tết” của Đoàn Văn Cừ. Nhưng cái công thức “hút một điếu thuốc, rít một hơi” đã làm tôi sặc và ho mấy ngày liên tiếp. Thư từ qua lại trong mấy tháng trời, tôi đã làm được năm bảy bài thơ, tất cả đều được gửi cho cô bạn gái ở Gò Công. Tôi cảm thấy đầu óc tôi lúc bấy giờ hơi lộn xộn. Tôi thường lấy hình cô gái đó ra xem trong lúc đang học bài trong một góc nhà vắng lặng. Bài học lâu thuộc hơn, vô lớp trả bài ấp a ấp úng. Tôi cũng có tặng cô một tấm hình loại làm thẻ học sinh. Đặc biệt cô thường khen tôi là học sinh giỏi vì theo cô, đó là chuyện đương nhiên đối với một đứa học trò trường Pétrus Ký. Tôi thường trông đợi người đưa thư, người mà trước khi quen cô nữ sinh Gò công, tôi chẳng biết ông mặt mày tròn méo ra sao. Hình ảnh người đưa thư trở nên quá quen thuộc đối với tôi. Sáng nào tôi cũng đợi cho tới khi ông xuất hiện. Ngày nào ông dừng xe gọi tôi ra nhận thư, tôi thấy vô cùng hạnh phúc. Ngày nào không thấy ông xuất hiện, hoặc thấy ông chạy xe đạp đến nhưng rồi đi qua luôn, tôi cảm thấy đầu óc thẫn thờ, học bài không vô. Những lúc như vậy tôi thường vô mở garde-manger (tủ đựng thức ăn), kiếm một cái gì ăn cho no để quên cái khoảng thời gian trống trải đó. Một hôm, nhằm ngày Tết dương lịch, hồi đó kêu là Tết Tây, tôi đang xoay trần đứng ủi quần áo cho khách, một chiếc taxi trờ tới đậu ngay trước nhà tôi. Từ cửa sau xe một cô gái rất trẻ trong chiếc áo dài trắng tinh bước ra và đi vào nhà tôi, hai tay cầm một bó hoa trắng trong bao giấy kiếng. Ở bàn bên kia, một tay thợ ủi khác và cũng là ông anh bà con, vừa đẩy bàn ủi vừa ngó ra đường, kêu tôi: “Mầy đó Bảy!” Bảy là tên ở nhà của tôi. Tôi thả bàn ủi lên chiếc dĩa đá, bước ra mời vào bàn để giữa nhà. Tôi đoán đây là cô gái ở Gò Công vì thấy giống như trong hình cô ấy tặng tôi, và như đã nhận ra tôi, cô ấy đưa bó hoa về phía tôi: “Chúc mừng năm mới!”. Tôi mắc cỡ quá, giơ tay đón lấy bó hoa glaieul trắng trong bao giấy kiếng sang trọng ghi dòng chữ “Bonne Année” trong khi trên người tôi chỉ vỏn vẹn có một cái quần xà lỏn. Tôi không biết nói gì ngoài tiếng “cám ơn” lí nhí trong miệng rồi xin lỗi để chạy vô trong mặc quần áo đàng hoàng như đang đi học để ra tiếp khách… Cuối năm đó tôi thi đậu Tú tài 1 nhưng lại đậu hạng Thứ tức là hạng thấp nhất. Ở các kỳ thi trung học và Tú Tài, kết quả được xếp vào bốn hạng là Ưu, Bình, Bình thứ và cuối cùng là Thứ. Những người đậu hạng Thứ còn được gọi là đậu trên Chánh Chủ Khảo, có nghĩa là trong danh sách kết quả thi đậu nằm cuối cùng là con dấu và chữ ký của ông Chánh Chủ Khảo. Tôi nhận thấy trong năm đệ nhị việc học hành của tôi bị sa sút trầm trọng, may là tôi còn vớt vát được văn bằng Tú Tài 1. Tôi quyết định chuyển hướng đi bằng cách thi vào trường Quốc Gia Thương Mại, một trường duy nhất ở Saigon lúc bấy giờ dạy về ngành kinh tế thương mại. Tôi đã trúng tuyển dễ dàng và sau ba năm học, tôi đã tốt nghiệp và làm việc tại một công ty nước ngoài. Chuyện học hành của tôi còn được tiếp tục trong một giai đoạn khác… Dương Lêh MỘT CHUYẾN DU LỊCH BỤI Ở SINGAPORE Nếu nói theo ngôn ngữ của lớp trẻ hiện nay thì khi tự mình xách ba lô đi du lịch, không theo tour gọi là du lịch bụi thì tôi cũng vừa trải qua một chuyến như thế. Nhưng thật ra cũng chỉ có đờ mi bụi thôi, vì có người nhà hướng dẫn, không đến nỗi phải hoàn toàn tự xoay xở mọi mặt. Lý do du lịch của tôi một phần vì con tôi muốn tôi biết nơi sinh sống của vợ chồng nó, sẵn dịp tham quan Singapore “cho biết với người ta”. Số là con tôi lấy chồng người nước ngoài. Chồng nó làm việc ở Singapore. Nó thì chưa được phép cư trú ở Singapore nên l tháng chỉ được phép ở đó 25 ngày, rồi cũng vì đó mà cũng không xin được việc làm nên rảnh rang lên mạng. Do thường xuyên săn tìm, lục lạo trên mạng, nên nó mua được vé máy bay giá rẻ đi Singapore, đồng thời chuyến về cũng mua được vé khuyến mãi, mua l tặng l, nên mua vé cho tôi và cả thằng em nó cùng đi. Chị gái của nó thì về sau mới quyết định đi, nên phải mua vé với giá bình thường. Có lẽ vì đi bằng vé giá rẻ của hãng Hàng Không Tiger nên sân bay cũng ở phía bèo. Toilette còn ngồi xổm, và vệ sinh cũng kém. Khi xuống máy bay, hành khách phải đi xuống bằng thang bộ, rồi phải đi bộ trên con đường thiết kế lên dốc cỡ lên l lầu, rồi xuống dốc mới đến bộ phận Hải Quan Singapore để làm thủ tục nhập cảnh và nhận hành lý. Khu đón xe được ghi bảng “vui lòng xếp hàng chờ Taxi” nên rất trật tự. Có một nhân viên điều hành ở đây. Mỗi người chờ đến lượt mình, một xe trờ tới, đón khách, đi rồi xe khác mới đến. Không có cảnh Taxi đón khách làm giá bát nháo như sân bay Tân Sơn Nhất của ta. Dọc đường, cô tài xế người Hoa cho biết, ở đây, nếu đi xe Taxi đẹp thì giá gấp đôi. Xe của cô ta không đẹp lắm nên chỉ mắc hơn có 25 cents. Ấn tượng đầu tiên của tôi về Singapore là con đường từ sân bay về nhà, và nhiều nơi trong Thành Phố, hai bên đường có trồng một loại cây to, trông xa giống như cây Còng hay còn gọi là me tây của xứ ta. Cây rất cao và tỏa bóng rất lớn. Có cây tàn của nó tôi ước tính chắc cũng hơn l0m nên dưới đường rất mát. Xe chạy trong Thành Phố mà có cảm tưởng như đi trong Công Viên. Lằn phân cách giữa hai con đường là những chậu khá lớn trồng bông giấy trổ màu hồng phấn và và tim tím rất đẹp. Nhìn kỹ thì thấy chậu không làm bằng xi măng, mà bằng gỗ. Theo con tôi nghe nói, thì sở dĩ làm chậu bằng gỗ là phòng trường hợp có chiến tranh thì chỉ cần di dời những dãy phân cách đó là con đường trở thành đường băng phục vụ cho nhiều máy bay. Suy ra xứ họ làm gì cũng có kế hoạch rất chu đáo, không phải có tính cách nhất thời, hoặc kiên cố mà thiếu tính toán. Chung cư nơi con và rể tôi ở là một căn hộ của một tòa nhà cao l4 tầng, có 2 phòng ngủ, 2 toilettes, bếp và phòng khách, thiết kế đơn giản, thua xa nhà ở Khu Phú Mỹ Hưng mà giá hơn 2.800 đô Mỹ/tháng. Công ty chịu phần lớn. Số còn lại là rể tôi tự trả. Có lẽ vì ở đó gần công viên và ga tàu điện ngầm, lại gần Siêu Thị Mustapha. Gần đó lại là khu chợ của người Hoa. Vật giá cũng rất đắt, tôi đi mua mới thấy: ½ ký thịt ba rọi giá 9 đô Sing. Tôi đổi 100 đô Mỹ thì được 125 đô Sing. Tính ra là tiền VN khoảng 16.000đ 1 đô Sing. Như vậy l ký thịt ba rọi giá gần 300.000đ. Trứng gà cũng hơn 2 đô l chục, và l bó rau muống cỡ 200gr có giá 2 đô; 1 gói đường nhỏ, chỉ 200gr mà giá là 90 cents! Khi thông báo đã đặt vé cho mọi người sang Singapore, con tôi cũng đã cẩn thận dặn dò nên lên mạng tìm xem thông tin về những điểm muốn du lịch hay mua sắm và chọn ra nơi nào cần đến để đi trước, vì chồng nó cả tuần chỉ nghỉ có hai ngày: Thứ Bảy và Chủ Nhật, và biết đường nhiều hơn, có thể hướng dẫn cho cả nhà. Phương tiện giao thông ở Singapore thì rẻ nhất là bus rồi đến xe điện gọi là MRT (Mass Rapid Transport) Hai loại xe này chạy khắp các tuyến trong Thành Phố, không có xe ôm như ở xứ ta. Taxi rất mắc, nếu ở nhà muốn gọi tới đón thì phải chịu 8 đô, sau đó chạy bao nhiêu thì tính tiếp. Muốn không tốn 8 đô thì cứ ra đường chờ, thấy xe nào không có bảng hiện chữ Hire màu đỏ là xe chưa có khách thì cứ ngoắc. Giá khởi đầu là 3 đô. Tôi cũng lên mạng, thấy Singapore có những nơi nổi tiếng nhất là Công Viên Sư Tử, Vườn Thú, Siêu Thị Mustapha, Night Safari, China Town, Sentosa, và khu Tiểu Ấn. Công viên Sư Tử là nơi mà hầu hết du khách đến Singapore đều tới đó để chụp hình lưu niệm, nên tôi chọn làm điểm tham quan đầu tiên. Chúng tôi khởi hành lúc 11 giờ trưa bằng xe bus. Đi một con đường khá dài, đến trạm cuối thì xuống đi bộ qua cầu, bước xuống độ mươi bậc thang, băng qua một khoảng sân lót bằng gỗ mới đến khu công viên lớn có con Sư Tử mình cá ngồi phun nước. Tôi ngạc nhiên không hiểu giữa thời buổi bê tông được xây dựng hàng mấy chục tầng lầu, tại sao ở đây lại tồn tại một đoạn đường lót bằng gỗ? Có lẽ là Phong Thủy chăng, vì nghe nói đất Singapore là đất Phong Thủy? Mọi người, mọi nhóm thay phiên nhau để chụp ảnh với con Sư Tử. Trước mặt, rồi sau lưng. Phía dưới là con sông, có thuyền chạy chầm chậm đưa du khách tham quan. Đối diện con Sư Tử là dãy nhà hình trái sầu riêng, và nhiều nhà cao tầng. Chụp ảnh góc nào cũng đẹp. Quanh đó tôi thấy có nhiều nhóm du khách, có lẽ khoảng vài trăm người, đủ thứ quốc tịch. Họ đến bằng xe bus hay xe của các tour.
Phụ Bản I Chụp ảnh chán chê, chúng tôi băng qua đường để về, và ghé chụp tiếp với mấy tượng đồng to hơn người thật được đặt trước mặt một Ngân hàng. Nhóm tượng có hình một người tây phương mặc complet ngồi quơ tay nói chuyện với một người mặc đồ Tàu, tóc tết đuôi sam và l người nữa, mặc áo, đội mũ kiểu Ấn Độ. Kế bên là tượng con trâu kéo cái xe, phía sau là hai người đang chuyền nhau cái bao để chất lên xe. Chúng tôi đi dài tới rồi ghé một tiệm Tàu để ăn trưa. Mỗi người gọi 1 chén cơm trắng. Cơm chỉ lưng lửng chén thôi mà giá 40 cents l chén. Hai đĩa thịt giá 8 đô 1 đĩa. Đĩa rau xào thì 7,5 đô. Nước uống 1,5 đô l chai. 5 người ăn kể cả nước uống là 30 đô. Tính ra cũng không đắt, vì đây là tiệm ăn bình dân, khách rất đông. Sau đó chúng tôi đi tới một trung tâm mua sắm. Theo cái nhìn của một người đã quá đát về thời trang của tôi thì quần áo ở khu mua sắm đó cũng không đẹp gì hơn ở các hàng hiệu tại VN. Ở một cửa hàng nọ, thấy giá đã giảm rồi mà từ 60 đến 100 cho l cái áo đầm. Một áo ngắn coi được thôi cũng khoảng từ 30 đến 40 đô Sing. Không có nhu cầu mua sắm nên mấy mẹ con tôi chỉ lướt qua các cửa hàng rồi kéo nhau về khu Tiểu Ấn. Dọc con phố buôn bán ở khu này rất nhiều cửa hàng bán vàng trưng bày nhiều món nữ trang bằng vàng 24 rất tinh xảo của người Ấn và đủ thứ quần áo, giày dép… Tôi đã đọc trên mạng thấy ở khu Tiểu Ấn có những chiếc đồng hồ thời trang cho tuổi trẻ, mẫu mã đẹp mà giá rất rẻ, có điều không biết chạy được bao lâu, giá 3 món là 10 đô Sing, nên cố ý đi tìm. Cuối cùng cũng gặp được, trong đó không chỉ bán đồng hồ, mà ví cầm tay, vòng đeo tay, bài Tây có hình cảnh của Singapore, móc khóa, hộp đựng nữ trang, đồ kỷ niệm có hình chú Sư Tử hay hình ảnh tiêu biểu của Singapore bằng thủy tinh hay bằng polymer. Các mặt hàng này giá dễ mua nên hấp dẫn du khách vì thế kẻ ra người vô tấp nập. Tôi cũng tranh thủ chọn mua mấy món về cho đám cháu. Rời khu Tiểu Ấn, sang bên đường là Siêu Thị Mustafa chiếm hết chiều dài của một con đường và có đến 3 tầng lầu. Siêu Thị này có đủ các mặt hàng mà theo nhiều người nhận định là trên trời dưới đất có gì thì Siêu Thị này đều có. Có nghĩa là thượng vàng, hạ cám không thiếu thứ gì, và phục vụ suốt 24/24. Máy lạnh trong Siêu Thị rất lạnh. Người mua đông đúc, kẻ ra người vô tấp nập. Hàng hóa tràn ngập, nếu không biết trước khu vực nào bày bán món hàng mình muốn tìm thì chắc là đi mệt xỉu! Thằng rể tôi dắt tôi lên lầu 3 để mua gạo. Trong đó bán đủ loại gạo thơm của Thái Lan, Malaysia, Ấn Độ, Nhật Bản. Tôi chọn gạo hột ngắn của Nhật vì con tôi đã ăn thử gạo thơm Thái thấy hơi cứng cơm nên không thích. Giá l bao 5k là 11.90, tính ra gần 40 ngàn đồng VN/kg. Có điều gạo dẻo và nở, hôm sau vẫn còn mềm. Tính từ lúc đi là 11 giờ trưa, đi 2 lần xe bus, vòng quanh chợ khoảng l tiếng và về đến nhà lúc 7 giờ tối thì thấy ngày đó chúng tôi đi bộ khoảng hơn 5 giờ đồng hồ, chắc cũng có đến 5, 6 cây số! Đó là chuyện chưa từng xảy ra với tôi, nhưng không hiểu sao tôi cũng làm được. Có lẽ vì bên Sing ngoài cuốc bộ thì không còn cách nào khác. Muốn đi xe bus hay xe điện thì phải theo tuyến, không phải như bên ta, bước ra đường là có xe ôm, chỉ cần bỏ ra vài chục ngàn là đi thoải mái, đường lớn, hẻm nhỏ nào cũng tới được. Hôm sau chúng tôi quyết định đi vườn thú Singapore. Qua hai chặng xe điện, băng qua đường, lên bờ, xuống ruộng mới đến trạm Ang Mokio rồi đi xe bus số 138 khoảng nửa tiếng là đến ngay cửa Vườn Thú. Vé vô cửa mất 20 đô cộng thêm vé đi xe để tham quan chung quanh vườn thú là 5 đô/người. Mọi người chỉ đi bộ khoảng vài trăm thước là có xe, xếp hàng chờ leo lên, xe chạy vòng vòng trong Sở thú. Con tôi cằn nhằn là bỏ ra mấy trăm ngàn để được thư giãn trong vườn và ngắm thú mà lại “cỡi xe xem thú” khác nào “cỡi ngựa xem hoa” thì thấy gì! Nhưng tôi nghĩ, đã đi bộ nguyên một buổi chiều hôm qua. Sở Thú thì rộng đến mấy chục mẫu. Trời lại bắt đầu chuyển mưa, nếu cứ đi bộ thì đến bao giờ cho xong! Hơn nữa, tôi nghĩ, nhưng cũng không tranh cãi với nó, là nếu mưa tới thì chỗ đâu mà núp? Thú lại chui vô hang hay bụi, có đứng đâu đó cho ta nhìn? Sở thú thì cả 3.000 loài và phải bỏ ra hết 400.000đ VN, chưa kể tiền đi xe bus, xe điện, mà tôi chỉ ở trong đó được 1 giờ và chỉ nhìn thấy vài con khỉ nhỏ xíu cỡ cườm tay, vài con két, hai con tê giác, một con hà mã, và một con khỉ to đu giây ra giữa đường. Khi xe chạy còn nhìn thấy mấy con ngựa vằn và ngang qua vườn cây nhiệt đới thấy có bụi chuối và vài trái bầu lủng lẳng! Chưa kể đi ngang qua chuồng voi hay chuồng con gì đó không biết - vì có rào cây xanh che chắn, nên không thấy bên trong - còn được thưởng thức mùi hôi khá nặng! Kết quả cuối cùng là khi xuống xe, vừa đi vừa chạy ra xếp hàng ngồi được lên xe bus thì trời cũng đổ mưa to xuống, xe chạy trong mưa và sấm chớp. Có lẽ tới lúc đó con tôi mới thấy quyết định ra về vội vàng của tôi là đúng. Thôi thì tự an ủi là đã chụp được vài tấm hình trước cửa vườn thú, kể như đã tham quan nơi đây rồi. Lẽ nào vì tiếc tiền đã mua vé mà ở lại cho mắc mưa, rủi bịnh thì sao? Dù trước lúc đi đã mua Bảo Hiểm, nhưng khi cần, lại ở xứ người thì mọi việc đâu có đơn giản. Cẩn thận vẫn hơn! Giá vé đi xem vườn thú Jurong không rẻ chút nào, nên trên mạng có người đã ghi lại 2 câu thơ Lục Bát: “Chưa đi chưa biết Jurong. Đi rồi mới thấy túi không còn tiền”! Nói về Tàu Điện Ngầm ở Singapore thì du khách nào cũng muốn đi cho biết, và thật ra không muốn cũng phải đi, vì đó là phương tiện nhanh và rẻ nhất, lại chạy khắp các tuyến đường Nam, Bắc, Đông, Tây trong Thành Phố. Trước hết là phải mua 1 cái thẻ tên Ez-link, giống như cái card điện thoại. Con tôi đã mua sẵn cho mỗi người l thẻ, vì thẻ này không thể dùng chung. Thẻ này dùng cho cả xe điện lẫn xe bus. Đi bằng xe điện thì bảng kiểm tra ở các cổng vô và ra. Đến cổng, áp cái thẻ vô bảng từ có hình cái thẻ, nó kêu lên tiếng tít, trên cổng hiện ra chữ Go và hai cánh gà tụt vô để cho đi qua. Khi ra, cũng áp thẻ vô bảng từ như thế. Máy sẽ tự động tính tiền chặng đường ta đã đi. Đi xe bus thì vừa bước lên xe có 2 bảng điện từ gắn ở 2 bên cửa, cứ áp thẻ vô cho nó kêu rồi vô tìm chỗ ngồi. Nếu đông quá thì chịu khó đứng. Muốn xuống trạm nào thì khi xe gần đến ấn vào nút màu đỏ trên hàng cột ở giữa xe. Đến trạm tài xế sẽ dừng. Khi xuống thì mọi người cũng tự động áp thẻ vô để tính tiền. Tài xế chẳng cần kiểm tra, vì nếu ai xuống mà không áp thẻ để tính tiền thì họ sẽ tính là người đó đi suốt tuyến rồi trừ vô thẻ thì thiệt ráng mà chịu! Muốn đi xe điện thì phải dùng cầu thang cuốn, vì xe điện nằm sâu dưới đất. Thang cuốn này chạy với tốc độ nhanh hơn thang ở Siêu Thị bên ta. Xe điện thì càng nhanh hơn. Bước lên xe, cửa đóng lại là lao đi vun vút, nhìn bên ngoài thấy hình ảnh mờ vút qua, chỉ ít phút là đến ga. Lúc chờ đợi cũng chỉ mất từ 5 - 7 phút. Người đi chỉ cần đứng ở trước một trong những cửa kính dọc theo hành lang để chờ, vì xe điện mở rất nhiều cửa. Xe ngừng thì bước vô. Có hai hàng ghế ngồi ở hai bên và hàng cột để vịn đứng ở giữa mà chúng tôi hay gọi là múa cột. Giờ cao điểm thì người lên xuống rất đông nên đa phần là phải đứng. Đôi khi gặp người lịch sự cũng nhường ghế cho. Trên xe có bảng điện tử chạy chữ màu đỏ báo cho biết trạm sắp đến, một mặt cũng thông báo bằng mấy thứ tiếng, trong đó có tiếng Anh. Đường hầm xe điện thì rất dài và sạch sẽ, có ga còn có người ăn mặc rất lịch sự đứng đó đờn, hát để ăn xin. Giờ ăn trưa thấy họ để nguyên đồ nghề đó đi đâu mất. Nếu ở VN ta chắc là chỉ có thể đi ăn l lần rồi bỏ nghề luôn, hoặc sau đó hát chay vài năm để sắm đồ nghề lại! Tôi không thuộc tip người hiện đại nhưng không hiểu vì sao lại cứ “hại điện”. Cùng mua thẻ bằng tiền mọi người. Cùng đi từng ấy trạm. Nhưng tôi cứ bị ách lại không cho qua cổng, phải đi vô khiếu nại rồi họ xem lại thấy còn tiền, bảo cứ đi tiếp thì mới ra đi được! Lần đầu họ bảo chắc là để thẻ chung với đồ gì đó bị nhiễm từ. Lần thứ nhì cũng còn tới gần 9 đô. Lần cuối thì kêu là hết tiền phải nạp thêm vô! Con tôi bảo chắc thấy mặt của mẹ trông giống “ú ớ Việt gian” nên máy nó ghét! Mọi người đều biết Singapore được mênh danh là thành phố sạch và xanh, sẽ bị phạt nặng khi vất rác hoặc tàn thuốc bừa bãi, nên du khách trước khi tới đó đều được cảnh báo. Nhưng không hiểu sao khi theo con tôi đến khu Hành Chánh trung tâm thì tôi thấy có cái bao không to tướng ở giữa đám cỏ ngay trước tòa nhà, và ngay giữa đường đi bộ dưới cầu cũng có l bọc gì khá to. Không biết tay nào mà liều thế! Đi dọc khu Tiểu Ấn tôi cũng thấy có người vừa đi vừa hút thuốc, sau đó bỏ tàn ở thùng đựng rác dọc theo đường đi. Trên đường đi chợ ở khu phố Tàu tôi vẫn nhìn thấy có vỏ lon nước ngọt, vỏ hộp thuốc lá và vài mẩu giấy nhỏ nằm vất vưởng. Lá thì rụng vô tư! Trong khi đó, ở những khu tôi đi qua bên Mỹ thì hoàn toàn không thấy một mẩu rác nào. Lá khô cũng không thấy. Điều tôi ghi nhận là ở Singapore cây xanh khá nhiều, đường vòng vèo nhưng không hề có ổ gà. Hai bên hông của những cầu vượt có trồng hoa, không chỉ trơ xi măng, nên nhìn không chán. Xe ở Sing thì tay lái nằm bên phải, lưu thông thì phía đường bên trái và chạy khá nhanh. Người đi bộ muốn qua đường thì phải ấn vô cái nút trên cột đèn rồi đứng chờ đến khi đèn có hình người đi bộ bật xanh lên thì xe cộ đều ngừng cho đi qua. Nếu đi ẩu thì bị phạt mà xe tông thì ráng chịu, vì đã có luật. Xe hai bánh rất ít, ngồi trên Taxi đi cả chục cây số đường chỉ thấy có l, 2 chiếc mô tô, và chạy nhanh không thua gì xe hơi. Khu trung tâm thì thấy đa phần là nhà cao tầng, kiểu dáng cao vút, có cái đến hơn 50 tầng, đứng gần không nhìn tới tầng cuối. Màu sắc thì xanh da trời và xám nhạt. Có dãy nhà cũng có màu, nhưng không phải là nhà cao tầng. Khu China Town nằm ngay một ga xe điện cùng tên, bước xuống là tới. Trong đó thấy có nhiều cửa hàng bán thuốc bắc, quần áo, bóp, đồ trang sức bằng bạc nguyên chất (không biết có nguyên chất thật hay không). Chúng tôi không có đi hết, và cũng ghé thử l cửa hàng bày đồ ngọc, thấy nhiều tượng và đồ vật bằng ngọc, nhưng màu xanh nhờ nhờ, giống nhựa nhiều hơn, không bóng, đẹp như ngọc tôi từng thấy ở VN, mà giá thì trên trời, món nào cũng đề giá bạc ngàn đô trở lên. Hay là bên ta bán là bột đá ép mà kêu là ngọc chăng? Cái đó thì chịu thua, chắc phải dành cho những nhà địa chất học đánh giá. Sentosa thì tôi không có đến, vì nghe nói đó là khu bán đồ cao cấp, ăn chơi, đánh bạc mà có ai đó đã làm thơ kiểu Bút Tre: “Chưa đi chưa biết Sento. Sà vô mới thấy tiền đô không còn”. Tôi cũng không có đi Vườn Thú Đêm vì không có hứng thú đi hàng mấy chục cây số để nhìn mấy cặp mắt sáng quắc của những con thú vào ban đêm, nhưng bị cấm không cho chụp ảnh. Night Safari này cũng là một phần của vườn thú, nhưng có xe đưa đón miễn phí. Nhiều người nói rằng Singapore là “Thiên đường mua sắm” với hàng trăm cửa hàng lớn nhỏ, vào các mùa sale thì khách du lịch khó mà cưỡng lại với đủ thứ mặt hàng được hạ giá từ 30 đến 70%. Nhưng thời điểm tôi sang thì không phải là mùa giảm giá. Bản thân tôi lại quá đát, chỉ mặc những bộ quần áo quê mùa tự đặt thợ may, đâu có hợp với những bộ trang phục thiết kế cho giới trẻ, nên có đến trung tâm thời trang cũng như không. Chẳng sắm được món gì. Sang đó cả tuần chỉ mua được vài cái đồng hồ dỏm và vài cái móc khóa. Con gái tôi cũng chỉ mua mỗi một phần mềm để chơi game cho con nó. Nhưng bù lại là chúng tôi chụp ảnh rất nhiều để ghi lại hình ảnh của một đất nước văn minh, giàu đẹp! Ra nước ngoài mới thấy Tàu có một môn võ công “vô cùng lợi hại”, “oai trấn thiên hạ” vô cùng hữu dụng, đi đâu cũng xài được. Thật vậy. Nếu đi Siêu Thị thì khỏi phải thắc mắc, vì mọi thứ đã xếp đặt. Thịt thì phân từ loại, vô bao, đóng gói sẵn. Muốn thứ nào, nhiều hay ít chỉ cần chọn lấy, rồi ra quầy tính tiền, khỏi cần nói tiếng nào. Quầy bán thịt heo của Tàu bên Sing thì cũng giống ở chợ của ta. Từng tảng thịt cỡ l, 2 ký được sắp ngay ngắn trên quầy. Tôi vừa ghé lại là anh Tàu bán thịt đã xí xô xí xào. Tiếng Anh thì tôi không biết nói thế nào là thịt đùi, thế nào là ba rọi. Thế là tôi bèn thi triển môn võ công “Nhất dương chỉ” rồi kèm theo đó là số cân lượng. Người bán chỉ việc cắt, cân rồi tính tiền. Nhanh, gọn, lẹ! Rồi còn có màn lạc đường nữa chứ. Lúc đi thì thấy dễ quá, từ nhà đi ra tới ngã tư, quẹo trái là đến chợ. Lúc ở chợ ra thì chẳng còn biết mình đi từ đâu để quay lại, vì lúc đi vô ý chẳng thèm nhớ coi mình đã băng qua đường tên gì. Cũng may mà còn nhớ tên đường ở khu nhà con gái tôi, bèn hỏi một cô người Ấn đang đi bộ. Cô chỉ cho tôi đi tới, rồi quẹo trái. Về nhà con tôi cười ngất. Nó nói cũng may là còn nhớ tên đường. Nếu không thì dù Bụt có hiện ra chắc cũng không thể chỉ cách nào cho về được! Hôm vừa qua tới thì thằng rể của tôi đã xem dự báo thời tiết cho tuần lễ đó. Nó cho biết là sẽ có mưa suốt mấy ngày! Tụi nhỏ hỡi ôi, vì mưa ở Singapore theo lời con tôi nói thì “thấy ghét lắm”. Mưa như trút nước và dai dẳng. Có khi suốt đêm chưa chịu thôi, còn leo qua tới hôm sau. Tôi tự an ủi: Biết đâu trời thương, vì “thánh nhân hay đãi kẽ khù khờ”. Chẳng lẽ lần đầu tới đây mà trời ghét đến độ không cho mình nhìn cho biết cái xứ sở nổi tiếng này? Mưa cứ dầm dề thì ở nhà còn chán đừng nói chi là đi tới đi lui. May quá, có lẽ trời cũng chiều lòng, nên chỉ gặp có l trận mưa khi đi Vườn Thú, còn ngoài ra thì nắng tốt, đi chơi, chụp hình thoải mái. Chuyến về thì đi bằng hãng máy bay Jetstar, sân bay Changi phía sang với những cửa hàng lớn bán mỹ phẩm, bóp, quần áo, rượu, đồng hồ đắt tiền. Nghe nói hàng mua ở đó miễn thuế, nhưng thử ghé mắt nhìn vô cái giá đã thấy không rẻ chút nào: Một thỏi son giá trên dưới 50 đô tùy loại. Chai Chanel No5 lúc trước tôi mua ở Mỹ chỉ có hơn 100 đô, tại đây giá hơn 160 đô! Có lẽ nơi đây mới bán đúng hàng xịn. Còn nhiều nơi ở Singapore nghe nói hàng giả cũng tràn lan. Cửa hàng nơi đây sang trọng, hàng hóa bày rất lịch sự. Phòng đợi ở phi trường tuy rộng thênh thang nhưng khá lạnh, tôi phải mặc áo dày mới chịu nổi. Mới tới sân bay đó lần đầu nên tới đâu cũng phải hỏi. Cuối cùng rồi cũng đến phòng chờ và sau 2 tiếng là về đến phi trường Tân Sơn Nhất. Một kinh nghiệm mà tôi thấy được khi qua Singapore, là chỉ cần biết tiếng Anh rồi lên mạng lục tìm thông tin của những người đã đi qua kể lại về giá cả và phong cách phục vụ của một số khách sạn, rồi tự tổ chức thành một nhóm, tự dắt nhau đi thì đỡ tốn hơn. Bản đồ giao thông bằng xe bus, xe điện đều có bán hoặc phát không. Cứ tìm rồi tham khảo. Ngoài những khách sạn đắt tiền cũng có phòng trọ nhiều giường, dành cho những khách du lịch ít tiền. Qua đó có nhiều tour du lịch địa phương. Nếu không thích đi với họ thì có những chuyến xe bus chuyên đưa đi tham quan 20 điểm nổi tiếng của thành phố. Giá hình như chỉ hơn 20 đô/người. Ngoài ra, còn có những chuyến xe bus miễn phí chuyên đưa khách đến những trung tâm mua sắm. Một kinh nghiệm nữa là các bạn nữ muốn du lịch Singapore nên quên đi giày cao gót, mà mang giày đế thấp để đi bộ, vì các trạm xe bus hay xe điện đều cách nhau khá xa. Siêu thị thì rộng lớn, đi vòng quanh để xem hàng bằng giày đế thấp cũng đủ mỏi cả chân. Muốn diện giày cao gót thì có nước đứng tại chỗ mà ngắm người qua lại! Ở Singapore cũng có những nơi bán đồ ăn rẻ hơn mua về nấu ở nhà. Chợ người Hoa có một hàng bán Mì khá ngon, giá chỉ 3 đô Sing/tô, nhưng số lượng có hạn, đi trễ là không còn. Người mua phải đứng xếp hàng, trong khi những tiệm gần đó thì thưa thớt, khách ngồi thoải mái! Một điểm son nữa cho Singapore là tiệm ăn có bảng giá rõ ràng, khách trong hay ngoài nước đều tính đúng giá, không có kỳ kèo, lấy giá khác so với lúc đưa ra như những tiệm ăn ở những điểm du lịch của nước ta. Người ăn xin ăn mặc nhếch nhác đi thành từng đám theo đeo bám níu kéo du khách cũng không hề thấy. Có lẽ những việc nho nhỏ như thế cũng góp phần làm cho Singapore thêm hấp dẫn du khách. Nước ở Singapore ở đâu cũng có thể uống vì đã được lọc sạch, nhưng nghe nói được lọc từ nước thải nên cũng thấy hơi ớn ớn... Nhưng không uống nước đó thì uống bằng gì? Bao nhiêu đó cũng thấy người Việt Nam mình hạnh phúc hơn nhiều! Trong sân bay cũng có chỗ để khách lấy nước để uống. Tôi không biết điều đó nên không mang chai hay ly theo, phải mua nước rất mắc, mỗi chai giá hơn 2 đô, uống không hết phải quăng vô thùng rác trước khi vô phòng kiểm tra hành lý. Trong khi đó, ngay trước phòng kiểm tra có bảng viết câu mà tôi nhớ loáng thoáng hình như là “bạn có thể lấy đầy chai sau khi kiểm tra an ninh”. Đọc thấy như thế những chẳng hiểu nói về cái gì. Vô trong mới thấy hóa ra hành khách đi máy bay có thể mang theo chai không. Hứng uống ở ngoài chán chê rồi trút bỏ hết nước đi. Sau khi kiểm tra hành lý xong, nếu khát thì cứ tới chỗ vòi nước được gắn ngay trong phòng chờ để hứng uống tiếp trong khi chờ lên máy bay! Chút kinh nghiệm đó mà tôi không biết nên tốn hết gần cả trăm ngàn đồng. Rõ là chuyện lớn chuyện nhỏ đều phải học! Đi đâu tốt đẹp mấy cũng không bằng về nhà. Nhưng tôi cứ suy nghĩ mãi, không hiểu vì sao một đất nước nhỏ bé, nằm chơ vơ ở đảo giữa biển như vậy mà lại phồn thịnh đến như thế. Họ hơn ta ở chỗ nào trong khi ban đầu họ còn phải nhập cả nước để uống? So sánh lại tôi thấy họ đâu có gì hơn ta? Phong cảnh thiên nhiên không có. Những nơi nổi tiếng mọi người đến tham quan, chụp ảnh toàn là nhân tạo, tại sao lại thu hút khách đến như thế? Phải chăng do nghệ thuật quảng cáo, máy bay giá rẻ, hàng hóa khuyến mãi theo mùa và không có những hiện tượng buôn bán chặt chém du khách, tuy nhỏ mà ảnh hưởng rất lớn làm cho du khách hoảng sợ không dám quay lại? Khu Tiểu Ấn, Sim Lim hay Siêu Thị cũng chỉ là những chỗ bán hàng, mà đa phần hàng hóa của họ đều phải nhập! Tài nguyên họ hoàn toàn không có. Chẳng có dầu lửa phun mỗi ngày hàng chục ngàn thùng. Cũng không có mỏ than, mỏ ngọc, mỏ vàng, rừng bao la và bãi biển dài cả mấy ngàn cây số mệnh danh là “Rừng vàng, biển bạc” như nước ta!. Đất của ta thì rộng. Thiên nhiên ưu đãi. Cây trái sum suê. Gạo thừa để xuất đi. Họ thì phải nhâp từng món, kể cả gạo! Rể tôi mua biếu cho tôi mấy gói Salonpas, mở ra xem hóa ra là của Việt Nam với giá gấp đôi bên nhà! Tiếng Anh của họ được gọi là Singlish, con tôi qua đó nghe không nổi, vậy mà người Việt ta, sang sang, có tiền một chút là phải qua đó học vài năm, với học phí cao ngất. Chỉ học Anh văn thôi, mà một khóa đã tới mấy ngàn đô, chưa kể chi phí ăn ở! Đại Học Quốc Gia (NUS) của họ đứng hàng thứ 20 trên thế giới, trong khi bằng Đại Học của ta chẳng có ma nào thèm ngó tới! Họ còn đa chủng tộc hơn ta, nào là Hoa, Ấn, Malaysia… không hiểu bằng cách nào chính quyền có thể phối hợp tất cả để cùng đưa đất nước họ trở thành một đất nước văn minh, hiện đại mà ai cũng phải nể? Quần áo, đồng hồ cao cấp, nước hoa, giày, bóp hiệu họ đều phải nhập từ nước ngoài về, tại sao ta không làm được như họ mà phải đổ xô qua đó để mua sắm? Con tôi kể: Ngay cả việc làm họ cũng dành ưu tiên cho công dân của họ. Ngoài những chuyên viên mà họ mời trả giá cao. Người nhập cư chỉ được quyền làm những việc hạ tiện mà dân họ không thèm làm, và phải có giấy phép mới được quyền làm việc. Luật lệ họ rất chặt chẽ. Nếu ai dám thuê mướn những người chưa có giấy phép thì bị phạt mấy ngàn đô, nên chẳng ai dại. Chẳng lẽ tất cả những điều đó đều nhờ vào Phong Thủy? Nếu không phải thì tại sao? Nước ta có cả mấy ngàn Tiến Sĩ (trong đó chắc cũng có một mớ Tiến Sĩ Giấy). Có rất nhiều vị mà quốc gia phải chi những số tiền khổng lồ để đưa đi đào tạo ở những nước văn minh nhất, giờ này đang ở đâu? làm gì? Lẽ nào không chút nao lòng khi thấy đất nước láng giềng tiến bộ vượt bậc? Cả nước họ chỉ lớn bằng cái đảo Cần Giờ của ta. Dân họ cũng chỉ có hơn 4 triệu, chưa bằng 1/20 dân số của ta! Vậy mà đầu óc nào? kế hoạch nào? Kinh phí ở đâu ra để làm cả một hệ thống xe điện ngầm hàng ngày phục vụ cả triệu lượt người dân nước họ đi lại với giá rẻ mạt, lên xuống chỉ tốn chưa đến 2 đô? Đầu óc họ có gì vĩ đại, khác thường chăng? Dân tộc ta đâu có ngu. Bằng chứng là bao nhiêu người ra nước ngoài học rất xuất sắc được mời ở lại làm việc, giữ những địa vị cao trong chính phủ nước ngoài. Những cuộc thi thố về Toán, về kỹ thuật với nước ngoài ta đều đạt thứ hạng đáng kể, tại sao ta cứ bình thản chấp nhận tụt hậu để rồi chỉ biết nhìn họ bằng cặp mắt thán phục? Điều gì đã cản trở để chúng ta không thể theo kịp họ? Tôi có đọc thấy trên mạng có một vị Tiến Sĩ nào đó của nước ta, sang Singapore nghiên cứu rồi về tuyên bố “thấy mà thèm”! Cao cỡ đó mà còn thèm thì người dân đen như ta còn thèm cỡ nào! Lẽ nào đến thời này chúng ta vẫn còn tin vào huyền thoại, còn mong chờ “Thánh Gióng” hay Bụt xuất hiện để đưa đất nước, dân tộc đi lên? Hay nếu Phong Thủy mà thật sự linh ứng. Nhờ đó mà Singapore trở thành một nước văn minh, giàu đẹp, hiện đại và uy tín như vậy, thì tôi tin rằng tất cả người dân trong nước ta đều sẽ đồng lòng chấp nhận hùn tiền để rước một Thầy cao cấp nhất tới trấn để ta cũng được như họ. Biết đâu nhờ đó mà trong tương lai con Rồng Việt sẽ giật mình thức dậy rồi bay cao, bay xa. Chừng đó Singapore trở lại ngưỡng mộ ta, như cách đây vài chục năm Thủ Tướng Lý Quang Diệu từng mơ ước được như ta thì sao? Tin giờ chót: Chúng ta khoan vội chuẩn bị tiền để mời chuyên gia Phong Thủy, dường như đó chỉ là hư chiêu để người dân an tâm mà làm ăn. Nhiều người cũng đã thắc mắc và tìm hiểu xem tại sao Singapore thành công, rồi đưa tin lên mạng để chúng ta cùng tham khảo. Cái chính là chinh phủ Singapore có chính sách đãi ngộ nhân tài với mức lương khủng. Trong khi lương Tổng thống Mỹ là 400.000 đô/năm. Thủ Tướng Anh 368.655 đô/năm. Bộ Trưởng 196.268 đô/năm. Thì Ở Singapore lương của Thủ Tướng là 2.050.000 đô/năm. Cấp Bộ Trưởng cũng có thể cao hơn 1.260.000 đô/năm. Lương như vậy thì phải làm việc hiệu quả như thế nào để giữ ghế chứ, có biết bao nhiêu kẻ dòm ngó, chờ cơ hội? Những nhân tài cấp thấp hơn cũng được mời đến, trả lương cao, cho người thân đến cùng sống và được cấp giấy phép định cư lâu dài và nhập quốc tịch Singapore chỉ trong vòng vài ngày. Cũng theo thông tin trên mạng, thì 99% hàng hóa còn được miễn thuế xuất nhập. Du học sinh cũng có quyền vay tiền để học rồi sau khi tốt nghiệp phải ở lại làm việc vài năm để trả nợ. Nếu Phong Thủy có thể “thế thiên hành đạo”, “chuyển xoay vận nước”, “biến nghèo thành giàu”, “biến lạc hậu thành văn minh”, thì chính phủ nước họ việc gì phải trải thảm đỏ mời nhân tài đến để làm gì cho hao tốn công quỹ. Đồng ý không, thưa quý vị? Tháng 3/2012 Tâm Nguyện CÓ MỘT CUỐN SÁCH NHƯ THẾ ĐÓ QUYỂN THƯỢNG Lm. Giuse NGUYỄN HỮU TRIẾT LỜI ĐẦU Loài người được Tạo Hóa tác thành hơn và khác loài vật ở chỗ có lý trí và tự do. "Tự do là khả năng biểu lộ ý chí, hành động theo ý muốn của mình" (Đại Tự điển tiếng Việt – Hà Nội 1999, trang 1762) , đây là quyền căn bản của mọi người. Có tự do thì cũng có trách nhiệm, nghĩa là có thưởng và phạt tùy theo lựa chọn đúng hay sai. Người viết tập này chỉ muốn trình bày sự thật mà mình đã cảm nghiệm, còn quý độc giả đồng tình hay không, hoặc đồng tình một phần nào thì hoàn toàn thuộc quyền tự do của quý vị. I. DẪN NHẬP 1. Thế giới sách Từ thời thượng cổ tới nay, thế giới có biết bao nhiêu là sách, không ai, không cơ quan nào có thể thống kê được. Các sách được sao chép, in ấn, phát hành và đã có mặt trong các tủ sách lớn nhỏ của cá nhân hay gia đình. Với những cộng đồng lớn như quốc gia, thành phố, vùng, miền, các cơ quan… thì sách được tập trung nơi các thư viện, từ thư viện cổ rất thời danh như thư viện Alexandria của cái nôi văn hóa Ai Cập (trước công nguyên), cho đến thư viện lớn nhất thế giới hiện nay là thư viện Quốc hội Mỹ, với hàng triệu đầu sách đủ loại. Trong các ngành của bậc đại học có hẳn một ngành về thủ thư, chuyên đào tạo những người làm công tác thư viện, cả đời tiếp cận sách vở. Nói về sự phong phú của sách, dù kỹ thuật in ấn chưa được phát minh, [mãi giữa thế kỷ 15, Gutenberg – người Đức (1400 – 1468) – mới phát minh ra máy in công nghiệp], thánh Gioan Tông Đồ của Chúa Giêsu vào thế kỷ I đã kết thúc sách Tin Mừng thứ Tư của ngài như sau: "Còn nhiều việc khác Chúa Giêsu đã làm mà nếu ghi chép lại tỉ mỉ từng việc một, thì tôi nghĩ thế giới này không đủ chỗ để chứa hết các sách phải viết ra" (Tin Mừng theo thánh Gioan, đoạn 21, câu 25). Trong thời bùng nổ thông tin, vi tính hiện nay và trong tương lai, sách điện tử đã ra đời, rất gọn nhẹ và vô cùng phong phú, đến nỗi mỗi cá nhân có thể sắm cho mình hàng chục, hàng trăm thư viện lớn, có sống đến trăm nghìn tuổi đọc cũng chưa hết sách. 2. Ảnh hưởng của sách "Sách là bạn, sách là thầy, sách là người hướng đạo", người ta thường nói về sách như thế – và đối với một số "mọt sách", thì sách còn là một cơn "cám dỗ" không thể cưỡng lại được. Rất nhiều bạn đọc đã thú nhận những lần lén đem sách truyện vào lớp học. L én đọc cả khi thầy cô giảng bài, có bạn quên cả ăn, cả ngủ, khi vớ được một cuốn sách hay. Người viết nhớ lại thời tiểu thuyết kiếm hiệp của tác giả Kim Dung chưa được in thành cuốn, mà đăng từng kỳ trên các báo, bạn đọc nôn nao chờ tới sáng hôm sau để mua báo, hôm nào mà vì lý do này nọ nhà báo tạm gác một kỳ, thì ôi thôi bà con bực bội, tiếc xót… "Hội chứng truyện chưởng Kim Dung" ở Sàigòn trước 1975. Khoảng năm 1960, tờ Dân Nguyện của ông chủ bút Hà Thành Thọ bỗng khởi đăng nhiều kỳ (feuilleton) cuốn tiểu thuyết võ hiệp Lam y nữ hiệp của Hồng Kông, một tác phẩm thuộc loại "tân trào võ hiệp tiểu thuyết" (danh từ của các nhà xuất bản Hồng Kông), nghĩa là nó khác với các loại "cựu trào" trước Chiến tranh thế giới thứ hai. Do mới và lạ, Lam y nữ hiệp được đông đảo độc giả đón nhận, khen hay, báo bán đắt như tôm tươi! Thấy "ngon ăn", một tờ báo khác vung tiền "mua đứt" dịch giả cuốn Lam y nữ hiệp, mời ông này dịch bộ Lã Mai Nương. Từ đó, truyện chưởng Hồng Kông bắt đầu bùng nổ trên báo chí miền Nam VN, khi cùng lúc xuất hiện hai dịch giả Tiền Phong (thường gọi là "Xìn Phoóng", tên Việt là Từ Khánh Phụng) ngoài 50 tuổi, người Minh Hương, và Tam Khôi (người gốc Hải Nam). Có thể khẳng định Từ tiên sinh là vị sứ giả đầu tiên đưa truyện chưởng Kim Dung đến Sàigòn qua bộ Bích huyết kiếm, còn Tam Khôi dịch bộ Anh hùng xạ điêu. Tờ Đồng Nai đăng nhiều kỳ truyện dịch của Tiền Phong (Cô gái Đồ Long), còn tờ Dân Việt khai thác tài dịch thuật của Tam Khôi, tờ Báo Mới đăng bộ Thần điêu đại hiệp và hàng chục tờ báo (trong số đó có một số nhật báo Hoa ngữ như Thành Công, Tân Văn Khoái báo, Luận Đàn Mới, Nhân Nhân, Quang Hoa, Á Châu, Kiến Quốc…) đua nhau đăng truyện chưởng. "Có báo sắp khai tử, nhờ đăng Cô gái Đồ Long mà hồi sinh mãnh liệt, lượng phát hành tăng vọt"! Tên truyện của Kim Dung được nhiều báo khai thác theo những cách khác nhau, như trường thiên tiểu thuyết Thiên long bát bộ, có báo đặt tên là A Tỷ Kiều Phong, báo thì đăng Lục mạch thần kiếm, có báo lại là Cô Tô Mộ Dung… Truyện chưởng (kiếm hiệp tân kỳ) đã làm cho nhiều người, nhất là thanh niên, say như điếu đổ, với những Võ lâm ngũ bá, Cô gái Đồ Long, Võ lâm tuyệt địa, Lưu Hương đạo soái, Tiếu ngạo giang hồ, Kiếm sĩ si tình, Giang hồ hiệp khách, Tướng cướp Liêu Đông, Lục mạch thần kiếm, Anh hùng xạ điêu, Thần điêu đại hiệp, Lộc Đỉnh Ký, Thiên long bát bộ… Từ Đài Loan, Hồng Kông, sách chưởng của những Mộ Dung Mỹ, Gia Cát Thanh Vân, Cổ Long, Ngọa Long Sinh, Nhược Minh, Nam Kim Thạch, Độc Cô Hồng, Điển Ca, Kim Dung, Trần Thanh Vân, Trần Trung Vân… tràn vào Sàigòn – Chợ Lớn qua tờ Minh Báo từ Hương Cảng (Hồng Kông), với hơn 30 nhà xuất bản (NXB) tranh nhau in truyện chưởng như An Hưng, An Thành, Bừng Sống, Đại Hưng, Đông Hưng, Đông Phương, Hương Hoa, Quyền Sống, Vui Sống, Vân Thành, Sông Hữu, Sông Xanh, Trung Thành, Trường Giang, Thành Phương, Thời Đại, Thế kỷ, Tổ Hợp Tiến, Tổ Hợp Sống… Có năm NXB in 5 bộ chưởng của Ngọa Long Sinh, trong đó có bộ dài tới 2.000 trang; có ít nhất 6 NXB in sách chưởng của Gia Cát Thanh Vân. Trong hơn 10 bộ sách chưởng của cây bút này, có bộ Tứ hải quần hùng dài hơn 1.300 trang, bộ Đoạt hồng kỳ dài hơn 1.500 trang. Không hề kém cạnh, sách chưởng của Cổ Long được 4 NXB in khoảng 11 bộ, cộng chung lại gần 40 tập, tròm trèm 13.000 trang! Nổi bật hơn cả là truyện chưởng Kim Dung, đạt mức kỷ lục: hơn 20 bộ, trong đó Cô gái Đồ Long, gồm 6 tập với 2.370 trang; Lục mạch thần kiếm (8 tập) cộng lại tới 2.400 trang; Anh hùng xạ điêu cũng 8 tập với 2.820 trang, còn Tiếu ngạo giang hồ có tới 15 tập với ngót 3.000 trang. Từ khi thể loại truyện chưởng tràn ngập Sàigòn – Chợ Lớn, lập tức xuất hiện một "guồng máy dịch thuật": Từ Khánh Vân, Từ Khánh Phụng, Thương Lang, Phan Cảnh Trung, Hàn Giang Nhạn, Phương Thảo, Khưu Văn, Dương Quân, Quần Ngọc, Lão Sơn Nhân, Điền Trung Tử, Lã Phi Khánh… Phan Cảnh Trung dịch ít nhất 10 bộ chưởng của 6 tác giả, in ở 5 NXB, trong đó chỉ từ năm 1969 đến 1973, riêng Thương Lan đã dịch không dưới 62 bộ chưởng của 5 tác giả, in ở 5 NXB khác nhau, còn Hàn Giang Nhạn thì dịch ít nhất 25 bộ truyện chưởng, in ở 5 NXB (riêng sách chưởng Kim Dung là 14 bộ gồm 102 tập với ngót 25.000 trang)! Đặc biệt, riêng bộ Ỷ thiên Đồ Long (tức Cô gái Đồ Long) của Kim Dung do Từ Khánh Phụng dịch (NXB Trung Thành – 1966) thu hút hàng trăm ngàn độc giả thuộc mọi tầng lớp. Bên cạnh việc tranh nhau phóng tác, in truyện chưởng, cải biên truyện chưởng thành truyện tranh, viết truyện chưởng… giả, người ta còn bày ra những cuộc đàm luận, tranh cãi, phân tích, phê bình truyện chưởng, thậm chí một số nhà văn, nhà thơ, nhà báo ghiền truyện kiếm hiệp đến độ đã không ngần ngại lấy tên các nhân vật võ lâm làm bút danh như Lê Tất Điều (Kiều Phong), Nguyên Sa (Hư Trúc), Chu Tử (Kha Trần Ác)… Các cao thủ võ lâm trong truyện chưởng Kim Dung như Lệnh Hồ Xung, Hoàng Dược Sư, Trương Vô Kỵ, Dương Quá, Đông Phương Bất Bại, Cửu Thiên Nhận, Âu Dương Phong, Vi Tiểu Bảo, Nhạc Bất Quần, Quách Tỉnh, Châu Bá Thông, Vương Trùng Dương… được giới trẻ coi như thần tượng, hoặc như những anh hùng hảo hán. Những tên nhân vật, chiêu thức võ công, ai cũng phải nằm lòng để không bị chê là… lạc hậu! Hai bộ chưởng Xác chết loạn giang hồ và Lệnh xé xác (dịch giả Lã Phi Khanh) luôn là vật bất ly thân, là sách "gối đầu giường" của không ít tay anh chị giang hồ thời đó. Chưa hết, từ khi truyện chưởng Kim Dung xuất hiện, khắp hang cùng ngõ hẹp ở Sàigòn – Chợ Lớn, đi đâu cũng nghe những "tiếng lóng" nhuộm màu sắc võ lâm như: "Thằng cha đó bị tẩu hỏa nhập ma"; "Cà chớn là tao cho một chưởng"; "Có cô gái Đồ Long lắc bầu cua, lắc một cái ra ba con gà mái"; "Gã đó chơi ma giáo"; "Cái bang đại hiệp"; "Ông này công phu thượng thừa, đao thương bất nhập" hoặc “Nhất dương chỉ, Nhị thiên đường, Tam Tông Miếu, Tứ đổ tường, Ngũ vị hương, Lục tào xá…”. Do sách, báo in tràn ngập truyện kiếm hiệp, đầy dẫy chiêu thức kỳ ảo, quái đản, bí hiểm như Ma Vân Chưởng, Hàn Băng Chưởng, Thất Thương Quyền, Hàm Mô Công, Giáng Long Thập Bát Chưởng, Nhất Dương Chỉ, Lăng Ba Vi Bộ… dẫn đến sự bùng nổ trào lưu thanh thiếu niên ùn ùn "tầm sư học đạo". Một số võ đường dạy võ cổ truyền đang lèo tèo dăm bảy môn sinh, bỗng chốc học trò kéo đến nườm nượp xin thọ giáo, thầy tha hồ hốt bạc. Một số lò võ còn trương bảng chiêu sinh thường kèm luôn mấy chữ "Thiếu Lâm, Nga Mi, Võ Đang, Côn Lôn" cho có màu sắc… kiếm hiệp! "Hội chứng truyện chưởng Kim Dung" ở miền Nam VN trước 1975 không chỉ mê hoặc bọn du đãng, cướp giật ở Sàigòn – Chợ Lớn mơ tưởng luyện thành tuyệt kỹ Bích hổ du tường (thằn lằn leo tường) nhằm dễ bề leo rào khoét vách, ôm mộng học được công phu Thủy thượng phiêu (chạy trên mặt nước) như nhân vật Cửu Thiên Nhận trong Anh hùng xạ điêu hòng thoát thân cho lẹ nếu chẳng may bị cảnh sát rượt, mà còn lan sang giới chính khách. Do quá nhập tâm truyện chưởng Kim Dung, lúc thảo luận, tranh luận, tọa đàm về đường lối kinh tế, ngoại giao, chính sách kinh tế, xã hội, an sinh… họ đều viện dẫn lý lẽ dựa trên các sự kiện, nhân vật… võ lâm trong truyện chưởng! Không chỉ "đi sâu vào thế giới Kim Dung", nhiều người còn bỏ công sức, tiền của tổ chức các buổi "loạn đàm" về tiểu thuyết võ hiệp Kim Dung và sản phẩm của họ không chỉ là các bài báo lẻ tẻ mà có khi là sách, là công trình chuyên khảo về truyện chưởng Kim Dung hẳn hoi như Vô Kỵ giữa chúng ta của Đỗ Long Vân (NXB Trình Bày – 1968); Nỗi băn khoăn của Kim Dung (Nguyễn Mộng Giác, NXB Văn Mới – 1972). Một vài hãng phim ở Sàigòn thấy đề tài kiếm hiệp "ngon ăn", vội nhảy vào khai thác; sau Báu kiếm rửa hận thù, xuất hiện phim Quái nữ Việt quyền đạo do hãng Mỹ Vân thực hiện (đạo diễn Lê Mộng Hoàng, kịch bản Lê Khanh) với bốn "quái nữ" gồm Thanh Nga, Lệ Hoa, Á hậu Ngọc Tuyết, Ngọc Dung cùng Thanh Việt, Văn Chung, Khả Năng, Thanh Hoài, Kim Ngọc, Kim Cúc, Năm Châu, chỉ đạo võ thuật: Lý Huỳnh; Long hổ sát đấu do hãng phim Cửu Long thực hiện (chỉ đạo võ thuật là võ sư Hồng Kông Hàn Anh Kiệt và Lý Huỳnh) với các nghệ sĩ Trần Quang, Hoàng Long, Việt Hùng, Bạch Lan Thanh, Ngọc Đan Thanh, Ba Vân, Lý Huỳnh… (Ngọc Thiện, báo Kiến Thức Ngày Nay số 778, trang 90-92,101) Chuyện sách vở trước 1975 có những lúc sinh động như thế. Hiện nay, dù tình hình sách in có bị sách điện tử lấn sân, nhưng cũng có lúc sôi động không kém, bằng chứng là Hội sách vừa qua với số thống kê thật phấn khởi: Một góc nhìn từ Hội sách: Hội sách Tp.HCM lần 7 – 2012 đã chính thức khai mạc tại công viên Lê Văn Tám vào lúc 19g30 ngày 19/3/2012 vừa qua. Đây là ngày chờ đợi của tất cả những người ham thích đọc sách già trẻ lớn bé, và cũng như mọi năm, người Sàigòn và các vùng lân cận đã có mặt ngay từ sáng sớm để tranh thủ dịp tha hồ được rảo qua một vòng các gian hàng bày bán sách trong một khuôn viên rộng lớn đến gần 6 hécta. Hội sách được tổ chức với quy mô lớn hơn nhiều so với những năm trước, có sự tham gia của 161 đơn vị với gần khoảng 500 gian hàng trưng bày đẹp đẽ, tập trung khoảng 200 ngàn tên sách với khoảng 20 triệu bản sách từ khắp nơi trên toàn quốc đổ về. Thông tin sơ khởi cho biết, chỉ trong ngày đầu tiên đã có tới hơn 80.000 lượt người đến xem. Cảm nhận đầu tiên là về sự phong phú và tính đa dạng của các thể loại – đề tài sách như một hình thức "trăm hoa đua nở", với đủ các loại sách từ tiểu thuyết giải trí hấp dẫn cho tới sách giáo khoa và các loại sách biên khảo khô khan về triết học, văn hóa, lịch sử,… cho thấy rõ chiều hướng phát triển mạnh mẽ và cơ bản là lành mạnh của ngành xuất bản Việt Nam hiện nay. Tính phong phú đa dạng về nội dung này chắc chắn sẽ còn giúp cho người Việt Nam gột rửa được dần dần những tập quán – tư tưởng lạc hậu lỗi thời trong quá khứ. Nói tới hội sách là nói tới mục đích tôn vinh nền văn hóa đọc, có được và trở thành truyền thống 2 năm một lần là nhờ thiện chí, sáng kiến, nỗ lực và tài tổ chức của một số người làm công việc xuất bản – phát hành sách trước đây, kể từ hội sách Tp.HCM lần đầu tiên năm 1998. Thói quen đọc sách (đã) bị suy giảm… con người ngày càng thực dụng và chụp giựt hơn trong nền kinh tế thị trường; đời sống kinh tế khó khăn; cách giáo dục nhồi nhét trong nhà trường từ tiểu học đến đại học (nhất là đại học) không khuyến khích sự tự học, tự nghiên cứu bằng việc đọc sách, đến mức độ ngay cả giáo viên đại học phần lớn cũng chỉ đọc quanh quẩn trong mấy cuốn "cẩm nang" để dạy… Ngoài ra, còn một lý do rất thời đại và chủ yếu, đó là việc đọc sách điện tử trên mạng Internet thay cho việc đọc sách trên giấy. Ngay như bộ bách khoa toàn thư nổi tiếng Encyclopaedia Britannica có bề dày lịch sử 244 năm của Anh cũng đang sắp bị khai tử vì lý do Internet với những website từ điển trực tuyến. Người ta nhận định rằng thời đại số hóa đã đẩy bộ bách khoa này cũng như nhiều loại sản phẩm in khác lùi về quá khứ. Trong một tình trạng bề ngoài có vẻ bi đát như vậy, sự thành công của Hội sách Tp.HCM lần 7 này dường như là một cố gắng chứng minh ngược lại, hết sức đáng được hoan nghênh. Bởi vì, trước mắt chứ chưa chắc lâu dài, nó chứng minh được nét đẹp trong nền văn hóa đọc của một dân tộc ngàn năm văn hiến, đồng thời cũng cho thấy người Sàigòn, trong bối cảnh cuộc sống khó khăn phức tạp, không ít người vẫn còn chịu tìm đến những cái hay cái đẹp trong sách vở, và vì thế vẫn còn nhiều hy vọng. (Xuân Huy, báo CG&DT số 1850, tr.9) Bế mạc hội sách Tp.HCM lần 7 – 2012: Bán hơn 4,8 triệu cuốn sách Tối qua 25/3, Hội sách Tp.HCM lần 7 - 2012 bế mạc sau một tuần hoạt động với tổng doanh thu 30 tỉ đồng, bán ra hơn 4,8 triệu cuốn sách và đón hơn 850.000 lượt người, đáng kể hai ngày cao điểm 24 và 25/3 có hơn 300.000 lượt bạn đọc tham quan và mua sách. So với hội sách lần thứ 6 (2010), lần này tổng doanh thu tăng 150%, tổng số lượng sách bán ra tăng 120%, tổng số lượt người tham dự tăng 20%. Các tựa sách bán chạy nhất thống kê vào giờ bế mạc là: 1. Ai và Ky ở xứ sở những con số tàng hình của Ngô Bảo Châu + Nguyễn Phương Văn: 10.000 cuốn 2. Cung đường vàng nắng của Dương Thụy: 7.000 cuốn 3. Tôi tài giỏi bạn cũng thế của Adam Khoo: 5.000 cuốn 4. Hồi ký Tâm "Sida" của Trương Thị Hồng Tâm: 5.000 cuốn 5. Đắc nhân tâm của Dale Carnegie, Trí Việt biên dịch: 4.000 cuốn 6. Ngược chiều vun vút của Joe Ruelle : 3.500 cuốn 7. Lolita của Vladimir Nabokov – Dương Tường dịch: 2.500 cuốn 8. Lá nằm trong lá của Nguyễn Nhật Ánh: 2.500 cuốn 9. Cho tôi xin một vé đi tuổi thơ của Nguyễn Nhật Ánh: 2.300 cuốn, NXB: Trẻ 10. Những thiên thần trên đường phố của Mã Thiện Đồng: 2.000 cuốn. Hội sách Tp.HCM lần thứ 8 sẽ tổ chức vào giữa năm 2014. (Giao Hưởng, báo Thanh Niên ngày 26/3/2012) Sách gần gũi, thân thương như vậy nên chắc chắn có ảnh hưởng lớn trong quá trình hình thành nhân cách của bạn đọc. Tục ngữ Việt Nam có câu "Ở bầu thì tròn, ở ống thì dài ", tiếp cận hay sống trong môi trường văn hóa nào thì sẽ hình thành nhân cách theo những nét văn hóa đó mà sách tốt chính là văn hóa phi vật thể. Người ta cũng nói: "Anh cho tôi biết anh đọc sách nào, tôi sẽ cho anh biết anh là ai ". Như vậy thì không ai có thể phủ nhận ảnh hưởng của sách trên người đọc. Có điều đáng tiếc là không phải tất cả các sách đều đúng đắn, chính xác và tốt lành cả. Bên cạnh những sách tốt, luôn luôn có mặt những sách xấu xa, lệch lạc mà chúng ta gọi chung là những tác phẩm đồi trụy. Giống như câu chuyện dụ ngôn về lúa và cỏ lùng trong Thánh Kinh Tân Ước: "Chúa Giêsu lại dạy một dụ ngôn khác mà rằng: Nước Trời giống như người kia gieo giống tốt trong ruộng mình, nhưng lúc mọi người ngủ thì có kẻ thù đến gieo cỏ lùng lẫn với lúa rồi đi. Khi lúa lớn và trổ bông thì cỏ lùng cũng xuất hiện… " (Tin Mừng theo thánh Mátthêu, đoạn 13, câu 24-26). Tình trạng "vàng thau lẫn lộn" của thị trường sách là điều khó tránh khỏi, vì "bá nhân bá tánh", mỗi tác giả có những hiểu biết khác nhau, có những cảm nhận khác nhau, có những chủ trương khác nhau, tất cả những cái đó đều được thể hiện trên những tác phẩm họ phổ biến: "văn tức là người". Một điều đáng nói nữa là kẻ viết ra một đàng, người áp dụng nó lại vận dụng vào lối khác dẫn tới những hậu quả nghiêm trọng ngoài ý muốn của người viết. Ai biết "gạn đục khơi trong" thì sẽ thành người tốt, còn ai để cho những tư tưởng lệch lạc, xấu xa cuốn hút, thì sẽ trở thành người xấu. Adolf Hitler (1889-1945), Quốc trưởng Đức Quốc Xã, đã chịu ảnh hưởng sâu đậm từ thuyết siêu nhân của triết gia Friedrich Nietzsche (1844-1900), nên đã gây ra thế chiến thứ II vô cùng khốc liệt (67 triệu người chết, hàng trăm triệu người bị thương tật, cơ sở vật chất bị tàn phá không thể tính nổi…). Bên cạnh những ảnh hưởng tiêu cực như trên, thì cũng có muôn vàn bằng chứng về ảnh hưởng tích cực từ một cuốn sách. Ignatiô Loyola là một thí dụ điển hình: Ông là một sĩ quan thuộc giới quý tộc Tây Ban Nha thời trung cổ (thế kỷ 16) – Trong một trận chiến với quân Pháp, ông bị thương nặng, phải nằm viện. Để giết thời gian, ông sai cận vệ về lấy sách cho ông đọc, tên cận vệ đã đem cho ông cuốn "La Vie de Jésus", ông đã đọc đi đọc lại, bởi vì ông bị cuốn hút bởi nhân vật Jésus Christ – cuối cùng khi xuất viện, ông đã bỏ binh nghiệp, đi tu làm môn đệ Chúa Giêsu và sáng lập Dòng Tên (Jesuites), đi truyền giáo khắp thế giới. Chúng ta cũng không thể không nhắc tới những cuốn sách làm đảo lộn thế giới. Một loạt Harry Potter của nhà văn nữ 46 tuổi, người nước Anh – J.K Rowling, đã khiến hàng triệu thanh thiếu niên trên thế giới thất điên bát đảo, có những bạn trẻ thức dậy từ 3, 4 giờ sáng tới địa điểm phát hành, xếp hàng từ tinh mơ, chờ 5, 7 tiếng đồng hồ để sở hữu 1 cuốn Harry Potter mới phát hành. Báo Thanh Niên ngày 26/2/2012 đưa tin, bà J.K Rowling sắp ra mắt tác phẩm mới, bà nói: "…như món quà đáp lại thành công của Harry Potter đã mang lại cho tôi" (Đ.T theo Reuters – Báo Thanh Niên 26/2/2012). Lùi xa hơn một chút, vào cuối thế kỷ 19, bùng nổ trái bom: "thuyết Tiến Hóa", manh nha từ tác phẩm "La Philosophia Zoologique – (1809)" của Jean Baptista La Marck (Pháp, 1744-1829), và được đẩy mạnh bởi "tên lửa" Charles Robert Darwin (Anh, 1809-1882), với tác phẩm "đình đám" De L'Origine des espèces par voie de Sélection naturelle" (1859) – (On the Origin of species). Dư chấn của những tác phẩm này vẫn còn tới ngày nay. Karl Marx, triết gia, chính trị gia Đức (1818-1883) với tác phẩm "Đinh": Le Capital (1867). Hậu quả hiển nhiên của những tác phẩm trên là thế giới bị phân cực đối lập nhau: duy tâm và duy vật, chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa cộng sản như chúng ta thấy hiện nay. Chúng ta chiêm nghiệm những cuốn sách có ảnh hưởng lớn hơn, rộng rãi hơn, xa xưa nữa và sức bền chắc chắn sẽ lâu dài hơn nữa – đó là những bộ sách làm cơ sở, căn bản cho những tôn giáo lớn trên thế giới: - Bộ Đạo Đức Kinh của Lão giáo. - Bộ Tam Tạng của Phật giáo. - Bộ Tứ Thư, Ngũ Kinh của Khổng giáo. - Bộ Veda của Ấn giáo. - Bộ Koran của Hồi giáo. - Và bộ Thánh Kinh của Công giáo cũng như của Do Thái giáo, Chính Thống giáo, Anh giáo và các hệ Tin Lành giáo. Xin minh định trước là đối với những tác phẩm trên, người viết chỉ ghi nhận dưới khía cạnh hiện tượng xã hội và văn hóa, còn việc nhận định, lượng giá thì khách quan thuộc thẩm quyền của các vị lãnh đạo tối cao các tôn giáo, hoặc chính tác giả hay những nhà phê bình uyên bác và uy tín, chủ quan là do đức tin, lý trí phân biện sắc bén, lương tâm ngay thẳng, trong sáng và cảm nhận của mỗi người, không thể có sự áp đặt dù trên phương diện tư tưởng thuần túy. II. NHỮNG BỘ KINH VĨ ĐẠI A. LÃO TỬ ĐẠO ĐỨC KINH Tên bộ sách khoảng 5000 chữ tương truyền do Lão Tử viết để lại trước khi đi ở ẩn. Kinh này viết thành chương, dài, ngắn, nhiều, ít không đều nhau. Lời rất súc tích, uyên thâm, trình bày tư tưởng triết học của Lão Tử. Có thể nói đây là hệ thống triết học Trung Quốc đầu tiên – khoảng giữa đời Xuân Thu và Chiến Quốc, bàn về bản thể của vũ trụ và vạn vật, được Lão Tử gọi là Đạo. Đạo là nguyên lý sinh ra vũ trụ và vạn vật theo những quy luật có tính biện chứng: âm dương, động tĩnh, cương nhu, lớn nhỏ… như thế, con người muốn sống tốt đẹp phải hòa đồng với Đạo, nghĩa là không chống lại trật tự thiên nhiên bằng thái độ vô vi thanh tĩnh, khác với tư tưởng hữu vi của Khổng giáo, có tính cách can thiệp vào diễn biến tự nhiên của vũ trụ và nhân sinh, chỉ gây ra tác động ảnh hưởng tới thực tại sống mà thôi. Tuy nhiên, do văn từ của Lão Tử Đạo Đức kinh rất uyên ảo, nên đời sau có nhiều diễn giải khác biệt về tư tưởng của Lão Tử, đẩy đến những suy diễn có tính tiêu cực và thụ động, có thể không thích hợp cho đà tiến bộ của con người. (Nguyễn Văn Thoa, giáo sư Hán Nôm, viết theo tự điển Từ Hải) B. TAM TẠNG KINH ĐIỂN Trong 49 năm truyền giảng con đường giải thoát, Đức Phật thu nhận rất nhiều đệ tử, có người xuất gia theo ngài và lập thành Tăng đoàn (Sangha), có người cũng còn tại gia, gọi là các cư sĩ. Vùng truyền giáo của ngài là vùng Đông Bắc Ấn Độ giáp biên giới xứ Nepal, dọc theo các nhánh sông thượng nguồn sông Gange (Hằng hà) [1, 2, 3]. Ngài thường được gọi là Đức Phật Cồ Đàm (Buddha Gotama). Chữ "Phật" là tiếng gọi tắt của "Phật Đà", phiên âm từ chữ Phạn "Buddha" - người bình dân Việt Nam có nơi gọi là ông Bụt - nghĩa là người đã giác ngộ (Giác Giả). Trong các kinh sách ghi lại, ngài thường tự gọi mình là Tagatatha (Như Lai). Ngài có rất nhiều đệ tử từ các quốc gia trong vùng, gồm đủ mọi thành phần trong xã hội, lứa tuổi, nam nữ, và từ nhiều nguồn gốc tín ngưỡng khác nhau. Đức Phật đã để lại một kho tàng quý giá gồm nhiều bài thuyết giảng (Kinh, Sutta), thường được gọi tổng quát là "tám vạn bốn ngàn" pháp môn, trong nhiều dịp giảng dạy cho hàng đệ tử, bậc hiền nhân quân tử, cư sĩ,... Với sự phát triển và bành trướng của Tăng đoàn, Ngài đặt ra nhiều giới luật để tạo điều kiện thuận lợi trong công tác tu tập (Vinaya, Giới). Ngoài ra còn nhiều bài giảng đặc biệt khác mà về sau nầy được đúc kết lại trong bộ A Tỳ Đàm (Abhidhamma). · Tam Tạng Kinh Điển "Tạng" hay "Tàng" là giỏ chứa, chỗ chứa, tiếng Pali gọi là Pitaka. Ngày xưa tại các chùa lớn thường có một thư viện gọi là "Tàng Kinh Các" để lưu trữ các bộ kinh quý. Tam Tạng theo tiếng Pali gọi là Tipitaka, Ba Giỏ Chứa (The Three Baskets), gồm có Luật Tạng (Vinaya Pitaka), Kinh Tạng (Sutta Pitaka), và Thắng Pháp Tạng (Abhidhamma Pitaka, còn gọi là Vi Diệu Pháp, hay Luận Tạng). Sau đây là sơ lược về các tạng nầy: 1. Luật Tạng (Vinaya Pitaka) Tạng nầy bao gồm các giới luật và nghi lễ cho nam tu sĩ (Bhikkhu, Tỳ khưu) và nữ tu sĩ (Bhikkhuni, Tỳ khưu ni), cách thức gia nhập tăng đoàn, truyền giới luật, sinh hoạt tăng chúng, cách hành xử trong các trường hợp vi phạm giới luật,… Tạng nầy thường được chia làm 5 bộ [1, 7]: a. Ba-la-di (Parajika), b. Ba-dật-đề (Pacittiya), c. Đại Phẩm (Mahavagga), d. Tiểu Phẩm (Cullavagga), và e. Toát Yếu (Parivara). 2. Kinh Tạng (Sutta Pitaka) Gồm 5 bộ chính (Nikaya): Trường Bộ (Digha Nikaya), Trung Bộ (Majjhima Nikaya), Tương Ưng Bộ (Samyutta Nikaya), Tăng Chi Bộ (Anguttara Nikaya), và Tiểu Bộ (Khuddaka Nikaya). Trong hệ Sanskrit (Bắc Phạn), các bộ nầy được gọi là các bộ A Hàm (Agamas). Tuy nhiên, các bộ A Hàm nguyên thủy đã bị thất lạc và chỉ còn tìm thấy các bản kinh tiếng Sanskrit rời rạc, mà hiện nay chỉ còn các bộ Hán dịch từ nhiều nguồn gốc bộ phái và qua nhiều đời khác nhau [6]. a. Trường Bộ là tập hợp các bài kinh dài, gồm 34 bài kinh, đã được dịch sang Việt ngữ, trong đó có hai quyển phổ thông nhất: Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha Parinibanna Sutta) và Kinh Đại Quán Niệm (Maha Satipattana Sutta). Ngoài các bài thuyết giảng của Đức Phật, Bộ nầy cũng có các bài giảng của Đại Đức Sariputta (Xá Lợi Phất), vị đệ tử hàng đầu có tài thuyết giảng hùng biện nhất thời đó, và các vị đệ tử nổi tiếng khác. b. Trung Bộ gồm có 152 bài kinh sắp xếp trong 15 phẩm, theo từng chủ đề. Bộ kinh nầy rất phổ thông trong giới Phật tử sử dụng Anh ngữ và cũng đã được dịch sang Việt ngữ. Bản dịch Anh ngữ được hiệu chỉnh nhiều lần, và bản dịch mới nhất đã được hội Buddhist Publication Society, Tích Lan, xuất bản năm 1995. Các bài kinh quan trọng thường có liên quan đến phép hành thiền quán niệm (Satipattana Sutta), chính kiến (Sammaditthi), cách tịnh tâm (Kakacupama), cuộc đời Đức Phật (Ariyaparyesana), tứ diệu đế (Mahahatthipadopama), không tính (Culasunnata), quán niệm hơi thở (Anapanasati),... Có thể nói đây là một bộ kinh quan trọng nhất, bao gồm các bài giảng thiết yếu trên đường tu tập, thực hành lời Phật dạy. c. Tương Ưng Bộ gồm 2.889 bài kinh ngắn, chia làm 5 chương và 56 phẩm. Đây là tập hợp các bài kinh có chủ đề giống nhau về một điểm thảo luận, hoặc về một nhân vật nào đó trong thời Đức Phật. Có những bài giảng quan trọng về 12 nhân duyên và về 37 phần bồ đề (37 phẩm trợ đạo). d. Tăng Chi Bộ là bộ kinh dựa theo cách sắp xếp số học (pháp số), từ các chủ đề có liên quan đến 1 phần tử, 1 yếu tố, dần dần lên đến các chủ đề có 11 phần tử hay yếu tố. Vì vậy, bộ kinh được chia làm 11 chương, gồm 2.308 bài kinh. e. Tiểu Bộ thật ra không phải là bộ sách nhỏ, mà là tập hợp 15 bộ sách nhỏ: - Tiểu Tụng, Khuddaka Patha - Pháp Cú, Dhammapada - Phật Tự Thuyết, Udana - Như Thị Ngữ (Phật Thuyết Như Vậy), Itivuttaka - Kinh Tập, Sutta Nipata - Thiên Cung Sự, Vimana Vatthu - Ngạ Quỷ Sự, Peta Vatthu - Trưởng Lão Tăng Kệ, Theragatha - Trưởng Lão Ni Kệ, Therigatha - Bổn Sanh, Jataka - Nghĩa Thích, Niddesa - Vô Ngại Giải Đạo, Patisambhidamagga - Thí Dụ, Apadana - Phật Sử, Buddhavamsa - Sở Hạnh Tạng, Cariya Pitaka 3. Thắng Pháp Tạng (Abhidhamma Pitaka) Còn gọi là Vi Diệu Pháp hay Luận Tạng, đây là tập hợp các bài giảng của Đức Phật về thể tính và sự tướng của vạn pháp, phân giải triết học và tâm lý học. Thắng Pháp Tạng gồm có 7 quyển: a. Pháp Tụ (Dhammasangani) b. Phân Biệt (Vibhanga) c. Giới Thuyết (Dhatukatha) d. Nhân Thi Thiết (Puggala Pannatti) e. Biện Giải (Kathavathu) f. Song Luận (Yamaka) g. Nhân Duyên thuyết (Patthana). 4. Các thánh điển trọng yếu khác : Ngoài Tam Tạng Kinh Điển còn có các bộ Chú Giải, Phụ Chú Giải Kinh Điển và một số các tác phẩm Pali quan trọng khác cũng được học tập và lưu truyền cho đến ngày nay: a. Đảo Sử (Dipavamsa) b. Đại Sử (Mahavamsa) c. Tiểu Sử (Culavamsa) d. Mi Lan Đa vấn đạo (Milindapanha) e. Thanh tịnh đạo luận (Visuddhi Magga) f. Thắng pháp tập yếu luận (Abhidhammattha Sanghaha) · Đại Tạng Việt Ngữ Mặc dù Phật Giáo là một tôn giáo lớn ở Việt Nam và đã có mặt lâu đời tại đất nước ta trên 18 thế kỷ, cho đến nay chúng ta vẫn chưa có một bộ Tam Tạng đầy đủ bằng chữ Việt. Điều nầy đã được ghi nhận từ đầu thập niên 1950 [5], mà đã 40 năm qua, công tác dịch thuật vẫn chưa hoàn tất. Thật ra, công trình dịch thuật sang chữ quốc ngữ từ các kinh điển Hán tạng bắt đầu trong thập niên 1930 với nhiều vị danh tăng và học giả trong các phong trào phục hưng Phật Giáo và chấn hưng Phật học [11]. Một chương trình phiên dịch và ấn hành Đại Tạng Kinh Việt Nam đã được tiến hành trở lại từ năm 1989, dựa trên các bộ chữ Pali và chữ Hán. Đến nay (1998), Viện Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam đã phát hành Trường Bộ (Trường A Hàm), Trung Bộ (Trung A Hàm), Tương Ưng Bộ (Tạp A Hàm), Tăng Chi Bộ (Tăng Nhất A Hàm) bằng Việt ngữ, cùng với các quyển trong Tiểu Bộ: Kinh Tập, Pháp Cú, Như Thị Ngữ, Phật Tự Thuyết, Trưởng Lão tăng Kệ, Trưởng Lão Ni Kệ, Bổn Sanh,… Hệ phái Nguyên Thủy (Nam Tông) Việt Nam đã ấn hành các bộ Vi Diệu Pháp do Hòa thượng Tịnh Sự dịch. Bộ Luật cơ bản đã được dịch từ các bản chữ Hán (Luật Tứ Phần Giới Bổn Như Thích, HT Hành Trụ dịch). Các quyển Thanh Tịnh Đạo (Ni sư Trí Hải dịch), Thắng Pháp Tập Yếu Luận (HT Minh Châu dịch) và Mi Lan Đa Vấn Đạo (Mi Tiên Vấn Đáp, HT Giới Nghiêm dịch) cũng đã được xuất bản trong những năm gần đây. Thêm vào đó, vào cuối năm 2005, Tỳ khưu Indacanda đã hoàn tất công tác dịch thuật toàn bộ Tạng Luật từ nguồn Pali. *** Ghi chú : Toàn bộ kinh điển Pali ngữ và bản dịch Anh ngữ đã được Hội Kinh Điển Pali (Pali Text Society) lần lượt xuất bản trong 100 năm qua. Xin xem bài giới thiệu bằng Anh ngữ tại : http://zencomp.com/greatwisdom/ebud/ebsut 028.htm Tham Khảo : [1] Narada Mahathera (1980), The Buddha and His Teachings, Buddhist Publication Society, Sri Lanka (Đức Phật và Phật Pháp, bản dịch Việt ngữ của Phạm Kim Khánh) [2] Thích Nhất Hạnh (1992), Đường Xưa Mây Trắng, Lá Bối, France [3] Sister Vijira and Francis Story (1988), The Maha Parinibbana Sutta, Buddhist Publication Society, Sri Lanka [4] Bodhesako (1984), Beginnings: The Pali Suttas, Buddhist Publication Society, Sri Lanka [5] Thích Đức Nhuận (1983), Phật Học Tinh Hoa, Phật Học Viện Quốc Tế, USA [6] Christmas Humprhey (1962), Buddhism, Penguin Books, UK [7] Russell Webb (1991), An Analysis of The Pali Canon, Buddhist Publication Society, Sri Lanka [8] Thích Chơn Thiện (1991), Tăng Già Thời Đức Phật, Viện Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam, Vietnam [9] Phạm Kim Khánh (1997), Hành Hương Xứ Phật, Trung Tâm Narada, Seatle, USA [10] H.W. Schuman, The Historical Buddha (Đức Phật Lịch Sử, bản dịch Việt ngữ của Trần Phương Lan, Viện Nghiên Cứu Phật Học, Sài Gòn, 1997). [11] Nguyễn Lang (1985), Việt Nam Phật Giáo Sử Luận, Tập 3, Lá Bối, France. (Tài liệu từ Internet : Bình Anson, Mùa Phật Đản 1995, Perth, Western Australia. Bổ sung tháng 4/2006) Phụ chú : KINH ĐIỂN ĐẠI THỪA (MAHAYANA, BẮC TÔNG) Kinh điển Đại Thừa xuất hiện về sau nầy, vào khoảng đầu Công nguyên (CN) – 300 đến 700 năm sau ngày Phật nhập Đại Niết bàn, không rõ nguồn gốc xuất xứ với nhiều giả thuyết khác nhau, không biết do ai kết tập vào thời kỳ nào, ban đầu là vài bộ kinh ngắn rồi dần dà xuất hiện các bộ lớn hơn với văn phong không đồng nhất, và ngày nay cũng không còn nguyên bản trọn vẹn. Một số đã được dịch sang chữ Hán và chữ Tây Tạng qua nhiều thời kỳ khác nhau bởi nhiều dịch giả thuộc những tông phái khác nhau, và được lưu truyền đến ngày nay. Một số kinh điển Hán tự khác thì lại không có nguồn gốc rõ ràng, mặc dù lấy danh là lời Phật dạy nhưng có lẽ đã được trước tác tại Trung Hoa trong thời kỳ Phật giáo mới được phát triển tại đó. Kinh điển Đại Thừa là một tập hợp các bài giảng của Đức Phật, các luận giải của tăng sĩ, và ngữ lục của các tổ sư. Ngoài tạng Luật – trên cơ bản rất tương tự với tạng Luật Pali, còn có tạng Kinh gồm có các bộ A Hàm – dịch thuật từ nhiều nguồn khác nhau – và các kinh điển mới, và tạng Luận gồm các tác phẩm chú giải và luận thuyết của các vị tăng sĩ Đại thừa về sau nầy. Có thể nói tính đa dạng và phong phú của kinh điển Đại thừa là kết quả của một sự dung nạp hỗn độn, không có hệ thống và tiêu chuẩn rõ ràng, các tài liệu về Phật giáo – hoặc có vẻ mang tính cách Phật giáo nhưng lại pha trộn các giáo thuyết khác – xuất hiện rải rác trong các thế kỷ đầu Công nguyên trong thời kỳ hình thành tông phái nầy. Dưới đây là liệt kê sơ lược danh sách kinh điển Phật Giáo Đại Thừa [a,b]: ----------------------- [a] Giác Ngộ, số 126, tháng 08/1998. [b] Thích Thanh Kiểm, 1995. Lược sử Phật giáo Ấn độ.
Phụ Bản II 1. Trước thời Long Thọ (Nagarjuna, sơ tổ của Đại thừa Phật giáo, thế kỷ III CN): - Kinh Đại Phẩm Bát Nhã - Kinh Tiểu Phẩm Bát Nhã - Kinh Diệu Pháp Liên Hoa - Kinh Hoa Nghiêm - Kinh Đại Vô Lượng Thọ - Kinh Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội - Kinh Duy Ma Cật Trước tác của Ngài Mã Minh (Asvaghosa, đầu Công nguyên): - Phật Sở Hạnh Tán - Đại Trang Nghiêm Luận - Thập Bất Thiện Nghiệp Đạo - Lục Thú Luân Hồi - Sự Sư Pháp Ngũ Thập Tụng - Ni Kiền Tử Vấn Vô Ngã Nghĩa - Đại Tôn Địa Huyền Văn Bản Luận - Đại Thừa Khởi Tín Luận 2. Thời Long Thọ (Nagarjuna), Đề Bà (Deva), Bạt Đà La (Bhadra): 2.1 Ngài Long Thọ trước tác nhiều bộ luận, nhưng dịch sang Hán gồm: - Trung Quán Luận - Bồ Đề Tâm Ly Tướng Luận - Thập Nhị Môn Luận - Hồi Tránh Luận - Đại Trí Độ Luận - Phương Tiện Tâm Luận - Thập Trụ Tỳ Bà Sa luận - Khuyến Phát Chư Vương Yếu Kệ - Thập Bát Không Luận - Tán Pháp Giới Tụng - Đại Thừa Phá Hữu Luận - Quảng Đại Phát Nguyện Tụng - Bồ Đề Tư Lương Luận 2.2 Ngài Đề Bà trước tác: - Bách Luận - Bách Tự Luận - Quảng Bách Luận 2.3 Ngài Bạt Đà La trước tác: - Chú Thích Trung Luận 3. Sau thời Long Thọ : - Kinh Thắng Man - Kinh Giải Thâm Mật - Kinh Đại Bát Niết Bàn (Đại thừa Niết Bàn) - Kinh Lăng Già 4. Thời Vô Trước (Asanga, thế kỷ IV-V CN): 4.1 Trước tác của Ngài Di Lặc (Maitreya): - Du Già Sư Địa Luận - Đại Thừa Trang Nghiêm Kinh Luận - Thập Địa Kinh Luận - Trung Biên Phân Biệt Luận 4.2 Trước tác của Ngài Vô Trước (Asanga): - Hiển Dương Thánh Giáo Luận - Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật Đa Kinh Luận - Nhiếp Đại Thừa Luận - Thuận Trung Luận - Đại Thừa A Tỳ Đạt Ma Tạp Luận 4.3 Trước tác của Ngài Thế Thân (Vasubandhu) thì rất nhiều, nhưng các bộ sau đây đã dịch sang Hán: - A Tỳ Đạt Ma Câu Xá Luận - Nhiếp Đại Thừa Luận Thích - A Tỳ Đạt Ma Câu Xá Bản Tụng - Thập Địa Kinh Luận - Duy Thức Tam Thập Tụng - Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Ưu Bà Đề Xá - Duy Thức Nhị Thập Tụng - Vô Lượng Thọ kinh Ưu Bà Đề Xá - Đại Thừa Bách Pháp Minh Môn Luận - Chuyển Pháp Luân Ưu Bà Đề Xá - Đại Thừa Ngũ Uẩn Luận - Kim Cương Bái Nhã Ba La Mật Kinh Luận - Phật Tính Luận - Lục Môn Giáo Thọ Tập Định Luận (Tài liệu từ Internet: Bình Anson, tháng 12/1998) Tóm tắt : Tam tạng: 3 kho báu, thuật ngữ chỉ hệ thống kinh điển Phật giáo, gồm kinh là những lời dạy của Phật suốt 49 năm thuyết giáo, được các đệ tử học thuộc rồi truyền miệng từ đời này sang đời kia. Sau khi Phật nhập diệt khoảng 2,3 thế kỷ mới được ghi chép lại thành sách. Luật là 5 điều răn của Phật đặt ra, các đệ tử phải giữ lấy để khỏi nhiễm tội lỗi và luận là 5 lời bình luận của các đệ tử uyên bác giải thích rõ ràng hơn lời Phật dạy. Sau này, khi truyền bá sang Trung Quốc, kinh điển này dịch ra chữ Hán, bổ túc thêm. Kinh, luật, luận được dịch qua các đời sau, hay các tổ sư Trung Quốc viết thêm và in lại thành tổng thể gọi là Đại tạng . (Nguyễn Văn Thoa, giáo sư Hán Nôm, viết theo tự điển Từ Hải) C. BỘ TỨ THƯ NGŨ KINH, NỀN TẢNG CỦA KHỔNG GIÁO Trong các trào lưu tư tưởng của người Tàu tràn sang bên ta, có ảnh hưởng sâu xa đến dân tộc ta nhất là Nho giáo. Các sách làm gốc cho Nho giáo là Tứ thư và Ngũ kinh; các sách ấy vừa là kinh điển của các môn đồ đạo Nho, vừa là những tác phẩm văn chương tối cổ ở nước Tàu. Vậy ta phải xét những bộ sách ấy trước. Thoạt tiên xét về bộ Tứ thư (bốn sách) gồm có Đại học, Trung dung, Luận ngữ và Mạnh tử. 1. Đại học · Cuốn này là sách của bậc "đại học" cốt dạy cái đạo của người quân tử. Sách chia làm 2 phần: - Phần trên gọi là Kinh, chép lời đức Khổng Tử1, có 1 chương - Phần dưới, gọi là Truyện, là lời giảng giải của Tăng Tử2, là môn đệ của Khổng Tử có 10 chương. · Mục đích của bậc đại học hay cái tôn chỉ của người quân tử, đã tóm ở câu đầu sách là: "Đại học chi đạo, tại minh minh đức, tại tân dân, tại chỉ ư chí thiện", nghĩa là: cái đạo của người theo bậc đại học là cốt làm sáng cái đức sáng (đức tốt) của mình, cốt làm mới (ý nói cải hóa) người dân, cốt dừng lại ở cõi chí thiện. Vậy người quân tử trước phải sửa sang đức tính mình cho hay, rồi lo dạy người khác nên tốt, và lấy sự chí thiện làm cứu cánh. · Mục đích đã như vậy, phương pháp phải thế nào? Phải sửa mình trước (tu thân), rồi mới chỉnh đốn việc nhà (tề gia), cai trị việc nước (trị quốc), và làm cho cả thiên hạ được bình yên (bình thiên hạ). Cái phương pháp ấy là tuần tự mà tiến, tự mình đến người ngoài, mà điều cốt yếu nhất là việc sửa mình, nên trong Đại học có câu: "Tự thiên tử dĩ chí ư thứ dân, nhất thị giai dĩ tu thân vi bản", nghĩa là: Từ ông vua đến kẻ thường dân, ai nấy đều lấy việc sửa mình làm gốc. · Nay muốn sửa mình, phải thực hành theo cách nào? Trước hết phải cách vật, nghĩa là thấu lẽ mọi sự vật, rồi phải trí tri, nghĩa là biết cho đến cùng cực, thành ý nghĩa là ý phải cho thành thực, chánh tâm nghĩa là lòng phải cho ngay thẳng. Bốn điều ------------------ (1) Khổng Tử (551-479): chính tên Khưu, người nước Lỗ (nay thuộc tỉnh Sơn Đông) trước làm quan Đại tư khấu (coi việc hình ở nước Lỗ), sau được cất lên nhiếp tướng sự. Sau vì vua Lỗ không muốn dùng Ngài, Ngài đi chu du các nước chư hầu (Vệ, Tống, Trần…) trong 14 năm, nhưng không ông vua nào biết dùng Ngài. Ngài bèn trở về nước Lỗ dạy học trò, san định các Kinh, làm sách Xuân Thu để bày tỏ cái đạo của Ngài. Tuy Ngài không phải là người sáng lập ra Nho giáo vì như Ngài đã nói: "Thuật nhi bất tác", Ngài chỉ thuật lại đạo giáo của cổ nhân mà không sáng tác ra gì, nhưng Ngài đã có công lớn đem cái đạo của thánh hiền đời thượng cổ mà phát huy ra và lập thành hệ thống để truyền cho đời sau; bởi thế Ngài vẫn được coi là ông tổ của Nho giáo. (2) Tăng Tử: tên là Sâm, tự là Tử Dư, học trò của đức Khổng Tử. ấy phải theo thứ tự kể trên mà tiến hành, có làm được điều trên mới làm được điều dưới. Làm được bốn điều ấy thì sẽ tu được thân, rồi tề được nhà, trị được nước và bình yên được thiên hạ, mà làm trọn cái đạo của người quân tử. 2. Trung dung – cuốn này gồm những lời tâm pháp3 của đức Khổng Tử do học trò ngài truyền lại, rồi sau Tử Tư là cháu ngài chép thành sách, gồm 33 chương. "Ông Tử Tư dẫn những lời của Khổng Phu Tử đã giảng về đạo Trung dung. Ngài nói rằng: Trung hòa là cái tính tự nhiên của trời đất, mà trung dung là cái đức hạnh của người ta. Trung là giữa, không lệch về bên nào; dung là thường, nghĩa là dùng đạo trung làm đạo thường4. Đạo Trung dung thì ai cũng có thể theo được, thế mà không mấy người chịu theo. Khác nào như ai cũng ăn uống cả, nhưng ít người ăn mà biết rõ mùi vậy. Chỉ có thánh nhân mới theo được mà thôi, vì theo đạo ấy cốt phải có ba cái đạt đức là trí, nhân và dũng. Trí là để biết rõ các sự lý, nhân là để hiểu điều lành mà làm, dũng là để có cái khí cường kiện mà theo làm điều lành cho đến cùng. Ông Tử Tư lại dẫn lời đức Khổng Phu Tử nói về chữ thành: "Thành là đạo Trời, học cho đến bậc thành là đạo người". Đạo người là phải cố gắng hết sức để cho đến bậc chí thành. Phải học cho rộng, xét hỏi cho kỹ, nghĩ ngợi cho sâu, biện biệt điều phải trái cho rõ, và dốc lòng làm điều thiện cho đến cùng. Hễ ai làm được như thế thì rồi ngu thành sáng, yếu thành ra mạnh, tức là dần dần lên đến bậc chí thành. Ở trong thiên hạ duy có bậc chí thành tức là bậc thánh, thì mới biết rõ cái tính của Trời; biết rõ cái tính của Trời, thì biết được rõ cái tính của người; biết rõ cái tính của người, thì biết được rõ cái tính của vạn vật; biết rõ cái tính của vạn vật thì khả dĩ giúp được sự hóa dục của trời đất và có công ngang với trời đất vậy. --------------------------------- (3) Tâm pháp (tâm: lòng; pháp: phép) là những điều đạo giáo thầy trò dạy bảo truyền thụ cho nhau. (4) Trung dung là đạo người quân tử ăn ở đúng mực, không thái quá, không bất cập. Chữ dung ở đây nghĩa là không thay đổi. "Sách Trung dung nói cái đạo của thánh nhân căn bản ở Trời, rồi giải diễn ra hết mọi lẽ, khiến người ta phải giữ mình cho kính cẩn trong khi hành động và khi im lặng một mình. Suy cái lý ấy ra cho đến sự nhân nghĩa, để khiến cho cả thiên hạ được bình trị và lại tán dương cái công hiệu linh diệu của đạo ấy cho đến chỗ tinh thần vô thanh, vô sắc mới thôi. Thật là một quyển sách triết lý rất cao". (Trần Trọng Kim. Nho giáo, q.1, tr. 279-285) 3. Luận ngữ · Luận ngữ (nghĩa đen là bàn nói) là cuốn sách chép các lời đức Khổng tử khuyên dạy học trò hoặc các câu chuyện ngài nói với những người đương thời về nhiều vấn đề (luân lý, triết lý, chính trị, học thuật) do các môn đệ ngài sưu tập lại. Sách ấy chia làm hai quyển (thượng, hạ) gồm có 20 thiên (mỗi thiên lấy lại hai chữ đầu đặt tên). Các chương không có liên lạc hệ thống gì với nhau. · Sách Luận ngữ cho ta biết những điều gì? – Sách Luận ngữ có thể coi là cuốn sách dạy đạo người quân tử một cách thực tiễn và mô tả tính tình, cử chỉ, đức độ của đức Khổng Tử như phác họa ra một cái mẫu mực hoạt động cho người đời sau theo. Xem sách ấy ta có thể biết được : - Nhiều câu cách ngôn xác đáng về đạo người quân tử. - Phẩm cách cao thượng (hồn hậu, thành thực, khiêm cung, khái hoạt) của đức Khổng Tử biểu lộ ra trong những chuyện ngài nói với học trò. - Cảm tình phong phú và lòng ái mỹ của ngài. - Khoa sư phạm của ngài. Trong các lời khuyên dạy chuyện trò với học trò, ngài tỏ ra là một ông thầy hiểu thấu tâm lý học trò và khéo làm cho lời dạy bảo của mình thích hợp với trình độ, cảnh ngộ của mỗi người. Có khi cùng là một câu hỏi mà ngài trả lời khác, tùy theo tư chất và chí hướng của từng người. 4. Mạnh Tử. · Đó là tên một cuốn sách của Mạnh Tử5 viết ra. Sách gồm có 7 thiên. Các chương trong mỗi thiên thường có liên lạc với nhau và cùng bàn về một vấn đề. · Tư tưởng của Mạnh Tử - Xem sách ta có thể nhận được tư tưởng của Mạnh Tử về các vấn đề sau này: - Về luân lý: a) Ông xướng lên cái thuyết tính thiện để đánh đổ cái thuyết của người đương thời (như Cáo Tử) cho rằng tính người không thiện không ác. Theo ý ông, thì thiên tính người ta vốn thiện, ví như tính nước vốn chảy xuống chỗ thấp; sở dĩ thành ác là vì làm trái thiên tính đi, ví như ngăn nước cho nó phải lên chỗ cao vậy. b) Tính người vốn thiện, nhưng vì tập quán, vì hoàn cảnh, vì vật dục làm sai lạc đi, hư hỏng đi, vậy cần phải có giáo dục để nuôi lấy lòng thiện, giữ lấy bản tính. Mấy điều cốt yếu trong việc giáo dục ấy là: dưỡng tính (giữ lấy thiện tính), tồn tâm (giữ lấy lòng lành), trì chí (cầm lấy chí hướng cho vững), dưỡng khí (nuôi lấy khí phách cho mạnh). c) Ông thường nói đến phẩm cách của người quân tử mà ông gọi là đại trượng phu hoặc đại nhân; bậc ấy phải có đủ bốn điều là: nhân, nghĩa, lễ và trí. ----------------------------- (5) Mạnh Tử (372-289) tên là Kha, người đất Châu (nay thuộc tỉnh Sơn Đông), ở về đời Chiến quốc, học trò Tử Tư cháu đích tôn Khổng Tử). Ông hiểu rõ đạo của Khổng Tử, lại có tài hùng biện, thường đi du lịch các nước chư hầu (Tề, Lương, Tống, Đằng), muốn đem cái đạo của thánh nhân ra cứu đời, nhưng không được ông vua nào biết dùng. Sau lúc gần già thấy cái đạo ấy không thể thực hành được, ông về nhà dạy học trò và soạn ra sách Mạnh Tử. Ông là người có công to nhất trong việc làm sáng tỏa đạo lý Nho giáo và bênh vực đạo ấy để chống với các học thuyết khác về đời Chiến Quốc, nên vẫn được coi là bậc á thánh (gần bậc thánh). - Về chính trị - Ông nói bậc làm vua trị dân phải trọng nhân nghĩa chớ đừng trọng tài lợi thì mới tránh được sự biến loạn và việc chiến tranh. - Ông cũng lưu tâm đến vấn đề kinh tế lắm. Ông nói: Người ta có hằng sản, rồi mới có hằng tâm, nghĩa là người ta có của cải đủ sống một cách sung túc thì mới sinh là có lòng tốt muốn làm điều thiện. Vậy bổn phận kẻ bề trên là phải trù tính sao cho tài sản của dân được phong phú rồi mới nghĩ đến điều dạy dân và bắt dân làm điều hay được. Ông lại chỉ các phương lược mà các bậc vua chúa phải theo để làm cho việc canh nông, mục súc, công nghệ của dân được phát đạt. · Văn từ trong sách Mạnh Tử - Mạnh Tử không những là một nhà tư tưởng lỗi lạc, lại là một bậc văn gia đại tài. Văn ông rất hùng hồn và khúc chiết: ông nói điều gì, cãi lẽ gì, thật là rạch ròi, góc cạnh. Ông hay nói thí dụ: muốn cho ai hiểu điều gì, muốn bắt ai chịu phục lẽ gì, ông thường dẫn các thí dụ mượn ở sự vật cho người ta dễ nhận xét. Ông lại hay dùng thể ngụ ngôn hoặc kể những câu chuyện ngắn để diễn đạt tư tưởng cho người nghe vui thích và dễ nhận cái thâm ý của ông. Kết luận . – Bộ Tứ thư là bộ sách gồm những điều cốt yếu của Nho giáo, ai muốn hiểu rõ tất phải nghiên cứu bộ ấy. Trong bộ ấy, có nhiều câu cách ngôn xác đáng, nhiều chân lý đương nhiên đáng để cho chúng ta, bất kỳ là người nước nào, ở thời đại nào, ngẫm nghĩ suy xét và rất có ích lợi về đường tinh thần, đức hạnh của ta vậy. Lm. Giuse NGUYỄN HỮU TRIẾT (Còn tiếp)
RỪNG THU TỪNG BIẾC XEN HỒNG
Xin đừng khóc mướn thương vay Đừng vờ đau xót lá lay đoạn trường Đời đầy cay đắng tang thương Dở dang là lẽ bình thường mà thôi
Con tim nẩy lộc đâm chồi Niềm rung cảm đượm bồi hồi xuyến xao Chân thành thấm thía niềm đau Dung thông lai láng dâng trào ý thơ
Xin đừng đắm đuối mộng mơ Thế gian nghịch cảnh ngẩn ngơ hão huyền Tròng trành nghiêng ngửa con thuyền Trong cơn bão tố truân chuyên gập ghềnh
Xin đừng vội vã lãng quên Tình xưa nghĩa cũ gọi tên bốn mùa Yêu thương đâu phải trò đùa So đo tính toán được thua ích gì
Xin đừng ảo tưởng hoài nghi Đại dương bát ngát biên thùy là đâu Làm sao đi hết chiều sâu Nỗi niềm trắc ẩn bể dâu ba đào
Tình yêu gởi trọn cho nhau Nâng tâm hồn đến đỉnh cao mặn nồng “Rừng thu từng biếc xen hồng”* Rợp trời sắc thắm hoa lòng thiết tha
Hồn thơ chan chứa mặn mà Nụ hồng lộc biếc đậm đà duyên mơ Khi yêu đời hết bơ vơ Hồng hồng biếc biếc xóa mờ đơn côi
NGÀN PHƯƠNG * Thơ Nguyễn Du
Thơ vui Lạy trời Năm nay xuân mới vui tươi Lạy Trời con đổi lại người con thương Trời ơi ! Nó bỏ giữa đường Vì chịu không nổi Mười Thương nó cần
Một Thương anh biết lau nhà Hai Thương đêm đến Mát-xa hai giờ Ba Thương tã, sữa con thơ Bốn Thương nấu nướng khỏi chờ đợi em Năm Thương giặt giũ theo kèm Sáu Thương tối đến xoa kem, bóp dầu Bẩy Thương tắm vợ, gội đầu Tám Thương rửa chén bao lâu cũng cười Chín Thương bài trả gấp mười Mười Thương lương tháng vui tươi dâng về
Trời ơi ! Ngó lại thân con Trước nặng bẩy chục, giờ còn bốn hai Mười Thương nó kéo dài dài Nó không bỏ sớm con "đai " tức thì Ngọc Hoàng Thượng Đế từ bi Đền con Em khác phòng khi về già Em nào chịu khổ lo xa Em nào chịu khó quét nhà lau xe Em nào giặt giũ không ke Nấu ăn rửa chén, rượu chè tận tay Tiền lương không biết càng hay Về già bù lại những ngày khổ đau
Con đi từ Bắc vô Nam Sài Gòn, Hà Nội, Tháp Chàm, Quy Nhơn
Hà Tiên, Quảng T rị, Đồ Sơn Hải Phòng, Đà Lạt, Lạng Sơn, Vũng Tàu Bình Định, Phú Quốc, Cà Mau Con gái đều thuộc làu làu Mười Thương Con đây bí quá hết đường Trình lên Thượng Đế bồi thường cho con
Ngọc Hoàng nghe chuyện đập bàn Mặt Rồng rực đỏ oang oang hét truyền Ta đây đồng hội đồng thuyền Mười Thương Ta chịu nào phiền đến ai Đi ngay đừng nói một hai Đền bù khiếu nại đến tai Bà Trời Số ta cũng bị đi đời Xuống dưới ráng sống cầm hơi qua ngày Khi nào có Kế nào hay Thì lên nói nhỏ, chỉ ngay Ta làm Tú Vũ st
Đây là bản dịch của bài thơ bằng tiếng Anh ở kế ngay dưới đây. CÓ THIÊN ĐƯỜNG TRONG CÁC TRANG VÀNG KHÔNG HỞ CÔ? Cô tổng đài ơi, Mẹ đã lên Thiên đường, nhưng lúc này con rất cần có mẹ Bụng con đau, và con đã té Ngay bây giờ con cần mẹ quá đi thôi Chỉ cho con cách tìm mẹ trong cuốn danh bạ, cô tổng đài ơi Thiên đường có trong các Trang Vàng không vậy? Bố cũng nhớ mẹ con lắm đấy Con nghe bố khóc trong đêm, và gọi tên mẹ nhiều lần Nếu nghe con gọi, chắc mẹ về ngay chẳng chút phân vân Thiên đường ở xa không hở cô? Có phải ở bên kia biển cả? Mẹ đi lâu lắm rồi, đã đến lúc mẹ phải về chứ ạ Con muốn tìm được mẹ, cô bảo con phải làm sao? Cô bảo con tìm số điện thoại của mẹ ở đâu? Nó có nằm trong mục “Thiên đường” không vậy? Con không đọc được những từ mờ mịt ấy, Vì con mới bảy tuổi thôi mà Con xin lỗi cô tổng đài nha Con không có ý làm cô phải khóc Hay bụng cô cũng đau, Hay có gì đang bay vào mắt cô? Hay là để con gọi tới nhà thờ? Mẹ thường nói cần ai giúp điều chi thì đến đó Số điện thoại có dán sẵn trên tường rất rõ Cám ơn cô tổng đài, con gọi họ ngay đây (Đọc trên Internet của Donna Groleau) Thiếu Khanh dịch. Ghi chú: - Các danh bạ điện thoại trên thế giới thường có một phần màu vàng liệt kê số điện thoại của các doanh nghiệp, cơ sở thương mại thay vì điện thoại nhà của tư nhân. Tại một số nước, phần này có thể là màu hồng hay màu khác. Tại những thành phố lớn của Mỹ, có những danh bạ điện thoại hoàn toàn là những Trang Vàng.. (VOA) - Bài thơ dịch này đăng lần đầu tiên trên tạp chí Easy English vào khoảng năm 2000 hay 2001, người dịch ký tên con trai NHĐP.
IS THERE HEAVEN IN THE YELLOW PAGES? Mommy went to Heaven, but I need her here today, My tummy hurts and I fell down, I need her right away. Operator can you tell me how to find her in this book? Is heaven in the yellow part, I don't know where to look. I think my daddy needs her too, at night I hear him cry. I hear him call her name sometimes, but I really don't know why... Maybe if I call her, she will hurry home to me. Is Heaven very far away, is it across the sea? She's been gone a long, long time she needs to come home now! I really need to reach her, but I simply don't know how. Help me find the number please, is it listed under "Heaven"? I can't read these big, big words, because I am only seven. I'm sorry operator, I didn't mean to make you cry, Is your tummy hurting too, or is there something in your eye? If I call my church maybe they will know. Mommy said when we need help that's where we should go. I found the number to my church tacked up on the wall. Thank you operator, I'll go give them a call. ( Donna Groleau - collected from the Internet) Lắng nghe Lòng lắng nghe đời gõ cửa không! Cảm theo khát vọng mấy cho cùng Phù hoa chất nặng con thuyền sóng Danh lợi đôi bờ ngủ bến không. Tâm thức tìm trong đạo với thơ Giả thân theo cát bụi sông hồ Dấu mòn đưa lối về nguyên thủy Qua bến đời như một giấc mơ.
TRẦN LỮ VŨ
Thơ mời họa
VÀO HÈ Ai xui cuốn lịch gọi vào hè? Khao khát ta thèm một điệu ve! Chỉ thấy xe rồ ầm tiếng máy Đâu rồi cuốc nhặt rộn hàng tre? Buồn trong dãy phố mưa tầm tã Chợt nhớ bờ ao bướm xập xòe Kỷ niệm ấu thơ bừng sống lại Sáo diều vi vút vọng hồn quê... THÙY DƯƠNG
THIỆP XUÂN
Khi in thiệp Xuân Chúc Mừng Năm Mới Rực rỡ ngàn hoa – Bác chỉ chọn hoa Hồng Người muốn tặng tình yêu cho Đất Nước Cho hạnh phúc, hòa bình, thắm mãi với Non Sông XUÂN VÂN
Cái chết vui vẻ Anh đã chôn luôn lòng tự ái, Hai mươi vạn dặm đáy biển sâu Vậy muốn nói gì, em cứ nói, Anh sẽ chỉ cười, chẳng giận em đâu! Lâu lâu Em gắng làm cô giáo, Dạy Anh cách sống ở trên đời, Cách nói, cách làm, cách giao đấu, Nhất là cách lìa cõi đời yêu dấu, Mà trên môi vẫn “lở” một nụ cười! Vì CHIẾN THẮNG, chúng ta cả hai người, Đang lướt khướt cùng nhau chia sẻ… Nếu trên đời những quân “cậy khỏe”, Biết uýnh nhau theo cách của đôi ta, Thế giới sẽ vĩnh hằng, tươi trẻ, Vì đâu còn ai chết để thành ma! Và Thần Chết tháo chạy vạn dặm xa… Người người sống và uýnh nhau cho thật đã! V.A.T HAPPY DEATH I’ve buried my own self-pride, Twenty thousand leagues under the sea, So, say whatever you want please! I’ll still happily and heartily smile! Why don’t you act as my guide? Oh how to live this sheer damned life, On what to say, what to do, and how to fight, Particularly, on how to die while laughing and fighting. As the GREAT VICTORY, we both are tiredly sharing… Alas! If bullying people in this damned world know how to fight, The way we do, then no one will die, Peace will reign, and everyone will all be fine! DEATH will withdraw, ceding its place to LIFE, and… Let’s die as many times as we can and like…
V.A.T Ham làm quan Lạ thay du khách xa gần Xô về đền Trần xin ấn cầu quan Ấn in ra đến muôn ngàn Nếu cầu mà được thì quan quá nhiều Bỗng nhiên thiển nghĩ một điều Cái trò lấy ấn “tuyệt chiêu” đời này Nhìn dòng người đợi hàng ngày Kiên trì lấy ấn cầu may mà buồn Lòng rầu lệ cứ muốn tuôn Sao lại khuyến khích cả buôn thánh thần? Làm quan chắc sướng hơn dân Cầu Đức thánh Trần, cả nước làm quan
LÊ MINH CHỬ
TỪ TU THIỀN ĐẾN TU PHẬT (tt) CÔNG ÁN THỨ MƯỜI BỐN NAM TUYỀN CHÉM MÈO *Công Án Tăng chúng hai chái Đông Tây tranh nhau con mèo. Hòa Thượng Nam Tuyền giơ con mèo lên mà nói: - Các ông nói được thì tha, không nói được thì chém. Chẳng ai biết nói sao. Sư bèn chém con mèo. Đến tối Triệu Châu về, Sư bèn kể chuyện lại cho nghe. Triệu Châu bèn cởi dép, để lên đầu mà đi ra. Sư nói: Nếu lúc ấy có ông thì cứu được con mèo rồi! Lời giải: Cả hai chái tăng chắc không lo thiền quá, Tham Công Án nên rảnh rang đi giành nhau con mèo tội nghiệp. Thầy cũng quên lời Phật dạy phải Từ Bi, phải “thương xót chúng sinh dù là giống côn trùng nhỏ nhít”, vì chúng cũng biết quý mạng sống. Con mèo có lỗi gì đâu, sao không dạy học trò cho nghiêm lại đi giết nó! Giết xong tối lại còn thản nhiên kể lại cho người khác nghe với lời nhận xét: "Nếu lúc ấy có ông thì cứu được con mèo rồi", làm người đọc đến đây cũng thấy xốn xang, không hiểu sao Giới Sát lại bị xem thường đến như vậy. Đâu là môn quy? Đâu là trật tự trong Chùa? Đâu là Giới, là Hạnh của Phật truyền, để họ là những bậc tu hành mà những thí chủ phàm phu vì bận lo làm ăn không tu được nên thành tâm cúng dường, để cho họ được rảnh rang tu học rồi sẽ dạy lại cho mình, sẽ độ cho mình!? Chỉ có con mèo mà tranh nhau, thầy dạy không nổi, liệu đám Tăng đó sau khi mèo chết còn giành thứ gì khác nữa đây?! Đó cũng là Thiền Môn thanh tịnh mà người đời thường nhìn vào đó để kính ngưỡng, tôn trọng đó sao? Kết Luận: Mèo ơi! Phải chi mày đừng bày đặt bon chen, ở yên nơi trần tục, đừng chui vào chùa để mong nấp bóng từ bi thì đâu đến nỗi sớm chết. Các Thiền Sư ở đó có coi Giới của Phật ra gì đâu?! CÔNG ÁN THỨ MƯỜI LĂM BA HÈO CỦA ĐỘNG SƠN *Công Án: Ngài Vân Môn nhân Động Sơn đến tham học. Sư hỏi: - Mới từ đâu đến? Động Sơn đáp: - Tra Độ. Sư lại hỏi: - Hạ an cư ở đâu? Động Sơn đáp: - Chùa Báo Từ ở Hồ Nam. Sư hỏi tiếp: - Rời Chùa hôm nào? Động Sơn đáp: - Hai mươi lăm tháng tám. Sư nói: - Tha cho ông ba hèo. Sáng hôm sau Động Sơn lên tham, hỏi: - Hôm qua đội ơn Ngài tha cho ba hèo, không biết lỗi tôi ở đâu? Sư nói: - Cái túi cơm, cứ thế mà đi Giang Tây, Hồ Nam. Động Sơn nhân đó bèn ngộ. Lời giải: Ý Ngài Vân Môn muốn Động Sơn trả lời là "Chẳng từ đâu đến, chẳng đi về đâu", trong khi thực tế là Động Sơn đi đủ nơi, đến đủ chỗ, còn nhớ như in ngày tháng! Thà như Ngài Động Sơn mà còn thực tế, còn có thể tu hành tiến bộ được hơn, vì cái Thân Tứ Đại đâu có phải là Như Lai. Nó lù lù một đống ra đó. Nó lên ghe, xuống thuyền, ăn ngủ, trèo non, lội suối đến đây. Bảo nó là Như Lai sao được! Pháp Tánh thì mới không tới, lui, xuống lên, bất động. Nhưng Pháp Tánh thì vô tướng, ở trong Pháp tướng, đi theo pháp tướng, đâu thể để ở nhà?! Thế mà Ngài Vân Môn chỉ muốn đánh người vì không trả lời được như ý mình. Nếu Động Sơn đã thành Như Lai thì còn lặn lội đến tìm thầy để tham học làm chi! Kết luận: Chưa chắc ai đáng nhận ba hèo! CÔNG ÁN THỨ MƯỜI SÁU NGHE CHUÔNG MẶC ÁO *Công Án: Ngài Vân Môn nói : - Thế giới rộng lớn như vậy, sao nghe chuông lại mặc áo thất điều? Lời giải. Cũng lại Ngài Vân Môn! Ngài muốn người tu xong rồi thì căn trần đóng chặt. Không thấy, không nghe những gì đang xảy ra chung quanh mình! Ngài có tưởng tượng đến giờ Ngọ, tăng chúng mời thầy thọ trai mà Thầy không nghe thì sẽ ra như thế nào? Rồi nếu cứ liên tục như thế cái thân phàm của Ngài sẽ ra sao? Rõ ràng lý một đàng, sự một nơi, không thể áp dụng vào cuộc sống thực tế được. Người tu cho đến đâu thì cái thân tứ đại vẫn còn, Lục căn vẫn còn, đâu có vất đi đâu. Vẫn phải mặc áo, ăn cơm. Chỉ cần điều phục những cái Khởi của Vọng Tâm rồi dùng lại, đâu có triệt tiêu nó. Đọc trong Kinh Kim Cang, ta thấy đức Thích Ca cũng bưng bát đi khất thực. Cũng trải toạ cụ mà ngồi. Cũng thọ trai như mọi người. Đệ tử hỏi pháp Ngài cũng nghe rõ những câu hỏi và giải đáp rõ ràng. Đâu phải không nghe thấy gì sau khi đắc đạo? Vì nếu không còn thấy các đệ tử phạm luật để răn đe. Không thấy các tín chủ đến tham vấn, cầu học. Không nghe những gì họ hỏi để giải thích cho đúng lẽ đạo, thì người tu xong thành ra thứ gì? Chẳng lẽ tu xong là mọi thứ đảo lộn, đen trắng không phân, trở thành đui, điếc? Kinh Đại Bát Niết Bàn viết: "Với Như Lai ngày vẫn là ngày, đêm vẫn là đêm". Lục Tổ cũng dạy: "Tánh của trí huệ là hay phân biệt", đâu có vì thành đạo mà nói năng cư xử khác với thế gian! Vì thế, nếu người tu, sau một thời gian hành trì mà sự hiểu biết, nhận xét đảo lộn thì cẩn thận! Kết luận: Hiểu sai Phật Pháp. Nghĩ rằng điều phục lục căn là phá hỏng lục căn. CÔNG ÁN THỨ MƯỜI BẢY QUỐC SƯ GỌI BA LẦN *Công Án: Quốc Sư ba lần gọi thị giả, thị giả dạ ba lần. Sư nói: - Tưởng đâu ta phụ người, té ra người phụ ta. Lời giải: Tu là để sửa Cái Tâm, để gỡ những dính mắc nơi các Căn, vì đó là nơi khởi ra những phiền não. Đâu phải để phá hư căn Tai, căn Khẩu mà không nghe, không thưa, trở thành những người câm, điếc vô tri! Thầy nghĩ sao nếu gọi trò mà nó cứ lờ đi, giả điếc? Gọi người ta mà muốn người ta đừng nghe, đừng đáp. Trong khi đó theo chánh pháp thì người tu có xong thì cũng ở trong cái Thân tứ đại giả hợp này. Vẫn nghe, biết, cảm nhận. Nhưng quan trọng là không dính mắc. Không còn khởi phiền não, tham, sân, si, chớ đâu phải trở thành vô tri, vô giác! Tu hành, học đệ nhất nghĩa đế để mang ra áp dụng và cuộc sống mà không dính mắc. Người tu, lúc hành xử thì vẫn phải ở trong thế đế, nhưng trụ nơi Trung Đạo, để dù Thấy, Nghe tất cả, hành xử với các pháp mà không còn khởi Tham Sân Si, đâu phải trụ nơi đệ nhất nghĩa đế có nghĩa là rời hết thấy, nghe! Kết luận: Công án như thế này cũng dễ làm cho người suy diễn, tưởng như chứng đắc là phải trở thành bất thường, nói năng tối nghĩa, hành vi lập dị mới là cao siêu! Cẩn thận! CÔNG ÁN THỨ MƯỜI TÁM BA CÂN MÈ CỦA ĐỘNG SƠN *Công Án: Một ông Tăng hỏi Hoà Thượng Động Sơn. - Phật là gì? Sư đáp: - Ba cân mè. Lời giải: Theo công án này thì nếu Chùa gieo trồng mè sẽ có được vô số Phật! Qua đó ta thấy các Hoà Thượng xuất thân từ Thiền Môn nói năng quá bừa bãi, cao ngạo! Phật là mè thì các vị ấy chẳng lẽ vàng khối, kim cương dù đang mượn phương tiện của Đạo Phật, hình ảnh của Đạo Phật để ngày ngày được thí chủ cúng dường cho, ăn trên, ngồi trước, được nhàn thân mà tu hành. Những lời đó chứng tỏ bản thân họ thiếu Giới, thiếu Hạnh “Thường Bất Khinh Bồ Tát” nên không được cái: “Thân, Khẩu, Ý Ba Nghiệp thanh tịnh” của người tu! Thế mà còn dám mở miệng ra để giảng dạy cho người! Lẽ ra khi thấy người trò hỏi một cách nghiêm chỉnh thì người Thầy cũng phải trả lời một cách đứng đắn để khai mở cho trò. Đàng này Thầy mở miệng ra nói lời vô nghĩa, quá coi thường Phật. Coi thường cả người đang thành tâm thưa hỏi! Người tu được Kinh Đại Phương Tiện Phật Báo Ân dặn dò: Muốn báo đền ân Phật thì phải tìm hiểu Nhân Luận, Thanh Luận, để lời cho được tao nhã. Thân phải thanh tịnh để người trông thấy, nghe thấy sinh lòng kính trọng mình mà kính trọng cái Đạo của mình đang giữ để tin theo. Nhưng ở đây Thầy đã làm ngược lại! Kết luận: Đầu óc Thầy chắc không có PHẬT, chỉ có mè, nên mở miệng ra là mè ra trước! Với câu trả lời như thế thì người Thầy đang tu gì? Sẽ thành gì? chẳng lẽ để thành mè, vì mè đáng nói đến hơn là Phật! (còn tiếp) Tâm Nguyện
Phụ Bản III Trường Phan Bội Châu Phan Thiết và tôi Thiếu Khanh Ngày ấy
Cái tựa đề bài viết này nghe lớn chuyện vậy chớ thật ra không có gì to tát đâu; tôi chỉ mô phỏng anh Nguyễn Duy Sâm sau khi đọc bài viết “Thầy Vĩnh Giêng và Tôi” của anh do nhà thơ nhà biên khảo Mường Giang chuyển tiếp thôi. [1] Trong đời mỗi người có nhiều dịp hoặc nhiều sự kiện để mình nhớ, nhưng tôi cho là mình thường nhớ nhiều nhất những kỷ niệm thời Trung học. Với tôi, đó là qu ã ng thời gian đẹp nhất trong đời tôi được là học sinh của Trường Trung học Phan Bội Châu Phan Thiết. Dường như thời Trung học chính là thời hoàng kim trong thế giới tình cảm của mỗi con người; lúc đó mình không còn ở tuổi nhi đồng vô tư lự như của thời Tiểu học nữa mà đã bước vào tuổi thiếu niên. Trong thời gian học Trung học, chúng ta lớn lên, về cả mặt tâm lý và sinh lý chúng ta có những bi ế n đổi quan trọng, kèm với sự xuất hiện mới của những cảm xúc và cảm nhận không còn đơn giản như trước kia. Ngày hai buổi tiếp xúc gần gũi với các bạn dưới cùng mái trường thân yêu năm này qua năm khác (hồi đó trường học ngày hai buổi), khiến mình nảy sinh những tình cảm thân thiết với trường với bạn. Đó là thời mình sống nhiều bằng cảm xúc mà hồi còn ở tiểu học mình chưa có được. Dù bộ óc phát triển thêm nhiều nếp nhăn nho nhỏ do kiến thức mới học được ở nhà trường mang lại, nhưng trái tim mình vẫn còn mềm mại để sẵn sàng rung đập một cách rộn ràng; lòng mình vẫn còn ngây thơ ngơ ngác trước những điều mới lạ. Có lẽ chính trong qu ã ng thời gian này, phần lớn chúng ta bắt đầu trải nghiệm những biến động mới trong tình cảm, trước hết là tình cảm tôn kính các thầy cô vốn đã sẵn có trong lòng mình từ những năm tiểu học, thứ đến là với bạn. Ngoài tình bạn học bình thường từ sự giao tiếp với nhau hàng ngày, từ đây xuất hiện một thứ tình cảm mới thường là với một cô/anh bạn dễ thương trong lớp; một thứ gì đó “giống như là tình yêu”, hoặc một thứ tình yêu non nớt lãng mạn đầu đời nhưng vô cùng ngọt ngào thơ mộng. Những biến động tinh thần mới mẻ đó tạo một thứ men say mà “nghìn năm hồ dễ mấy ai quên”. Trang lụa trắng của tâm hồn tôi được vẽ lên những hoa bướm rực rỡ đầu tiên ở đó, dưới mái trường Trung học Phan Bội Châu. Và cũng ở đó tôi bắt đầu làm thơ. Những kỷ niệm ngọt ngào từ qu ã ng thời gian đó gắn bó với bản thân tôi sâu đậm hơn những thời kỳ khác sau này. Có lẽ dễ hiểu khi hàng năm chúng ta thường tổ chức những cuộc họp mặt bạn bè thời trung học mà không có nhiều những cuộc họp mặt bạn bè thời tiểu học hay đại học. Tôi không phải là người sinh trưởng ở Phan Thiết. Quê tôi là làng Bình Thạnh có thắng cảnh Chùa Hang (Cổ Thạch Tự), thuộc Quận Tuy Phong. Ngôi làng nhỏ ven biển từng là một ổ du kích trong thời kháng chiến chống Pháp, bị quân Pháp tàn phá đến tiêu điều. Toàn bộ dân làng bị buộc phải bỏ nhà cửa tản cư nơi khác, chủ yếu là qua sống ở làng Long Hương bên Quận cho đến sau năm 1954 mới lác đác có người hồi hương. Do làng mới hồi cư còn hoang phế, chưa có trường học, trẻ con trong làng muốn đi học phải qua Long Hương ở trọ nhà người quen hoặc nhà thân nhân của gia đình còn trụ lại ở đó để theo học tại Trường Tiểu học (công lập) duy nhất trong Quận. Có lẽ do sự bất tiện này mà số trẻ con trong làng tôi thời đó được đi học đến hết bậc tiểu học là không nhiều, và số học sinh đi xa hơn cái trường Tiểu Học Long Hương chỉ đếm chưa hết số ngón trên một bàn tay! Cụ thể, nếu tôi nhớ không sót người nào, con số đó là… bốn người, mà chỉ có “năm mươi phần trăm” trong số đó về sau trở thành học sinh của Trường Trung học Phan Bội Châu Phan Thiết – ngôi trường Trung học công lập duy nhất của toàn tỉnh Bình Thuận, vào năm tôi thi vào lớp Đệ Thất trường này. Tôi là người thứ hai của năm mươi phần trăm đó. Người thứ nhất là anh NBD, con của ông bác họ của tôi. Anh NBD có đầy đủ ba ưu điểm quý giá mà không những con trai, ngay cả con gái thời nào cũng ham chuộng: con nhà giàu, đẹp trai, và học giỏi. Nhà bác họ tôi rất khá giả. Anh được đi học là điều được nhiều người trong làng cho là đương nhiên, không ai so bì gì; và anh thi đậu vào trường Phan Bội Châu cũng không ai cho là chuyện lạ. Tôi không có chút gì sánh được với người anh họ hiền lành đáng mến này. Tôi có hai đứa em, chúng tôi mồ côi cha rất sớm. Tôi không nhớ được mẹ tôi đã dựa vào nguồn lực hay phép màu nào mà trước đó đã cho hai đứa con trai đi học bên Quận, bởi nhà tôi nghèo. Chuyện cho con đi học này đã bị nhiều người trong làng xầm xì cho rằng sau này chúng tôi sẽ là những đứa “lỡ thầy lỡ thợ”. Làng xóm điêu tàn sau chiến tranh, người ta nghèo khổ quá nên phải thực tế. Biển ở ngay trước nhà, cho con ra biển “kéo hôi” kéo lưới cho người ta cũng kiếm được con cá mà ăn. Học cho nhiều về làm gì? Có tránh khỏi cái “đai” kéo lưới trên lưng không? Vậy mà mẹ tôi lại cho tôi vào Phan Thiết thi vào lớp Đệ Thất trường Trung học công lập Phan Bội Châu! Lý do duy nhất của mẹ: mẹ không có tiền cho con học trường tư! Thế rồi tôi đi thi. Tôi đi một mình. Người anh họ của tôi đã học trước tôi một năm. Thi xong thì trở về nhà ở Bình Thạnh. Một tháng sau đó, tôi và một cô bạn người Long Hương cùng vào Phan Thiết để tập trung đi dự kỳ trại hè bảy ngày tại Nha Trang do Bộ Quốc gia Giáo dục tổ chức dành cho học sinh giỏi bậc Tiểu học trong năm đó. Cô bạn đứng đầu lớp Nhất A, tôi lớp Nhất B trường Tiểu học Long Hương. Cô bạn không học tiếp nữa. Con gái học thế là đủ, sau trại hè bạn sẽ ở nhà đợi… lấy chồng. (Hồi đó hầu hết học sinh tiểu học đều lớn hơn vài năm, thậm chí ba hay có trường hợp bốn năm, so với mức tuổi quy định ngày nay). Trong buổi chiều tập trung ở Trường Nam Tiểu học để tối hôm đó lên xe lửa đi ra Nha Trang, tôi được biết tại Trường Phan Bội Châu đã công bố kết quả kỳ thi vào lớp Đệ Thất vừa rồi; nhiều bạn người Phan Thiết cùng dự trại hè đã vui mừng biết mình trúng tuyển. Vì đây là lần thứ nhì từ quê lên tỉnh, tôi không biết đường đi từ Trường Nam tiểu học đến Trường mới PBC, nên đành bứt rứt trong suốt thời gian đi trại hè, không biết mình đậu hay không. Khi từ trại hè trở về, tôi và cô bạn xuống xe lửa tại ga Song Lòng Song để về nhà chớ không vào Phan Thiết, cho nên tôi vẫn không biết kết quả thi của mình. Tuy vậy, sắp đến ngày khai trường, tôi vẫn tự tin xách va ly vào Phan Thiết. Sau khi có được chỗ ở trọ ổn định, tôi đến Trường xem kết quả thi. Hỡi ơi, bản kết quả đã bị ai xé đâu mất từ bao giờ, mà trường vắng hoe không có thầy cô nào cho tôi hỏi. Thế nhưng đến buổi sáng ngày khai giảng, tôi cũng ôm cặp vở đến ngôi trường Phan Bội Châu mới xây cất khang trang ngoài bìa thị xã Phan Thiết. Tôi vào văn phòng hiệu trưởng, hỏi đại một ông thầy đang cầm một xấp giấy tờ trên tay: “Thưa thầy, thầy xem giùm con có đậu không, thầy?” Ông thầy há miệng nhìn tôi từ đầu đến chân. Cậu học trò nhà quê, trong chiếc áo sơ mi trắng mới với cái quần… pyjama và đi chân đất đang rụt rè đứng trước mặt ông dường như khiến ông ngạc nhiên. Tuy vậy ông cũng thân mật vỗ vai tôi hỏi lại: “Sao tới giờ này mà em còn chưa biết mình có đậu hay không?” “Thưa thầy quê con ở xa lắm, mà con không có người quen ở trong này để nhờ đi xem giùm…” “Em tên gì?” - Ông dở xấp giấy trên tay vừa hỏi: “Thưa thầy con tên Nguyễn Huỳnh Điệp.” Tôi hồi hộp nhìn ông dò trong tờ giấy này, rồi tìm trong tờ giấy khác trong xấp giấy của ông. “Có đây,” - ông cười rất thân thiện chia vui với tôi - “Nguyễn Huỳnh Điệp, số ký danh… Em có đậu rồi đây… Thứ 80 nhé. Chúc mừng em.” Tôi mừng rỡ: “Con cám ơn thầy.” Thế là tôi có hạnh phúc thuộc trong số hai trăm học trò mới của trường, trúng tuyển cuộc thi vào lớp Đệ Thất năm đó. Thế mà sau này tôi lại không nhớ đó là ông thầy nào. Thầy Toại chăng? Thầy Toại là giám thị, và không dạy giờ nào, nhưng tất cả học sinh trong trường đều gọi ông bằng Thầy. Có lẽ đó là ông thầy hiền hậu, chân chất và “dễ thương” nhất của trường Phan Bội Châu. Tôi đã trở thành học sinh trường Trung học Phan Bội Châu Phan Thiết như thế. Lớp Đệ Thất 2. Rồi tiếp tục Lục 3, Ngũ 3, Tứ 3, Tam B3… Còn cái chuyện quần pyjama và đi chân đất của tôi đã khiến tôi biết thầy Vĩnh Giêng sau đó. Ngay trong ngày khai giảng, nhà trường đã phổ biến quy định về đồng phục học sinh: quần “tây” xanh, áo sơ mi trắng, đóng thùng, có thể mang xăng-đan hay dép. Đó là điều mới lạ khiến tôi rất bối rối. Học trò tiểu học nhà quê chúng tôi hồi đó chưa có đồng phục. Hoàn toàn không có đứa nào mang giầy và dường như cũng không có mấy đứa mang dép thì phải. Con đường từ làng tôi qua Long Hương dài bẩy cây số toàn cát, giữa trưa cát nóng bỏng rộp bàn chân, mà chẳng thấy ai mang guốc hay dép, huống chi học trò đi học: ở trường đâu có cát nóng chân! Nếu phải đi trên con đường cát nóng ấy vào giữa trưa nắng gắt, người ta chỉ cần bẻ một chùm lá nhãn hay lá sò đo dọc đường cầm tay là đủ để đi từ làng đến Quận, từ Quận về làng. Khi nóng chân quá, thì bỏ chùm lá xuống và đứng lên đó một lúc cho bớt nóng rồi lượm nắm lá lên đi tiếp. Không có lá thì dẫm lên một bụi cỏ còi cọc nào đó bên đường. Nhưng mà như thế dễ dẫm phải gai xương rồng hoặc, nhất là, gai “vạn cổ sầu”! Tôi không nhớ mất bao lâu thì chuyện đồng phục của đám học sinh mới chúng tôi đi vào nề nếp, nhưng trong thời gian đầu cái việc mặc áo bỏ trong quần khiến tôi… mắc cỡ. Nó “trịnh trọng” quá, tôi chưa quen. Tôi mặc áo bỏ ngoài quần từ nhà đi đến trường. Chỉ sau khi đến tại cổng trường tôi mới nhét vạt áo vào trong quần trước khi vào cổng. Tôi bắt gặp vài bạn khác cũng làm như thế. Có lẽ các bạn ấy cũng từ nhà quê lên tỉnh lần đầu như tôi. Thì ra chuyện “cả quỷnh” này không chỉ riêng tôi. Trong bài thơ “Với bạn học ngày xưa chưa gặp lại” tôi có ghi lại kỷ niệm này: Trò quê ra tỉnh còn chân đất Đồng phục chưa quen áo đóng thùng… Trong một tấm ảnh lớp tôi thời đó còn thấy nhiều đứa ăn mặc rất lộn xộn: đứa quần dài, đứa quần “soọc”, phần lớn quần “tây” trắng, có đứa quần đen (do ảnh trắng đen, chắc là quần xanh đậm), đứa mang xăng-đan, đứa mang dép. Anh bạn LVN, một giáo sư toán tương lai, dấn một cái quần soóc, với đôi bata trắng và vớ trắng. Tuy nhiên tất cả đều áo đóng thùng. Một hôm, đến giờ tan học, học trò chúng tôi trên lầu đang đổ xuống cầu thang, tôi chợt nghe có đứa la hốt hoảng: “Thầy Giêng! Thầy Giêng!” Vài đứa thối lui không xuống cầu thang. Tôi ngạc nhiên: Thầy Giêng thì sao? Tôi chưa biết ông thầy Giêng là ông nào. Mà sao chớ? Tôi cứ tiếp tục xuống. Xuống hết cầu thang thì tôi hiểu ra: Thầy Vĩnh Giêng là Giám học của trường. Ông đang chận bắt những đứa học trò đi chân đất! Thầy chỉ vào tôi, hỏi lớn: “Dép đâu?” Tôi ú ớ nhưng kịp phản ứng khá nhanh: “Thưa thầy, guốc con mới đứt quai còn một chiếc, con bỏ lại trên lớp”. Vậy mà tôi thoát. Hồi đó một số học sinh nam mang guốc mộc, hoặc cũng gọi là guốc vông. Có mấy đứa cũng chân đất như tôi, bị bắt đứng lại đó, không biết ra sao. Tuy nhiên, tôi không mừng mình “may mắn” hơn các “can phạm chân không” ấy, mà tôi mắc cỡ: Sao tôi có thể nói dối tự nhiên đến thế? Mãi sau này và tới bây giờ, bảy mươi tuổi rồi tôi vẫn còn mắc cỡ với câu nói dối đó.
Cái dở của Thánh nhân Trong số các tác phẩm của học giả Thu Giang Nguyễn Duy Cần trước kia, nếu tôi nhớ không lầm, có một cuốn sách có nhan đề “Cái Dũng của Thánh Nhân”. Cái tựa sách cho biết nội dung cuốn sách. Sự dũng cảm, dù của một người bình thường đã không phải là dễ cho mình học theo. Cái dũng của những bậc thánh nhân thì mình càng không thể nào học được. Dường như cũng chính học giả ấy, trong một cuốn sách khác đã nói rằng “Cái ngu của người xưa dạy ta nhiều hơn cái khôn của họ”. Tôi cho câu nói này là thật hay, thật chí lý. Khó bắt chước cái khôn của bậc thánh nhân, nhưng ta có thể tránh lập lại những điều dở mà họ đã làm. Cái sai lầm của họ cảnh báo ta tránh phạm phải cùng những điều tương tự. Cũng như mọi đứa học trò nói chung, tôi rất biết ơn các vị thầy cô đã dạy dỗ tôi từ tiểu học cho đến đại học, trong đó các giáo sư của trường Trung học Phan Bội Châu là tôi nhớ hơn hết, với niềm kính trọng chân thành. Nhưng cũng rất tiếc, một vài giáo sư Phan Bội Châu đã vô tình gây trong lòng tôi những vết thương mà bây giờ vào tuổi thất tuần nhớ lại tôi vẫn lấy làm tiếc. Tôi rất thông cảm với anh Nguyễn Duy Sâm về nỗi hận bị thầy Giêng tát tai. Chính tôi cũng từng bị thầy hiệu trưởng Lê Tá đánh một cách oan ức như anh Sâm vậy. Tôi còn bị nhiều hơn anh Sâm nữa. Ngay vào đầu năm học Đệ Thất, một buổi trưa tôi đến trường rất sớm trước giờ học. Đó là thói quen của thời tiểu học ngay trước đó. Có lẽ do hồi đó không có nhiều trò chơi cá nhân nên bọn học trò tiểu học thường đến trường rất sớm vào buổi trưa để túm tụm chơi với nhau. Hôm đó có nhiều học sinh đã đến trước tôi, đang chơi bóng bàn tại hai cái bàn “banh bong” đặt ở dãy nhà ngang phía trong. Tôi không biết chơi (dân nhà quê mà), nhưng cùng với những đứa khác đến xem họ chơi. Trận đấu khá hào hứng nên các đấu thủ vừa chơi vừa la hét rất náo nhiệt. Tôi vốn là chú bé quê mùa, chưa hiểu được kỹ thuật và cái hay của môn thể thao này, nên chỉ chăm chú nhìn chớ không cổ vũ cho bên nào. Bỗng dưng tất cả đám khán giả lẫn các đấu thủ rùng rùng bỏ chạy hết, chỉ còn mình tôi ngơ ngác đứng lại. Tôi chưa kịp hiểu tại sao thì trước mặt tôi đã xuất hiện một người đàn ông đậm người trong bộ quần áo pyjama, hai bàn tay thủ trong hai túi áo ngủ, mặt giận hầm hầm bước xốc tới. Tôi vừa kịp nhận ra thầy Hiệu trưởng thì cái tát của thầy đã đánh vào mặt tôi. Tôi vốn chỉ quen với hình ảnh thầy Hiệu Trưởng “mặc đồ Tây” thắt cà vạt trịnh trọng chớ chưa thấy thầy mặc đồ ngủ bao giờ nên không nhận ra thầy từ xa. Mà dù nhận ra, có lẽ tôi cũng không bỏ chạy như các bạn kia: Họ là thủ phạm đánh bóng bàn và la hét phá giấc ngủ trưa của thầy, chớ có phải tôi đâu? Mà cho dù chính tôi là một trong những thủ phạm đó tôi biết mình sẽ không bỏ chạy. Từ xa đi đến chắc chắn là thầy thấy rõ tôi chỉ là đứa có mặt đứng xem, chớ không la hét. Tôi nhớ rõ phản ứng của tôi ngay sau khi bị đánh: tôi đã quắc mắt lên nhìn thẳng vào cái mặt giận dữ của thầy một cách sửng sốt lẫn căm hờn. Thầy quay người bỏ đi. Một lần khác, thầy TV vào lớp. Thầy dạy môn tiếng Anh. Thầy là thi sĩ, ít năm sau sẽ là tác giả của một thi phẩm đầu tay có tên “Người Yêu Tôi Khóc”. Thầy luôn luôn “côm lê cà vạt” rất chững chạc dù trời Phan Thiết khá nóng. Thầy nhìn lên bảng: có ai đó bắt chước chữ ký của thầy đã ký lên bảng một chữ TV thật to bằng phấn chiếm gần một nửa chiều dài tấm bảng sơn màu xanh lá cây đậm. Thầy hỏi cả lớp không ai nhận. Thầy phạt zero cả lớp và bắt cả lớp phải đứng gần một tiếng đồng hồ nghe thầy mắng. Không biết các bạn tôi ra sao, nhưng tôi rất tổn thương, và hình ảnh ông Thầy vốn hết sức lớn lao và thiêng liêng trong lòng đứa học trò nhà quê bỗng trở nên nhỏ nhoi thảm hại, đến nỗi từ đó cho đến nay, tôi chưa hề đọc một câu thơ nào của vị giáo sư thi sĩ ấy. Một vị giáo sư khác cũng dạy môn Anh Văn nhưng vào một năm khác, có một đứa em cùng học chung lớp với chúng tôi. Thầy vô cùng nóng tính, thường bẻ đôi viên phấn trong tay ném thẳng vào mặt học sinh nào phạm lỗi khi đặt câu hay trả lời thầy không đúng. Tôi không biết nếu nạn nhân không tránh đỡ kịp mà bị viên phấn đánh trúng vào mắt mình thì hậu quả sẽ ra sao. Thực ra, rất may, một tai nạn như thế đã không xảy ra. Trong lúc đó mặt thầy thể hiện sự hằn học như thể thù hằn. Đặc biệt thầy thường tát vào mặt đứa em của thầy một cách giận dữ ghê gớm, khiến chúng tôi sợ xanh mặt. Mỗi tuần chúng tôi có một giờ học vẽ với một giáo sư trẻ tuổi, ăn mặc rất “mốt” và rất chải chuốt. Cuối năm học lớp Đệ Lục thầy đã phê trong học bạ của tôi câu này: “Hay chuyện và làm ồn”! Thầy là người phê đầu tiên cho nên các giáo sư khác sau đó thấy vậy chỉ ghi vỏn vẹn hai chữ “Học được”, dù tôi học không tồi và không hề làm một điều gì sai quấy trong lớp. Đến giờ sau của thầy, tôi cầm cuốn học bạ lên bàn thầy: “Thưa thầy, thầy biết tên em là gì không ạ?” Thầy nhướng mắt nhìn tôi: “Sao tôi phải biết tên anh? Mỗi tuần tôi chỉ dạy các anh chị một giờ, làm sao tôi có thể biết hết tên từng người được?” Tôi hỏi tiếp: “Thưa thầy, thầy biết em ngồi chỗ nào không?” Đến đây thì thầy cảm thấy thằng học trò có điều gì không ổn. Thầy quắc mắt: “Anh ngồi ở đâu mặc anh, hỏi tôi làm gì? Về chỗ đi”. Tuy học Đệ Lục, nhưng tôi lớn tuổi hơn học trò lớp Bảy bây giờ. Và không may cho tôi, từ khi còn nhỏ trước đó, tôi không sẵn sàng chấp nhận một sự bất công nào cả. Mà tôi cũng không hề nghĩ rằng các vị thầy lại có thể là người bất công. Do tính nông nỗi trẻ con đòi hỏi sự công bằng nơi người lớn, tôi nói ngay: “Suốt cả năm học thầy không biết tên em. Thầy không biết em ngồi chỗ nào trong lớp. Thế mà thầy đã phê trong học bạ của em “Hay chuyện và làm ồn”. Lời phê của thầy vừa không đúng vừa sai văn phạm!” Thầy đã mắng át tôi giữa lớp vì tội “hỗn láo”, và mắng luôn cả lớp một trận. Thầy đã phê cho nhiều đứa như thế chớ có riêng gì tôi đâu! Một giáo sư dạy chúng tôi môn Việt văn. Hôm đó thầy giảng Chinh Phụ Ngâm. Với câu “Gieo Thái Sơn nhẹ tựa hồng mao”, thầy giảng: “Một người đứng trên đầu núi Thái Sơn gieo mình xuống, thân hình bay là là trông nhẹ như một chiếc lông hồng!” Tôi vụt giơ tay. Thầy gọi đứng dậy. Tôi nói: “Thưa thầy, một người gieo mình trên núi Thái Sơn thì gọi là gieo Thái Sơn. Nếu có người đứng trên cầu Mường Mán [2] gieo mình xuống thì gọi là gieo cầu phải không thầy?” Vài tiếng cười bật lên. Thầy đỏ bừng mặt, vẫy tôi ngồi xuống và cho tôi một cặp zero. Tôi không hiểu tại sao. Cặp zero đó là của thầy mới phải chớ? Cũng vị giáo sư này từng giảng câu thành ngữ “tam sao thất bổn” là… ba lần sao được bảy bản! Đến nay, hơn nửa thế kỷ đã trôi qua, có lẽ vị giáo sư đáng kính này đã quên những chuyện vấp váp vụn vặt đó, nhưng một số bạn cùng lớp của tôi mỗi lần họp mặt, ôn lại những kỷ niệm xưa vẫn còn nhớ và nhắc lại với nhau câu thành ngữ mới “ba lần sao bảy bản”. Một chuyện cuối cùng: Năm Đệ Tam, một nữ giáo sư dạy chúng tôi môn Công dân giáo dục. Tôi không nhớ cô giảng thế nào, và tôi đã hỏi cô những câu gai góc thế nào đến nỗi cô tức giận mắng tôi một trận tơi tả tại lớp. Xong rồi, cô bỏ lên văn phòng. Và thầy Hiệu trưởng Lê Tá đích thân xuống lớp gọi tôi ra. Tôi theo thầy lên văn phòng. Thầy chỉ tôi ngồi xuống ghế đối diện với thầy và buộc tội là học trò vô lễ với giáo sư. Và tôi sẽ bị đưa ra hội đồng kỷ luật. Tuy học Đệ Tam nhưng do học trò nhà quê học muộn vài tuổi, tôi lớn tuổi hơn học trò lớp mười bây giờ. Tôi đã nhìn thẳng vào mắt thầy hiệu trưởng, trình bày lại với thầy chuyện đã xảy ra dưới lớp với cô giáo Công Dân. Và tôi cả quyết cả lớp sẽ sẵn sàng xác nhận điều tôi tường thuật với thầy. Nhân đó tôi nói luôn tất cả những điều các thầy đã cư xử với cá nhân tôi và với cả lớp tôi từ trước đến nay, kể cả chuyện bản thân thầy hiệu trưởng đã đánh oan tôi từ năm Đệ Thất. Thầy hiệu trưởng sửng sốt. Thầy hỏi tôi vài câu, và thầy ngồi nghe tôi nói hết. Cuối cùng thầy nói: “Thôi được. Tôi sẽ nói chuyện với các giáo sư và sẽ cho em biết biện pháp kỷ luật sau”. Không có biện pháp kỷ luật nào cả. Hôm sau, vào giờ chào cờ vào lớp, thầy Hiệu trưởng có đôi lời nói chuyện với học sinh về tinh thần học tập vân vân. Thầy tiếc đã xảy ra những chuyện này chuyện khác giữa thầy và trò vân vân. Có lẽ không phải chỉ một mình tôi ngầm hiểu thầy đang nói với tôi. Sau tất cả những “cái dở của thánh nhân” nói trên, lần này thầy Hiệu trưởng không dở. Và đúng như tác giả Thu Giang Nguyễn Duy Cần đã nói: “Cái ngu của thánh nhân dạy ta nhiều hơn cái khôn của họ”. Thầy cô là các thánh nhân trong con mắt học trò chúng ta ngày đó. Nhưng có lẽ chúng ta học được rất ít từ những cái khôn lớn lao của thánh nhân. Nó cũng giống như mưa trên trời rơi xuống: chỉ một ít nước thấm vào lòng đất, phần lớn “trôi sông trôi biển”. Nhưng bù lại, nhờ học được từ những “cái dở của thánh nhân” đó, tôi nghĩ mình cũng như nhiều người khác, về sau có hạnh phúc được làm thầy, hiểu phần nào tâm lý lũ học trò con nít nông nỗi vì vô tư nhưng nhạy cảm, nên đã ít gây tổn thương cho những tâm hồn non dại của đám học trò của mình. Có lẽ nhờ những “bài học của thánh nhân” đó mà tôi hy vọng mình đã không để lại trong lòng một đứa học trò nào của mình một vết thương nào, dù rất nhỏ. Nhớ về ngôi trường cũ Phan Bội Châu thân yêu của mình thường thì chúng ta nhớ nhiều kỷ niệm vui. Nhưng những kỷ niệm ít vui này không phải là không có mặt tích cực đáng nhớ. Có lẽ chúng giúp điều chỉnh một chút nào đó trong nhân cách của chúng ta để từ đó chúng ta tránh được việc vô tình gây tổn thương cho thế hệ học trò sau mình. Biết ơn thầy cô có lẽ cũng cần phải biết ơn cả những điều mà thầy cô không chủ ý dạy mình. Đó là những cái dở của họ. Vấn đề là cách mình “tiếp thu”. Nền giáo dục trong nước đang xuống cấp trầm trọng gần như toàn diện. Có phần nào trong sự xuống cấp đó là “phản ảnh” lại những điều tiêu cực mà một số các vị thầy hôm nay “tiếp thu” được từ một số người trong lớp các thầy của họ trước đó không? Thiếu Khanh.
[1] Do ở trong nước, tôi không đọc được trực tiếp bài viết của anh Nguyễn Duy Sâm trên tập san (Có lẽ nằm trong Đặc San Ân Tình V ) [2] Cây cầu sắt duy nhất lúc bấy giờ bắc qua con sông Mường Mán, cũng gọi là sông Cà Ty chảy ngang qua và chia đôi thị xã Phan Thiết; bên tả ngạn là khu trụ sở của các cơ quan hành chánh, bên hữu ngạn là khu thương mại. CHỢ TRỜI Sau ngày giải phóng đất nước 30/4/75, sinh hoạt tại Tp.HCM có chiều hướng ít nhiều thay đổi, tại nhiều khu phố thấy lác đác hình thành nhiều tụ điểm buôn bán lẻ ở các vỉa hè, lề đường, phần nhiều hàng hóa bày bán là những loại máy móc giải trí trong gia đình, mới có cũ có vì người dân cho rằng những loại sản phẩm đó không còn hợp thời nữa, chen lấn với những nơi bày bán hàng kim khí cũng có một vài nơi bán thực phẩm tươi sống mà khách hàng muốn tránh đi đến những cửa hàng sang trọng đắt tiền. Một trong những nơi kể trên là những khu chợ tự phát được gọi nôm na là “chợ trời” đường Tôn Thất Thiệp quận I, nhưng chợ trời là chợ gì – nghe thật cũng lạ. Xưa nay, một khu chợ truyền thống thì phải có nhà lồng, hoặc ở thôn quê thì gọi là đình chợ để bạn hàng có nơi che mưa che nắng bày hàng ra trên nền nhà không cần phải trật tự mấy, nên có khi chậu nước có con cá lóc quẫy tung ra ngoài lối đi va vào chân khách hoặc những xâu ếch nhái bày la liệt dưới đất mà còn tiếng kêu ộp ộp, chung quanh đình chợ cũng có một vài sạp hàng xén bán những vật dụng cần thiết cho nhà bếp như dao, thớt, muỗng, nĩa, vv…, các sạp vải hoặc quần áo thì ngăn nắp hơn, những kiểu chợ này được gọi là chợ có nhà lồng, có những sạp hàng đủ loại vây quanh, thường chiếm một khu diện tích đất khá lớn, nhưng ở những tụ điểm phát sinh trên các ngách đường, cũng kẻ buôn người bán nhộn nhịp nhưng chỉ có trên là trời và duới là đất. Tên gọi “chợ trời” là xuất phát từ đâu và từ nơi nào đã du nhập về thành phố. Trên đường từ Sài Gòn đi Tây Ninh, khi đến thị trấn Gò Dầu hạ, cách Sài Gòn độ 70 cây số, có một ngã ba rẽ phía tay trái, theo con đường này khi qua khỏi chiếc cầu bê tông bắt qua sông Vàm Cỏ Đông, đi độ 5 cây số là đến biên giới Việt Miên, bên này thuộc địa phận tỉnh Tây Ninh còn bên kia là tỉnh Svay Riêng của Campuchia. Ranh giới không cắm mốc tại nơi này đã có từ lâu mà chỉ có một đường tưởng tượng cắt ngang con đường nhựa để đâm thẳng qua đồng ruộng bao la, hai bên, người dân Cao-miên thường đem đến đây hàng hóa của họ gồm có gia cầm, gà vịt là rất nhiều và đặc biệt là hàng chén dĩa kiểu mà lật khu chén lên thấy đề “made in china” và thuốc lá ngoại quốc cũng rất nhiều được bày bán ngay dưới ruộng đã qua mùa gặt hái đất khô nứt nẻ, người Việt chúng ta không có hàng đối tác đem lên để trao đổi, nói cho đúng hàng chén dĩa ly tách của họ rất thanh, nước men sáng sủa, hình vẽ thanh nhã, nên ban đầu, người dân Sài Gòn chỉ lên đây chủ ý để mua vài chục chén về biếu bà con, nhưng về sau con buôn thấy món hàng này bán rất chạy nên thường lên đây để mua về cung cấp cho các chợ ở Sài Gòn. Tên gọi “Chợ trời Gò Dầu hạ” cũng phát sinh từ đấy và tên gọi “chợ trời” cũng đã xâm nhập từ đó ở con đường Tôn Thất Thiệp. Chợ trời Gò Dầu hạ đã hình thành từ lâu trước cả 1965 nhưng mức phát triển của nó cũng đáng kể. Chánh quyền Sài Gòn lúc bấy giờ cũng muốn ngăn chặn lối buôn bán bất hợp pháp này nên đóng một chốt hải quan ngay tại Thị trấn Gò Dầu, nhưng con buôn vốn nhiều mánh khóe đã thuê đám “Cửu vạn” gùi hàng băng đồng ra quốc lộ Tây Ninh - Sài Gòn nên hàng hóa phần nhiều về thành phố trót lọt. Mãi đến một thời gian sau, khu chợ trời Tôn Thất Thiệp mới đuợc giải tỏa để đưa vào một khu buôn bán có trật tự là khu “Dân sinh” cho đến bây giờ và tên gọi “thối thân” của chợ trời hiện nay là nhóm buôn bán “lề đường” có đông người qua lại, trải hàng trên chiếc “poncho” để dễ bề túm gọn vác lên lưng chạy mỗi khi có bóng dáng nhân viên công lực xuất hiện. Tên gọi “chợ trời Tôn Thất Thiệp” vốn đã quen thuộc với dân chúng Sài Gòn một thời gian khá lâu, vào những lúc rảnh rỗi họ rủ nhau đến nơi này để ngắm hàng hoặc mua một vài món cần thiết. Theo lịch sử nước nhà dưới thời đại phong kiến xin kể qua nhân vật có tên đường thuộc quận I hiện nay. Ông là liệt sỹ của triều Nguyễn, người hoàng tộc, con thứ của quan Phụ Chánh Thân Thần Tôn Thất Thuyết. Khi kinh đô Huế thất thủ (Ất Dậu 1885) vua Hàm Nghi xuất bôn, bấy giờ Tôn Thất Thiệp mới 15 tuổi cũng xin đi theo. Tại vùng rừng núi tỉnh Quảng Bình khi cha là Tôn Thất Thuyết sang Trung Hoa cầu viện, Tôn Thất Thiệp lo việc bảo vệ cho vua Hàm Nghi không rời khỏi nhà vua một bước. Đến khi hai tên Trương Quang Ngọc và Nguyễn Đình Tĩnh bội phản đưa người Pháp lên bắt vua Hàm Nghi ở khe Tá Bão, Tôn Thất Thiệp nằm bên cạnh phòng vua ngủ, thấy động cầm gươm xông ra, chẳng may bị một tên Mường phóng một ngọn giáo xuyên qua ngực, ngã xuống chết ngay. Hôm ấy nhằm ngày 1.11.1888. Hai bức thư cảm động và đầy khí tiết của một vị tướng hoàng gia triều Nguyễn Tôn Thất Đạm là một vị võ tướng triều Nguyễn có lòng trung liệt hiếm có đã cùng với cha là Tôn Thất Thuyết và em là Tôn Thất Thiệp phò vua Hàm Nghi trên bước đường luân lạc sau khi kinh đô Huế thất thủ (1885). Giữ chức Khâm sai Tán Lý quân vụ, đóng quân ở ngàn Hà Tĩnh, chỗ hai hạt Kỳ Anh và Cẩm Xuyên, Tôn Thất Đạm là mối liên lạc giữa vua Hàm Nghi và Quân Cần Vương ở các nơi. Sau khi vua Hàm Nghi bị bắt (vào khoảng tháng 11 năm 1888) Tôn Thất Đạm thất vọng liền tự tử để bảo toàn tiết nghĩa - năm ấy ông mới 22 tuổi. Hai bức thư của Tôn Thất Đạm viết trước khi tuẫn tiết với lời lẽ chân thành thống thiết đã tỏ rõ tấm lòng trung dũng của một người dân Việt quyết liều đem thân thế để trả nợ núi sông. Bức thư thứ nhứt đệ gởi cho vua Hàm Nghi: “Niên hiệu Hàm Nghi thứ 4, tháng 11 ngày mồng 8. “Thần Tôn Thất Đạm, Khâm sai Chưởng lý Quân vụ, cúi dâng ngự lãm. “Không được gần gũi Hoàng Thượng để hộ giá khi có phản thần làm việc ám muội, thần mang tội rất lớn. “Song đây là mệnh trời xui khiến nước ta gặp bước gian nguy và các công thần không được gần vua để cứu giá. “Các quan văn võ sẽ mang hận ấy suốt đời, vậy xin Hoàng Thượng tha thứ cho và thề sẽ hết lòng trung cho đến thác.” Bức thứ hai gửi cho thiếu tá Dabat, sỹ quan Pháp chỉ huy đồn Thuận Bài. “Niên hiệu Hàm Nghi thứ 4, tháng 11 ngày mồng 8. “Khâm sai đại thần Tôn Thất Đạm thư kính sỹ quan Pháp, quản đồn Thuận Bài “Những việc khốn nạn vừa xảy ra ở nước tôi bắt buộc tôi phải viết thư cho ngài: “Cha tôi vì nước phải xuất dương hiện chưa về, tôi phải kế căn nghiệp lớn lao mà vua tôi chẳng quản tôi tuổi trẻ tài hèn đã phó thác cho tôi. “Tôi không hiểu sao trời lại xui khiến để vua phó thác cho tôi cái trách nhiệm quan trọng ấy và tôi rất tiếc rằng không được ở cạnh vua để cứu giá và giết chết bọn phản thần hoặc cùng chết với em tôi khi quân phản nghịch bắt vua mà nạp cho quân địch. Về phía chúng tôi thì tự nhiên không bao giờ chúng tôi khiêu chiến với người Pháp. Nếu chúng tôi có chống với người Pháp chẳng qua chỉ là vì phận sự phải che chở cho bờ cõi và hết lòng trung theo vua khi Ngài rời bỏ kinh thành. “Nay chúng tôi bị thua, cái then của chiến bại đã đến bước cùng. Vậy xin Ngài cho các tướng sĩ được về quê hương an trí làm ăn và không phải ra thờ triều đình mới”. Tương truyền trước khi tuẫn tiết, Tôn Thất Đạm cho đòi các quan văn võ thuộc hạ đến, khuyên họ ra thú ở đồn Thuận Bài để rồi cáo về quê hương an nghiệp làm ăn và không nên nhận chức tước và thờ vua mới, đoạn ông nói tiếp: “Còn phần tôi, nếu người Pháp có hỏi, các ông cứ bảo họ vào rừng mà tìm mả”. Dứt lời Tôn Thất Đạm giật chiếc khăn quấn trên đầu thắt cổ tự tử. Bấy giờ là ngày 12 tháng 10 năm Mậu Tý (nhằm ngày 15.11.1888). PPT ghi Ghi chú: - Đồn Thuận Bài thuộc địa phận tỉnh Quảng Bình - Tôn Thất Đạm là anh của Tôn Thất Thiệp, cả hai đều là con của Phụ Chánh Thân Thần Tôn Thất Thuyết. - Theo ông Gosselin trong sách “Le Laos et le Protectorat Français” thì Tôn Thất Đạm thắt cổ mà chết, còn theo Bailla tác giả sách Souvenirs d’Annam thì bảo rằng Tôn Thất Đạm uống thuốc độc. - Đường Tôn Thất Thiệp nối liền đường Pasteur và đường Nguyễn Huệ, đường Tôn Thất Đạm nối liền đường Tôn Thất Thiệp và đường Hàm Nghi, cả hai đường đều nằm trong địa bàn quận I thuộc Tp. HCM hiện nay.
LÉONARD DE VINCI Thiên tài đặc dị, đa diện, đa năng nhưng suốt đời vẫn lao đao, lận đận Mặc Tường Ly Khoảng giữa thế kỷ thứ XV, một đứa con hoang mà thiên tài đặc dị mãi đến nay vẫn còn ám ảnh mọi giới nghệ thuật được sanh ra đời trong một ngôi nhà đã nát ở Vinci (Ý) Cha là một chưởng khế, mẹ là một thiếu nữ nhà quê, đứa bé được đặt tên là LÉONARD và lấy tên làng của mẹ và nơi sinh là VINCI làm họ. Viên chưởng khế sau đó bỏ rơi mẹ Léonard để cưới vợ nhưng bà vợ của ông lại không sanh đẻ, ông mới tìm bắt Léonard về nuôi. Lúc đó Léonard được 5 tuổi. Còn mẹ của Léonard? Không ai được biết gì khác hơn là bà tên Catherine. Người đàn ông bạc tình, tàn nhẫn kia không cho bà được nhìn con. Bà vì quá nghèo khổ, hy vọng con sẽ được sung sướng bên người cha danh giá nên đã hy sinh rút lui vào bóng tối. Sự thiếu vắng tình thương bao la như trời biển của mẹ đã đè nặng lên tâm hồn Léonard từ tuổi bừng sương. Thiên tài đặc dị về hội họa, điêu khắc, kiến trúc và âm nhạc đó đã thấy không gì có thể an ủi được nỗi đắng cay, chua chát và thống khổ trong lòng đứa con thiếu mẹ. Viên chưởng khế cố chu toàn cho Léonard mọi thứ. Ông được tự do rong chơi và không thiếu thốn gì cả. Nhưng chỉ có vậy thôi. Ngoài cái đầy đủ về vật chất, viên chưởng khế đâu có đem lại được cho ông thứ mà ông đang khao khát là Tình Thương của Mẹ! Léonard không được hưởng những phút giây êm ấm trong vòng tay mẹ. Ông đành tìm những nguồn an ủi ở Tạo vật. Ông nhặt những hòn đá, những giống cây hiếm có, những loại côn trùng lạ rồi vẽ lại để ghi nhớ hình ảnh các chiến lợi phẩm của tuổi thơ tìm tòi… Léonard có nhiều khả năng đặc biệt, viết được cả hai tay và viết ngược nữa nhưng thiếu người hướng dẫn, không thích học chữ. Do đó, Léonard đã gần như dốt. Đó là điều sau này Léonard hối tiếc mãi. Tác phẩm đầu tiên đã bị… bóc lột Năm Léonard 15 tuổi, một dân quê đem biếu viên chưởng khế một miếng gỗ quý đẽo thành cái thuẫn. Léonard bỗng có ý muốn tô điểm nó cho thêm đẹp. Viên chưởng khế chiều con, trao cho Léonard miếng gỗ đó. Léonard đóng kín cửa phòng làm việc ròng rã 8 ngày. Ông vẽ lên đó một quái vật với đôi mắt đỏ rực như than hồng, miệng khạc ra lửa. Khi đem trình cho cha, Léonard vui vẻ nói: “Con nghĩ là con đã thành công trong họa phẩm này”. Sau khi nhìn kỹ, viên chưởng khế đồng ý và đem bán cái thuẫn có họa đó cho một người thợ kim hoàn 10 đồng ducat. Người này đem bán lại cho quận công de Milan 300 đồng ducat. Sự kiện tác phẩm bị khai thác, bóc lột này đã trở thành định lệ đối với Léonard sau này. Năm Léonard 16 tuổi, viên chưởng khế gởi ông đến học với người thợ kim hoàn kiêm họa sĩ ở Florence tên Verrochio. Cậu bé ham sống với thiên nhiên, bỏ bê học hành giờ mới thấy hối hận vì sự dốt nát của mình. Thiếu căn bản văn hóa, Léonard thấy mình thua sút, thấp kém đối với giới trí thức đương thời. Verrochio là một thợ kim hoàn tinh nhuệ, hiểu biết tường tận kỹ thuật pha chế. Ông nhồi đất sét nắn khuôn, đổ đồng rồi gọt, dũa mài, làm bóng loáng tác phẩm. Nhưng nghề kim hoàn không được coi trọng và cũng không kiếm được nhiều tiền hơn nghề thợ may quần áo cho các nhà quý phái. Léonard bắt đầu chăm chỉ học đủ mọi thứ. Ông vẽ kiểu những cái đồng hồ nước, sáng chế nhiều nhạc khí (những chiếc tỳ bà bằng xương sọ thú vật hoặc xương cá). Ông cũng tìm hiểu về thiên văn học. Mặc dầu tánh tình cô độc trầm lặng, ông vẫn thích đuợc ca ngợi, tán tụng. Những tài vặt của ông rất được bạn bè tán thưởng. Ngoài ra ông còn có sức khỏe kinh người, có thể chặn đứng một con la chứng đang lồng lên, bẻ cong một cái móng ngựa và làm các trò ảo thuật. Trong xưởng vẽ của Verrochio có một bức tranh vẽ dở dang đề tài Baptême du Christ. Một hôm, ông đi vắng, Léonard lẻn vào vẽ lên đó một thiên thần quỳ gối và hoàn thành luôn bức tranh. Khi Verrochio về, thấy bức tranh đã hoàn thành, lắc đầu thán phục: “Quả là một kiệt tác!”. Qua thời kỳ tập sự, các bạn của Léonard rời xưởng về với gia đình. Không biết về đâu, Léonard đành tạm trú ở xưởng vẽ của Verrochio và làm việc cho ông này. Léonard cũng xin ghi tên vào nghiệp đoàn họa sĩ với hy vọng sẽ được nâng đỡ trong bước đầu. Không có cơ hội tiến thân Đến 21 tuổi, Léonard vẫn còn lận đận. Ông không làm được chuyện gì cho trọn vẹn cả. Trong các bản thảo của Léonard người ta thấy có ghi tổng quát những điều hiểu biết của ông. Những điều mà khi đọc đến mọi người đều nhìn nhận là đầu óc Léonard thật vĩ đại, sức tưởng tượng thật phong phú, nhiều ý nghĩ thật ngộ nghĩnh, ngược đời nhưng lập luận rất vững chắc. Luôn bị cuốn hút trong triều suy tư, Léonard cảm thấy như ông không bao giờ có thì giờ để hưởng thụ hay hoàn tất một công việc gì. Các tu sĩ ở Scopetto đã đặt Léonard bức tranh Adoration des Mages. Ông phải nghiên cứu, tìm tòi, sưu tập thật kỹ về những sự kiện có liên quan đến việc thờ phượng của các vị thầy cúng này nên không thể hoàn thành mau lẹ được. Các tu sĩ nóng lòng, cứ thúc dục và chỉ trao thức ăn cho ông ăn tùy theo mức tiến triển của việc làm. Ông vẫn không than phiền, cứ tà tà làm việc theo sự hiểu biết của mình. Nhưng một ngày kia, phút xuất thần đột khởi khi ông hoàn toàn thấu triệt đề tài. Các tu sĩ thấy thích thú và thưởng cho ông một thùng rượu chát. Thế là Léonard lại nhậu lu bù, bất kể công việc… Chuyển hướng tư tưởng Những biến cố chánh trị cùng việc ám sát Đức Tổng Giám Mục đã đặt Florence duới sự thao túng của đoàn quân vệ đạo. Những cuộc xung đột đã hướng trí tưởng phong lưu của Léonard về kỹ nghệ chiến tranh. Ông nghĩ đến những ụ súng có 3 bánh xe để chở đại bác và nhiều sáng chế đặc biệt khác nữa nghe rất hợp lý. Nhưng không ai ngó ngàng gì đến các sáng kiến của ông. Sự hờ hững này làm ông chua xót và cảm thấy lòng tự ái bị tổn thương nặng nề. Ông bỗng có ý nghĩ ly hương, tìm lập nghiệp nơi quê người. Không tưởng và… tiên kiến Léonard đã đến Milan với một cây cổ cầm bằng bạc hình xương sọ ngựa, dây đàn móc ở răng. Ông vào yết kiến Ludovic de More, vị lãnh chúa ở đó. Ông đã gặp chung quanh vị lãnh chúa này bao nhiêu là kẻ quyền thần, gian nịnh, bợ đỡ. Những mâu thuẫn của các mưu mô liên kết, phản bội lẫn lộn với tình yêu và thù hận tạo thành một không khí căng thẳng, ngột ngạt. Giữa nhà cầm quyền, giới quý phái và dân chúng có một bức tường ngăn cách sâu xa. Dân chúng đã phải làm lụng cực khổ mà không đủ cơm ăn, áo mặc lại phải còng lưng trả các thứ sưu cao, thuế nặng cho vị lãnh chúa và bọn quan lại. Phải 8 năm dài sống trong guồng máy đó ông mới được chú ý tới. Trong thời gian dài đăng đẳng này, Léonard ít có dịp thi thố khả năng hội họa. Ông chỉ thỉnh thoảng vẽ cho vui thôi. Các đồ hình và các sáng chế kỹ thuật quân sự của ông có được Ludovic xem qua. Lúc đó, ông trời con này đang nơm nớp lo sợ sự nổi dậy của dân chúng và đang có chiến tranh với Pháp. Những chiến cụ khiếp đảm, những máy móc kỳ dị được vẽ trong một khung cảnh đẹp cổ điển tố cáo cái ngây thơ của một thiên tài khát khao canh tân nhưng không hiểu gì về định luật biến dịch của nguyên liệu. Như vậy, những hình ảnh này cũng đã cho thấy viễn tượng nguy hại, tàn bạo của thời đại máy móc ngày mai. Đó là những hỏa tiễn quay tròn (được sáng chế trở lại năm 1846), những quả bom hơi độc làm tê bại, mìn có cò mổ, tạc đạn hình nón, chiến đấu xa, vòi phun lửa… Cả một kho binh khí có thể gây chết chóc thật nhiều và trong nháy mắt. Những bánh xe có răng cài vào nhau và những cái rỏ rẻ để kéo càng làm cho Ludovic lóe mắt, ngật ngừ như muốn say… Léonard cũng đã nghĩ đến chiếc xe hơi suờn bằng gỗ, thùng xe được bọc bằng bố dầy. Một cái máy gồm có 2 cái nhíp lò xo thật mạnh hình bán bầu dục để kéo hai bánh sau và một tay lái điều khiển hai bánh trước. Chiếc xe này có thể chạy vài trăm thước và là chiếc xe tự động đầu tiên trên thế giới. Không tưởng và trực giác thiên phú, tiên kiến lẫn lộn rồi đứng chựng không lối thoát giữa những sự kiện vô lý và điều khả dĩ thực hiện. Những gì Léonard nghĩ không phải là hoàn toàn không tưởng nhưng vì không được sự góp ý, cải biến nên còn nhiều khiếm khuyết đó thôi. Chương trình chỉnh trang đô thị Năm 1490, bệnh dịch hạch hoành hành ở Milan. Ludovic nghe lời các lão chiêm tinh, bói toán chạy về đồng quê. Léonard đưa ra một chương trình vệ sinh công cộng và những biện pháp ngăn ngừa dịch hạch. Ông thảo một kế hoạch chỉnh trang thành phố hết sức tỉ mỉ, vĩ đại. Có lẽ đó là chương trình chỉnh trang thành phố đầu tiên trên thế giới. Léonard chia thị dân thành từng khóm 30.000 người, nới rộng đường sá, đặt hệ thống cống rãnh để thoát nước và chôn rác rến dơ bẩn. Ông đề nghị làm những con đường hai từng. Từng trên dành cho giới quý phái. Từng dưới dành cho xe cộ và dân chúng. Để xây cất những thị xã tối tân, Léonard nghiên cứu đối chiếu luật viễn cận với tầm mắt, nhận xét về mắt và khám phá ra thủy tinh. Nhưng không ai buồn nghe theo lời đề nghị của ông cả. Ông ép lòng nhờ người nói với Ludovic để ông được… làm một cái gì đó. Sự xuống nước của ông có lẽ làm Ludovic thương hại, tặng ông một bộ quần áo và giao cho ít công việc lặt vặt. Sau đó, ông được nhà thờ Sainte Marie des Graces đặt vẽ bức tranh La Cène. Nhưng Léonard vì quá thận trọng nên làm việc chậm như rùa bò. Các đấng bề trên nhà dòng đã nhiều lần trách móc. Ông phải nói là vì thiếu người mẫu để vẽ Judas. Nếu các đấng bề trên nhà dòng có người bằng lòng làm mẫu, ông sẽ hoàn thành ngay. Thế là… không ai hối thúc nữa và ông lại nhẩn nha làm việc hứng khởi của ông. Ludovic lại đặt ông đúc bức tượng của Francesco Sfora phụ vương của vị lãnh chúa này – cỡi ngựa. Léonard nghiên cứu thật kỹ về cơ thể cùng dáng điệu của loài ngựa khi đứng, khi đi và khi phi nước đại. Ông làm thử nhiều đồ hình và định đúc một con ngựa bảy thước bề dài đang phi nhanh chân dẫm lên mình kẻ thù gục ngã. Nhưng Ludovic không thể kiên nhẫn chờ ông nghiên cứu nên giao công việc cho một điêu khắc gia khác. Léonard thất vọng hết sức. May sao đám cưới của Ludovic và Béatrice d’Este cứu nguy cho ông. Ludovic muốn Léonard trang trí cho hôn lễ. Ông liền tận dụng hết khả năng, tạo một nóc nhà tròn, cùng máy móc dựng cảnh thiên thần từ trên mây hiện xuống chúc mừng Ludovic và Béatrice. Sự thành công đã vượt mức tưởng tượng của ông. Tất cả nước Ý đều xôn xao bàn tán về kỳ công tuyệt mỹ này. Ludovic rất hài lòng. Nhờ đó, Léonard lại được tiếp tục công việc đúc tượng. Khoảng 1493, mẫu bức tượng Francesco đuợc trưng bày cho mọi người chiêm ngưỡng. Tất cả giới nghệ sĩ Ý đều công nhận đó là một sáng kiến độc đáo. Và lần đầu tiên, họ đã tỏ lòng kính trọng ông như bực thầy về khoa thẩm mỹ. Ludovic không rời nghệ sĩ tài hoa này nữa. Léonard đột nhiên biến thành một thứ quần thần sẵn sàng thực hiện mọi ý muốn của Ludovic. Không ngừng nghiên cứu: Mổ xẻ xác chết Léonard cố tách rời tuổi trẻ, không muốn nhớ tới dĩ vãng… con hoang và cố tìm cách vươn lên. Nhưng chất nghệ sĩ trong người ông vẫn mạnh. Ông vẫn sống cho mình bằng cách tìm tòi, sáng tạo những mới lạ trong Nghệ Thuật. Nét cọ của ông đã ghi lại những sắc thái đặc biệt của cái Đẹp, những đường nét vóc dáng cho người thật sống dộng, đầy nhân tính hơn là những hình ảnh chết. Nụ cười của La Joconde là một trong những khám phá của Léonard qua Nghệ Thuật diễn tả độc đáo của ông. Nhưng con người của Léonard lúc nào cũng chất chứa đầy mâu thuẫn. Một mặt tìm khai thác cái đẹp, một mặt ông lại theo dõi ghi nhận những cái xấu như nét thô kệch hoặc hung tợn, độc ác. Ông đã bỏ trọn một ngày để quan sát một người đàn bà có bướu hầu ghi nhận những cái khác lạ trên cơ thể bà ta. Thời gian này, Léonard vẽ rất nhiều hình ảnh dị hợm, những tranh diễu thô bạo và những quái vật như thời ông mới vẽ lần đầu tiên trên cái thuẫn của người dân quê đem tặng cha ông. Đêm đêm, dưới ánh đèn cầy, ông nghiên cứu về cơ thể học, mổ xẻ những xác chết để tìm hiểu vị trí của các bắp thịt. Ludovic đã cho Léonard một mảnh đất để ông dựng lên một ngôi nhà để ở. Lúc đó, Léonard có được 218 đồng lire. Thấy đã có thể tạm sống, ông liền tạm nghỉ ngơi để thực hiện một ước vọng đã ám ảnh tâm trí ông từ thời còn trẻ: “lên trên đỉnh núi Rose, một ngọn núi cao 3.500 thước”. Thật là nghệ sĩ và cũng là mạo hiểm, phiêu lưu cùng bực. Những năm sau đó, quân Pháp vượt núi Alpes tấn công Milan. Ludovic bị bắt. Léonard liền rời Milan đi nơi khác. Trong những ghi nhận của Léonard người ta thấy ông đã lần lần tách rời khỏi những phiền toái của lịch sử, bỏ hết thì giờ để thỏa mãn óc tìm hiểu về bất cứ cái gì mà thiên hạ chưa hiểu hoặc chưa nghĩ đến. Trước đây, mặc dầu Léonard đã đệ trình Ludovic nhiều sáng chế về võ khí, chiến cụ, ông vẫn thấy rõ con người bạo ngược của Ludovic nên đã giữ lại sáng kiến về tàu ngầm. Ông hiến cho dân Venise sáng kiến người nhái và những bộ áo lặn để chống giữ hải cảng của họ. Với César Borgia, ông vẽ và chuẩn bị cho việc đào một con kinh. Quả thật là một kỳ tài, có thể làm được tất cả mọi chuyện. Sau một thời gian ở Mantoue và Venise, Léonard trở về Florence. Việc đầu tiên của ông là mua một lồng chim và mở thả cho bay hết. Mọi người đều ngơ ngác và tưởng là ông đã phát khùng. Léonard vẫn không quan tâm gì về những nhận xét của dân chúng. Ông chăm chú quan sát cách chim bay. Từ lâu ông nuôi mộng chế một cái máy bay. Ông đã tìm cách nhại theo lối chim bay. Nhưng ông đã thất bại. Cũng trong thời gian đó, ông hoàn thành bức tranh Nữ thánh Anne, Đức Mẹ và Chúa Hài Đồng. Ông cũng vẽ một bức tranh thật lớn về trận chiến Anghiari. Tất cả họa sĩ đương thời đều chịu ảnh hưởng của ông. Rất nhiều người đã bắt chước theo lối vẽ của ông. Léonard sang Pháp một lúc rồi trở về La Mã. Lúc đó, ông đã 60 tuổi nhưng vẫn tin tưởng là sẽ còn tìm được dịp may ở La Mã, kinh đô nghệ thuật thời đại. Nhưng sự đi lại với người Pháp đã làm Léonard mất cảm tình trong nhân dân Ý. Khi ông cần tiền, cần việc làm người ta mời ông xây cất… một cái chuồng ngựa. Khi vua François đệ nhứt sang Ý, ông được chọn làm người tổ chức các cuộc lễ cho nhà vua. Vua François đệ nhứt rất kính trọng ông và gọi ông là cha. Sau này, khi Léonard bị bịnh tê bại, không còn vẽ được nữa, vua François đệ nhứt vẫn ban cho ân huệ ân hưởng tuổi già ở lâu đài De Cloux gần Auboise (Pháp). Cuộc sống của Léonard đã cho người đời sau thấy ông không phải là một người bại trận mà là một người đã sống và chiến đấu mãnh liệt. Bị cuộc sống thử thách, vày vò, đầy ải đủ mọi mặt, ông vẫn không tuyệt vọng, trái lại, lúc nào cũng phấn đấu vươn lên. Sự cố gắng của Léonard càng thấy rõ khi đã bị tê bại. Ông vẫn phác họa cho vua François đệ nhứt bản đồ kiến trúc lâu đài Amboise và những đồ án về nhà tiền chế có thể tháo, ráp dễ dàng để đưa từ nơi này sang nơi khác. Léonard de Vinci mất ngày 2 tháng 5 năm 1519. Định mệnh cay nghiệt vẫn không buông tha nắm xương tàn của thiên tài đặc dị, đa năng đa diện đó. Một trận giông bão dữ dội đã tàn phá ngôi nhà thờ mà ông đã được chôn chung với nhiều hoàng thân, quốc thích Pháp. Hài cốt của họ bị tung tóe và xáo trộn vào nhau. Vào thời kỳ lãng mạn của văn học Pháp, thi sĩ Arsène Houssaye đã tìm thấy một xương sọ thật lớn nơi đó. Có lẽ đó là xương sọ của Léonard de Vinci, người có một khối óc vĩ đại đã cùng một lúc nghĩ được nhiều việc thật là… vĩ đại. Sáng kiến của Léonard de Vinci dù được thực hiện hay không trong lúc ông còn sống vẫn phải là điều không tưởng. Và bây giờ, chúng ta đã thấy là tất cả những gì Léonard đều được thực hiện. Không ai có thể phủ nhận thiên tài đặc dị của ông. Nhưng trong suốt cả cuộc đời ông, có mấy lúc ông được nhàn hạ, sung sướng như phường bị thịt vô tướng, bất tài đâu? Phải chăng đó là luật bù trừ của tạo vật? Con người có tài như Léonard de Vinci tuy có khổ lụy trong cuộc sống thật nhưng tên tuổi của ông vẫn sống mãi với thời gian, vượt cả thời gian… Ngày nay và cả về sau này nữa, loài người vẫn không thể quên Léonard de Vinci cũng như họa phẩm La Joconde của ông. ĐỖ THIÊN THƯ st. BÀN VỀ GIA PHÁP VÀ VIỆC PHÁT HUY TINH THẤN GIA TỘC DÒNG HỌ Bài viết của ông Đặng Vũ Bổng Sinh năm Đinh Mão (1927) Dòng họ Đặng Vũ I. GIA PHÁP LÀ GÌ? Trong một nước thì Quốc Pháp tức luật lệ nhà nước buộc mọi tầng lớp nhân dân phải tuyệt đối tuân theo. Quốc Pháp ràng buộc những người cùng sống chung một quốc gia một thể chế vào một môi trường sinh hoạt chung tức xã hội. Quốc Pháp có chặt chẽ, thi hành nghiêm minh công bằng giàu tính bác ái nhưng không nhu nhược, ươn hèn, bè phái. Trước pháp luật mọi công dân đều bình đẳng bất luận tuổi tác địa vị trong xã hội. Nói chính xác: Quốc Pháp thể hiện tinh thần tôn trọng kỷ luật của mọi người dân. Quốc Pháp nghiêm minh thì quốc gia hưng thịnh, ngược lại Quốc Pháp suy nhược bất công bình đẳng thì cuộc sống chung sẽ xáo trộn mất trật tự, mọi sinh hoạt sẽ bế tắc, tất nhiên mọi phát triển sẽ đình đốn, sinh hoạt quần chúng nhân dân sẽ thiếu thốn đói khổ, nói chung là bất hạnh. Quốc Pháp là thế còn Gia Pháp thì sao? Gia đình là một bộ phận hay còn gọi là một phần tử của một quốc gia tất nhiên Gia Pháp cũng cần như Quốc Pháp. Trong một gia đình mà kỷ cương lỏng lẻo, sống hỗn độn, cha không biết phận cha, con không biết phận con, vợ chẳng biết phận vợ, thiếu trật tự trong gia đình, mỗi người trong gia đình chỉ biết cho riêng mình. Không nhận thức chính xác vai trò của mình trong gia đình. Đến đây thì chúng ta cố nhớ lại, hình dung đến nếp sống Ông, Bà, Cha, Mẹ cách đây gần thế kỷ. Trật tự trong gia đình khá chặt chẽ nghiêm khắc quyền hạn trách nhiệm của mỗi cá thể trong gia đình đều rõ rệt phân minh. Ngay từ mới lọt lòng đứa trẻ đã chịu sự giáo dục chu đáo của gia đình, mới biết cầm đũa trước khi và cơm vào miệng, đứa trẻ đã biết khoanh tay mời Ông, Bà, Cha, Mẹ, Anh, Chị ăn cơm rồi mới ăn. Có người nói thái quá chạm đến quyền trẻ con mất hồn nhiên tính của con trẻ, nghe lúc đầu có lý, tuy nhiên chúng ta cần hiểu rằng: trẻ con như tờ giấy trắng, lúc ban đầu chúng ta tô màu gì thì mai sau cái màu đó vẫn tồn tại. Dạy con từ trong bụng mẹ còn được gọi là Thai Giáo: “Dạy con từ thuở còn thơ, dạy vợ từ thuở bơ vơ mới về”. Ngày xưa việc cho con đi học chữ cha mẹ chọn những Thầy Đồ “Thứ nhất hay chữ, thứ nhì dữ đòn”. Nay chúng ta chỉ chọn Thầy hay chữ đâu có ai chọn Thầy dữ đòn. Chúng ta đau xót khi thấy con bị Thầy, Cô giáo đánh roi đánh vọt vào mông, vào lưng con mình, thấy con đau khóc cha mẹ có người mềm lòng khóc theo. Chúng ta đã đặt lòng thương con không đúng chỗ. “Đẻ con không dạy không răn thà rằng nuôi lợn cho ăn lấy liền”, do đó học đường và gia đình cần gắn bó với nhau như cái thang hai chân, hãy dành thì giờ oán trách Thầy Cô vào việc tìm hiểu con mình và tự nguyện khuyên bảo mình nên phải làm thế nào để con chóng ngoan tại trường sẽ ngoan tại nhà và ngược lại. Vậy ở trường đã vậy, ở nhà thì sao? Xin thưa chúng ta hiện thấy liên miên các thông tin không hay của các lớp học sinh đang cùng sinh sống với chúng ta, con số được thăm dò do các báo thông tin thì thấy mỗi ngày đạo đức học đường bị suy thoái đến mức báo động. Học sinh mới vào cái tuổi thiếu niên, mà đã có biết bao hành động đáng trừng phạt. Lừa đảo trộm cắp, côn đồ, nghiện ngập, xì ke ma túy dẫn đến chém giết nhau, chưa kể đến việc mới nứt mắt đã yêu đương dẫn đến có bầu có nghén. Tại sao xã hội ngày càng văn minh, giàu có thì tội phạm lại càng gia tăng; đám con trẻ sớm đi vào vòng tội lỗi? Phải chăng do một số khá đông các bậc Cha Mẹ nhất là giới giàu có sang trọng, lắm bạc, nhiều tiền bận thời giờ làm ăn kinh doanh không có thời giờ nhòm ngó đến mọi sinh hoạt của con trẻ. Một phần bản tính quá thương chiều con cho nên đã thả lỏng con cốt cho con vui thích nào có ngờ đâu thay vì muốn con sung sướng thì chúng ta đã dần dần dẫn con vào con đường trụy lạc khổ cực lúc nào không hay, nào ai “Giàu đâu ba họ, khó đâu ba đời?”. chưa kể các hình phạt do pháp luật trừng trị. Về phía con trẻ thì càng được Cha, Mẹ thương chiều càng dễ hư hỏng vì trên đời tập cái hư thì dễ bắt chước cái hay thì quá khó. Điểm qua trách nhiệm của Cha Mẹ đối với con, chúng ta bậc Cha Mẹ phải can đảm nhận phần lỗi về mình nhiều hơn lỗi con trẻ. Nay chúng ta tìm phương thuốc cứu chữa đó là: Mang tình thương gia đình gia tộc vào cuộc sống gia đình. Tại sao chúng ta lại đề cập đến tình thương Gia Tộc? Vì “cây có gốc mới nảy cành xanh lá, nước có nguồn mới bể cả sông sâu”. Đối với đời sống tâm linh thì từ lâu chúng ta xao lãng, phải chăng do chiến tranh do cuộc sống đôi khi vội vã mà xao nhãng đến nguồn gốc nhà mình đến Tổ Tông Nòi Giống nhà mình, như con nai ngoài rừng. Quên Tổ Tông, quên nguồn gốc rễ tự nhiên chúng ta thấy nhỏ bé đối với xã hội vì mỗi con người đều có Tổ có Tông, con người đó sẽ hãnh diện về quá khứ của mình có Ông Cha Tổ Tiên danh cao võng cả từ đó sẽ tự ý thức đuợc tầm quan trọng của mình đối với Dòng Tộc. Theo quan niệm xã hội thì Dòng Họ rất quan trọng vì có biết sự ràng buộc Gia Tộc như thế nào chúng ta mới có cơ hội lại gần nhau vì “Giọt máu đào hơn ao nước lã”. Trong một làng xã nếu dòng họ nào đông con nhiều cháu hay có nhiều người làm nên danh phận tất nhiên đuợc mọi người chung quanh nể trọng. Ngược lại dòng họ nào có nhiều người xấu ăn bơ làm biếng trộm cắp xì ke ma túy tất nhiên bị coi rẻ khinh. Danh dự Dòng Tộc ở chỗ đó. Danh dự Dòng Tộc được phát huy sẽ ảnh hưởng đến đời sống của mọi cá nhân do sự ganh đua, do tự ái gia đình một dòng họ có nhiều người chăm học, chăm làm sinh cơ lập nghiệp cũng là cái gương cho anh em con cháu noi theo trong họ coi đó làm gương. Tôi còn nhớ thuở xa xưa có một làng nổi danh khoa bảng, tinh thần hiếu học khuyến học cao, trong một kỳ thi chữ nho 3 gia đình cùng Dòng Họ cùng chung lối đi có con cùng đi thi, kết quả 2 thi đậu còn 1 bị rớt thế mà chú học trò hỏng thi này tự nhận xấu hổ sợ cha mẹ buồn làng xóm khinh đã trốn bỏ làng. Thấy có vẻ quá khắt khe nhưng đây là tinh thần tự trọng của một con người biết tự trọng, biết tôn trọng danh dự gia đình, danh dự Dòng Tộc đáng quý đáng thương hơn đáng giận. Chẳng hay thời buổi này câu chuyện đó có cơ hội xảy ra nữa không khi mà con người đã tự đánh mất chân giá trị của mình để hưởng thụ mà không cần làm. Chúng ta đã mổ xẻ đôi điều về Gia Tộc đối với mỗi cá thể có lợi ích gì xin thưa nó rất đa dạng đa hình tùy theo hoàn cảnh mỗi người, mỗi gia đình nhưng tất cả đều tập trung vào lợi ích cho cuộc sống. Giờ đây cuộc sống khá đầy đủ, phương tiện và hoàn cảnh của mỗi gia đình tương đối khả quan có lẽ đã đến lúc chúng ta cần phục hưng và phát triển tinh thần Gia Tộc, và ngoài gia đình thì Dòng Tộc là quan trọng. Ngày xưa hầu hết các làng đều có Hương Ước, mọi người dân trong làng đều phải tuân thủ nghiêm ngặt vì “Phép Vua Thua Lệ Làng” có người nông nổi chạy theo tư duy mới Tây phương cho là hạn hẹp cổ hủ như cưới vợ nộp cheo, hay vấn đề tang chế… sự thật phong tục nào cũng có mặt trái của vấn đề nhưng cốt lõi là chúng ta gạn đục khơi trong, loại bỏ cái dở phát huy cái hay cái tốt cuộc sống thật sự sẽ vui tươi hơn. Còn nói về gia tộc thì nhiều họ cũng đã có nội ước dòng họ nó na ná theo Hương Ước nhưng được chế biến tùy theo hoàn cảnh sinh hoạt của dòng họ cho phù hợp với cuộc sống. Muốn được như vậy thì việc lập gia phả là vấn đề tối cần thiết, có gia phả mới tạo được niềm tin của con cháu đối với tổ tiên Ông Bà. Có thể do đó mới tự nhận có bổn phận gánh vác công việc trong họ trong làng. Mới tự đặt cho mình cái bổn phận bảo vệ và phát huy tinh thần gia tộc, danh dự gia tộc vì “Sống Vì Làng Sang Vì Họ”. Vậy việc ấy ai làm ai phải làm. Do trước hết các bậc cha chú trong họ các bậc kiến thức cao, tài học rộng cùng nhau tìm hiểu tận cội rễ dòng họ mình, sao chép trung thực mọi sự kiện mọi hành động của tiền nhân để con cháu noi theo. Việc viết gia phả thật quả khó nhọc và khô khan, nó đòi hỏi một nhiệt tình đóng góp của người viết và cũng cả nhiều thành phần trong gia tộc. Hơn nữa phải tuyệt đối ghi chép trung thực không vì nể nang hay “danh dự hão” mà ghi viết sai sự thật, cũng nên biết rằng mỗi con người dù hoàn hảo đến đâu cũng có sai lầm tội lỗi, con người đâu là Thánh Thần. Hơn nữa mỗi thời gian lịch sử sự phán xét thường theo thời thế thăng trầm đối với đương sự. Cốt nhất người viết Phả phải vô tư, vô cảm đối với vấn đề thời sự để Gia Phả được đánh giá chân chính. Huyền Phả chỉ có giá trị tham khảo, còn Huyền Phả có tính cách tô son điểm phấn sai sự thật chỉ là mị Tổ, mị Cha Mẹ Ông Bà không thể coi là Gia Phả được. Tuy nhiên người viết Gia Phả cũng không bao giờ được lồng cái tôi vào sự kiện, quan điểm sai lệch của người viết sẽ làm sai sự thật đánh lừa dư luận có tội với người chết. Còn Phương pháp viết Gia Phả thì nên khoa học hóa việc ghi chép để dễ kiếm tìm, nên viết rõ ràng mạch lạc sự liên hệ của mỗi đời ghi đầy đủ tên tuổi thứ bậc ngày sinh, ngày tử và nếu có thì đôi dòng về công danh người quá cố, hiện thời mộ phần tại đâu để con cháu có muốn đi tham quan dễ tìm kiếm. Việc viết Gia Phả ngoài tinh thần phục vụ Tổ Tiên Dòng Họ cũng còn đòi hỏi một tinh thần “Vì Dòng Tộc Vì Gia Đình”. Với tinh thần này “Mọi việc đều không khó chỉ sợ lòng người không bền”. II. SỰ LIÊN HỆ MẬT THIẾT GIỮA GIA PHẢ, GIA PHÁP, GIA PHONG GIA PHÁP đuợc coi là khuôn vàng thước ngọc về trật tự trong gia đình, bảo vệ trật tự luân lý tôn ti trật tự trong gia đình. Tuy nhiên nếu chúng ta áp dụng cứng ngắc vấn đề tôn ti trật tự từ dưới lên trên hoặc từ trên xuống dưới thì cuộc sống tinh thần trong gia đình tự nhiên thấy thiếu cởi mở, khô khan có thể vì e vi phạm gia pháp mà con cái ít có dịp thổ lộ nguyện vọng tâm tư của mình đối với Cha Mẹ, ngược lại Cha Mẹ cũng thấy ít có cơ hội để tìm hiểu nguyện vọng của mỗi cá thể trong gia đình vì e dè. Qua tình trạng này sự thân mật trong gia đình ít được thể hiện cởi mở, cuộc sống mẫu mực của các thành viên trong gia đình sẽ tạo ra bầu không khí khô khan trong sinh hoạt. Bởi các hiện tượng nêu trên, chúng tôi muốn đề cập đến việc cần có giải pháp tháo dỡ để tình cảm gia đình được thổ lộ rõ rệt màu sắc êm dịu ngon ngọt đó là việc áp dụng VĂN HÓA SINH HOẠT hay còn gọi là GIA PHONG. GIA PHONG là gì? Thưa đó là phong cách sống phong cách giao tiếp trong gia đình giữa Cha Mẹ với con cái, giữa con cái với Cha Mẹ, giữa chồng với vợ và ngược lại. Ngạn ngữ có câu “Lời nói chẳng mất tiền mua, liệu lời mà nói cho vừa lòng nhau”, xa hơn nữa có câu “Mật ngọt chết ruồi”. Về xử thế thì “Cách cho quý hơn của cho” hoặc giả “Chẳng được miếng thịt miếng xôi, cũng được lời nói cho tôi vui lòng”. Thật thế ai là người chê ngọt ham đắng bao giờ, ai cũng muốn nghe đàn hay hát ngọt chứ mấy ai lại thích cãi cọ chửi bới tục tằn. Từ lọt lòng mẹ đứa trẻ đã thích nghe lời ru tiếng hát. Khi lớn lên lại hay la cà nơi ca hát… Đến thăm một gia đình nào mà chúng ta nghe thấy những câu gọi dạ bảo vâng giữa những cá thể trong gia đình đó ta đã có cảm tình và tôn trọng họ tuy chưa biết gốc gác họ là ai. Từ ngoài cổng ta được đứa trẻ con chủ nhà ra mở cửa chào và mời vào ta thấy vui. Ngược lại một người lớn tuổi ra đứng phía trong cổng dõng dạc khô khan hỏi: “Anh là ai muốn gì?” với bộ mặt đưa đám chắc chúng ta muốn bỏ dở cuộc thăm viếng này. Vào trong nhà ta thấy một bàn thờ gia tiên trang nghiêm sạch sẽ, trên bày dù đơn sơ bộ đỉnh đôi đèn cầy bát nhang sành sứ chân dung cha mẹ chủ nhà ta đã cảm thấy đây là một gia đình gia giáo có văn hóa. Nếu được chủ nhà mời vào và tiếp đãi ân cần thì chúng ta hãy đáp lễ bằng cách xin 3 nén nhang châm đốt và xin phép được cắm vào bát nhang, với cử chỉ xã giao này ta sẽ đón nhận thêm tình thân cởi mở trong câu chuyện sắp tới giữa ta với người. Nay xin đi thẳng vào vấn đề đó là áp dụng GIA PHONG trong gia đình thì nên làm gì, không nên làm gì? Trước hết chúng ta nên biết địa vị của mình trong gia đình, là cha là mẹ hay là con là cháu để áp dụng cho đúng tư thế của mình đối với GIA PHONG hay còn gọi là LỄ GIÁO của gia đình. Là cha thì chúng ta có trách nhiệm thực hiện GIA PHONG LỄ GIÁO trước vì mình làm chủ gia đình. Xin đừng coi mình là chỉ huy tối cao có nhiệm vụ ra lệnh mà thôi, hơn nữa khi ra lệnh cho vợ con lại tỏ ra hách dịch như lệnh quan truyền, với thái độ này người nhận lệnh chỉ biết cúi đầu tuân lệnh mà lòng không vui, mà đã không vui tất nhiên kết quả không tốt. Thay vì ta nói: “Khuya rồi tụi bay tắt đèn đi ngủ mai còn đi học” bằng một giọng nói hách dịch của một người cha, chúng ta thay bằng câu: “Các con ơi bố thấy khuya rồi đó, anh chị em hãy bảo nhau tắt đèn đi ngủ mai còn phải dậy sớm đứa đi học đứa đi làm. Thôi bố cũng đi ngủ đây”. Hay có một lần bà vợ đi chợ muộn hết rau tươi cá béo, mua về rau già cà úa mướp xơ liền bị ông chồng nạt nộ: “Bà thật vô tích sự, ngủ cho trễ ra đến chợ còn toàn của thừa của thối, bà mua về thì bà chịu khó nuốt cho hết đi”. Bà vợ biết lỗi nhưng hậm hực vì bị chồng xỉ vả truớc mặt con cả trai gái dâu rể. Thay vào đó cũng sự phàn nàn giáo dục khéo bằng câu: “Hôm nay chợ tan sớm nhỉ, mới giờ này mà chợ đã hết hàng, thôi mai bà mày chịu khó đi sớm hơn một chút, nay có gì ăn cái nấy”. Bà vợ sẽ hả hê qua câu trách móc khéo của chồng. Cũng là một lời nói nếu chúng ta áp dụng trong việc xưng hô như vợ chồng vâng dạ lẫn nhau, thay vì ơi ư thì chúng ta vâng dạ nhau đâu có mất gì, nghe lại êm tai. Nhường nhịn nhau lúc xảy ra bất đồng ý kiến trong sinh hoạt gia đình sẽ đo mức độ giáo dục của gia đình. Vội giận mất khôn, dẹp tự ái cá nhân để xoa dịu vẫn để sau đó bàn bạc lại lúc vui vẻ lẽ phải tất nhiên được bảo vệ. Đối với con cái, chúng ta cần kín đáo việc nuông chiều con cái dù bất cứ ở tuổi nào. Trong bữa ăn cần có bầu không khí cởi mở không nên mang tội lỗi con cái ra mà dạy bởi vì “Trời đánh còn tránh bữa ăn”. Thiếu gì lúc dạy. Dạy con trai không nên có mặt con dâu. Dạy con gái không nên có mặt con rể. Dễ gây chạm tự ái cho người bị khiển trách. Trong sinh hoạt vui chơi giải trí trong gia đình, chúng ta cần minh bạch công bằng, dù nhỏ nhoi nhưng những sự cân bằng dù nhỏ nhoi nhưng những sự ăn hiếp của cha mẹ đối với con cái, của anh chị đối với em út sẽ gây ra mới bất mãn dù nhỏ cũng sẽ làm giảm tinh thần đoàn kết trong gia đình. Đạo làm cha mẹ cần phải hy sinh cho con cái nhưng chỉ khi cần thiết, không bỏ rơi nhưng cũng không hành xử không truy xét. Đối với bạn đời, chúng ta cần sáng suốt nhận định phải trái để can thiệp không mù quáng để người xấu không biết mình xấu. Phát huy cái xấu kết quả sẽ chỉ là không tốt. Cần rộng lượng tha thứ để giáo dục nhau chứ không phải chỉ để mua vui trong chốc lát. Thực tế mà nói thì GIA PHONG nằm trong GIA LỄ GIA PHÁP nếu áp dụng tinh vi chừng mực. Còn nếu áp dụng vô nguyên tắc thiếu đắn đo suy nghĩ thì ích lợi không có gì đáng kể đôi khi còn bị cho là đảo lộn kỷ cương lễ giáo trong gia đình. Quả là khó khăn, nhưng ở đời cái gì có khó khăn mà làm được mới là quý, ai làm cũng được thì có gì cần phải làm. TẢN MẠN VỀ “THƠ” (tt) Nhà thơ Xuân Diệu có nói: “Làm thơ không chỉ có ý là được, phải có xương thịt vật chất, có khi chỉ vì tìm được một câu thơ, một điệu thơ nào đó mà làm thành tất cả một bài thơ. Khi nảy ra một điệu nào đó thì nhất định phải làm theo cái điệu ấy”. Làm thơ hay thì phải có tài, có sắc mới tồn tại được. Tất nhiên người đọc thơ cũng phải có một vốn sống, hiểu biết nhất định, nếu không đọc rồi, nghe rồi họ cứ dửng dưng, đâu có cảm xúc được gì để biết thơ hay hoặc dở. Thơ hay cũng tức là ta viết sao để người đọc, đọc đi đọc lại không thấy chán còn muốn học thuộc, đôi khi cao hứng lại đọc hoặc ngâm nga mới sướng. Nguyễn Đình Thi nói thơ thực sự là lời nói bằng thứ ngôn ngữ bình thường nhất, giản dị nhất. Ông đề cao thơ trí tuệ, thơ tư tưởng. Ông nhận xét: “Thơ của ta tư tưởng thì mù mờ, tình cảm thì lộ liễu”. Người làm thơ cũng phải có một tầm nhìn lâu dài thì mới tạo ra những giá trị tư tưởng lâu dài. Ông Tô Hoài thì cho rằng: Người viết có thời, tài có thời, hồn thơ có thời, có một lúc nào đó thôi. Phát hiện cái lạ trong những chuyện vặt vãnh đời thường chính là chỗ sắc sảo, lọc lõi, và tinh quái của ông. Theo ông Trương Xương: “Làm thơ là nghề lao động nghệ thuật, sáng tạo đòi hỏi người viết có những tài năng đặc biệt, thực sự nghiêm túc, vượt khó, thấy được mối liên hệ khăng khít giữa cuộc sống với những câu thơ kỳ diệu mà không sáo rỗng, làm cho giữa tác giả và người đọc không bị một sự ngăn cách nào”. Nhà thơ phải chứng minh sự hiện hữu của mình bằng những tác phẩm mang dấu ấn đặc thù riêng của mình, của thời đại mình đang sống, không lẫn với người khác hay dân tộc khác. Để cho những trang viết lấp lánh hơi thở của cuộc sống, của thời đại, tác phẩm hay phải là sự hòa quyện giữa hiện thực và triết lý sâu thẳm. Chính hiệu quả đạt được từ tư tưởng, tình cảm do tác phẩm đem lại cho người đọc khoái cảm. Độ bền vững của nó phải qua sàng lọc thử thách của thời gian, còn nhờ “thời thế” có chăng cũng chỉ là cái “hay” nhất thời mà thôi. Thơ hay hoặc dở còn ở góc nhìn của mỗi người. Ví như cô gái dung mạo có chỗ không đẹp lại đáng nhìn, có khi chỗ không xấu lại bỏ qua. Thơ cũng vậy, có chỗ không thông lại đáng yêu, có khi thông lại đáng chán. Ai đã từng phổ nhạc cho thơ sẽ thấy có đoạn thơ ý hay nhưng không vần lại ẩn dấu trong nó một giai điệu hay, người nhạc sỹ cảm nhận được liền chộp lấy mà phổ nhạc. Còn có đoạn thơ rất đúng luật, rất vần nếu phổ nhạc giai điệu đều đều khó hay hoặc không phổ nhạc được. Có người còn nói những lời có cánh: Đem lòng yêu thơ như yêu người đẹp, tất tâm hồn thêm thi vị. Đem lòng yêu người đẹp như yêu thơ thì tinh thần thăng hoa lên bội phần. Người ta lại nói: “Người đẹp lấy hoa làm dung mạo, lấy thi ca làm tâm hồn”. Đời đa dạng, đa chiều cuộc sống mới phong phú, tươi đẹp nên thơ. Với bút pháp giản dị, biết lắng nghe những rung động mỏng manh của tâm hồn, khi xôn xao, mơ mộng, bay bổng của tuổi thanh xuân, khi nồng nàn day dứt những cảm xúc yêu thương, hoài niệm, khi lắng sâu trải nghiệm về cuộc đời. Trong thế giới cõi thơ lung linh đa sắc màu với một nội tâm phong phú, huyền diệu, sự tinh tế mẫn cảm của thi nhân, cái tình trong thơ đầy ắp, chất thơ càng sâu sắc, tao nhã, hồn thơ mượt mà đậm chất dân ca truyền thống cũng đủ để lay động tâm hồn ai đó. “Lời chân chất ý đậm đà Tâm thành tha thiết thốt ra tiếng lòng” Lời nói giản dị, chân thực nhưng ý nghĩa thật sâu xa mới hay. Ngôn từ là chất liệu, phương tiện nhưng phải có ý thức lạ hóa để tạo ra dấu ấn độc đáo cho mình và hấp dẫn đọc giả. Tuy nhiên, đôi khi thi nhân lựa chọn tự do và khát vọng sáng tạo cũng phải trả giá vì nó. Công việc thẩm định thơ để biết hay dở là cả một vấn đề. Cái hay của bất kỳ một môn nghệ thuật nào (trong đó có thơ) cũng còn phụ thuộc vào khả năng nhận thức, năng lực trí tuệ trạng thái và nhu cầu tâm sinh lý, vào hoàn cảnh xã hội, môi trường sống… của từng người thưởng lãm vì “người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Cũng có người cho rằng: “Cái hay nó phải gắn với môi trường xã hội, nó phải cùng dòng suy nghĩ, đồng cảm, đồng điệu… phải giải quyết được trạng thái tâm lý hay một nhu cầu gì đó của người đọc. Nếu tách rời yếu tố này mà chỉ xét đơn thuần về câu chữ thì nhiều câu thơ hay cũng vô duyên”. Trước “đói” thơ nên người ta luôn vồ vập và cảm thấy hay. Bây giờ người làm thơ nhiều “ra ngõ gặp nhà thơ” “bội thực” về thơ nên khó cảm nhận được cái hay. Cũng như người ta đã ăn no, no ăn mất ngon mà. Tóm lại, cái hay là phải có sự đồng cảm, đồng điệu, cùng một bài thơ người này cho không hay còn người kia lại khen hay. Nên nói cho phải về thơ là rất khó. Chúng ta đã thống nhất thơ là tiếng lòng, là cảm xúc, tình cảm chân thành, nồng cháy, một chút lãng mạn, không lên gân, tô vẽ. Đồng thời phải gắn nội dung tư tưởng với nghệ thuật. Nội dung là linh hồn của nghệ thuật và nghệ thuật toát lên vóc dáng của nội dung. “Dòng thơ ngọt lịm đôi môi Nồng thơm hương sắc sinh sôi nghiã tình Dòng thơ rạng ánh bình minh Quyện vào mây gió lung linh đất trời” Làm thơ là một quy trình lao động nghệ thuật đặc biệt, trừu tượng và tinh vi mà tổng hợp là sự thăng hoa của trí thức, tâm tình thành ý thơ, tứ thơ. Sự hội nhập của ý thơ, tứ thơ vào ngôn từ, thể điệu sao cho thơ bốc thần và tỏa nhạc. Nhà thơ như con tằm nhả tơ để làm sao có nhiều tác phẩm. Nhưng viết gì thì viết cũng phải nhớ đã là thơ thì phải có chất thơ, có nhãn quan của người cầm bút. Tác phẩm viết hời hợt ở cái vỏ bề ngoài chẳng mang lại điều gì cho người đọc thì chỉ tốn giấy mực và mất cả thời gian của cả hai bên. Đọc lại thêm mệt thì có ích gì. Mặt khác cũng không nên có tâm lý “chỉ có chân lý của ta là duy nhất đúng”. “Những là âu yếm vành ngoài Chẳng duyên chưa dễ vào tay ai cầm” (Kiều) Yêu thơ nhưng cũng phải có “duyên thơ” mới mong có được thơ hay. Khi đã có một nghệ thuật thơ, lại nặng lòng với cuộc sống thì biết đâu ai đó chẳng để lại được cái gì đó cho mình và cho cõi thơ. “Ở đời sau trước ai chẳng chết Lưu tấm lòng son với sử xanh” Thơ như cô gái xinh đẹp đang độ thanh xuân, phơi phới sắc hương và tràn đầy sức sống. Tuy khó tính nhưng luôn lôi cuốn con người hết thế hệ này đến thế hệ khác tìm hiểu, đam mê. “Em và thơ là một em ơi! Hội thơ ta cũng một sân chơi Tình thơ lai láng không bờ bến Yêu thơ rồi yêu mãi đến muôn đời” LÊ MINH CHỬ
Phụ Bản IV KỊCH THƠ một màn, một cảnh 64 câu QUÁN NƯỚC HỌ HỒ Tác giả kiêm đạo diễn ĐỒ BỔNG HÀNH THIỆN Nguyên tiêu Nhâm Thìn 2012 Nội dung Sự kiện xảy ra tại quán nước họ Hồ (Hồ Xuân Hương) giao lưu xướng họa thơ với Lê Chiêu Hổ vào dịp Tết nguyên tiêu. Có 64 câu thơ với thể loại thất ngôn tứ tuyệt Đường thi. Trang phục: Lê Chiêu Hổ vận quần trắng áo dài khăn đóng đi dép, Hồ Xuân Hương vận áo dài tứ thân, mặc váy đội khăn mỏ quạ, miệng nhai trầu. Không gian: Buổi sáng nguyên tiêu. Quán nước bên bờ hồ Hoàn Kiếm Hà Nội. Quán có bầy điếu cầy, tô nước chè, lọ kẹo, treo nải chuối; sâu bánh ú, có đĩa trầu cau, ngọn đèn dầu. Trang trí: Bảng hiệu “Quán nước họ Hồ” trước chõng tre bầy trà bánh có kê 1 ghế dài đủ 3 người ngồi. Mở màn A CHIÊU HỔ: từ sau hậu trường đi ra lơ đễnh ngắm trời ngắm mây ngâm chậm rãi “Xuân này khác hẳn các xuân xưa Lúa gạo trái cây hẳn trúng mùa Mưa thuận gió hòa trời đẹp nắng Người thơ du ngoạn kết tình thơ” B XUÂN HƯƠNG: ngồi trong quán sau chõng tre ngâm nối Người thơ ơi hỡi, hỡi người thơ Tình đã lên men chín độ vừa Có phải duyên thơ mời ghé quán Cùng nhau trao đổi mấy vần thơ A CHIÊU HỔ: ghé quán khoan thai ngâm Quán nước bên đường quán của ai Mà xem cửa đóng với then cài Muốn vào e sợ người không tiếp Chủ quán là ai? Xin hỏi ai B XUÂN HƯƠNG: cười duyên ngâm Quán này quán nước của Xuân Hương Chỉ tiếp người thơ lỡ độ đường Chiêu đãi ân cần tiền chẳng tốn Xin mời quân tử ghé khai trương A CHIÊU HỔ: ngồi xuống ghế ngâm vấn Quán nước bên hồ rõ thật xinh Mà cô chủ quán vẻ đa tình Trầu cau sẵn đó sao không tặng …………………. B XUÂN HƯƠNG: cướp lời ngâm và mời Quả cau nho nhỏ miếng trầu hôi Này của Xuân Hương mới quẹt rồi Có phải duyên nhau thì thắm lại Đừng xanh như lá bạc như vôi A CHIÊU HỔ: đỡ miếng trầu ngâm Tình thơ sao nỡ bạc như vôi Của quý Xuân Hương đã tặng rồi Cầu nguyện tơ hồng se chỉ thắm Tôi thề chẳng dám bạc như vôi A CHIÊU HỔ: chỉ tay vào chùm bánh ú ngâm Chiếc bánh ú này có ú không? Xin cô chủ quán hãy vui lòng Mở banh áo lá cho coi thử Ưng ý Hổ này đắt cũng bưng B XUÂN HƯƠNG: mắt đưa tình ngâm Bánh này bánh ú của Xuân Hương Bố mẹ trao cho lúc lọt lòng Quân tử có ham xin cẩn thận Coi chừng dính mép khó người trông A CHIÊU HỔ: với chiếc điếu cầy, móc túi áo tìm thuốc (quên mang) vội hất hàm ngâm hỏi Xuân Hương Điếu mà thiếu thuốc hút làm sao Biết hỏi xin ai biết chỗ nào Cô chủ vui lòng xin một dúm Thuốc ngon nửa điếu sướng làm sao B XUÂN HƯƠNG: đó mặt, véo dúm thuốc trao Chiêu Hổ và ngâm Nể lòng quân tử biết làm sao Véo tặng thi huynh dúm thuốc lào Của ít lòng nhiều xin nhận lấy Kính mời tri kỷ rít đi nào A CHIÊU HỔ: châm lửa rit thuốc mơ màng say và ngâm Quốc hồn quốc túy cũng là đây Sòng sọc thâu đêm tiếng điếu cầy Càng níu hơi dài càng thấm mệt Thi nhân nhiều kẻ thích hơi dài Lâu một phút mơ màng say thuốc, Chiêu Hổ chỉ tay vào ấm nước chè ngâm Nước này cô bán hay cho không? Nếu bán thì cô lấy mấy đồng? “Bán nước” tội đời bia miệng đó ………. B XUÂN HƯƠNG: cướp lời ngâm cười rót nước mời Chiêu Hổ Nước này không bán chỉ cho không Với kẻ văn nhân đáng mặt chồng Còn kẻ tục tằn đi chỗ khác Nước này không bán chỉ cho không Chiêu Hổ lợi dụng nắm tay Xuân Hương mắt đưa tình môi mấp máy tiến lại gần, Xuân Hương luýnh quýnh đánh rơi bát nước tung tóe và ngâm B XUÂN HƯƠNG: “Anh đồ tỉnh anh đồ say Sao anh ghẹo nguyệt giữa ban ngày Này này chị bảo cho mà biết Chốn ấy hang hùm chớ mó tay” A CHIÊU HỔ: trơ tráo ngâm đáp “Này ông tỉnh này ông say Này ông ghẹo nguyệt giữa ban ngày Ví bằng chốn ấy ông không mó Sao có Hùm con bỗng chốc tay” Giả say Chiêu Hổ chuếnh choáng tiến lại định ôm chằm, Xuân Hương lanh trí Xuân Hương cúi thấp người chạy vào hậu trường. Ngay khi đó tác giả vở kịch xuất hiện từ hậu trường đi ra vừa ngay lúc Chiêu Hổ ôm hụt Xuân Hương, chồm ôm tác giả. Từ hậu trường Xuân Hương xuất hiện cả 3 ôm nhau cúi đầu chào khán giả. MÀN HẠ
SỰ THANH KHIẾT CỦA SEN Sen được phân bố rộng rãi từ biển Caspien đến Nhật Bản, Philippin, Ấn Độ, Bắc Úc, nay cũng được trồng nhiều ở Nam Âu, Bắc Phi và Hoa Kỳ. Người ta đã tạo ra nhiều giống, nhiều dạng. Ở Nhật Bản có tới 80 giống và dạng, còn ở Pháp có tới 12 giống. Các giống sen cao thấp, hoa đơn, hoa kép, hoa to, hoa nhỏ và màu sắc khác nhau. Nước ta là quê hương của sen. Sen ở nước ta có 2 loại: - Sen hồng: cây cao khỏe, hoa màu hồng to, hương thơm ngát - Sen trắng: cây cao, yếu hơn, hoa màu trắng Bộ phận nào của sen cũng có ích cho con người: hoa đẹp thơm, nhị hoa đem ướp trà, lá dùng gói bánh, nhất là cốm, củ sen, hạt sen, ngó sen là thực phẩm ngon, làm mứt, nấu chè. Hoa, hạt lõi, lá, thân, rễ… đều có các vị thuốc để chữa bệnh và bồi dưỡng con người. Từ xa xưa, hoa sen (Nelumbium nelumbo (L) Druce) đã được con người, nhất là nhân dân các nước theo đạo Phật, đặc biệt trân trọng vì hương sắc thanh khiết cao quý của nó. Trong kinh điển Phật giáo (như Đại thừa Diệu Pháp Liên Hoa kinh) sen thường được nhắc đến, với tên Mạn-đà-la (sen) hay Ma-ha Mạn-đà-la (sen lớn) và hình tượng sen nở, còn được dùng để chỉ sự kiện Phật xuất thế. Ở Đông phương, với truyền thống Nho giáo, sen còn được tôn vinh làm biểu tượng cho đức độ quân tử như Chu Đôn Dy đã phô bày phẩm tính cao quý “mọc lên từ bùn lầy mà chẳng nhiễm” trong bài “Ái liên thuyết” của mình? Từ xưa, sen đã được các tao nhân mặc khách nuôi trồng trong chậu cảnh, để thưởng thức và ngâm vịnh những lúc trà dư tửu hậu, gọi là “bồn tài hà hóa” (hoa sen trồng chậu) hay gọi như ngày nay “sen bonsai” (bon sai là âm Hán Nhật của bồn tài). Công viên Cảnh Sơn ở phía Bắc cố cung Bắc Kinh (Trung Quốc) vừa được xây dựng để đón du khách đến thưởng ngoạn Sen vào mùa hoa nở - mùa Hạ hàng năm. Hơn 4.000 loài sen muôn vàn hương sắc, thuộc đủ mọi chủng loại, được trồng trong chậu trưng bày xen lẫn với các kiến trúc lầu, đài, đình trong Công viên, để mọi người xem tận hưởng hương thơm cách sắc của một vùng sen. Nổi bật trong số hơn 4 ngàn chậu sen này là 2 chậu từ Nhật Bản được người xem trân trọng: một bồn “Sen chùa Đường Triệu Đề” là con cháu của cây sen mẹ, vốn là cây đã được trồng từ hạt sen, do vị cao tăng đời Đường là Giám Chân (hạt sen “Dương Châu”) đem từ Trung Quốc qua trồng ở chùa Toshyoteji (Đuờng Triệu Đề Tự), Nara (Nại Lương) ở Nhật Bản cả ngàn năm nay vẫn còn và mới đây lại hồi hương. Bồn sen thứ hai là “Trung Nhật hữu nghị liên” (Sen hữu nghị Trung – Nhật) có sắc thái rất huyền ảo. Thi sĩ đời Đường (Trung Quốc), nhà thơ Lý Bạch (701 – 762) có bài Thái Liên khúc (khúc hát hái sen): Có cô con gái nhà ai Hái Sen chơi ở bồng ngoài Nhược Da Mặt hoa cười cách đóa hoa Cùng ai nói nói mặn mà thêm xinh Áo quần mặc mới sáng tinh Nắng soi đáy nước, rung rinh bóng lồng Thơm tho vạt áo gió tung Bay lên phất phới trong không ngọt ngào Năm, ba chàng trẻ nhà nào Ngựa hồng rặng liễu, bờ cao bóng người Ngựa kêu lần bước hoa rơi Đoái trông ai đó, ngậm ngùi tiếc thương Tản Đà (10.12.1937) Bài Trì Thượng (Trên ao) của nhà thơ Bạch Cư Dị (772 – 846): Người xinh, bơi chiếc thuyền xinh Bông sen trắng nõn mới tinh hái về Hớ hênh dấu vết không che Trên ai để một luồng chia mặt bèo Tản Đà (24.10.1937) Bài Thái Liên khúc (khúc hát hái sen): Ấu sen sóng gió một miền Con thuyền len lỏi lối sen mịt mùng Gặp chàng muốn nói, thẹn thùng Cúi đầu trâm rớt vào trong nước hồ… Tương truyền Vua Lý Thái Tôn nằm mộng thấy Phật trao cho đóa hoa sen. Tỉnh giấc, vua cùng đình thần đóan mộng, rồi truyền xây dựng Chùa Một Cột, hình đóa sen nở xòe, để ghi lại sự tích này. Chùa Một Cột là nỗi nhớ quê hương của những người xa xứ. Một trong những người ấy, nhà thơ Thân Thị Ngọc Quế viết: “Thăm Chùa Một Cột, hương thơm ngát Như đóa hoa sen giữa bụi mù Bụi vẫn bay và hoa vẫn nở Hoa còn nở mãi với ngàn Thu” Vẻ đẹp của sen gợi lên cốt cách cao thượng, trong sạch của con người, Cao Bá Quát viết: “Ví hoa đương túc liên Hương thanh cán tựa tu duy tiên” Nghĩa là: “Nếu là hoa, thì nên là sen Hương thanh, cành thẳng, đẹp như tiên” Ca ngợi tình yêu: Thương chồng nấu cháo le le Nấu canh bông bí, nấu chè hạt sen Sông sâu nước chảy vui vầy Ai xui em đến chốn này gặp anh? Đào tơ sen ngát xanh xanh Ngọc lành phải giá, gái lành phải duyên Chị thời như cánh hoa sen Chúng em bèo bọt, chẳng chen được vào Lạy trời cho cả mưa rào Cho sen chìm xuống, bèo trào lên sen… Ở nước ta, sen mọc rải rác khắp mọi nơi ao, hồ, đầm… người ta còn xây hồ nhân tạo để trồng sen ở các đình chùa, lăng tẩm, để làm tăng vẻ đẹp phong cảnh. Sen tập trung nhiều nhất ở vùng Đồng Tháp Mười mà địa danh ở đây mang tên Làng Sen. Nhắc đến vùng bưng biền nổi tiếng này trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ, bên cạnh rừng tràm, không thể không nói đến cây sen: Sen Tháp Mười, hương thơm ngào ngạt Lúa Tháp Mười, trĩu hạt sai bông Tháp Mười đẹp nhất bông sen Việt Nam đẹp nhất có tên Bác Hồ. Ở Mộc Hóa, Vĩnh Hưng có những Bàu sen, làng sen rộng đến 2, 3 cây số vuông. Trong chiến tranh đánh Mỹ, cán bộ, bộ đội, du kích đã từng “chém vè” ở các láng sen, bàu sen, để tránh những trận càn lớn của giặc. Nhiều khi phải ngâm mình dưới nước cả ngày, chịu đói, chịu lạnh. Nhưng nếu may mắn gặp mùa sen đã có hạt, thì có thể vững bụng. Bởi vì chỉ cần bứt mươi chiếc gương sen, bóc lấy hạt rồi nhai sống, thế là cơ thể có đủ chất dinh dưỡng và nhiệt lượng, để con người chịu đựng cả ngày dưới nước. Trong những ngày đánh Mỹ, bức ảnh chụp những chị em du kích Đồng Tháp Mười đang phục kích địch dưới tàu lá sen và bông sen, đã đến với bạn bè năm châu, qua báo Ảnh Việt Nam, giúp họ hiểu thêm về con người và đất nước Việt Nam. Trong bộ tranh Tứ quý cổ truyền, Sen tượng trưng cho mùa Hạ. Thế nhưng, trên đồng đất phương Nam, do điều kiện đất đai và khí hậu, sen không chỉ trổ hoa vào mùa Hạ và tàn vào mùa Thu theo quy luật, mà lại nở hoa ra tươi đẹp gần như quanh năm. Vào mùa Hạ ở miền Nam, nơi những ao hồ cạn nước, bị dậy phèn thì sen ở nơi đó không những không trổ hoa, mà còn tàn rụi, để rồi khi mùa mưa đến thì lại mọc lên. Doãn Uẩn, một nhà nho quê Nam Định, khi được điều về làm quan tại An Giang vào thế kỷ 19, đã ngỡ ngàng khi phát hiện ra điều lý thú là ở phương Nam, dưa hấu chín vào tiết Đông, trong lúc ở quê ông thì dưa lại chín vào mùa Hạ; và sen ở phương Nam thì nở quanh năm, chứ không phải chỉ nở vào mùa Hạ. Quả thật, sen đã cho ta nhiều lý thú… BÙI ĐẸP Tạp bút MÓN ĂN DÂN DÃ
Mấy ngày nghỉ người ta ăn uống, đi chơi. Hôm qua mình cũng bon chen đi chơi và không biết đi đâu hơn là thẳng lên Củ Chi thăm bà chị. Đi chơi có kết hợp với ăn uống cho đúng lẽ thường tình, có ông xã làm xa phu, yên tâm ngắm cảnh đồng quê. Thực phẩm là đồ nguội bánh mì đem lên ăn chung với anh chị, vậy là xong. Nhà ít người, neo đơn, hai ông bà đi vô đi ra, vắng vẻ hiu quạnh... Gia đình bây giờ ít người là tốt, dân số đang tăng nhanh, chỉ thương anh chị chỉ có hai người với nhau. Cứ cái đà này anh chị em nhà mình sẽ dư nhà và thiếu người ở. Nhớ những ngày ở Nha Trang, hồi ấy nhà nghèo, cha mẹ lại đông con. Mỗi ngày mẹ đi chợ chỉ dám hà tiện mua vài thứ bình dân về làm cơm. Ở vùng biển, dân nghèo chỉ ăn cá là chính, nhà mình ít khi ăn thịt, nếu có chăng thì cũng phải chia phần, nhín nhút mỗi đứa vài miếng. Mẹ mình mua gì nhỉ? Cứ cá đuối nấu canh chua, cá đuối nấu cà ri sả. Không cá đuối thì cá nhám, cũng với hai món đó luôn. Cá thu cũng có ăn, nhưng hình như ít thường xuyên hơn. Ngoài ấy còn có một loại sò nhỏ, người ta kêu là con "sút", người bán hàng cạy sẵn, mẹ mình mua về xào chung với thơm, cà, rau cần, cũng xong. Có khi mẹ mua cá gì ấy, nhớ hình như tên là cá “ốp” thì phải, dân biển đánh cá từ nửa khuya, muối sả ớt ngay ngoài khơi, sáng đem vô chợ bán. Mấy con cá chiên, kèm canh rau rán, vậy mà bữa cơm nhà mình lúc nào cũng ngon miệng. Có khi mẹ nấu canh “khuyết”, con khuyết là nguyên liệu làm ruốc, vừa rẻ mà vừa ngọt, con nhà nghèo ăn chi cũng ngon. Nghe mẹ kể hồi nạn đói, nhà ông bà ngoại đông con cháu, hàng ngày mua một thúng khuyết nấu cháo chung với một lon gạo, cả nhà hơn 10 người sống qua ngày.
Nói chung nhà mình ăn toàn đồ rẻ tiền, cuối tuần cha mình lấy xe chạy ra Lương Sơn, mua về một bao lớn, khi thì sò huyết, khi thì sò lông, có bữa có cả điệp ngói, điệp sành, có khi mua được cả vẹm xanh, một loài nhuyễn thể như nghêu sò, nhưng sống ở nước lợ, và cực kỳ ngon.Thỉnh thoảng, vào ngày Chủ Nhật nhằm mùa nắng đẹp, hai đứa em trai lấy cây “khấu”, một cây chỉa ba quay lại dặn trước mẹ đi chợ chỉ mua bánh tráng, rau sống với chanh ớt gừng thôi, rồi đi ra biển, bơi lặn một hồi, rồi xuống sâu chút, rình móc lên một con mực nang chừng hơn 1kí, vài con cá lưỡi trâu. Hôm đó bữa ăn ở nhà có món mực luộc cuốn bánh tráng, chấm nước mắm gừng, món cá lưỡi trâu chiên giòn, bây giờ gọi chiên xù cũng vậy thôi, kẹp vài lá rau húng, rau thơm. Nước mắm nhỉ cá cơm ở Nha Trang thật tuyệt vời, mặn vừa phải, thơm mùi… cá biển, cơm nóng chỉ cần với nước mắm cũng cưa được vài chén. Ở đây còn được ăn con “nuốc”, từ ngữ như kiểu quê dùng để chỉ mấy con sứa trong nam. Con nuốc, rẻ rề, người ta lấy rổ lớn xúc từng rổ, về ngâm nước phèn cho săn lại, là đem ra chợ bán được. Mẹ mình làm món “dấm nuốc” mà trong nam kêu là bún sứa. Nói vậy nhưng cũng ít khi mình được ăn dấm nuốc, vì cách chế biến còn phải dùng tôm sú lớn nấu với thơm làm nước dùng chan lên bún, mà tôm sú thì mắc. Thường thì mình ăn con nuốc trộn rau thơm và chấm với ruốc pha tỏi ớt. Ăn thì chỉ có vậy, nhớ hồi đó nghe mẹ nói tháng nào cũng phải mua tới 1 tạ gạo, đúng rồi, tất cả chỉ sống nhờ năng lượng từ tinh bột. Và ba mình thương cún, nuôi cả mấy “em” lớn đại, thực lực theo nghĩa sức ăn cũng kha khá. Ăn uống quanh năm mãn mùa chỉ có vậy, mà cả nhà mình con trai hơn 1m7, con gái hơn 1m6, chỉ có chị mình, chắc là con đầu, ba mẹ làm “nháp”, nên hơi kém tí. Hôm nay tự nhiên thấy mọi người ăn uống tưng bừng, nhớ ngày xưa quá đi, chẳng nhớ gì nhiều bằng nhớ đến đủ loại thức ăn. Nay nhìn lại thì quả là ngày xưa mình ăn toàn đặc sản của ngày nay. Chợt nhớ cá ngừ nữa, muốn ăn cá ngừ thì phải mua cho được cá chấm, do nó có cái chấm bên hông, dưới vây. Cá chấm kho nhiều nước, mua bún về ăn, kèm theo rau sống xắt nhỏ, với dưa leo, giá sống. Ở Saigon, ít ai ăn cá biển, có lẽ vì vậy ngoài chợ ít người bán mấy thứ cá nhà nghèo này, chỉ thấy cá thu cao cấp, cá nục với cá bạc má thông dụng, rồi chẳng có gì khác cho đặc biệt. Lại còn nhớ thứ cá mó, màu mè vằn vện xanh xanh đỏ đỏ, mà người Nha Trang nói "cá mó chó ăn" vì thịt nó chẳng có hương vị gì. Có lần kia nhà có được mấy con lớn, tình thương mến thương đem chia sẻ cho nhà bên này, em gái ra sức chế biến, lạng thịt, nêm gia vị, quết nhuyễn làm chả cá, chiên lên chấm với nước mắm nhỉ, chỉ một loáng nồi cơm sạch bách. Có lẽ nhờ cái mùi tanh đặc biệt khó quên. Bởi vậy, nếu nói là biết ăn cá thì xin đừng chê cá tanh. Có những buổi chiều cả nhà nướng sò ngoài vườn, dưới bóng mát của tàng cây keo. Cuộc sống hết sức thanh bình và vô cùng thú vị. Càng nhắc càng nhớ Nha Trang… Trang Khanh
●Hình ảnh trích từ Internet. 6 loại rau nên ăn nhiều (Sức khỏe) - Cà rốt, quả bí đỏ, mướp đắng, cà chua, tỏi và mộc nhĩ đen đều là những thực phẩm có ích để bảo vệ sức khỏe, giúp sống thọ. Dưới đây là dẫn giải của GS Tề Quốc Lực, Đại học Y học Bắc Kinh, Trung Quốc. Cà rốt Trong sách “Bản thảo cang mục” của Trung Quốc có nói cà rốt là loại rau có bổ dưỡng cho mắt. Những người bị chứng quáng gà ăn cà rốt là khỏi. Cà rốt bảo vệ niêm mạc, ăn cà rốt lâu ngày thì không dễ bị cảm. Người Mỹ cho rằng cà rốt là thứ rau làm đẹp người, dưỡng tóc, dưỡng da, dưỡng niêm mạc. Người thường xuyên ăn cà rốt đích thực đẹp từ trong lẫn ngoài. Khái niệm đẹp này phải là sự kết hợp hài hòa trong ngoài. Hơn nữa nó có chút tác dụng chống ung thư. Cà rốt còn không sợ nhiệt độ cao, cho dù nhiệt độ cao bao nhiêu thì cũng không làm mất đi dinh dưỡng. Bí đỏ Bí đỏ kích thích tế bào tụy sản sinh ra insulin. Cho nên người thường xuyên ăn bí bỏ rất ít mắc bệnh tiểu đường. Mướp đắng Tuy đắng nhưng nó kích thích tiết ra insulin, người thường ăn mướp đắng cũng không bị tiểu đường. Những người có tuổi nên ăn bí đỏ, mướp đắng thường xuyên. Cà chua Ở Mỹ, hội Chữ Thập Đỏ tuyên truyền cổ động các gia đình trồng cà chua, ăn cà chua, mục đích là phòng chống ung thư. Đó là điều mới được biết đến 5-6 năm nay. Cà chua có thể phòng chống ung thư buồng trứng, ung thư tuyến tụy, ung thư bàng quang, ung thư tiền liệt tuyến. Tôi hỏi mọi người, cà chua nên ăn theo cách nào? Có người trả lời: thật đơn giản, rửa rồi ăn sống thôi, có người nói cắt thành miếng nhỏ, trộn lẫn vào một ít đường, ăn và uống cùng với một chút bia. Nếu ăn theo cách như thế này thì tôi nói thẳng là ăn cũng như không. Trong cà chua có một chất kết hợp cùng với protein và bị bao quanh bởi xen-lu-lô nên rất khó lọt ra ngoài. Vì thế phải làm nóng lên, khi nóng đến mức độ nhất định nó mới lọt ra được. Tôi mách các bạn, cà chua xào trứng gà là đáng tiền nhất. Ngoài ra còn có canh cà chua hoặc canh cà chua trứng gà cũng rất tốt. Mong mọi người chú ý, cà chua ăn sống không chống được ung thư. Tỏi Tỏi là vua chống ung thư. Tôi vừa nói tỏi ăn như thế nào, có người nói ngay tỏi phải ăn nóng. Sao cái gì bạn cũng muốn ăn nóng? Tôi xin thưa với các bạn: tỏi đun nóng lên thì tác dụng bằng không! Người Sơn Đông, người Đông Bắc rất thích ăn tỏi, cứ bóc từng nhánh mà ăn, còn nói ăn tỏi không bị ung thư, nhưng chẳng mấy hôm họ bị ung thư trước. Vậy ăn tỏi thế nào? Xin thưa quý vị, trước hết phải thái nhánh tỏi thành từng lát mỏng, để ngoài không khí khoảng 15 phút, lúc đó tỏi sẽ sản sinh ra một loại chất gọi là allimin, khi đó tỏi mới có tác dụng. Bản thân tỏi không chống được ung thư, Allimin trong tỏi mới chống được ung thư, hơn nữa là vua chống ung thư. Rất nhiều người không ăn tỏi bởi vì tỏi có mùi. Nếu sợ tỏi có mùi thì ăn một quả sơn trà, nhai nắm lạc rang, hoặc nhấm nháp chút lá chè là hết mùi ngay. Xay nhỏ hoặc băm nhỏ tỏi cho vào dấm thì cũng sẽ có hiệu quả rất tốt. Mộc nhĩ đen Bây giờ cứ đến tết, người chết vì nhồi máu cơ tim ngày càng nhiều, càng ngày càng có nhiều người chết trẻ, thậm chí ở cả tuổi 30! Vì sao chứng này gia tăng mạnh vào dịp tết? Có hai nguyên nhân, một là máu đặc và cơ thể tụ nhiều chất béo. Một nguyên nhân khác là Tết ăn nhiều thực phẩm thân thiết với những chứng bệnh này. Nhồi máu cơ tim tuy không có cách gì chữa được nhưng hoàn toàn có thể phòng chống. Có bác sĩ khuyên uống Aspirin, vì sao? Vì Aspirin có thể khiến máu không đông đặc lại, không bị nhồi máu cơ tim. Nhưng hậu quả là gì? Hậu quả là chảy máu ở đuôi mắt. Bây giờ rất nhiều người bị chảy máu ở đuôi mắt. Tôi khuyên mọi người đừng uống Aspirin nữa. Vậy uống gì thay thế? Ăn mộc nhĩ đen. Ăn mộc nhĩ đen có hai tác dụng, trong đó có một tác dụng là khiến máu không bị đông đặc lại. Tác dụng này của mộc nhĩ đen là do một chuyên gia bệnh tim của Mỹ phát hiện, ông đã đoạt giải Nobel. Sau khi ông công bố ra, tất cả người Châu Âu người có tiền và có địa vị đều ăn mộc nhĩ đen, chứ không uống Aspirin nữa. Người thế nào là người có thể chất ngưng tụ máu? Xin trả lời là người thấp lùn và to béo, đặc biệt là những phụ nữ ở thời kỳ tiền mãn kinh; người thuộc nhóm máu A; người có cổ càng ngắn thì càng dễ mắc bệnh tụ máu. Để phòng chống chứng nhồi máu cơ tim, thứ nhất là tết không nên ăn đồ biển nhiều, thứ hai nên uống một chút trà ngon, có tác dụng hoạt huyết giải tồn ứ đọng, thứ ba không được tức giận, hễ tức giận là máu sẽ ngưng tụ lại. Uống rượu trắng cũng dễ đặc máu, muốn uống rượu thì nên uống vang đỏ và lượng không quá 100ml/ ngày. Bs Nguyễn Lân Đính st Hai nửa hy sinh Khi cô giật mình tỉnh dậy giữa đêm vì lạnh, anh thường ôm chặt cô vào lòng, dùng hơi ấm của cơ thể sưởi cho cô. Cô vốn là một người con gái xinh đẹp. “Vệ tinh” xung quanh cô nhiều không kể xiết, nhưng cô bỏ ngoài tai tất cả để chọn anh – một công nhân làm việc ở nhà máy, thu nhập còn không đủ cho 3 bữa ăn hàng ngày. Cô chấp nhận từ bỏ cả gia đình, thậm chí là công việc đầy tương lai của mình để cưới anh. Sau khi kết hôn, anh và cô mượn được nhà kho của một người bạn, họ sắp xếp lại thành một tổ ấm giản dị. Mùa đông đến, căn nhà kho trống trải hút gió lại càng trở nên lạnh giá. Khi ấy chưa đủ tiền mua chăn, cô thường bị giật mình tỉnh dậy giữa đêm vì lạnh. Những lúc đó, anh chỉ biết ôm chặt cô vào lòng, dùng hơi ấm của cơ thể sưởi ấm cho cô. Một ngày cô trở về nhà với vẻ mặt thất thần nhợt nhạt, anh lo lắng hỏi cô có phải bị bệnh rồi không? Cô chỉ mỉm cười nói: “Em hơi mệt thôi!” rồi hân hoan rút từ trong túi ra một tờ bạc nhét vào tay anh: “Chúng mình có tiền rồi anh ạ, mình đi mua một chiếc chăn thật ấm để đắp nhé.” Anh sững người ngạc nhiên nhìn tờ tiền trong tay cô, giọng run run: “Làm sao em lại có nhiều tiền vậy?” Cô vui vẻ kể lại cho anh tiền là do cô kiếm được khi đi phát tờ rơi. Cô phải đứng từ sáng đến tối mới được trả ngần ấy tiền. Nói rồi cô vội vàng kéo anh ra khỏi nhà, không cho anh hỏi thêm điều gì nữa. Họ mua môt cái chăn vừa tầm tiền. Từ đó, giữa đêm cô không còn bị giật mình thức giấc nữa. Vài năm sau, anh tìm được công việc tốt hơn, rồi kiếm được nhiều tiền, tự mở công ty. Không bao lâu anh đã xây cho cô một ngôi nhà khang trang, mua ô tô cùng rất nhiều đồ dùng đắt tiền khác. Anh nói muốn dành cho cô một cuộc sống ấm no đầy đủ bù đắp lại những tháng ngày khó khăn vất vả trước đây. Cuộc sống bỗng vụt thay đổi khiến cô có phần bàng hoàng chưa kịp thích nghi với điều kiện mới. Ngày chuyển nhà, anh bảo những đồ đạc cũ trong căn nhà kho của họ trước đây anh đều muốn vứt đi không giữ lại bất cứ cái gì. Nhưng cô khăng khăng nói muốn giữ lại cái chăn để đắp. Và rồi một thời gian dài nữa họ vẫn dùng cái chăn cũ ấy, giờ đây nó đã trở nên xù xì cũ kĩ, còn bị rách khá nhiều chỗ. Anh không ngừng phàn nàn với cô: “Thôi bỏ cái chăn cũ này đi em, mình có thể mua một cái chăn mới ấm áp và tốt hơn rất nhiều. Em xem cả nhà mình toàn những đồ đắt tiền, nhìn cái chăn cũ này trong nhà trông thật chướng mắt”. Nhưng cô vẫn cố chấp nhất quyết giữ lại cái chăn cũ ấy, vì chỉ khi đắp nó cô mới cảm thấy ấm áp và được che chở. Một hôm, anh về nhà mang theo một cái chăn mới và nhất quyết bảo cô bỏ cái chăn cũ đi. Lần này dù không nỡ nhưng cô vẫn nghe theo lời anh. Từ đó, hàng đêm cô ngủ không còn ngon giấc nữa, trong lòng cô lúc nào cũng cảm thấy thấp thỏm lo lắng khiến cô lại không ngừng giật mình giữa đêm. Và mỗi lần tỉnh dậy như thế, hai mắt cô lại đầm đìa nước. Anh vốn không biết rằng để mua được cái chăn đó cô đã phải đi bán máu lấy tiền chứ không phải đi phát tờ rơi như cô nói với anh. Lần đầu tiên bán máu, biết bao đau đớn, cũng chỉ vì muốn có cái chăn này. Vậy mà anh lại nỡ vất bỏ nó. Cô dần cảm thấy anh không còn yêu cô như xưa nữa. Một ngày anh có việc gấp phải ra ngoài, quên mang theo máy tính xách tay quen thuộc. Trên màn hình của anh vẫn hiện lên trang blog anh viết hàng ngày. Và cô bất chợt đọc được dòng chữ anh hình như mới viết không lâu. “Ngày hôm ấy em từ đâu về khuôn mặt tái xanh nhợt nhạt khiến cho tôi lo lắng vô cùng. Rồi em nói em đi phát tờ rơi để mua chăn cho hai đứa. Tối hôm đó chúng tôi nằm ngủ ấm áp trong chiếc chăn mới, thấy em nằm cuộn tròn trong lòng tôi say trong giấc ngủ, tôi thương em biết bao. Đã bao đêm rồi em không được ngủ ngon đến vậy. Và rồi tình cờ tôi nhìn thấy trên tay em có một vết sưng nhỏ, dường như bị kim tiêm đâm vậy. Tôi bỗng hiểu ra tất cả. Hóa ra em nói dối tôi em đi phát tờ rơi, thực ra em đã đi bán máu để có tiền mua chăn, chỉ vì một cái chăn mà em đã phải khổ sở đau đớn đến vậy. Đêm đó tôi đã khóc vì thương em và cũng thầm hứa sẽ cố gắng làm việc, phấn đấu trở thành một người thành đạt, để có thể bù đắp lại những ngày tháng khốn khó này cho em. Và giờ đây tôi đã thực hiện được lời thề đó. Hôm qua tôi quyết định đến trạm hiến máu, tôi chỉ muốn cảm nhận một chút nỗi đau em từng trải qua. Khi chiếc kim tiêm đâm vào mạch máu, một cảm giác nhói buốt lan dọc khắp cơ thể. Nhưng tôi không thấy đau, ngược lại, rất hạnh phúc. Tôi lấy tiền bán máu và đi mua chiếc chăn mới này. Tôi muốn nó là món quà bất ngờ dành cho em…” Nước mắt cô đã ướt đẫm tự độ nào. Hóa ra tình yêu của anh dành cho cô vẫn sâu đậm và lớn lao đến vậy. Mùa đông năm nay anh đã đổi máu của mình tặng cho cô chiếc chăn ấm, có lẽ đó cũng sẽ là chiếc chăn ấm áp nhất cô có trong đời… Lê Ái Liên st Truyện Ngắn LỐI XƯA NGẬM NGÙI “Ơi…ơi…” Cảm giác như ai đó gọi mình, tôi hơi ngoái lại, một thoáng liếc ngang, đâu có ai gọi đâu. Tôi lại quay bước. Vỉa hè lăn tăn lá, con gió hiu hiu cuối chiều thoang thoảng dễ chịu. Tôi nghe lòng nhè nhẹ một cảm xúc. Mơ hồ nghe tiếng chân bước gấp gấp phía sau, lại “ơi…ơi…”. Kiểu gọi mà như sợ người nghe giật mình, tôi dừng chân, quay hẳn người lại. Dáng một người đàn ông ốm ốm, vẻ ngượng ngùng khi dừng lại bước chân đang sải tới. Miệng hơi mỉm cười. Tôi nhìn gương mặt sạm sạm, xương xương, cặp kính râm như càng thêm bí ẩn, hình như mình có quen, nhưng là ai đây? cặp kính được gỡ ra, cùng một giọng nói nho nhỏ: - Không nhận ra mình hả? Đúng là gương mắt khá quen, ánh mắt kia nữa cũng rất quen, nhưng không thể nhớ ra được là ai. - Xin lỗi, mình thấy bạn rất quen nhưng… - MM đây. - Á… Tôi bật một tiếng kêu, và vội bịt miệng mình lại. MM. Trời! MM đây sao? Nụ cười buồn buồn là lạ như hiểu rất rõ thái độ của tôi. - Bạn rảnh không? Mình kiếm chỗ nào nói chuyện đi. - Không rảnh cũng phải rảnh. Đi, về nhà mình. Tôi quyết định rất nhanh, là bởi trong đầu tôi vụt lên hàng loạt câu hỏi, mà để giải đáp được hết nó thì không thể chỉ vài phút. “Đàn ông nói chuyện trong nhà. Đàn bà lô la ngoài ngõ.” Những người đàn ông gặp nhau, muốn nói một câu chuyện gì đó, thì thông thường nhất là rủ nhau vào một quán cà phê, hoặc về nhà với một cuộc sương sương, cho thêm mặn mà câu chuyện. Không như những người phụ nữ, gặp nhau bất kỳ chỗ nào, giữa đường giữa chợ, thậm chí là giữa những nơi cần sự yên tĩnh đều có thể đứng dài ra mà chuyện. Tôi không phải là đàn ông, nhưng cũng không hoàn toàn là phụ nữ, nên cũng thường diễn tiến cuộc chuyện trò của mình dưới một cái mái nào đó. Với cuộc chuyện này, thì cái mái tốt nhất và phù hợp nhất là cái mái nhà tôi. Bởi đó sẽ là một câu chuyện không nên để cho những cái tai đầy tính tò mò vểnh vào. Trong tâm tưởng tôi lúc này là hình ảnh của một khung cảnh của một ngày chưa thể gọi là quá xa. Đường lên chùa là một con đường nhỏ trải sỏi dăm uốn lượn hơi quanh co một chút qua một vạt rừng thông thoai thoải dốc. Mỗi lúc gió, tiếng thông rào rạt như khúc mưa mùa dạo nhanh, cũng có khi lào xào khe khẽ như một cuộc trò chuyện rì rầm. Nhất là đi vào lúc chiều nắng nhạt, chung quanh vắng vẻ có cảm giác thư tĩnh lạ thường. Có lẽ đó cũng là một nguyên do để những nhà sư chọn đất làm chùa thường ở nơi cao và xa đường lộ, như để tâm thế con người được quen dần với một không gian huyền mặc ưu tư. Ngôi chùa Viên Giác được xây dựng nơi triền đối này cũng khoảng gần trăm năm, đã trải qua mấy đời trụ trì. Khuôn viên đơn giản nhẹ nhàng bởi những bóng cây cao thấp, chùa không quá tấp nập huyên náo vào những lễ tiết, không quá tư trầm vắng lặng lúc ngày thường. Chùa cũng có độ mươi sư thầy, vị cao tăng trụ trì thì độ sáu mươi cũng là người cao tuổi nhất. Kế đến là mấy thầy tuổi trung niên, và đôi ba vị đang thời trai tráng, thêm hai chú tiểu còn đang chỏm đào đủ hình thành một cụm tứ đại chi gia. Mà cũng thật vậy, ngoài những phận hành pháp hạnh, thì mấy thầy trò cũng chẳng khác chi một gia đình. Có thể nào khác được, khi đã đi theo tiếng gọi thiền căn thì đương nhiên chùa là nhà, sư phụ là cha và tăng hữu là huynh đệ. Nên sự gắn bó chăm lo cho nhau chẳng khác gì người thân, nhờ đó mà cũng bù đắp được phần nào sự thiếu hụt tình cảm. Tôi không thường xuyên lên chùa với tư cách là một phật tử thuần thành, bởi tôi quan niệm, hãy sống từ tâm và thiện tính, không tham lam ác hại, không mưu toan trục lợi, sống với tình yêu thương, có thể giúp ai được gì thì không hề ngại, thế đã là phật tính, thế đã là tu dưỡng tâm khí rồi. Không chỉ là sự suy ngẫm chủ quan, mà đem ra trao đổi cùng một số các vị cao tăng thì tôi đều nhận được sự tán đồng. Vâng, không phải chỉ thuộc làu kinh kệ, không phải khói hương sáng tối là đã làm nên tâm đạo. Mà không ít người mượn hình thái cửa thiền để rắp tâm vị kỷ, mưu lợi. Hoặc cứ dối trá tham lam cho đã rồi dăm ba biến kinh sám hối là coi như sạch tội. Dẫu biết vậy, nhưng cửa thiền luôn rộng mở, ít ra là cũng mong mỏi và tạo điều kiện cho những sân si đời thường may ra có phần tiết hạn. Tuy không hẳn lên chùa thắp hương niệm phật, nhưng bước chân vào lĩnh giới này, tôi vẫn cảm nhận được một sự thanh thoát an nhiên. Niềm yêu thích của tôi là được trò chuyện với các vị sư tăng. Họ là những người có một tầm trí tuệ uyên thâm về nhiều lĩnh vực. Không chỉ phần đạo pháp, mà các vấn đề xã hội đời thường cũng được các vị luôn để tâm chú trọng. Là bởi, có hiểu đời mới đưa được đạo vào đời. “ Đời mà không đạo thì đời tham bạc. Đạo chẳng có đời đạo cũng vô minh ”. Đạo sinh ra cũng là để hướng thiện, để dẫn dắt con người đến bến bờ viên lạc tri an. Nhưng có đến được không thì phải nhờ vào tâm khởi của mỗi người. Và rõ ràng một điều “ Mỗi người một nghiệp một duyên. Mỗi người cầm một mái thuyền qua sông ”. Sư Tuệ Tấn trạc tuổi tôi, vóc cao dong dỏng, ăn nói rất có duyên, hay cười và khá hóm hỉnh. Thường tôi chỉ gọi là Thầy những lúc cần thiết, còn thì toàn gọi tên. Tôi bảo “Mình nghĩ, cũng chỉ là mỗi người mỗi việc thôi, nếu dùng danh xưng phân cách quá mất tự nhiên trong giao tiếp. Đã xem nhau là bạn thì không nhất thiết phải câu nệ, đúng không?”. Tuệ Tấn rất đồng ý với quan điểm này “Đúng đó, nhiều lúc mấy ông bà lớn tuổi cứ vái lạy mình rồi một con hai con, mình ngại ghê cơ, nhưng biết làm sao được, phép là thế mà”. Vậy đó, đôi khi con người ta tự làm khó nhau bằng những thứ khuôn phép mà xét ra cũng không cần thiết lắm. Nên trong một phạm vi nào có thể, cũng chước bớt đi cho đỡ phức tạp. Tình bạn chúng tôi khá thân, có thể nói được với nhau nhiều thứ chuyện. Và rồi một ngày, Tuệ Tấn ngập ngừng: - Mình có chuyện này, muốn nói với bạn, nhưng… ngại quá. - Có gì phải ngại, bạn cứ nói đi, có chuyện rắc rối gì sao? Trong thâm tâm, tôi thoáng nghĩ bạn gặp khó khăn chuyện tiền bạc, nhưng rồi nhìn vẻ bối rối, có phần ngượng ngùng, sự nhạy cảm cho tối đoán, hình như đã có những con sóng lăn tăn trên mặt hồ. Tôi nhướng mày nhìn vào gương mặt đang ửng đỏ: - Không phải là… chuyện một cô gái nào đấy chứ? Gương mặt cúi xuống như thú nhận. Tôi sững người. Trời ạ. Nhưng đó là ai? Tuệ Tấn lí nhí một cái tên. Thì ra là cô ấy. Đã từ lâu, tôi nhận thấy sự có mặt gần như thường xuyên của một cô gái lẩn quất quanh Tuệ Tấn. Đó là một trong những người hay đến làm công quả ở chùa. Tôi không mấy nghi hoặc, một phần không hay để tâm đến chuyện người khác, phần nữa tôi nghĩ là không lẽ…Vậy mà… câu chuyện đã bao lâu rồi? Hoá ra là đã hơn hai năm, họ cũng đã từng làm mọi cách để không phát triển câu chuyện ấy, nhưng cứ như một loại rượu vang, càng chôn lâu thì men càng đậm. Dù sao thì cũng là một con người thịt xương tim óc, với tất cả mọi nhu cầu tình cảm như bao người. Lý tưởng là một phần, tình yêu là một nhẽ. Bên nào có nồng độ cao hơn thì át chế được bên kia. - Bây giờ bạn tính sao? - Mình không biết nên làm thế nào cho đúng? Chọn lựa con đường nào cho phải. Mình ngổn ngang quá đỗi bạn ơi! Âm sắc và vẻ mặt của bạn cho thấy rõ một tâm trạng rối bời, bế tắc. Cũng phải thôi. Vào chùa từ khi mới hơn mười tuổi, qua biết bao rèn luyện tu tập, những tháng ngày nâu sồng đã như một phần cơ thể. Nay rơi vào một tình cảnh buộc phải chọn lựa, mà bên nào cũng có phần nghiêng ngửa, thật không phải là chuyện dễ dàng. Biết khuyên bạn thế nào đây ? Đi cũng dở, ở cũng không xong. Tâm không còn tịnh mà tình thì xôn xao. Sau mấy ngày suy ngẫm, tôi nói với bạn: - Chuyện này không ai có thể giải quyết giúp bạn cả. Không chỉ nhiêu khê trong sự chọn lựa, mà tình cảm luôn là một mụ phù thủy cao tay ấn, người ta có thể chống đối lại tất cả mọi điều thuộc dạng ngoại thân, nhưng không thể chiến thắng nội cảm. Mình chỉ có thể đưa ra cho bạn những khả năng giả thiết về cả hai mặt, rồi tùy bạn suy ngẫm và quyết định: · Thứ nhất, đặt vấn đề là bạn hoàn tục. Vậy bạn có hiểu được cuộc sống ngoài đời đòi hỏi những gì chưa? Bạn đã có sự chuẩn bị với khả năng thích ứng phù hợp chưa? Đầu tiên là dư luận, bạn biết rồi đấy, người đời thường có những khắt khe vô lối, họ cho rằng đã là thế thì mãi mãi là thế không có quyền thay đổi, nhất là bạn đang mang hình tượng của sự cao nghiêm, thanh tịnh, một lĩnh giới mang tính thờ phụng chuẩn mực. Người ta không dễ gì tiếp nhận bạn trong một hình thái khác, không những thế, còn ập đến bạn những phản ứng có khi là rất cay nghiệt. Tiếp đến là sự mưu sinh, khi bạn rời khỏi nơi đây, có nghĩa bạn không còn sự bảo trợ nữa, mà bạn phải đối mặt với sự sống, phải tự lo liệu cho tất cả những nhu cầu không chỉ cho riêng bạn, vậy bạn đã chuẩn bị được gì? Một góc độ khác cũng hết sức quan trọng, đó là tâm thế bạn, bạn xưa nay, sống trong một môi trường nhẹ nhàng, được tôn xưng trọng vọng, không ai dám lời nặng tiếng nhẹ, nhưng ngoài kia thì khác, họ sẵn sàng triệt tiêu bạn bằng bất cứ hình thức nào nếu bạn không đồng dạng với họ, cuộc chiến đấu cho sự sinh tồn dù bất kỳ rộng hẹp, đều là cuộc chiến đấu khốc liệt. Con người ta khi va chạm nhau vì quyền lợi thì đừng nói đến chuyện nhân tính. Bạn liệu có chịu nổi những áp lực ấy không? Và một điều nữa cũng cần phải nghĩ đến, đó là “tuổi thọ” của tình yêu. Mình nói thật, tình yêu nó chỉ có thể sống trong môi trường lãng mạn đầy ảo ảnh thôi, khi va đập với thực tế khắc nghiệt thì chỉ có mối tình nào thuộc dạng “cực đại” mới duy trì nổi, còn thì rất dễ dàng chết yểu. Nếu bạn đánh đổi mọi thứ bạn đã dày công trơng suốt mấy chục năm qua, mà lại không đạt được một hệ quả tương xứng, thì liệu rồi bạn có hối tiếc đến cả đời không? Bởi lĩnh vực này không như các lĩnh vực khác, khi rời bỏ đồng nghĩa với trắng tay. Bạn có sẵn sàng đánh đổi? · Thứ hai, đặt vấn đề bạn ở lại. Vậy bạn cần bao nhiêu thời gian và tâm sức để áp chế chuyện lòng? Người yêu của bạn có đồng nhất quan điểm, có đủ tầm trí lực để tránh cho bạn những hệ lụy điều tiếng lẫn hậu quả, hay cô ấy cũng như nhiều người cần thiết phải được sống với tình cảm và hôn nhân? Trong trường hợp bất khả kháng mà để xảy ra chuyện đáng tiếc thì những vấn đề nảy sinh là gì? Điều này chắc bạn thừa sức trù liệu. Nói tóm lại, chọn một trong hai không phải là chuyện đơn giản, sự đánh đổi và hệ lụy về sau là điều tất yếu. Câu trả lời nằm trong chính bạn đấy. Cuối cùng thì Tuệ Tấn cùng không bước qua nổi chữ tình. Cộng thêm lời sư phụ “Con còn nặng nghiệp, và chưa đủ duyên để tròn chữ Phúc, vậy con hãy đi theo tiếng gọi của cuộc đời, Thầy chỉ mong sao con sống giữa cuộc đời bằng cái tâm của đạo. Một ngày nào đó, nếu muốn, con có thể quay về, cổng chùa luôn mở rộng cho con”. Buổi tối cuối cùng chia tay với gian phòng nhỏ mà bạn tôi đã gắn bó suốt một thời gian dài, thật xúc động. Chỉ có ánh sáng từ đôi hồng lạp trên chiếc bàn nhỏ. Giữa bàn là bức tượng Phật Di đà, bát hương, hoa và quả. Bạn tôi mặc y sa, quỳ lạy ba lần, rồi thẳng lưng chắp hai tay dâng ba nén hương lên đỉnh trán, lâm râm khấn nguyện thật lâu. Tôi lặng lẽ ngồi một góc, theo yêu cầu của bạn, nhân chứng duy nhất cho thời khắc bước ngoặt. Sau khi cắm nhang vào bát, bạn tôi phủ phục một lúc, rồi từ từ cởi y sa. Gấp cẩn thận, vuốt thẳng thớm từng nếp và đặt lên bàn. Bạn gục đầu, đôi vai rung lên. Nước mắt tôi cũng chảy dài, cảm giác bạn tôi là con thuyền mỏng manh đang dần xa bờ dấn thân vào giông gió. Con sông đời dềnh dập, sẽ đưa bạn đi đâu ? về đâu ? “Từ giờ hãy gọi mình là MM nhé”. Đó là tên thật của bạn, tôi gật nhẹ và nắm lấy tay bạn. Bàn tay mềm, mỏng và mát. Bàn tay chưa từng phải sần sùi chai cứng bao giờ, bàn tay chỉ biết nhẹ nhàng chuông mõ. Từ nay, bàn tay này sẽ… Sau buổi tối ấy, hai người lên chuyến xe sớm nhất ra khỏi bến từ tờ mờ sáng, đó là cách duy nhất để không phải đối mặt với dư luận, và cũng là khoảng thời gian tương đối êm đềm cho sự bắt đầu cuộc sống mới. Tôi nhìn theo chuyến xe cho đến khi khuất hẳn, thầm mong cho bạn có những bước chân an bình trên con đường đi tới. Thời gian đầu còn thư đi tin lại, cho đến khi bạn có đứa con đầu lòng thì thưa dần rồi vắng hẳn. Có lẽ quá bộn bề cho những lo toan nên cũng chẳng còn tâm trí đâu mà thư tín. Câu chuyện của bạn rồi cũng lan ra đây đó, miệng đời mà, có gì bưng bít được mãi đâu. Tôi đã lắm lần phải phản ứng để bênh biện cho bạn trước những góc nhìn khắc nghiệt “Đó không phải là chuyện tội lỗi. Con người ta có quyền thay đổi hoàn cảnh sống phù hợp với nguyện vọng. Người ta đâu có núp bóng làm chuyện xằng bậy đâu mà quy kết. Đừng có nhìn một cách hẹp hòi và ích kỷ như vậy. Đức Phật dạy con người phải biết sống với yêu thương, sao lại đem những quả đấm mà ném vào trái tim thế hả ? Các người có biết yêu không? Có thích sống theo mong muốn của mình không ? Nếu biết thì sao lại bó buộc người khác trong định kiến của mình?...” Một số dần ngộ ra, và lâu dần cũng không ai nhắc đến nữa. Bỗng nhiên… - Cô ấy đâu? - Đem con bỏ đi mấy tháng nay rồi. - Vì sao chứ ? Màu mắt ẩm đục và một tiếng thở dài chua xót thay cho câu trả lời. Chai rượu nghiêng thêm vài lần thì MM trầm trầm giọng. Bước chân vào cuộc sống mới bằng tay trắng với cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. Những hiểu biết có thể gọi là đáng kể trong cổng chùa, hoá ra chẳng có mấy tác dụng trong việc quy đổi thành cơm áo. Không đủ thời gian cho một nghề nghiệp hoặc một nơi ổn định như ý muốn, khi một sinh linh mới đang háo hấc muốn chào đời. Thôi thì cứ cái gì có thể đắp đổi được các nhu cầu sống cho ba miệng ăn là được. Sức vóc một thư sinh sao đọ nổi với mưa chiều gió sớm, bệnh tật là kẻ đồng loã với túng bấn. Đứa trẻ ra đời sớm rơi vào tình trạng suy dinh dưỡng, cái kết quả của một tình yêu nồng nàn ngày nào đang chuyển dần hình hài màu sắc, và sắc thái một cuộc hôn nhân cũng chuyển theo. Bông hoa tình yêu yểu mệnh rã dần từng cánh, để rồi một ngày không kèn không trống, không một lời từ biệt, người mẹ ôm đứa con nhẹ bỗng như sợi bấc chạy trốn khỏi ngôi nhà lụp xụp, chạy trốn khỏi một cuộc đời nghèo túng, chạy trốn khỏi một trái tim mà cô đã đánh cắp. Buổi sáng mở mắt dậy, MM đã có một cảm giác là lạ. Và rồi, một sự trống rỗng oà ngập cả tâm hồn. MM biết mình đã mất cả, mất luôn phương hướng cho chặng đường kế tiếp. Tuy những tháng ngày qua đầy vất vả, lo toan và phiền muộn, nhưng ít nhất MM cũng biết được mình đang vất vả vì cái gì, một cái đích dẫu ngắn hay dài cũng luôn là một động lực và niềm ước vọng. Vậy mà phía trước chỉ còn là một hỗ trũng sâu thăm thẳm, sự hơ hoảng, thất tán tinh thần khiến MM ngày ngày buông những bước vô định. Nếu không có những cơn đói thúc bách cái cơ thể sinh học, thì MM không biết cả đến cảm giác tồn tại của một xác thân. “Sống giữa cuộc đời bằng cái tâm của đạo.” Lời dạy của sự phụ luôn âm vọng giữa tâm tưởng, cùng bản chất thuần hậu thật thà, MM vốn đã không thể thủ đoạn gian ngoan trong công cuộc mưu lợi, mà còn luôn trở thành một con mồi cho sự lừa gạt dối trá. Niềm tin vào một chữ tình cũng như những sắc màu tươi tắn của cuộc sống nhân gian dần tàn lụi. MM đã hơn một lần lởn vởn ý nghĩ giã từ cuộc đời. Và một cái tên bật ra trong lúc bạn đang chao đảo bập bềnh, đó là tôi. - Mình đã sai, sai quá phải không bạn? - Không thể rạch ròi chuyện đúng sai cho một giai đoạn cuộc sống, bởi làm sao biết trước được diễn tiến của nó, người ta chỉ có thể hành động theo chủ ý của một thời khắc, như một bài toán không có sẵn lập trình, và đáp án của nó là một hệ số bí ẩn. Vấn đề là ta nên đi tiếp thế nào thôi. Bạn có dự định gì không? - Mình không còn một điểm đến nào nữa. Có lẽ mọi cánh cửa đã đóng lại với mình cả rồi. - Đừng bi quan thế chứ, vẫn còn một nơi bạn có thể về mà. - Mình còn mặt mũi nào trở về nơi ấy nữa. - Đừng quá nặng nề như vậy, bạn hãy xem đoạn đời vừa qua như một sự thể nghiệm, rằng đó cũng là một cơ hội cho mình nhìn thấy nhiều hơn những góc độ cuộc sống, cũng không là quá dở nếu xem đó là một kinh nghiệm đắt giá, và giúp cho những trường hợp tương tự có thêm sự tham khảo. Cuộc sống luôn là sự đánh đổi mà, và các giá trị đều không có định lượng bất biến, Mình nghĩ bạn cần một thời gian tĩnh lặng để tự cân bằng, sau đó hãy là sự chuyển tiếp. Một góc vườn nho nhỏ chắc phù hợp cho bạn lúc này chứ. MM nhìn tôi, ánh nhìn của một người vừa sau cơn mưa bão được ngồi bên đống lửa. Tôi cầm lấy cả hai bàn tay bạn. Bàn tay không còn mềm, mỏng, mát như ngày xưa, nhưng bàn tay có độ cứng cáp của sự trải nghiệm. - Bạn hãy tin vào chính mình. Chỉ khi nào hơi thở dừng lại, ta mới không còn cơ hội hồi sinh. Bất hư mục bất minh thị sở. Tức hiền quang hữu đắc vị lai. Không đi vào đưòng tối sao tìm ra ánh sáng. Hãy thắp lên ngọn đuốc từ chính những khổ đau của mình cho những đời sau. Bạn sẽ làm được mà. Tin mình đi. - Mình sẽ làm được. MM siết chặt tay tôi, thốt lên một lời cùng một thứ ánh sáng loé lên trong mắt bạn. Tôi gật đầu, mỉm cười. Từ xế chiều, người ta đã kháo nhau tối nay đi nghe thầy Tuệ Tấn thuyết giảng. Đây là buổi thuyết giảng đầu tiên từ sau ngày Tuệ Tấn choàng lại chiếc y sa lên người. Sau một thời gian an trú để gột rửa những tháng ngày bụi bặm nơi mảnh vườn nho nhỏ với cỏ cây hoa lá, MM đã dần bình tâm. Rồi một ngày MM về chốn cũ, cảnh chùa xưa đã khiến MM quyết định xin xuất gia lần nữa. Dù khi trở lại cửa thiền, MM đã gặp rất nhiều sự nghi kỵ và mỉa mai. Nhưng coi đó là sự thử thách, MM ẩn nhẫn với những công phu hàng ngày. Và cái gì cần đến cũng đến lúc phải đến. Ngày được nhận lại pháp danh là ngày Tuệ Tấn xem như mình được sinh ra lần nữa. Mấy ngày trước, Tuế Tấn thông báo với tôi bằng một giọng vô cùng xúc động. - Mình đang chuẩn bị cho một buổi thuyết giảng. Mừng quá. - Ôi, chúc mừng bạn. Mình sẽ đến nghe. - Bạn đến nhé, đến để hỗ trợ tinh thần cho mình. - Chắc chắn rồi, nhưng bạn sẽ thuyết giảng về đề tài gì ? - Mình sẽ kể lại câu chuyện vừa qua. Mình nghĩ, trung thực với những gì đã xảy ra với thái độ chân thành, đó là sự thuyết phục tốt nhất với tình cảm của các phật tử. - Đúng vậy đấy bạn ạ. Mình tin mọi người sẽ hiểu, và đó cũng là một cách để bạn thật sự thanh thản. Tuệ Tấn mỉm cười gật đầu. Tôi đọc thấy trong ánh mắt bạn một cái váng ký ức. Tất nhiên rồi. Người ta có thể quên những câu chuyện vui, những không dễ phôi phai những mẩu chuyện buồn. Và dẫu sao, đâu đó trên cõi dời này, vẫn còn một bóng thơ trẻ lênh đênh. Họ ngồi yên lặng nghe. Giọng Tuệ Tấn trầm trầm như thủ thỉ. Câu chuyện lòng bày giãi cùng những chiêm nghiệm đắng đót của một chặng đường đời, với một sự chân tình có phần như tự vấn, đã thấm được vào lòng những người ngồi đây. Những bà, những chị sụt sịt hoe mắt, những gương mặt đàn ông thì trầm mặc, tôi nhìn thấy hình ảnh một sư thầy Tuệ Tấn đã trở về trong cảm thức của họ. Vậy đấy, con người ta có thể xét nét, săm soi khắc nghiệt những tì vết của người khác, nhưng cũng dễ mở lòng đón nhận những nhân hồi. Trời về khuya, ánh trăng phang phác giãi lênh loang. Ngôi chùa chìm dần vào miền thư tĩnh. Đâu đó trong góc nhỏ thiền môn âm vọng tiếng chuông mõ… cốc cốc cốc… boong… cốc cốc cốc… ĐÀM LAN
|