Hiện có 24 người xem / 2518534 lần xem
         info@sachvatranh.com       84 (0) 1 222 929 703        

VÀI CHI TIẾT VỀ KỲ HỌP NGÀY 11/8/2012

CỦA CÂU LẠC BỘ SÁCH XƯA VÀ NAY

Hôm nay CLB có một người bạn mới, nên Dịch giả Vũ Anh Tuấn đã dành mấy phút cho nhà thơ Lê Nguyên tự giới thiệu mình với các thành viên. Và để mở đầu phiên họp, như thường lệ, Dịch giả Vũ Anh Tuấn đã giới thiệu với các thành viên 2 cuốn sách cổ bằng pháp văn được xuất bản tại Pháp hồi thế kỷ thứ XIX. Cuốn đầu là một cuốn Album, là một phần của bộ sách Maximes (Những cách ngôn) của một nhà văn Pháp hồi thế kỷ thứ XVII là La Rochefoucauld (1613-1680). Mấy ngày trước người viết mới đọc trong bản tin số 74, bài sưu tầm của Đỗ Thiên Thư nói về “Những dòng chữ ngàn vàng” tức là những thủ bút của các danh nhân đang được các nhà bán đấu giá bán ra với giá cả 100.000 đô Mỹ, nay gặp được cuốn album này cũng có thủ bút của La Rochefoucauld tại một tiệm sách cũ, nên cũng muốn mua, thì buồn cười quá, anh bạn chủ tiệm chạy ngay lên lầu vác xuống một bản tin số 74, chỉ bài của cô Thư và cho biết là cuốn này ở nước ngoài cực kỳ mắc nhưng, ở đây anh chỉ tính rẻ có 300 đô thôi! Người viết phải mất gần 10 phút để giải thích cho anh hiểu là những thủ bút bán cả 100 ngàn đô PHẢI LÀ NHỮNG NGUYÊN BẢN, còn trong cuốn album này thì chỉ là những thủ bút ĐƯỢC IN LẠI, và có ít ra cũng phải vài trăm bản; hiểu ra anh chủ sách liền giảm từ 300 đô mẽo xuống còn 300 đô mít, và thế là người viết mua được. Thực ra, người viết không khoái nhà văn Pháp này vì “Những Cách Ngôn” của ông được xuất bản lần thứ nhất vào năm 1664, đã được viết một cách rất bi quan về con người.

Tác giả này là người đã viết: “Các điều đạo đức của chúng ta phần lớn chỉ là những thói xấu được ngụy trang” (Nos vertus ne sont le plus souvent que des vices déguisés). Tuy nhiên vì cuốn sách đã trên 100 tuổi nên mua chơi vẫn thích. Cuốn thứ nhì cũng bằng pháp văn và được xuất bản năm 1863 (149 năm trước) và có tựa đề là: “Những lời bình luận của Jules César về trận chiến ở Xứ Gaule”. Jules César (Đại tướng và Chính trị gia La Mã) đã viết những bình luận này sau khi ông chinh phục được miền đất Gaule. Người viết mua vì nó là một cuốn cổ thư 149 tuổi chứ thực ra cũng sẽ chẳng đọc làm chi vì người viết chúa ghét “cô chị” (chính trị) hôi rình mà chỉ khoái cô Em thơm phức! Một điều đáng nghĩ tới nữa là, cầm cuốn sách trên tay, người viết tự hỏi thầm: “Khi nó ra đời thì người viết và các thành viên khác của CLB đang ở đâu?”

Sau phần giới thiệu cổ thư, bà Thùy Dương đã nói truyện về “Xướng họa thơ Đường, một trò chơi thú vị, thanh cao” và trình bày một số cách xướng họa. Tiếp lời bà Thùy Dương, nhà thơ nữ Hoa Hạnh đã lên đọc một bài thơ Đường rất hấp dẫn. Kế đó nhà thơ Thanh Phong đã đọc tặng các thành viên một bài thơ thể “Cổ Phong” nhan đề là Ngày Về.

Tiếp lời nhà thơ Thanh Phong, anh Trần Văn Hữu đã lên nói truyện về việc Bản Tin được bạn bè của anh ở nước ngoài rất yêu thích, và anh đã ngâm tặng các thành viên bài “Em về” bằng một giọng ngâm rất truyền cảm.

Sau khi anh Hữu ngâm thơ, Bs Nguyễn Lân-Đính, cháu nội cụ Nguyễn Văn Vĩnh đã kể lại cho các thành viên một số kỷ niệm hồi thơ ấu của anh, và cho biết anh được thụ thai ở Pháp nhưng lại được may mắn sinh ra trên quê mẹ, và 5 năm đầu đời của anh là 5 năm anh được sống gần bên cụ Vĩnh.

Kế đó, người bạn mới, nhà thơ Lê Nguyên, cho biết và tặng các thành viên 2 bản nhạc mà anh đã dùng 2 bài thơ của hai nhà thơ nữ Tâm Nguyện và Ngàn Phương, là những thành viên CLB, để phổ. Sau đó anh vừa đàn vừa hát tặng các thành viên một bài hát rất hay, chẳng kém gì ca sĩ thứ thiệt.

Buổi họp rất vui và sôi động kết thúc vào lúc 11 giờ 15 cùng ngày.


Vũ Thư Hữu


Vài chi tiết về những truyện hình sự

mà tôi đã dịch cho Nguyệt san Pháp Luật

Trong thời gian từ 1999 tới 2003, tôi đã dịch cho Nguyệt San Pháp Luật trên 30 truyện hình sự của các tác giả Pháp và Mỹ, chủ yếu là các truyện của Pierre Bellemare. Khi dịch, tôi đã để tâm cẩn thận lựa chọn toàn các truyện nặng về đấu trí, mà không cổ vũ bạo lực, hoặc đề cao những sự gian manh, bất nhân. Trong một thời gian dài, mỗi tháng Nguyệt San Pháp Luật đăng đều đặn một truyện dịch của tôi. Khi dịch sang tiếng người mình, tôi cũng hết sức cẩn thận viết y chang như là truyện viết bằng tiếng Việt. Bằng chứng là tôi được một vài Mẫu Hậu cho điểm cao và “bình loạn” là “Nếu không có những tên nhân vật và địa danh bằng tiếng nước ngoài, thì người đọc có thể tưởng rằng truyện do người Việt Nam viết”. Thật vậy, tôi đã cố gắng dịch bằng một văn phong thật trong sáng, không chút lai căng, ngô nghê, không hề có bóng dáng những “Ô kê” và “De.ee” chết tiệt! Nhưng đến giữa năm 2003 thì tôi ngưng vì anh VQH, bạn tôi, thôi không làm Tổng Biên Tập nữa.

Sau khi tổng kết lại và thấy là mình đã dịch tất cả là 34 truyện, mà phần lớn đã được đăng trên Nguyệt San Pháp Luật, và tôi cảm thấy rằng nếu gom tất cả lại và in thành một tập truyện độ khoảng 350 trang thì hay quá. Tôi đưa ý kiến này cho một số nhân vật trong ngành xuất bản, và tới năm 2005 thì có một nhà xuất bản lớn của nhà nước, bảo tôi gom các truyện đã đăng trên Nguyệt San Pháp Luật và các truyện còn lại, rồi chuyển đến cho họ đọc và sẽ thu xếp việc in thành 1 tập truyện ngắn hình sự. Tôi đã bỏ thì giờ làm theo lời cô Giám Đốc nhà xuất bản đó yêu cầu, và một thời gian sau, họ đã chuyển cho tôi đọc một số các nhận xét, đánh giá, của các chuyên viên của nhà xuất bản đó, khiến tôi tràn đầy hy vọng là tập truyện có thể được in, nhất là khi tôi cho họ biết việc tiền bản quyền không mấy quan trọng với tôi, điều tôi quan tâm là thấy “đứa con tinh thần của tôi được chào đời!

Nhưng rồi sau đó, tôi cũng chẳng còn nhớ vì lý do gì việc in ấn không thành sự thực, và tôi cũng nhanh chóng quên đi, chẳng bận tâm chi mấy… Để rồi, từ tháng 7, năm 2007, các truyện hình sự nói trên lại một lần nữa xuất hiện đều đặn hàng tháng trên Bản Tin của Câu Lạc Bộ Sách Xưa và Nay mà tôi làm Chủ Nhiệm.

Trong gần 3 năm trời, tất cả 34 truyện đã được đưa lên hết trên 34 số Bản Tin. Sau đó, vào năm 2011, tất cả các truyện đó lại được đưa đầy đủ lên trang web cá nhân của người viết là Sachvatranh.com ở Việt Nam và trang web Newvietart ở Pháp.

Chính vì những truyện này xuất hiện trên các trang webs nói trên, nên một trang Web khác ở Úc (Hoamai-aus.org.au), mà người chủ trương là anh Hương Nam, đã liên lạc với người viết để đề nghị người viết cho sử dụng 11 truyện hình sự và truyện ngắn Hảo Mộng (cùng với bản dịch Anh Ngữ) để in chung với 10 truyện ngắn của nhà văn nữ Đàm Lan ở Ban Mê Thuột thành một tập truyện ngắn để làm từ thiện, nghĩa là để đem tặng cho các người Việt cao tuổi, neo đơn, nghèo khổ đang sống ở Úc châu. Tập truyện sẽ được in ở Việt Nam và được in bởi nhà xuất bản Hội Nhà Văn, in xong sẽ được chuyển qua Úc.

Người viết vui vẻ chấp thuận, và thế là 11 trong những truyện đó đã được in thành sách và hiện đang được đem tặng cho các người (Việt) già ở Úc. Và, dĩ nhiên, vì để làm việc thiện nên người viết và nhà văn nữ Đàm Lan cũng làm việc thiện luôn, nên cả hai chẳng ai nhận một xu tiền tác quyền. Tập truyện đã được in khá đẹp và hiện đang có thông báo tặng sách đăng trên trang web Hoamai-aus.org.au ở Úc.

Tuy nhiên người viết vẫn mong toàn bộ 34 truyện dịch rất hấp dẫn này sẽ có ngày được in và phổ cập ngay trong nước, vì chúng là những truyện đã được dịch một cách thật an bình, và có một điều hầu như chắc chắn là trong những truyện dịch này tuyệt nhiên không có bóng dáng những “Ô kê”, những “De.ee” chết tiệt, cũng như “chắc chắn sẽ chẳng có bố ai chết vì ung thư… tử cung!”

Hồi ký 60 năm chơi sách, Chương VI

Vũ Anh Tuấn

HỘI TƯƠNG TRỢ HOA MAI ÚC CHÂU

HOA MAI ASSOCIATION IN AUSTRALIA INC

ABN: 41 591 426 904

www.HoaMai-Aus.org.au

Email: hoamai.aus@gmail.com

P.O.Box 954 Cabramatta NSW 2166

Sydney, ngày 15 tháng 08 năm 2012

THÔNG BÁOTẶNG SÁCH

Nhằm mục đích phổ biến và phát huy văn hóa Việt Nam trong cộng đồng người Việt đang sinh sống trên đất nước tự do Úc Đại Lợi đa văn hóa.

Hội Tương Trợ Hoa Mai Úc Châu được sự giúp đỡ của Luật Sư Anthony TRẦN:

GIBSON TRAN LAWYERS

16 & 17/73-79 John St, Cabramatta NSW 2166.

Chúng tôi xin được gởi đến quý đồng hương 200 tập truyện "Nụ Hôn Muộn" của hai tác giả:

Vũ Anh Tuấn và Đàm Lan

Quý vị nào muốn có cuốn tập truyện "Nụ Hôn Muộn", xin liên lạc địa điểm nhận sách miễn phí:

1) Shop Thanh Huyền (Radio 2VNR)

4/90 John St Cabramatta NSW 2166

2) SAIGON DVD & VIDEO

Shop 11/105-107 John St Cabramatta

3) Điện thoại A Hương Nam 0402 775 221 để được gởi sách đến tận nhà.

Trân trọng,

TM/Ban Chấp Hành

Hội Phó Trần Thi

Chủ quyền Việt Nam

về Hoàng SaTrường Sa

trong sách giáo khoa cũ

Sách “Biên niên lịch sử cổ Trung đại Việt Nam (từ đầu đến giữa thế kỷ XIX)” do Nhà xuất bản Khoa học xã hội Hà Nội thuộc Viện Sử học Việt Nam ấn hành năm 1987 có ghi:

- Tháng 4 âm lịch năm Tân Mão (1711) chúa Nguyễn sai đo diện tích bãi cát Trường Sa (trang 332).

- Tháng 2 âm lịch năm Ất Hợi (1815) Đội Hoàng Sa là Phạm Quảng Ánh ra đảo Hoàng Sa thăm dò đường biển (trang 421).

Qua tư liệu sử cổ nói trên ta thấy quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa đã thuộc về chủ quyền của nước ta từ đầu thế kỷ thứ 18 và 19 nên người đứng đầu chính quyền thời ấy là chúa Nguyễn ở Đàng Trong (tức thời Nguyễn Phúc Chu 1691-1725 ở khu vực phía Nam) mới cử người tới đó để đo đạc diện tích bãi cát để quản lý và đưa vào sử liệu dưới quyền cai quản của mình. Theo tạp chí Xưa – Nay số 102 năm 2001, bản đồ Bãi Cát Vàng của Đỗ Bá năm Chính Hòa thứ 7 (1686) được ghi chú như sau: “Bãi cát Vàng phỏng dài 400 dặm, rộng 20 dặm ở khoảng giữa biển từ cửa biển Đại Chiêm kéo dài tới cửa biển Quyết Mông… Mỗi năm đến cuối đông chúa Nguyễn đưa 18 chiếc thuyền đến đó nhặt vàng, bạc” (trang 5)

Thời Gia Long, đội Hoàng Sa được biên chế 70 suất đinh lấy ở các xã An Vĩnh, An Hải thuộc huyện Sơn Tịnh, huyện Bình Sơn tỉnh Quảng Ngãi. Theo sử liệu nói trên, Phạm Quảng Ánh là Cai đội Hoàng Sa vào năm 1815 được vua Gia Long phái ra Hoàng Sa để đo đạc thủy trình. Hiện nay ở đảo Lý Sơn có nhà thờ họ Phạm Quang do dòng họ này di dời hộ khẩu ra sinh sống ở đây.(Tạp chí đã dẫn trang 38).

Tập bản đồ hành chính Việt Nam do NXB Bản đồ phát hành tháng 11/2004, ở ngay trang bìa in bản đồ Việt Nam có tô màu từng tỉnh và biển Việt Nam in rộng ra có cả khu vực quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Ngay trang đầu ở bên trong tập sách in tấm bản đồ cổ, chú thích các địa danh núi non, sông ngòi, biển đảo đều bằng chữ Hán, đặc biệt ghi đủ các đảo dọc theo bờ biển Việt Nam từ vịnh Thái Lan tới vịnh Bắc Bộ, trong đó ghi cụ thể và rõ ràng hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Điều này cho thấy sách Đại Nam nhất thống dưới triều nhà Nguyễn quan tâm rất lớn về bản đồ đất nước thuộc chủ quyền của Việt Nam. Mặc dù ranh giới đất nước liên quan tới các nước láng giềng chưa xác định được ở trên đất liền nhưng hải đảo thì nhất định không quên vẽ gắn liền với bờ biển Tổ quốc mình. Đó là Hoàng Sa và Trường Sa. Đây là “Đại Nam nhất thống toàn đồ” được ghi nhận thực hiện năm 1834, tức trước thời Pháp thuộc. Theo các sử liệu cổ, tuy biên giới chưa xác định cột mốc giữa các nước liền sông, liền đất, liền núi với nhau như ba nước Đông Dương và Trung Hoa nhưng thực tế chủ quyền các địa danh như núi, đất, sông, tỉnh thành đều biết rõ ràng của nước nào với dân tộc nào. Như biên giới của nước ta với Trung Hoa qua các triều đại từ Đinh, Lê, Lý, Trần cho tới Nguyễn đều xác định rõ vùng đất các tỉnh Quảng Ninh, Lạng Sơn, Cao Bằng, Tuyên Quang, Lào Cai…Về biển đảo, Việt Nam giáp với Trung Hoa ở đảo Hải Nam, tức đảo này thuộc chủ quyền các triều đại phía Bắc từ đời nhà Hán (Tây Hán và Đông Hán 202 trước Tây lịch – 24 sau Tây lịch). Thời ấy gọi Hải Nam ngày nay là huyện Châu Nhai, Đạm Nhĩ; Hợp Phố, Nam Hải thuộc Quảng Đông ngày nay; Thương Ngô, Uất Lâm thuộc Quảng Tây ngày nay; còn Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam thuộc Bắc và Trung Bộ Việt Nam. Dần dần về sau, trong quá trình quan hệ với Chiêm Thành ta có thêm vùng đất biển thuộc Huế - Thừa Thiên và Quảng Nam, Quảng Ngãi kéo dài tới mũi Cà Mau.

Vẫn theo tập bản đồ năm 2004, trang kế bản đồ Đại Nam thời nhà Nguyễn là trang đôi in bản đồ Việt Nam với diện tích, dân số, mật độ dân cư các tỉnh được Tổng cục thống kê cung cấp số liệu năm 1999. Bản đồ này ghi rõ vùng biển Đông với quần đảo Hoàng Sa (thuộc thành phố Đà Nẵng) và quần đảo Trường Sa (thuộc tỉnh Khánh Hòa). Bản đồ còn ghi thêm đường biển đi từ Đà Nẵng tới Hoàng Sa 390 km và từ thành phố Hồ Chí Minh tới Trường Sa 670 km.

Thời Hai Bà Trưng (40-43) Hợp Phố (nay là Quảng Châu – Trung Quốc) thuộc về nước ta nên có chuyện dân ở đây đứng lên hưởng ứng cuộc khởi nghĩa của Hai Bà. Tục ngữ “Châu về Hợp Phố” nói lên ý nghĩa dân Việt bị quan cai trị nhà Hán bắt xuống biển mò ngọc trai (châu báu) lên rừng tìm quế, ngà voi và ngọc trai bỏ ra vùng khác sinh sống. Chỉ tới khi dân Việt được độc lập, tự do thì ngọc trai mới quay về bờ biển Hợp Phố.

Như vậy, từ xưa tới nay, các đảo ngoài biển Đông ngang bờ biển Việt Nam đều thuộc chủ quyền của Việt Nam, nhất là các sử liệu cổ nói trên đều ghi nhận các triều đại phong kiến Việt Nam đều cho người ra vào quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa để thu lượm sản vật, đặc biệt thời các chúa Nguyễn dưới triều đại nhà Hậu Lê (1533-1788) có lập đội Hoàng Sa để trấn thủ.

Trong quan hệ, bang giao với các triều đại phong kiến phương Bắc chưa bao giờ trong lịch sử của hai nước thấy nói đến chủ quyền của Trung Hoa qua khỏi đảo Hải Nam. Chỉ ở đời nhà Trần, tướng Toa Đô của nhà Nguyên có một lần đưa quân liên kết với Chiêm Thành để đánh từ phía Nam lên nhưng thất bại chua cay. Lúc đó, họ chỉ tới được châu Ô, châu Lý (Quảng Bình ngày nay) mà thôi.

Từ đó về sau, nền độc lập, tự chủ của Việt Nam hùng mạnh và nhiều cuộc xâm lược của họ luôn bị chận đứng nên không bao giờ họ vào được trong đất liền huống hồ là vùng hải đảo. Tới khi Pháp chiếm đóng Việt Nam thì triều đình nhà Thanh ký hòa ước Thiên Tân 1884 với Pháp, cắm cột mốc biên giới và chịu nhượng bộ rút lui hoàn toàn. Chỉ tới năm 1945, quân đội Tưởng Giới Thạch mới theo chân Pháp, Mỹ vào Bắc Bộ để giải giới quân Nhật nhưng bị chính phủ VNDCCH ký tạm ước 16/3/1946 với Pháp buộc quân Tưởng rút lui về nước. Âm mưu “Hoa quân nhập Việt” của Lư Hán bị thất bại. Tới năm 1972, sau khi hiệp định Paris được ký kết, Trung Quốc lợi dụng tình hình giải phóng miền Nam sắp kết thúc thắng lợi đã đưa tàu chiến tới chiếm Hoàng Sa cho tới nay.

Sách địa lý Việt Nam do GS Nguyễn Khắc Ngữ (Trường Trung học Võ Trường Toản) và Phạm Đình Tiếu (Đại học Sư phạm Sài Gòn) biên soạn dành cho học sinh lớp 11 xuất bản năm 1970 trong đó ở phần nói về “Bờ biển và đáy biển Việt Nam” có in bản đồ Biển Việt Nam đã vẽ vùng biển Đông rộng ra, phía Bắc giáp Trung Quốc (có đảo Hải Nam), phía Đông giáp Philippines và phía Tây là bờ biển Việt Nam. Trong vùng biển mênh mông đó có quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa với những dòng hải lưu. Sách địa lý này gọi biển Việt Nam chớ không gọi biển Đông. Điều này rất đúng đắn bởi vì vùng biển nằm trước bờ biển nước ta từ nam chí bắc rộng ra tới nước Philippines bao bọc hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa để không ai chối cãi chủ quyền của nó. Trong khi Trung Quốc vẫn gọi vùng biển trước bờ biển nước họ là biển Trung Hoa. Biển của nước nào là thuộc về chủ quyền nước ấy và trong đó có các đảo thì, tên gọi biển đảo đi đôi với chủ quyền của nước có biển đảo. Nếu gọi biển Đông thì quá mông lung, không xác định được chủ quyền và những đảo nằm trong đó thuộc về nước nào, nên đâm ra tranh cãi.

Như vậy, ta nên đổi tên biển Đông thành biển Việt Nam, trong đó có Hoàng Sa và Trường Sa là điều quá chính xác thuộc chủ quyền Việt Nam. Do đó, biển Trung Hoa không thể kéo dài quá biên giới và bờ biển nước mình.

Sử sách cũ của ta đã ghi chép rõ hoạt động của chính quyền thời đó xác định chủ quyền về Hoàng Sa, Trường Sa. Đó là căn cứ vững chắc về mặt lịch sử và địa lý .

Vương Liêm




BÀI VĂN BIA

Ở LĂNG ĐỨC CHA CẢ BÁ ĐA LỘC

Tháng 8/2009 vừa rồi, giáo sư Nguyễn Văn Sâm [1] có ghé lại thăm chúng tôi ở Giáo xứ Tân Sa Châu Tp Hồ Chí Minh, và cho xem tập sách chữ Hán chép tay do người bạn cũ ở Phan Thiết đem tặng. Nội dung gồm Quế Sơn Thi Tập chữ Hán của Nguyễn Khuyến, có bài văn điếu cụ nghè Dương Khuê (Hán và Nôm), một tài liệu hiện cũng khó kiếm. Đặc biệt, cuối tập có phụ lục bài chí ở lăng Đức Cha Bá Đa Lộc, do Đốc học Nguyễn Gia Cát soạn và Hữu tham tri bộ binh Lê Quang Định viết chữ, dựng bia vào tháng 8 năm Canh Thân 1800.

Lâu nay, các sách sử Công giáo [2] có in bản dịch bài này, nhưng còn sai sót, đôi chỗ thêm thắt thiếu chính xác, có lẽ vì thiếu nguyên văn. Nhận thấy đây là một sử liệu cần thiết để đính chính lại, Lm Giuse Nguyễn Hữu Triết đã thương lượng bằng cách trao đổi với giáo sư một số sách cổ thuộc dòng văn học kháng chiến miền Nam để giữ lại tập này. Chúng tôi đem phiên dịch và viết phần giới thiệu ngắn gọn về tiểu sử, công lao đóng góp của Đức Cha đối với lịch sử phát triển chữ Nôm và chữ quốc ngữ của nước nhà.

Ghi chú : Ở đây chúng tôi chỉ bàn về bài chí như một tài liệu chữ Nôm cổ cách đây 212 năm, và một số tác phẩm chứng minh sự phát triển của chữ Nôm và Quốc ngữ mà thôi.

A. PHIÊN DỊCH VĂN BIA

1. Phiên âm:

- Sư, Đại Tây dương [3] quốc nhân, Bi Nhu thị, hiệu Bá Đa Lộc. thiếu phụng Đạo giáo [4] nhi Trung Quốc thánh hiền thư tịch, mỹ bất giảng quán. Đãi tráng niên lai ngã quốc, thì quốc nội đa cố, sư vi quốc chi tân, thố sở học vụ sở hành, tương dữ chu toàn vu điên bái lưu ly chi tế. Ký hựu ưng trọng thác, xuất viện sư, lai vãng gián quan bất di dư lực. Nhị thập dư niên chi gian, tán hoạch nhung trù, tham tài trấn vụ, chư kỳ hưng kiến hiển thiết giai túc dĩ truyền chi hậu. Ngã quốc xâm xâm hồ hữu trung hưng chi thế, sư chi lực vi đa yên.

- Kỷ Mùi tùng chinh Quy Nhơn phủ, thu cửu nguyệt thập nhất nhật [5] dĩ chính chung vu Thi Nại hải môn tân thứ, thọ ngũ thập hữu thất [6] . Kỳ niên đông mạnh, sắc tặng Thái tử Thái phó quận công, bốc táng vu Gia Định phủ thành chi bắc, sư cố sở trúc tinh xá [7] dã. Thị vi chí.

- Thì: tuế thứ canh thân, trọng thu nguyệt, cốc đán thụ.

- Đốc học Hoa Xuyên hầu, thần Nguyễn Gia Cát [8] phụng soạn.

Binh bộ hữu tham tri Định Thành hầu, thần Lê Tri Chỉ [9] phụng thư.

2. Dịch nghĩa:

- Đức Thầy vốn người nước Đại Pháp, tên Bi Nhu, hiệu Bá Đa Lộc, tu học đạo Công giáo từ nhỏ nhưng mọi kinh điển thánh hiền Trung Quốc đều thông thạo. Thuở trẻ đến nước ta, gặp lúc có nhiều nội loạn, đức thầy nhận lời làm quốc khách, đem tài năng ra thi thố, khuông phò giữa buổi nghiêng ngửa hiểm nguy. Lại vâng trọng trách giao phó xuất ngoại cầu viện binh, đi về vất vả nhọc nhằn gần kiệt lực. Suốt hơn 20 năm bày kế sách tham mưu, góp ý kiến bình định, thành tích xây dựng vẻ vang ấy rất xứng đáng lưu truyền hậu thế. Vận nước dần dần được khôi phục, phần lớn đếu nhờ công lao của đức thầy.

- Năm Kỷ Mùi (1799), khi theo quân ra đánh phủ Quy Nhơn, đức thầy mất ngày 11/9 (âm lịch) tại cửa biển Thi Nại, hưởng thọ 57 tuổi. Tháng 10 được phong tặng Thái tử Thái phó quận công, an táng ở nhà nguyện cũ của đức thầy tại phía bắc thành Gia Định. Nhân thế mới làm bài chí.

Dựng bia ngày lành tháng 8 năm Canh Thân (1800).

Đốc học Hoa Xuyên hầu Nguyễn Gia Cát vâng mệnh soạn.

Hữu tham tri bộ binh Định Thành hầu Lê Quang Định vâng mệnh viết.

B. TIỂU SỬ VÀ CÔNG LAO CỦA ĐỨC CHA BÁ ĐA LỘC

- Đức Cha tên Pierre Joseph Georges Pigneau de Béhaine (Pierre và Joseph là 2 tên thánh khi rửa tội và chịu phép thêm sức, phiên âm là Phêrô và Giuse, Georges là họ, Pigneau là tên, Béhaine chỉ quê quán), sinh ngày 02/11/1741 tại làng Origny, tỉnh Aisne, thuộc miền Bắc nước Pháp.

- Theo học Chủng viện của Hội Truyền giáo Nước Ngoài tại Paris (Société des Missions Etrangères de Paris). Năm 1675, mới 24 tuổi được thụ phong Linh mục, liền lên đường sang Viễn đông truyền đạo. Năm 1767, làm giáo sư rồi giám đốc Chủng viện Hòn Đất gần Hà Tiên. Vì tình hình ở đây rối loạn, Đức Cha được phép rời Hà Tiên đi Pondichéry ở Ấn Độ. Năm 1770, được thụ phong Phó Giám mục, phụ tá Đức Cha Piguel. Năm 1774, được bổ nhiệm làm Giám mục tại Madras (Ấn Độ) với hiệu tòa Adran, đại diện Tông tòa địa phận Đàng Trong, Cam Bốt và Xiêm La. Năm 1775, Đức Cha về lại Hà Tiên, nhưng chưa thể đi sâu vào Đàng Trong vì có nhiều loạn lạc. Tại đây, năm 1776 [10] , Đức Cha gặp gỡ, che chở và giúp đỡ chúa Nguyễn Phúc Ánh đang vất vả chạy trốn nhà Tây Sơn truy kích. Đức Cha nhận lời giúp chúa khôi phục đất nước.

- Theo kế hoạch đã bàn tính với chúa, năm 1784, Đức Cha đưa hoàng tử Cảnh mới lên 4 tuổi sang Pháp, đại diện chúa ký hiệp ước Versailles năm 1788, chịu sự giúp đỡ quân sự của Pháp. Vì hoàn cảnh đặc biệt, hiệp ước không được thi hành, Đức Cha vận động tài chánh mua tàu chiến, vũ khí và mộ người về chỉ huy, luyện tập quân sĩ của chúa theo phương pháp tác chiến của Âu châu rồi trở về Gia Định năm 1789.

- Đức Cha phiên dịch các sách về chiến thuật, đóng tàu, đúc súng, xây dựng pháo đài, thành lũy, giải thích tường tận để chúa đem ra thực hiện. Hằng ngày, chúa thân hành giám sát các buổi luyện tập thủy quân hay đến các công xưởng hướng dẫn, xem xét cách thức chế tạo, có khi dùng bữa trưa tại quân trường hay công trường. Nhờ thế, chúa mới mau có đủ sức mạnh quân sự để chiến đấu với nhà Tây Sơn vốn rất thiện chiến.

- Đức Cha là thầy dạy của hoàng tử Cảnh từ thuở nhỏ đến khi được tôn phong Đông cung hoàng thái tử năm 1793, bên cạnh các thầy dạy khác, đều là những danh thần được chúa lựa chọn như Trịnh Hoài Đức và Lê Quang Định [11] . Cuối năm này, khi thu phục xong Nha Trang và Bình Thuận, chúa sai đông cung ra trấn giữ thành Diên Khánh (Nha Trang) và nhờ Đức Cha đi theo phò tá đông cung, tổ chức việc phòng thủ và cai trị.

- Ở Gia Định, hàng ngày Đức Cha vào hầu chúa, góp ý mọi vấn đề chúa cần tư vấn. Chúa cũng đến thăm Đức Cha, nếu không bận việc quân. Chúa biệt phái 200 quân sĩ đến phục dịch Đức Cha theo nghi thức một bậc đại thần. Giữa chúa và Đức Cha có một giao tình kết chặt bằng tình cảm quý mến chân thành và lòng tôn trọng đặc biệt. Chúa thường nghe lời Đức Cha. Có một vị quan phạm tội, phải chịu tử hình. Triều đình can gián xin tha, chúa dứt khoát không ân xá. Quốc mẫu xin giúp, chúa cũng không nghe. Đức Cha hay tin, vào hầu chúa, ôn tồn khuyên bảo mấy câu, chúa liền vui vẻ tha ngay! Có thể nói, Đức Cha vừa là ân nhân, vừa là cố vấn trung thành, tận tụy, đầy tài năng, luôn có mặt bên chúa trong gần suốt cuộc trường chinh đầy gian khổ. Vì thế, Đức Cha đã mất vào sáng ngày 9 tháng 10 năm 1799 tại tổng hành dinh ở cửa biển Thi Nại, khi theo chúa ra đánh thành Quy Nhơn lần thứ 3, vì bịnh kiết lỵ dai dẳng mà các ngự y và bác sĩ Pháp đều bó tay, không chữa trị nổi. Hôm sau, chúa cho tàu chiến đưa Đức Cha về Gia Định, quàn tại Tòa Giám mục. Đông cung Cảnh đứng ra tổ chức tang lễ rất trọng thể. Ngày 16/12, Đức Cha được an táng ở lăng do chúa ra lịnh xây nên. Hôm ấy, chúa, quốc mẫu, đông cung, hoàng gia và triều thần, giáo dân đều đi theo quan tài do 2 vạn quân và 120 thớt voi hộ tống đến lăng. Chúa thân hành đứng chủ tế, có quan đọc chúc văn. Sau đó, đông cung cũng có điếu văn tỏ lòng thương tiếc và nhắc nhở đến công lao to lớn của Đức Cha đã tận tụy đóng góp cho vương triều.

- Điều đáng nhắc nhở hơn cả là hiện nay, ở văn khố của Chủng viện thuộc Hội Truyền giáo Nước Ngoài Paris còn lưu trữ một di sản văn hóa quý báu của Đức Cha như sau:

1. Bản chép tay bộ Tự điển Việt Nam La-tinh (Dictionarium Anamitico Latinum) gồm 732 trang được Đức Cha biên soạn từ tháng 9/1772 đến tháng 6/1773 mới gần xong. Đáng tiếc, năm 1778, bộ này bị thiêu cháy ở Chủng viện Cà Mau do bọn cướp Miên gây ra. Sau đó, được tu chỉnh và chép lại thành thủ bản này. 60 năm sau, Đức Cha Taberd đã căn cứ vào bộ này, sửa chữa chút ít và in thành bộ Nam Việt Dương Hiệp Tự Vị (Dictionarium Anamitio Latinum), phát hành năm 1838 tại Sérampore, Ấn Độ.

2. Bản chép tay bộ Tự điển Hán Việt La-tinh (Dictionnaire Chinois – Annamite – Latin) gồm 906 trang, chưa xuất bản.

3. Sách Thánh Giáo Yếu Lý Quốc Ngữ gồm 82 trang bằng chữ Nôm và chữ Hán đã được xuất bản tại Quảng Châu, Trung quốc. Bản bằng chữ quốc ngữ chưa được ấn hành.

- Sách dạy giáo lý này được biên soạn theo thể vấn đáp, làm tài liệu căn bản cho việc truyền giáo sau này. Bộ Nam Việt Dương Hiệp Tự Vị được Đức Cha Taberd nhuận sắc, ấn hành năm 1838 có giá trị to lớn. Nội dung chứa đựng hệ thống ngôn ngữ Việt Nam đương thời, được ghi âm bằng chữ quốc ngữ và chữ Nôm rất chính xác. Cùng với Tự điển Việt Bồ La (Dictionarium anamiticum Lusitanum et Latinum) của Cha Alexandre de Rhodes xuất bản năm 1651 ở Rome, tự điển của Đức Cha Taberd có một giá trị đặc biệt về ngữ văn học trong quá trình tiến phát của ngôn ngữ và văn tự nước nhà. Trong đó, công lao đóng góp của Đức Cha Bá Đa Lộc tuy thầm lặng nhưng rất quan trọng, đúng đắn như nhận định của giáo sư Dương Quảng Hàm, nhà nghiên cứu văn học lão thành hàng đầu của nước ta đã phát biểu: "Cứ theo bộ tự điển của cố Alexandre de Rhodes soạn và in năm 1651, thì chữ quốc ngữ về hạ bán thế kỷ 17 còn có nhiều cách phiên âm khác bây giờ và chưa hoàn toàn tiện lợi. Theo cố Cadière trong một bài thông cáo đọc ở Hội đồng Khảo cổ Đông Pháp ở Paris (commission archéologique de l'Indochine) năm 1912, thì các hình thức hiện thời của chữ quốc ngữ chính là do Đức Cha Bá Đa Lộc đã sửa đổi lại mà thành nhất định. Đức Cha có soạn cuốn Tự điển An-nam La-tinh, tuy chưa xong hẳn, nhưng cố Taberd đã kế tiếp công cuộc ấy mà soạn ra cuốn Nam-Việt Dương-Hiệp Tự-Vựng (Dictionarium Anamitico-Latinum), in năm 1838. Trong cuốn này, cách viết chữ quốc ngữ giống hệt bây giờ; mỗi tiếng Nam đều có chua kèm chữ Nôm: cuốn ấy sẽ là một cuốn sách làm gốc cho các tự điển tiếng Nam sau này".

(Việt Nam Văn Học Sử Yếu, Dương Quảng Hàm,

Bộ Quốc Gia Giáo Dục xuất bản,

in lần thứ 8, Sàigòn, 1961, trang 323)

C. NHẬN ĐỊNH

Đến nay, Đức Cha mất vừa chẵn 210 năm, giới sử học trong và ngoài nước đã bình luận khá nhiều về vai trò của Đức Cha đối với chúa Nguyễn Phúc Ánh theo nhiều quan điểm rất khác nhau. Chúng tôi không có ý định tiếp tục công việc ấy, chỉ muốn đem bài văn bia vừa tìm thấy phiên dịch chính xác hơn, nhằm đính chính những sai lầm trong các bản dịch trưng dẫn trên sách sử do thiếu nguyên văn. Như đã nói, văn bia này do đốc học Gia Định Nguyễn Gia Cát, vâng mệnh chúa biên soạn để tuyên dương công lao Đức Cha đã đóng góp vào công cuộc phục hưng vương triều của chúa. Có mấy chi tiết đáng chú ý: Chúa chọn Nguyễn Gia Cát, có lẽ vì ông có học vị cao nhất ở Gia định bấy giờ: đậu tiến sĩ cuối triều Lê. Ông quy thuận vào tháng 3/1799, soạn văn bia vào tháng 8/1800 – nghĩa là chỉ gần một năm rưỡi sau đó, làm sao có thể am hiểu công lao của Đức Cha đã đóng góp từ hơn 20 năm trước, nếu không hội ý, tư vấn các văn thần kỳ cựu khác, nhất là tâu hỏi chúa, để ghi chép các sự kiện được chính xác và trung thực nhằm lưu truyền mãi mãi về sau? Chúng ta có thể tin chắc rằng ông viết đúng sự thật, đồng thời văn bia đã được chúa cùng triều thần thông qua và chấp thuận. Thử đọc lại đoạn chính văn bia: "Suốt hơn 20 năm bày kế sách tham mưu, góp ý kiến bình định, thành tích xây dựng vẻ vang ấy rất xứng đáng lưu truyền hậu thế. Vận nước dần dần được khôi phục, phần lớn đều nhờ công lao của đức thầy".

Rõ ràng chúa và triều thần, thông qua Nguyễn Gia Cát, đã chính thức xác nhận công lao to lớn của Đức Cha đã đóng góp từ những bước đầu gian khổ đến khi sắp hoàn thành đại nghiệp. Thêm một chi tiết cũng đáng chú ý: chúa đã phái Lê Quang Định, một triều thần trọng vọng, có biệt tài về thư pháp viết văn bia. Như thế, văn bia ấy do một văn thần có học vị cao nhất biên soạn và một văn thần có tài thư pháp viết ra. Ngần ấy nói lên trọn vẹn lòng quý mến, tôn trọng đặc biệt của chúa dành riêng cho Đức Cha.

Ngày nay, đọc lại những lời khấn nguyện của Đức Cha lúc lâm chung [12] , chúng ta có thể hiểu rõ rằng trước sau, Đức Cha là vị cố vấn tận tụy, đã dốc hết mọi khả năng giúp đỡ chúa sớm hoàn thành đại nghiệp chỉ vì mục đích duy nhất là khi đất nước được thái bình, đạo Công giáo sẽ được tự do truyền bá, không bị cấm đoán, bắt bớ, giết hại như ở Trung Quốc và Nhật Bản. Trên hết, Đức Cha là vị đại diện cao nhất của Giáo Hội ở Đàng Trong, Xiêm La và Cam Bốt. Đức Cha hy sinh tất cả để phụng sự Thiên Chúa, có trách nhiệm dẫn dắt mọi người, từ dân chúng đến vua quan hướng về lý tưởng ấy, tuyệt đối không vì mọi thứ danh lợi thế gian. Đức Cha đã làm giống các thừa sai Lợi Mã Đậu (Matteo Ricci) và Lang Thế Ninh (Giuseppe Castiglione), bằng cách đem hết tài năng chuyên môn dấn thân vào cung triều Trung Quốc từ cuối đời Minh sang các vua Khang Hy, Ung Chính và Càn Long đời Thanh, cũng chỉ vì mục đích muốn được tự do truyền đạo mà thôi.

Điều đáng tiếc nhất là chúa Nguyễn Phúc Ánh, do vận mệnh lịch sử dun dủi, đã gặp Đức Cha và có cơ hội tiếp cận học thuật, khoa học, kỹ thuật tây phương khá sớm, nhưng lại không mở rộng giao lưu, học hỏi để canh tân đất nước theo kịp đà tiến hóa trên thế giới như một chiến lược lâu dài; trái lại, chỉ áp dụng hạn hẹp như một phương tiện để giành thắng lợi trong giai đoạn ngắn ngủi. Khi chúa đã lên ngôi, cũng như các vua nhà Nguyễn sau này, chỉ lo củng cố đế quyền, điều hành và xây dựng quốc gia theo mô hình Nho giáo lỗi thời, khiến cho nước yếu dân nghèo. Lại ra tay bắt bớ, giết hại giáo sĩ, giáo dân, tạo cớ cho thực dân Pháp xâm lăng, đô hộ nước nhà suốt gần một thế kỷ vừa qua. Các vua nhà Nguyễn và triều thần phong kiến thủ cựu, hẹp hòi đương nhiên phải chịu lấy trách nhiệm trước lịch sử dân tộc.


Tân Sa Châu, ngày 08/08/2012

Lm Giuse Nguyễn Hữu Triết


[1] Nguyên giảng viên trường Đại học Văn Khoa Sàigòn, đã xuất bản Văn Học Nam Hà (1969 và 1971). Hiện là giáo sư của Viện Việt Học USA, đồng tác giả Tự Điển Chữ Nôm Trích Dẫn, do Viện Việt học USA xuất bản năm 2009. Bộ này gồm 1679 trang, được biên soạn công phu, dẫn chứng chữ Nôm từ nhiều tác phẩm văn học đủ thể loại. Các tác giả khác: Nguyễn Hữu Vinh, Đặng Thế Kiệt, Nguyễn Doãn Vượng, Lê Văn Đặng, Nguyễn Ngọc Bích và Trần Uyên Thi. Bộ này rất cần cho giới Hán Nôm chuyên ngành.

[2] Lược sử Giáo Hội Việt Nam của Linh mục Augustinô Nguyễn Văn Trinh, Đại Chủng viện thánh Giuse xuất bản năm 1994, các trang 190-192. Lịch sử Giáo hội Việt Nam, 3 tập, của Lm Augustinô Nguyễn Văn Trinh, Đại Chủng viện thánh Giuse, xuất bản năm 1994, các trang 395-397.

[3] Trước đây, ta gọi các giáo sĩ Âu châu là người Tây dương (từ biển phía Tây đến), như Tây dương đạo trưởng (chỉ chung các vị thừa sai ấy). Chữ đại tỏ ý tôn trọng, nên dịch là người nước Đại Pháp.

[4] Chỉ đạo Công giáo. Các sách trên không hiểu nghĩa này, dịch ra đạo Nho của Trung Quốc, thành sai hẳn nghĩa.

[5] Đức Cha mất ngày 11/9 âm lịch năm Kỷ Mùi, tức là ngày 9/10 dương lịch năm 1799.

[6] Các sách đều ghi Đức Cha sinh năm 1741. Nếu thế, Đức Cha mất 1799 thì phải thọ 58 tuổi tây, tức 59 tuổi ta. Ở đây ghi rõ thọ 57 tuổi ta, có nghĩa là 56 tuổi tây. Hiện chưa tra rõ được.

[7] Chữ này có nghĩa: nhà học và nhà tu (như chùa). Nguyên đây là Vườn xoài ở thôn Tân Sơn Nhì, chỗ nghỉ ngơi của Đức Cha. Đức Cha hay đưa hoàng tử Cảnh đến chơi. Có thể hiểu là nơi Đức Cha đến tĩnh tâm, nên châm chước dịch như thế.

[8] Đậu tiến sĩ cuối đời Lê, làm đốc học ở Quy Nhơn thời Tây Sơn. Tháng 3 năm 1799, chúa hạ thành Quy Nhơn, ông cùng Nguyễn Đại Phác ra hàng. Chúa tin dùng, phong lại chức này. Sau ông làm đến Cần Chánh điện học sĩ. Năm 1803, có dâng sách Đại Việt Sử Ký (Đại Nam Thật Lục Chánh Biên, Bảo Hoa Các xuất bản, Quảng Thạnh Nam phát hành, Gia Định 1873, quyển 3, tờ 18a.

[9] Tri Chỉ là tự của Lê Quang Định, lấy chữ ở chương kinh trong sách Đại Học: "Tri chỉ nhi hậu hữu định". Lê Tri Chỉ là Lê Quang Định (1759 – 1813). Ông cùng Ngô Nhân Tĩnh (? – 1813) và Trịnh Hoài Đức (1765 – 1825) được gọi là Gia Định tam gia. Ông nổi tiếng văn hay chữ tốt, vẽ đẹp. ĐNTLCB đã dẫn, quyển 1, tờ 35b và 36b cho biết chúa lấy được Gia Định vào tháng 8/1788. Tháng sau, bổ nhiệm 6 người làm Hàn lâm viện chế cáo, trong đó có ông và Trịnh Hoài Đức. Trong thời gian này không nói đến tổ chức thi cử gì cả. Cũng theo sách này, quyển 2, trang 1b, trang 20a và quyển 3, trang 28a, kể từ các năm 1791, 1796 và 1803, chúa mới mở 3 khoa thi ở Gia Định để lựa chọn nhân tài ra giúp việc nước. Có thuyết nói, khi thu phục lại Gia Định, chúa nghe tiếng cụ Võ Trường Toản tài cao đức trọng, có mở trường dạy học trò rất đông, liền đến thăm và mời cụ ra làm quan. Cụ từ chối vì già yếu, xin tiến cử một số học trò có khả năng như các ông Lê Quang Định, Trịnh Hoài, Ngô Nhân Tĩnh, Ngô Tùng Châu,… chúa đều vui vẻ thâu nhận, phong quan chức để sung vào bộ máy hành chánh còn thiếu nhân lực. Trước nay, nhiều sách đều nói ông và Trịnh Hoài Đức thi đậu năm 1788 ở Gia Định, được bổ làm quan. Xét rằng chúa thu phục Gia Định vào tháng 8, tháng 9 đã bổ các ông vào Hàn lâm viện chế cáo, Vừa bình định xong, biết bao công việc phải làm để chấn chỉnh trật tự trị an, quốc kế dân sinh, làm sao tổ chức thi cử liền? ĐNTLCB đã dẫn, không chép việc thi cử trong thời gian này. Thuyết đã dẫn lại nói cụ Võ Trường Toản tiến cử các ông lên chúa. Vì vậy, cần phải tra cứu lại tường tận.

[10] ĐNTLCB đã dẫn, quyển 1, tờ 1b cho biết, ngày 12/2 năm Ất Mùi (1775), chúa đi theo Định Vương Nguyễn Phúc Thuần vào Nam, ngày 25/2 mới đến Gia Định. Sau đó bôn ba chạy trốn nhà Tây Sơn. Do đó, các sách, kể cả sách Pháp, nói chúa gặp Đức Cha từ năm 1774 là không đúng. Thời điểm chúa gặp Đức Cha ở Hà Tiên năm 1776 hợp lý hơn.

[11] Tháng 3 năm Giáp Dần (1793), chúa lập hoàng tử Cảnh mới 13 tuổi làm Đông cung, bố trí một lực lượng thầy dạy rất nhiều: 1 phụ đạo, 2 thị giảng, 14 thị học để lo việc dạy dỗ Đông cung. Trịnh Hoài Đức và Lê Quang Định được sung chức thị giảng (ĐNTLCB đã dẫn, quyển 2, tờ 8a).

[12] Xem Khảo Về Đồ Sứ Cổ Men Lam Huế, Vương Hồng Sển, quyển hạ, nhà xuất bản Tp.HCM, 1993, trang 68, trích dẫn lại từ sách La Geste Française của Georges Taboulet, Paris, 1955.

***

Thư mục tham khảo :

§ Quế Sơn Thi Tập, sách chép tay, bản xưa, 26 trang. Trang 25 và 26 phụ chép bài văn bia của Đức Cha.

§ Đại Nam Thật Lục Chánh Biên, Duy Minh Thị đính chính, Bảo Hoa Các xuất bản, Quảng Thạnh Nam phát hành, Gia Định, 1873.

§ Dictionarium Anamitico Latinum, AL.L.Taberd, Trung Tâm Nghiên Cứu Quốc Học, nhà xuất bản Văn Học tái bản 2004. Các trang từ 49 đến 66.

§ Nguyệt san Công Giáo và Dân Tộc, các số từ 113 đến 128.

§ Lược Sử Giáo Hội Việt Nam, Linh mục Augustinô Nguyễn Văn Trinh, Đại Chủng viện thánh Giuse, 1994. Các trang từ 190 đến 192.

§ Lịch sử Giáo Hội Việt Nam, 3 tập, Linh mục Augustinô Nguyễn Văn Trinh, Đại Chủng viện thánh Giuse, 1994. Tập 3, các trang từ 395 đến 397.

§ Việt Nam Sử Lược, 2 quyển, Trần Trọng Kim, Trung Tâm Học Liệu, Bộ Giáo Dục xuất bản, quẩn 2, các trang 150-152 và 159.

§ Việt Nam Văn Học Sử Yếu, Dương Quảng Hàm, Bộ Quốc Gia Giáo dục xuất bản, in lần thứ 8, Sàigòn, 1960, trang 323.

§ Khảo Về Đồ Sứ Cổ Men Lam Huế, Vương Hồng Sển, nhà xuất bản Tp.HCM, 1993, quyển hạ, trang 68.

Sự ra đời của chữ Quốc ngữ

Cái chết siêu việt của ông Nguyễn Văn Vĩnh

 

Alexandre de Rhodes (sinh năm 1591 tại Avignon, Pháp; mất năm 1660 tại Ispahan, Ba Tư) đã sang Việt Nam truyền đạo trong vòng sáu năm (1624 -1630).

Ông là người có công rất lớn trong việc La-mã hoá tiếng Việt (nhiều tác giả gọi là La-tinh hóa. Thực ra mẫu tự chữ cái tiếng Việt hiện nay là mẫu tự chữ Roman chứ không phải là chữ La-tinh).

Kế tục công trình của những người đi trước là các tu sĩ Jesuites (dòng Tên) người Bồ Đào Nha như Francisco de Pina, Gaspar d’Amaral, Antonio Barbosa, v.v. trong việc La-mã hóa tiếng Việt, Alexandre de Rhodes đã xuất bản “Bài giảng giáo lý Tám ngày” đầu tiên bằng tiếng Việt và cuốn từ điển Việt-Bồ-La đầu tiên vào năm 1651 tại Rome.

Hệ thống chữ viết tiếng Việt dùng chữ cái La-mã này được chúng ta ngày nay gọi là“chữ quốc ngữ” (chữ viết của quốc gia)

* * *

Nguyễn Văn Vĩnh sinh năm 1882 tại Hà Nội – cái năm thành Hà Nội thất thủ vào tay quân Pháp do đại tá Henri Rivière chỉ huy. Tổng đốc Hà Nội Hoàng Diệu thắt cổ tự vẫn.

Gia đình Nguyễn Văn Vĩnh nghèo nên không có tiền cho con cái đi học. Lên tám tuổi, cậu Vĩnh đã phải đi làm để kiếm sống.

Công việc của cậu lúc đó là làm thằng nhỏ kéo quạt để làm mát cho một lớp đào tạo thông ngôn do người Pháp mở ở đình Yên Phụ - Hà Nội.

Vừa kéo quạt, cậu vừa nghe lỏm bài giảng. Cậu ghi nhớ mọi thứ rất nhanh và còn trả lời được các câu hỏi của thầy giáo trong khi các cậu con nhà giàu trong lớp còn đương lúng túng. Thầy giáo người Pháp thấy vậy bèn nói với ông hiệu trưởng giúp tiền cho cậu vào học chính thức. Năm 14 tuổi Nguyễn Văn Vĩnh đỗ đầu khóa học, và trở thành một thông dịch viên xuất sắc. Sau đó ông được bổ làm trợ lý cho công sứ Pháp tỉnh Bắc Ninh.

Năm 1906, lúc ông 24 tuổi, Nguyễn Văn Vĩnh được Pháp gửi sang dự triển lãm tại Marseilles. Tại đây, ông được tiếp cận với kỹ nghệ in ấn và báo chí.

Ông còn là người Việt Nam đầu tiên gia nhập hội Nhân quyền Pháp.

Trở về Việt Nam, Nguyễn Văn Vĩnh từ bỏ nghiệp quan chức và bắt đầu làm báo tự do. Năm 1907 ông mở nhà in đầu tiên ở Hà Nội, và xuất bản tờ Đăng Cổ Tùng Báo - tờ báo đầu tiên bằng chữ quốc ngữ ở Bắc Kỳ. Năm 1913 ông xuất bản tờ Đông dương Tạp chí để dạy dân Việt viết văn bằng quốc ngữ.

Ông là người đầu tiên dịch ra chữ quốc ngữ các tác phẩm của các đại văn hào Pháp như Balzac, Victor Hugo, Alexandre Dumas, La Fontaine, Molière, vv… và cũng là người đầu tiên dịch “Truyện Kiều” sang tiếng Pháp. Bản dịch “Kiều” của ông Vĩnh rất đặc sắc vì ông không chỉ dịch cả câu, mà còn dịch nghĩa từng chữ và kể rõ các tích cổ gắn với nghĩa đó - một điều chỉ có những ai am hiểu sâu sắc văn chương Việt Nam (bằng chữ Nôm), Trung Hoa (bằng chữ Nho), và Pháp mới có thể làm được.

Sự cố gắng và sức làm việc phi thường của ông Vĩnh, đã góp phần rất quan trọng trong việc truyền bá kiến thức và văn hoá phương Tây trong dân Việt, và đẩy xã hội Việt Nam đi đến chỗ dần dần chấp nhận chữ quốc ngữ.

Năm 1915 vua Duy Tân ra chỉ dụ bãi bỏ các khoa thi (Hương - Hội - Đình) ở Bắc Kỳ.

Năm 1918 vua Khải Định ra chỉ dụ bãi bỏ các khoa thi này ở Trung Kỳ, và đến năm 1919 bãi bỏ hoàn toàn các trường dạy chữ Nho, thay thế bằng hệ thống trường Pháp - Việt.

Ngày 18 tháng 9 năm 1924, toàn quyền Đông Dương Merlin ký quyết định đưa chữ Quốc Ngữ vào dạy ở ba năm đầu cấp tiểu học.

Chữ Hán từng được dùng ở Việt Nam trong vòng một ngàn năm mãi đến tận đầu thế kỷ thứ 20. Và sau gần ba thế kỷ kể từ khi cuốn từ điển Việt-Bồ-La của Alexandre de Rhodes ra đời, người Việt Nam mới thật sự đoạn tuyệt với chữ viết của Trung Hoa, chính thức chuyển sang dùng chữ quốc ngữ.

Đây quả thực là một cuộc chuyển hóa vô cùng lớn lao, trong đó ông Nguyễn Văn Vĩnh đã vô hình chung đóng vai trò một nhà văn hóa lớn của dân tộc Việt Nam.

Ông Nguyễn Văn Vĩnh, tuy nhiên, đã không thể kiếm sống bằng nghề báo của mình. Ông là người luôn lên tiếng phản đối chính sách hà khắc của Pháp đối với thuộc địa, là người Việt Nam đầu tiên và duy nhất đã hai lần từ chối huân chương Bắc đẩu bội tinh của chính phủ Pháp ban tặng, và cũng là người đã cùng với bốn người Pháp viết đơn gửi chính quyền Đông Dương phản đối việc bắt giữ cụ Phan Chu Trinh. Vì thế chính quyền thuộc địa của Pháp ở Đông Dương chẳng ưa gì ông.

Tòa báo của ông vỡ nợ. Gia sản của ông bị tịch biên. Ông bỏ đi đào vàng ở Lào và mất ở đó năm 1936 vì sốt rét.

Người ta tìm thấy xác ông nằm trong một chiếc thuyền độc mộc trên một dòng sông ở Sepole. Trong tay ông lúc đó vẫn còn nắm chặt một cây bút và một quyển sổ ghi chép:

Ông đang viết dở thiên ký sự bằng tiếng Pháp “Một tháng với những người tìm vàng”.

Khi đoàn tàu chở chiếc quan tài mang thi hài ông Vĩnh về đến ga Hàng Cỏ, hàng ngàn người dân Hà Nội đứng chờ trong một sự yên lặng vô cùng trang nghiêm trước quảng trường nhà ga để đưa tiễn ông; con người bằng tài năng và sức lao động không biết mệt mỏi của mình, đã góp phần làm cho chữ quốc ngữ trở thành chữ viết của toàn dân Việt.

Tôi đã vẽ bức tranh “ Sự ra đời của chữ quốc ngữ- Cái chết siêu việt của ông Nguyễn Văn Vĩnh” với lòng ngưỡng mộ sâu sắc, đối với hai vĩ nhân nói trên của dân tộc Việt Nam - Alexandre de Rhodes và Nguyễn Văn Vĩnh.

Lời cảm ơn:

Tác giả bài viết này biết ơn thân sinh của mình - nhà giáo Nguyễn Đình Nam, người đầu tiên kể cho tác giả về cuộc đời và sự nghiệp của cụ Nguyễn Văn Vĩnh từ khi tác giả còn là học sinh tiểu học, khi sách giáo khoa chính thống còn gọi Alexandre Rhodes là “gián điệp”, còn Nguyễn Văn Vĩnh là “bồi bút” của Pháp.

Tác giả xin chân thành cảm ơn ông Nguyễn Kỳ - con trai cụ Nguyễn Văn Vĩnh, và ông Nguyên Lân Bình - cháu nội cụ Nguyễn Văn Vĩnh, vì những câu chuyện xúc động về cuộc sống và sự nghiệp của cụ Nguyễn Văn Vĩnh cũng như của gia tộc cụ.

Tác giả xin cảm ơn thầy Trí - cháu ngoại cụ Nguyễn Văn Vĩnh, đồng thời từng là thầy dạy toán của tác giả, khi tác giả là học sinh trung học.


 

A-LẾCH-XĂNG ĐỜ RỐT

ĐẾN NƯỚC TA NĂM NÀO?

NGUYỄN TRỌNG THỤ

A-lếch-xăng Đờ Rốt giáo sĩ Pháp, từng sang truyền giáo ở Việt Nam. Được nhiều sách, báo Pháp coi là người có công đầu trong việc sáng tạo ra chữ quốc ngữ. Sự đánh giá nói trên đúng, sai thế nào còn cần được các công trình nghiên cứu tiếp tục thẩm định. Trong bài báo này, chúng tôi muốn đề cập tới một vấn đề khác, đó là tìm hiểu xem giáo sĩ A-lếch-xăng Đờ Rốt đến Việt Nam vào thời gian nào?

Trong “Việt Nam sử lược”, Trần Trọng Kim viết: “Năm Giáp Tý (1624) có giáo sĩ tên là Jean Rhodes, người Pha-lan-tây, đến giảng đạo ở Phú Xuân và lập ra các giáo đường. Năm Bính Dần (1626), đời vua Lê Thần Tôn, giáo sĩ Baldinoti vào giảng đạo ở xứ Bắc bị chúa Trịnh không cho phải bỏ đi. Được ít lâu, ông Jean Rhodes ở xứ Nam ra Bắc, vào yết kiến chúa Trịnh và đem dâng cái đồng hồ quả lắc, chúa Trịnh cho ông Jean Rhodes được ở giảng đạo tại kinh đô”.

Thực ra, Jean Rhodes mà Trần Trọng Kim nói ở trên chính là A-lếch-xăng Đờ Rốt.

Theo hồi ký của ông xuất bản năm 1653 và được giới thiệu tóm tắt trong tập 33, cuốn “Lịch sử tổng quát các chuyến đi” bằng tiếng Pháp, xuất bản tại Paris năm 1751, thì năm 1619, ông ta được cử vào phái bộ sang Nhật Bản truyền giáo. Từ Rô-ma, ông ta theo đường bộ sang Lít-xboa. Ngày 4.4.1619, từ Lít-xboa ông xuống thuyền trong đội thuyền gồm ba chiếc lớn. Sau ba tháng rưỡi lênh đênh trên biển cả, thuyền đến mũi Hảo Vọng. Do gặp nhiều trận bão, ngày 5.10 mới đến cảng Goa. Bị ốm nặng, ông ta được đưa đến đảo Xan-phét, gần cảng Goa và ở lại cảng này hai năm. Sau đó, ông được lệnh tiếp tục hành trình sang Nhật Bản. Ngày 28.7.1622 đến Ma-lắc-ca. Sau chín tháng ở Ma-lắc-ca chờ thời tiết thuận lợi, ngày 29.5.1623 ông ta đặt chân tới Ma Cao. Sau một năm rưỡi ở Ma Cao và Hồng Kông, ông được lệnh chuyển hướng không sang Nhật nữa mà đến Việt Nam, bởi vì lúc đó ở Nhật Bản đang có cuộc khủng bố những người theo đạo Ki-tô. Rời Ma Cao tháng Chạp năm 1624, chỉ 19 ngày sau đoàn thuyền đưa ông ta đến Đàng Trong (tức là miền Nam nước ta). Như vậy là A-lếch-xăng Đờ Rốt đến Việt Nam vào khoảng cuối năm 1624, đầu năm 1625 (cuối năm Giáp Tý).

Trong hồi ký của mình, A. Đờ Rốt đã ghi lại khá chi tiết về địa lý tự nhiên, địa lý chính trị nhân văn của xứ Đàng Trong. Ông kể: Thành phố nơi Chúa đóng (tức chúa Nguyễn) là Kẻ Huế. Cung điện không lộng lẫy lắm vì chỉ làm bằng gỗ, nhưng vẫn đủ tiện nghi. Cột, kèo chạm trổ đẹp. Cảnh triều đình sang trọng, đông đúc. Các quan chức ăn mặc rất đẹp.

Đất nước khá đông dân. Người dân hiền lành, nhưng thiện chiến. Chúa Nguyễn được dân đặc biệt kính trọng. Chúa có khoảng 150 thuyền chiến đóng tại ba cảng. Người Hà Lan cho A. Đờ Rốt biết các thuyền chiến đó có thể đánh bại các thuyền lớn của Hà Lan từng được coi là “những ông chủ của Ấn Độ Dương”.

Đất đai phì nhiêu nên dân khá giàu. Cả xứ, có đến 24 con sông đẹp, rất thuận lợi cho giao thông, buôn bán. Định kỳ tháng 11 và tháng 12, nước lụt dâng mang theo phù sa bồi đắp cho đồng ruộng.

Ở Đàng Trong có nhiều mỏ vàng. Nhưng những nguồn tài nguyên chính là hồ tiêu, thường bán cho người Trung Hoa, tơ lụa, và đường, sản lượng rất lớn, giá rất rẻ, thường bán cho Nhật Bản.

Ở đây không có lúa mì, rượu vang và dầu thực vật, nhưng bữa ăn vẫn ngon lành không kém ở châu Âu. Vẫn theo lời ông ta thuật lại, nơi đây có lẽ là nơi độc nhất trên thế giới có cây trầm hương, gỗ vừa là thứ hương liệu quý, vừa là dược liệu quý. Trầm hương loại một có mùi thơm đặc biệt, bổ tim và chống được nhiều thứ độc tố, đắt như vàng.

A. Đờ Rốt cũng cho biết chỉ nơi đây mới có tổ chim yến, một món ăn tuyệt vời. Tổ yến có màu trắng của tuyết, thường ở lẫn trong các hang đá ven biển. A.Đờ Rốt đã nêu ra ý nghĩ khá ngộ nghĩnh là yến sào chỉ có ở các vùng đất có cây trầm hương. Có thể những con yến khi làm tổ đã hút nhựa trầm hương, nhựa đó lẫn cùng bọt biển làm thành một thứ sợi trắng, nấu với thịt, cá là thức ăn tuyệt vời. Cùng với trầm hương, yến sào, A. Đờ Rốt còn ca ngợi cây mít Việt Nam.

Theo A. Đờ Rốt, tiếng Việt thuộc loại đơn âm, mỗi từ có khi có rất nhiều nghĩa khác nhau. Ông đã quyết tâm học tiếng Việt, đã nhờ một em bé người Việt dạy cho ba tuần liền về cách phát âm từng từ, và sau bốn tháng đã có thể rao giảng bằng tiếng Việt. Ông ta cũng nhận xét là em bé người Việt nói trên có năng khiếu ngoại ngữ và trí nhớ đặc biệt khi học tiếng Pháp. (Về sau, khi trở về châu Âu, A-lếch-xăng Đờ Rốt đã cho in ở Rô-ma quyển từ điển ba thứ tiếng La-tinh, Bồ Đào Nha và Việt Nam).

Sau 18 tháng ở Đàng Trong, A-lếch-xăng Đờ Rốt được lệnh ra Đàng Ngoài, vì các giáo sĩ ở Đàng Ngoài không một ai biết nói tiếng Việt. Lúc đó, Đàng Trong và Đàng Ngoài đang có chiến sự, cho nên A. Đờ Rốt không thể đi thẳng ra Đàng Ngoài mà phải trở lại Ma Cao một thời gian. Ngày 12.3.1627, rời Ma Cao, và tám ngày sau, tức là ngày 19.3, ông ta tới Đàng Ngoài.

A. Đờ Rốt cho biết chúa Đàng Ngoài có 12 vạn quân và 400 chiến thuyền. Sau hai tháng bận việc chinh chiến, lúc trở lại kinh đô, chúa (chỉ chúa Trịnh) đã cho A.Đờ Rốt bệ kiến. Ông ta đã dâng lên chúa Trịnh lời chúc tụng và lễ vật ban đầu gồm một đồng hồ chuông, một cuốn sách toàn bằng chữ Hán. Chúa đã cho phép ông ta cùng dự tiệc. Khi A. Đờ Rốt hướng dẫn cách dùng đồng hồ, chúa Trịnh tỏ vẻ khâm phục.

Chúa Trịnh sai làm cho A. Đờ Rốt một căn nhà ở kinh đô, lúc đó gọi là Kẻ Chợ. Đường phố ở đây khá rộng, chu vi thành phố khoảng 6 dặm, còn dân thì rất đông. Ở Đàng Ngoài mấy năm, A. Đờ Rốt lại trở vào Đàng Trong. Và ngày 2.7.1641, ông ta đi Phi-li-pin.

ĐỖ THIÊN THƯ st.


Phụ Bản I

TỪ TU THIỀN ĐẾN TU PHẬT (tt)

CÔNG ÁN THỨ BA MƯƠI HAI

NGOẠI ĐẠO HỎI PHẬT

*Công Án:

Một kẻ ngoại đạo bạch Phật:

- Không hỏi lẽ hữu ngôn, không hỏi lẽ vô ngôn.

Phật ngồi toà.

Kẻ ngoại đạo tán thán:

- Đức Thế Tôn đại từ bi, vén lớp mây mờ khiến tôi vào được.

Rồi bái lạy mà đi.

Ngài A Nan bèn bạch Phật:

- Kẻ ngoại đạo chứng được điều gì mà tán thán rồi đi vậy?

Phật dạy:

- Như ngựa hay trên đời, nhìn bóng roi mà chạy.

Lời giải:

Thời Phật giảng pháp, có rất nhiều ngoại đạo đến chất vấn, bắt bẻ, nhưng Phật đều trả lời thông suốt, thu phục được họ. Và dù họ là ngoại đạo, nhưng chấp nhận được những lý lẽ đúng của Phật, và trí huệ của Phật đủ để trả lời, dù cho họ có vấn nạn đến đâu. Chính vì thế mà Kinh dạy: “Một trong những điều khó được là sinh cùng thời với Phật ra đời”, để được nghe chính Ngài giảng dạy! Phàm phu chúng ta bị các pháp quật cho tơi tả còn chưa chịu hồi đầu. Ngoại đạo kia, chỉ cần Phật khẽ nhắc đã thấu đáo, đã hiểu ra.

“Ngồi Tòa Sen” tượng trưng cho đã được giải thoát. Cái giải thoát đâu cần biện bạch, nói năng. Do đó, không cần lời nói.

Tu hành là để đạt được cái Sự thực chứng, đâu phải để lý giải suông, nên hữu ngôn, vô ngôn đều không quan trọng. Ngoại đạo đã hiểu được lẽ này nên Phật khen là " như ngựa hay trên đời, nhìn bóng roi mà chạy".

CÔNG ÁN THỨ BA MƯƠI BA

CHẲNG TÂM CHẲNG PHẬT

*Công Án:

Một ông Tăng hỏi Ngài Mã Tổ:

- Phật là gì?

Sư đáp:

- Chẳng Tâm, chẳng Phật.

Lời giải:

Khi mới vào tu hành, người tu được dạy cho QUAY VÔ để tìm Phật nơi Tâm của mình. Tâm của mình chính là Phật, nên gọi là "TỨC TÂM TỨC PHẬT". Việc tu hành là để XẢ CÁI CHẤP MÌNH, cho nên khi tu xong rồi thì KHÔNG CÒN CÓ MÌNH. KHÔNG CÓ MÌNH THÌ CŨNG CHẲNG CÓ TÂM, nên gọi là CHẲNG PHẢI TÂM, CHẲNG PHẢI PHẬT.

Vì người tu hành từ xưa, cho tới thời này vẫn nghĩ rằng Phật là Ông Phật, với «32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp, ở Tây Phương Cực Lạc hoặc Đông Phương Tịnh Quốc», nên khi nghe nói rằng: "Tức Tâm Tức Phật", hay "Không Tâm, Không Phật" thì thấy có vẻ khó hiểu, cho rằng Chư Tổ nói lúc vầy lúc khác, không thể hiểu nổi!

Tình trạng Giải Thoát là ở trong Tâm của mỗi người. Từ lúc mới Phát Tâm cho tới lúc thành tựu đều chứng ở nơi Tâm nên gọi là " Tâm tức là Phật ". Đến khi hoàn tất việc tu hành, Xả hết mọi cái Chấp để Chứng cái Giải Thoát thì cả cái Tâm lẫn cái Phật cũng không còn nữa, mà rỗng rang như hư không, nên gọi là: "Không phải Tâm, không phải Phật". Do đó, người tu nếu đến một giai đoạn nào đó thấy mình Thành Phật thì cẩn thận. Đó là cái Ngã tu hành, còn nguy hiểm và khó trừ hơn cái Ngã phàm phu nữa vậy.

CÔNG ÁN THỨ BA MƯƠI BỐN

TRÍ CHẲNG PHẢI ĐẠO

*Công Án:

Ngài Nam Tuyền nói:

- Tâm chẳng phải Phật, Trí chẳng phải đạo.

Lời giải:

Đầu tiên, cái Tâm chấp nhất gọi là cái Phàm Tâm. Tu hành, công phu, xả chấp thì được cái Tâm Giải Thoát hay gọi là Tâm Phật.

Trên con đường tu hành, mọi người đều phải khai mở cái Trí để dùng đó làm đuốc soi đường để tiến bước trên con đường Đạo. Dù vậy, cái trí của mỗi cá nhân chẳng phải là cái đạo, mà trí này nên song hành cùng Phật trí, phải phù hợp với Phật trí, với con đường của Chư Phật, Chư Tổ đã đặt ra, theo đó mà hiểu biết, mà hành dụng, để nó trở thành Diệu Quan Sát Trí của Đạo.

Chỉ có thể dùng Trí như đèn soi để thấy lối mà đi, không thể dùng Trí như một sự hiểu biết rồi chấp lấy hiểu biết này, tưởng đó là chứng đắc.

Công Án này có thể hiểu là để cho người tu không còn Chấp và sự chứng đắc. Tu Tâm, rồi Xả cái Tâm đi, không thấy là Mình chứng đắc. Dùng cái Trí để làm ánh sáng hướng dẫn cho con đường tu hành, nhưng Trí đó bản thân nó không phải là con đường.

CÔNG ÁN THỨ BA MƯƠI LĂM

CÔ THANH LÌA HỒN

*Công Án:

Ngài Ngũ Tổ hỏi một ông Tăng:

- Cô Thanh lìa hồn, cô nào là thật?

Lời giải:

Ngũ Tổ này cũng nên nói lại cho rõ không phải là Thầy của Lục Tổ, mà là mộtnhân vật thuộc dòng Lâm Tế, giỏi về Duy Thức, trụ trì ở nhiều chùa, sau đến trụ trì ởchùa Hoàng Mai nơi ngày xưa Ngũ Tổ thật đã giảng dạy, nên có lẽ học trò muốn tôn xưng mà gọi là Ngũ Tổ.

Cô Thanh là một nhân vật truyền kỳ, xuất hồn đi sống với người yêu, cái xác nằm đó, sau đó mới về nhập lại. Câu chuyện cho thấy phần thân và Tâm tách biệt nhau như trong lúc Ngồi Thiền, hay xuất hồn đều có hiện tượng tương tự.

Nếu không quan sát, con người sẽ không thắc mắc, vì thấy chuyện nói năng, tay đưa, chân bước là chuyện hết sức bình thường. Nhưng khi vào tu theo Đạo Phật, tập quan sát để tìm thủ phạm của mọi hành vi, người tu sẽ thấy rằng có bộ phận chỉ huy nằm ở trong bộ óc. Bộ phận này Phật gọi đó là TÂM. Từ Tâm này sinh ra vô số Ý, những cái Ý trực tiếp điều động cái Thân.

Chính vì vậy mà khi tu hành Đạo Phật dạy "Điều Tâm", không dạy "Điều Thân", vì thân chẳng qua là thuộc hạ vòng ngoài, chỉ là tai sai mà thôi. Cái Thân chỉ là một tập hợp của Tứ Đại có kỳ hạn không quá trăm năm sẽ trở về cùng cát bụi. Sinh tử Luân Hồi hay không do cái Tâm này, cho nên phải thấy, phải tu ở đây thì mới Thoát Sinh Tử Luân Hồi được.

Ngũ Tổ này cũng phân tích ra được cái Thân và Cái Tâm. Nhưng chưa hiểu được rằng nếu không tu hành để được Giải Thoát khi đang còn trong cái Thân, thì lúc chết, lìa cái Thân thì cái Tâm Mê vẫn hoàn Mê. Không phải chết đi, rời cái Thân ra là đã Giác Ngộ! Chính vì vậy, Phật dạy người tu đối với cái Thân như người bị chìm ở giữa biển, ôm lấy thây ma để lội vô bờ. Đó là cái khác nhau giữa những người phàm phu bám lấy cái Thân, vì nó mà tạo bao nhiêu nghiệp. Và người tu hành, nhờ cái Thân mà hành trì đạt đến kết quả Giải Thoát vậy.

Chỉ việc Phong Ngũ Tổ này thôi đủ để chứng tỏ phái Thiền Tông coi lịch sửtruyền thừa của Đạo Phật chẳng ra chi! 33 vị Tổ chính thức được truyền Y Bát, để người sau biết đó là những vị đắc pháp, được quyền thay Tổ trước để hướng dẫn đạo, có thứ tự trước, sau. Tự nhiên phong một Thiền Sư hậu bối lên thay Ngũ Tổ là người chính thức được Truyền Y, BÁT. Đó là Đại Vọng Ngữ. Người được phong mà nhận chức đó cũng là người Vọng Hành. Vì người hậu học quyền gì để phong chức Tổ? Mình tu hành đạo, hạnh cỡ nào mà dám chiếm ngôi vị của Tổ xưa, làm cho người sau hiểu lầm đó là Thầy của Lục Tổ?

CÔNG ÁN THỨ BA MƯƠI SÁU

GẶP NGƯỜI ĐẮC ĐẠO

*Công Án:

Ngài Ngũ Tổ nói:

- Giữa đường gặp người đắc đạo, chớ nói hay im mà đối đãi. Thử hỏi đối đãi ra sao?

Lời giải:

Người đắc đạo là bậc đáng kính như Kinh Diệu Pháp Liên Hoa viết: "Nếu thấy ở đâu phải cung kính như thấy Phật", vì đó là những bậc đã tu hành, sạch Ba Nghiệp, trong họ có Phật ở chung, "Phật ở trong đó kinh hành và ngồi nằm", " được Phật dùng vai mang vác ". Có nghĩa là người đó cũng đã là Phật.

Vậy mà khi gặp giữa đường, thay vì cung kính. Nếu cần thì lễ lạy, thì Ngài Vô Môn đã viết Kệ tụng, dạy người sau: "Thẳng mặt tống liền cho một đấm". Hẳn Ý Ngài muốn nói là "Phùng Phật Sát Phật", không ngờ lộ ra ý ngạo mạn, ngông cuồng của chính Ngài!

Người đã được Đạo thì bao giờ cũng khiêm tốn, khoan hoà, không tranh phải quấy, hơn thua vậy mà coi bộ cũng không yên thân nếu gặp phải Ngài Vô Môn và những đệ tử của Ngài ! Có lẽ Ngài Vô Môn cần tu Hạnh Thường Bất Khinh Bồ Tát để khỏi lố bịch vì tưởng mình đã Thành Phật, nên gặp Phật khác phải Sát, phải đánh, vì hiểu lầm lời Phật dạy: "Vô Sát bất hiện thân"!

Kết luận: Ngài Vô Môn quên nhìn vô để nghĩ tới trường hợp chính mình: Nếu chẳng may được người khác đánh giá là người đắc đạo, rồi cả đám bất chợt gặp Ngài giữa đường và áp dụng ngay bài Kệ của Ngài. Không giết thì cũng "thẳng tay đấm vào mặt". Lúc đó Ngài sẽ nghĩ gì nhỉ?

(Còn tiếp)

Tâm Nguyện


VỀ MỸ THO

GIỖ ÔNG GIÀ ĐI BỘ

Sáng ngày 13/7 Âm lịch tức 29/8/2012 tại nhà lưu niệm Sơn Nam (ấp 4, xã Đạo Thạnh, Tp. Mỹ Tho, Tiền Giang) bạn bè, người hâm mộ và lãnh đạo chính quyền địa phương đã quy tụ về để dự giỗ năm thứ 4 nhà văn Sơn Nam. Vợ chồng bà Đào Thúy Hằng – Trần Đức Nghị rất bận rộn, người thì tất bật trong bếp chuẩn bị đồ giỗ, người thì đon đả đón khách từ nhiều nơi hội tụ về.

Chúng tôi từ Tp. HCM đi xe Phương Trang đã có mặt từ 9 giờ sáng, lúc này khách còn thưa thớt, chủ yếu là người đến phụ giúp. Sau khi thắp hương viếng Sơn Nam, tôi thay mặt anh Vũ Hà Tuệ tặng Nhà lưu niệm tấm giấy khen do Công ty Công viên cây xanh Tp. HCM tặng cho nhà văn Sơn Nam năm 1991 do anh Tuệ may mắn sưu tầm được và được ủy quyền của ông Nguyễn Huy Thắng, phó Giám đốc NXB Kim Đồng tặng cho ông Trần Đức Nghị cuốn Hiền tài là nguyên khí quốc gia có bài viết về cụ tổ Cống Quận công Trần Đức Hòa của dòng họ Trần Đức - Bình Định, người đã tiến cử nhà quân sự, nhà văn hóa Đào Duy Từ cho Chúa Nguyễn.

Đến mười giờ nhà văn Trang Thế Hy một người bạn lớn của Sơn Nam xuống xe, lập tức bọn hậu thế chúng tôi cùng ông Trần Đức Nghị ùa ra đón ông đưa ông vào nghỉ và thắp hương cho Sơn Nam. Từ đây lần lượt đại diện NXB Trẻ, chính quyền địa phương, nhà văn Mạc Can và người hâm mộ cũng lần lượt tới. Và đây, nhà văn Nguyễn Quang Sáng cũng từ Tp. HCM đi cùng một số nhà văn trẻ cũng tới nơi.

Lúc này mọi người tự điểm danh thì còn thấy thiếu bạn nối khố của Sơn Nam, nhà thơ Kiên Giang Hà Huy Hà, nhà báo Đào Tăng, nhà giáo Đinh Công Tâm. Con rể Sơn Nam ông Trần Đức Hòa cho biết không liên hệ được với nhà thơ Kiên Giang, nhưng năm nào ông cũng về dự giỗ Sơn Nam.

Đến 11g30 khách đã đến gần đông đủ, ông bà Trần Đức Hòa mời mọi người vào mâm giỗ, mọi người vẫn ngóng nhà thơ Kiên Giang. Cỗ giỗ đã qua hơn nửa thời gian thì chúng tôi được tin ông tới, vậy là mừng rồi, ông vẫn còn khá khỏe vẫn đon đả chào hỏi mọi người. Ông cũng vui khi thấy chúng tôi, ông nói “Rất vui gặp lại Người yêu sách” và chúng tôi lại được tiếp ông. Vợ chồng chủ nhân ân cần mang khăn lạnh, bia và thuốc lá đến cho ông và gọi con cháu tới chào ông. Bà Đào Thúy Liễu, người con út của Sơn Nam cũng vấn an ông và trách thương ông vì không liên lạc được với ông, ông cho biết ông thường xuyên mất điện thoại nên không liên lạc được với mọi người. Tôi cũng nói với ông là tìm thăm ông nhiều nhưng không gặp. Nghe chúng tôi nói vậy ông nói: “Mình đi làm từ thiện nhiều, lần sau cứ nhắn lại cho bạn hữu ái, họ sẽ nói cho mình”.

Sơn Nam, ông già Nam bộ đã ra đi về cõi vĩnh hằng bốn năm nay, nhưng đến ngày giỗ của ông bạn bè ông tuy đã rất cao tuổi ở gần xa không cần có lời mời của vợ chồng bà Thúy Hằng vẫn hội tụ về đây với ông, để tưởng nhớ ông, để cùng nhau nói chuyện về ông cũng là dịp để mọi người gặp nhau sau một năm xa cách và họ mong rằng sẽ gặp lại vào ngày giỗ Sơn Nam năm sau.

Gần 14g đám giỗ đã tan, vợ chồng bà Thúy Hằng cùng bà Thúy Liễu ân cần tiễn khách ra về mà không quên đưa mỗi người một gói lộc giỗ Sơn Nam và cũng hẹn gặp lại vào ngày này sang năm. Chia tay chúng tôi nhà thơ Kiên Giang nói: “Chúng bay về trước tao còn ở lại mai mới về, để tối nay nằm nói chuyện với Sơn Nam”. Vâng! ông là vậy, hễ có dịp là về với Sơn Nam và đều ở lại một vài đêm trò chuyện với người bạn nối khố đã khuất của mình.

Phạm Thế Cường

ĐIỂN TÍCH TRUYỆN KIỀU

vụ án Gieo thoi

 

PHẠM ĐAN QUẾ

 

Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du dùng hàng trăm điển tích khi một câu, hai câu, khi ba bốn câu nhưng có lẽ công phu nhất là điển tích về Thôi Oanh Oanh - Trương Quân Thụy.

Sau khi đàn cho Kim trọng nghe lần thứ nhất thấy chàng “Xem trong âu yếm có chiều lả lơi”, Thúy Kiều đã phải nói một mạch tới 22 câu (0501-0522) để ngăn chặn việc quá trớn của chàng. Trong 22 câu này, tác giả dùng tới 9 điển tích (Mật độ điển tích thật dày đặc). Chính ở đây ta đọc được:

0511. “...Ngẫm duyên kỳ ngộ xưa nay,

Lứa đôi ai lại đẹp tày Thôi-Trương.

0513. Mây mưa đánh đổ đá vàng,

Quá chiều nên đã chán chường yến oanh.

0515. Trong khi chắp cánh liền cành,

Mà lòng rẻ rúng đã dành một bên.

Mái Tây để lạnh hương nguyền,

Cho duyên đằm thắm ra duyên bẽ bàng.

0517. Gieo thoi trước chẳng giữ giàng,

Để sau nên thẹn cùng chàng bởi ai?...”

Thế là để trình bày một điển tích Thôi - Trương, tác giả đã phải dùng tới mười câu thơ và bốn điển tích khác: Mây mưa - Chắp cánh - Liền cành - Gieo thoi mới nêu được tình ý đầy tính thuyết phục của mạch văn cùng ý vị sâu xa của điển tích. Nhất là sau đó Thúy Kiều lại hứa hẹn thật là tình cảm:

“... Vội chi liễu ép hoa nài,

Còn thân, còn một đền bồi có khi!

Thế là:

Thấy lời đoan chính dễ nghe,

Chàng càng thêm nể thêm vì mười phân.

Và chúng ta lại càng thấy rằng việc dụng điển của Nguyễn Du thực là tuyệt diệu! Cũng chính từ điển tích này mà có vụ án “Gieo thoi” sau đây. Để thấy được cái tinh vi, uẩn áo của việc dùng và hiểu điển tích, chúng tôi xin trích ra sau đây câu chuyện tranh luận giữa giáo sư Đoàn Phú Tứ và thi sĩ Vũ Hoàng Chương( 1 ) có liên quan đến một điển tích: Gieo thoi.

Ngày 9/4/1949 tại trường Trung học kháng chiến và sau đó vào dịp kỷ niệm Nguyễn Du năm 1951, tại giảng đường Văn khoa Đại học Hà Nội, giáo sư Đoàn Phú Tứ có thuyết trình một bài giảng thuyết nhan đề: “Đi tìm chủ từ trong vài đoạn văn Đoạn Trường Tân Thanh” (2) . Sau khi phân tích và đánh giá vấn đề chủ từ trong Truyện Kiều, giáo sư đề cập đến “những vụ hiểu lầm” trong bốn khổ thơ Kiều, trong đó có Vụ án Gieo thoi liên quan đến vấn đề hiểu một điển tích như thế nào. Chúng tôi xin được trích phần có liên hệ sau đây:

Vụ án Gieo thoi.

Ta hãy đọc thong thả, cẩn thận cả đoạn văn dài, để có thể xét cái vụ án này một cách minh bạch, đủ chứng cứ:

Sóng tình dường đã xiêu xiêu,

Xem trong âu yếm có chiều lả lơi.

Thưa rằng: “Đừng lấy làm chơi,

“Rẽ cho thưa hết một lời đã nao.

“Vẻ chi một đóa yêu đào,

“Vườn hồng chi dám ngăn rào chim xanh.

“Đã cho vào bậc bố kinh,

“Đạo tòng phu lấy chữ trinh làm đầu.

“Ra tuồng trên Bộc trong dâu,

“Thì con người ấy ai cầu làm chi.

“Phải điều ăn xổi ở thì,

“Tiết trăm năm nỡ bỏ đi một ngày.

“Ngẫm duyên kỳ ngộ xưa nay,

“Lứa đôi ai lại đẹp tày Thôi-Trương.

“Mây mưa đánh đổ đá vàng,

“Quá chiều nên đã chán chường yến oanh.

“Trong khi chắp cánh liền cành,

“Mà lòng rẻ rúng đã dành một bên.

“Mái tây để lạnh hương nguyền,

“Cho duyên đằm thắm ra duyên bẽ bàng.

“Gieo thoi trước chẳng giữ giàng,

“Để sau nên thẹn cùng chàng bởi ai?

“Vội chi liễu ép hoa nài,

“Còn thân còn một đền bồi có khi”.

Thấy lời đoan chính dễ nghe,

Chàng càng thêm nể thêm vì mười phân.

( Đoạn Trường Tân Thanh , câu 500 - câu 524)

- Hiểu lầm thế nào? Hai chữ “Gieo thoi”, các bản in đều chú thích giống nhau. Tản Đà chú rằng: “Gieo thoi là ý nói chống cự. Lấy tích người xưa có người Tạ Côn ghẹo gái ở láng giềng, người con gái đang ngồi dệt cửi, cầm cái thoi ném Côn gãy răng. Đây chỉ là ý nói chống cự”. Bùi Kỷ - Trần Trọng Kim, Nguyễn Văn Vĩnh cũng chú giải như thế.

Đồng ý rằng: “Đây chỉ là ý nói chống cự”. Song ai chống cự ai mới được chứ? Ai là chủ từ cho những động từ gieo, giữ giàngthẹn? “Ồ Thúy Kiều chứ còn ai nữa? Thúy Kiều nói về mình chứ còn ai? Câu đó nghĩa là: “Nếu thiếp chẳng biết Gieo thoi giữ giàng trước, để sau này thiếp phải hổ thẹn cùng chàng, thì đó chỉ là lỗi tại thiếp”. Người ta sẽ trả lời như thế, và yên trí rằng không có thể nào khác được. Và người ta đọc tiếp.

Nhưng, hãy khoan, hãy dừng lại đây một phút nữa, hãy cùng tôi xét lại câu văn này một lần nữa.

Rõ thực là rắc rối, cầu kỳ! Câu văn rõ nghĩa như thế, còn phải tìm gì lôi thôi nữa? Ai cũng đều hiểu như thế cả. Thử giở bản dịch của ông Nguyễn Văn Vĩnh mà xem. Vâng, ta hãy giở bản dịch của ông Nguyễn Văn Vĩnh:

Si par un geste brutal, nous ne savions pas nous défendre aujourd’hui.

Plus tard, j’aurais à rougir devant vous. Et à qui serait alors la faute?

À, thế ra là không phải ai cũng hiểu giống nhau cả đâu. Mọi người đều hiểu rằng: “Gieo thoi” là nói về Thúy Kiều, nhưng ông Nguyễn Văn Vĩnh lại dịch là nous, nghĩa là chúng mình, nghĩa là cả thiếp lẫn chàng. Cả Thúy Kiều lẫn Kim Trọng! Thế ra ở cái chỗ này, cũng có hai ý kiến tương phản, ít ra là hai, vì biết đâu lại không có một ý kiến thứ ba nữa?

Ngày còn đi học, nghe thầy giáo giảng về câu này, tôi đã lấy làm ngờ, vì nếu hiểu rằng Thúy Kiều nói cái chuyện Gieo thoi là nói về mình, thì cái câu nói ấy kém vẻ dịu dàng trang nhã vì có chứa đựng rõ ràng một ý đe dọa khá thô bạo, phũ phàng và cũng hơi tàn nhẫn nữa.

Nói: “Nếu thiếp chẳng Gieo thoi giữ giàng từ trước...” thì có khác gì nói: “Thiếp phải Gieo thoi giữ giàng kẻo sau này, vv...”. Đành rằng đây chỉ là nói điển tích nhưng cái điển tích thô bạo như vậy mà đem dẫn để nói việc mình chống cự, thì sao cho tiện, sao cho khỏi khiếm nhã, sao cho khỏi làm thương tổn đến lòng âu yếm dịu dàng của người yêu.

Tôi tự đặt mình vào địa vị Kim Trọng, và vẫn tự nhủ rằng: “Đừng vội phật ý, và chưa chắc là cô Thúy Kiều dẫn điển Gieo thoi để tỏ cái ý kiên quyết chống cự của mình đâu. Đừng vội tin cái lối hiểu của mọi người và đừng giận Thúy Kiều vội. Hãy bình tâm mà xét lại câu nói của cô ta đi”.

Và tôi đã bình tâm, lật đi lật lại câu văn kia để tìm xem có nghĩa nào khác, ổn hơn không. Lâu lắm, tôi chịu không tìm ra. Nhưng vẫn không chịu là cô Thúy Kiều của tôi ăn nói phũ phàng đến thế.

Có lẽ ông Nguyễn Văn Vĩnh cũng có cảm thấy như tôi cái phũ phàng bất nhã của câu nói ấy nếu hiểu là Gieo thoi chỉ về Thúy Kiều, nên ông ta đã ngần ngại không dịch là: “Si par un geste brutal, je ne savais pas me défendre aujourd’hui”, mà dịch là: “nous”. Có lẽ thế; khi ông viết đến chữ “brutal”, thì chắc là ông cũng cảm thấy cái “brutal” của câu nói, nên đã không nỡ bắt Thúy Kiều chuốc lấy cái cử chỉ đó cho riêng mình, bèn gán cho cả hai người: nous.

Kể thì hiểu và cảm một lời văn như ông Nguyễn Văn Vĩnh, cũng đã là tế nhị. Nhưng dịch là “nous” cũng còn chưa được ổn, vì có chống cự chăng, là chỉ người con gái mà thôi, chứ cái phận sự phòng thủ này không phải là phận sự của người con trai, không phải là phận sự chung, mà lôi kéo được cả người con trai vào một chữ “nous”.

Các ngài và các bạn hãy thử đọc lại câu văn kia, sẽ thấy nỗi băn khoăn của tôi là chính đáng, và sự e ngại của ông Nguyễn Văn Vĩnh là có lý, và sẽ thấy cần phải tìm hiểu lại câu văn.

Hiểu đúng thế nào ? Sau bao nhiêu năm tìm nghĩa câu văn kia mà không ra manh mối, tôi đã vì một sự tình cờ mà thấy được cái nghĩa thực ổn của nó. Cách đây tám chín năm, nhân nói chuyện về Tây Sương ký với một ông bạn già nho học, tôi được ông đọc cho nghe bức thư của Thôi Oanh Oanh gửi Trương Quân Thụy sau khi bị chàng phụ bạc. Bức thư này không có trong vở kịch Tây Sương, nhưng có trong truyện Hội Chân ký của Nguyên Chẩn đời Đường 1 . Trong thư của Thôi Oanh Oanh có những lời than thân trách phận, mình lại oán hận mình, và có một câu đại ý như thế này (Tôi xin lỗi vì không thuộc lòng lời văn và cũng không có sách để dẫn cho đúng từng chữ):

“Ngày trước khi chàng cầu thân, thiếp đã chẳng biết Gieo thoi cự lại 2 , để đến nỗi sau này bị chàng phụ bạc, đến nỗi phải hổ thẹn cùng chàng, ấy là lỗi tự thiếp, còn dám trách ai”.

Cái ý câu văn đúng như hai câu thơ trong Đoạn Trường Tân Thanh, song hai trường hợp khác nhau. Ta không thấy câu văn của nàng Thôi là tàn nhẫn, thô bạo, khiếm nhã, vì đấy là nói về một việc đã qua, cái chuyện Gieo thoi chưa hề làm mà tiếc rằng đã không làm, để đến nỗi bây giờ hổ thẹn. Nếu so sánh cái hành vi của nàng Thôi quá yêu chiều chàng Trương ngày nọ, với cái hành vi cự tuyệt tàn nhẫn của cô gái dệt cửi ngày xưa, và cái kết quả trái ngược của hai cái hành vi ấy (sau cô gái dệt cửi lấy được Tạ Côn mà Thôi Oanh Oanh thì bị Trương Quân Thụy ruồng rẫy) thì ta đồng ý với Oanh Oanh rằng cái tàn nhẫn thô bạo kia còn hơn cái yêu chiều quá mực này, và cho phép Oanh Oanh dẫn cái điển Gieo thoi để hận rằng đã không bằng người con gái dệt cửi.

Thúy Kiều không ở cái hoàn cảnh của Thôi Oanh Oanh, chuyện phụ bạc và hổ thẹn chưa xảy ra, chuyện giữ giàng đương còn ở hiện tại, nên dẫn cái điển Gieo thoi không tiện. Nàng Thôi dẫn đến cái điển Gieo thoi để tự trách mình đã không biết theo cái gương ấy, nghe thực nên thương, nhưng Thúy Kiều dẫn cái điển Gieo thoi để đe dọa sẽ theo cái gương ấy, nghe lại đáng ghét, vì cái tình cảnh hai người khác nhau.

Ta hãy đọc lại cả đoạn văn Thúy Kiều dẫn chuyện Oanh Oanh, thì ta thấy rằng hai câu này: “Gieo thoi trước chẳng giữ giàng, Để sau nên thẹn cùng chàng bởi ai” là vẫn còn nói về chuyện nàng Thôi với chàng Trương. Câu chuyện Thôi-Trương chưa kết luận, thì đây là ba câu kết cho nó. Mà Thúy Kiều cũng không phải đi đâu xa, mượn ngay câu văn của Oanh Oanh để mà kết luận câu chuyện của Oanh Oanh. Không phải Thúy Kiều dẫn điển Gieo thoi đâu, chính là Thôi dẫn điển ấy, không phải Thúy Kiều đe sẽ giữ giàng đâu, chính nàng Thôi đi tiếc không biết giữ giàng từ trước, không phải Thúy Kiều có ý sợ sẽ bị chàng Kim phụ bạc mà sẽ bị hổ thẹn cùng chàng đâu, chính là nàng Thôi đã than rằng bị phụ bạc và thực đã bị hổ thẹn cùng chàng Trương, không phải là Thúy Kiều phỏng đoán và lý luận về chuyện tương lai đâu, chính là Thôi Oanh Oanh than tiếc chuyện đã qua đấy.

Thì ra, chủ từ của động từ “Gieo thoi” và “giữ giàng” đây là nàng Thôi, cái sự thẹn thùng cùng chàng đây là chuyện có thực đã xẩy ra, mà chàng đây là Trương Quân Thụy, và bởi ai đấy là vẫn nói về Oanh Oanh để mà kết luận.

Thật là ổn thỏa. Câu văn thật là ý nhị. Bút pháp của Nguyễn Du thật là tuyệt diệu. Thúy Kiều mượn ngay lời của Thôi Oanh Oanh để kết luận về chuyện Oanh Oanh, mà khỏi phải nói về mình nữa, vì các gương đã rõ lắm rồi, đã đủ hùng hồn để vạch cho cả hai người cái đường sáng sủa nên theo, không cần phải nói: “thiếp sẽ hết sức cự tuyệt...” mà thực là cự tuyệt một cách chắc chắn và khôn khéo. Ta hãy một lần nữa đọc lại cả đoạn văn. Thì thấy trong suốt ngần ấy câu Thúy Kiều không hề trực tiếp cự tuyệt Kim Trọng, chỉ dẫn điển tích cũ, nêu cái đạo phải theo, nói về lẽ chung cho mọi người, chứ không hề tỏ cái ý chí riêng của mình, không tích cực chống cự mà trái lại còn vuốt ve hứa hẹn Kim Trọng những điều thực là dễ thương:

Vẻ chi một đóa yêu đào,

Vườn hồng chi dám ngăn rào chim xanh.

Vẻ chi...” và “chi dám...”, Thúy Kiều có dám tích cực cự tuyệt đâu?

Vội chi liễu ép hoa nài,

Còn thân còn một đền bồi có khi.

Thật là một lời hứa hẹn chan chứa tình âu yếm dịu dàng, đầy rẫy sự vuốt ve an ủi, thực là vẫn “đoan chính” mà cũng vẫn “dễ nghe” như chính chàng Kim cũng phải công nhận:

Thấy lời đoan chính dễ nghe,

Chàng càng thêm nể thêm vì mười phân.

Vậy, kết luận, chủ từ của Gieo thoi là Thôi Oanh Oanh, thẹn cùng chàng là Oanh Oanh thẹn cùng chàng Trương, và bởi ai vẫn là chỉ Oanh Oanh.

Tất nhiên, Thúy Kiều có ý muốn trông cái gương của Oanh Oanh mà tránh, nhưng không hề có dám sỗ sàng rằng muốn theo cái gương dữ tợn của cô gái dệt cửi.

Thêm nữa, Thúy Kiều nói rằng: “Không giữ giàng trước, tất sẽ thẹn thùng cùng chàng sau này”, thì sự tin trước quả quyết như vậy sẽ có cái nghĩa là cho Kim Trọng cũng chỉ là phường bội bạc như Trương Quân Thụy mà thôi, sao cho Kim Trọng khỏi lấy làm phật ý. Nguyễn Du không hề bắt Thúy Kiều phải sỗ sàng và tàn nhẫn đến thế.

Đọc lại đoạn văn, hiểu lại câu “Gieo thoi...” như thế, ta thấy là đã làm được một việc lý thú, là hồi phục cho Thúy Kiều cái vẻ trang nhã, mà một sự hiểu lầm đã có thể làm cho ta ngờ vực bấy lâu.

- Nguyên do sự hiểu lầm. Xét lại cái nguyên do đã làm cho rất nhiều người hiểu lầm về chủ từ của Gieo thoi thì ta thấy thủ phạm vụ án chính là chữ “chàng” ở câu sau. Người ta thấy chữ “chàng” trong một lời người con gái nói với người con trai, là người ta yên trí ngay rằng chữ “chàng” vẫn thường dùng để chỉ ngôi thứ ba (troisième personne): chàngnàng.

Kể thì cũng rất dễ cho người ta hiểu lầm như thế. trong chữ “chàng”, có thể vừa là ngôi thứ hai, vừa là ngôi thứ ba, thì theo như ông Hoài Thanh đã nói: “Người này và người nọ rất dễ dàng hòa lẫn với nhau”...

Sau bài diễn thuyết của giáo sư Đoàn Phú Tứ, thi sĩ Vũ Hoàng Chương đăng đàn cũng tại giảng đường trường Đại học Hà Nội. Bài diễn thuyết với nhan đề “Góp phần hiểu biết” được đăng trong hai số Tạp chí Phổ thông với đoạn mở đầu như sau:

Hôm thứ hai vừa rồi, nhân ngày kỷ niệm Tiên Điền Nguyễn Tiên sinh, ông Đoàn Phú Tứ đã giở mấy trang Kiều tại giảng đường trường Đại học Hà Nội. Diễn giả đã hùng biện mọt cách có duyên biết bao! Nhưng cũng không kém phần khiêm tốn. Thực vậy, ông chỉ nêu lên một điểm nhỏ thuộc phạm vi ngữ pháp: Vấn đề chủ từ...

(Tạp chí Phổ thông số 1-2 tháng 9-1951)

Sau đó nhà thơ Vũ Hoàng Chương bàn về câu thứ nhất:

Chập chờn cơn tỉnh cơn mê,

Rốn ngồi chẳng tiện dứt về chẳng khôn.

Đến Tạp chí Phổ thông số 3 - 4 tháng 11 - 1951, bài báo viết tiếp:

“... Kỳ trước kẻ viết bài này đã bàn về câu thứ nhất trong bốn câu Kiều do ông Đoàn Phú Tứ nêu ra để chứng tỏ những ý kiến của ông về vấn đề chủ từ trong Việt ngữ.

Bây giờ xin lần lượt bàn tới những câu sau:

Câu thứ hai:

Gieo thoi trước chẳng giữ giàng

Để sau nên thẹn cùng chàng bởi ai?

Câu này trích trong đoạn Thúy Kiều nói với Kim Trọng giữa khi:

Hoa đèn càng tỏ thức hồng,

Đầu mày cuối mắt càng nồng tấm yêu.

Theo ý ông Đoàn, động từ “Gieo” không có chủ từ khiến cho người đọc có thể hiểu lầm đấy là câu Thúy Kiều nói thẳng với Kim Trọng. Thực ra chữ “chàng” chỉ là một phổ thông danh tự, không hề có ý dùng để chỉ Kim Trọng, cũng như trong câu này phải là Thôi Oanh Oanh mới đúng. Ông viện ra hai lý do:

- Một là động tác Gieo thoi vừa bất nhã vừa tàn bạo. Không lẽ gì Thúy Kiều lại đi nói với Kim Trọng rằng: “Nếu chàng lả lơi quá thiếp sẽ học lối người thiếu phụ thời xưa ném thoi vào mặt chàng để cự tuyệt khiến cho chàng cũng bị gẫy hai cái răng như Tạ Côn”. Nếu quả thực Thúy Kiều nói như thế với người yêu thì lời nàng tuy có “đoan chính” đến đâu chăng nữa cũng không thể bảo là “dễ nghe” được. Vậy Thúy Kiều không thể là chủ từ (hiểu ngầm) trong câu thơ “Gieo thoi”.

- Hai là điển Gieo thoi từ trước đã được dùng trong bức thư của Thôi Oanh Oanh viết cho Trương Quân Thụy (Hội Chân ký).

Vậy mà chính câu chuyện tình giữa hai người này, Thúy Kiều lại đã nêu ra làm tỷ dụ để giác ngộ chàng Kim:

Ngẫm duyên kỳ ngộ xưa nay,

Lứa đôi ai có đẹp tày Thôi-Trương.

Mây mưa đánh đổ đá vàng,

Quá chiều nên đã chán chường yến oanh.

Trong khi chắp cánh liền cành,

Mà lòng rẻ rúng đã dành một bên.

Mái tây để lạnh hương nguyền,

Cho duyên đằm thắm ra duyên bẽ bàng.

Gieo thoi ...

Như thế, ta phải hiểu rằng chính Thôi Oanh Oanh mới là chủ động Gieo thoi vậy.

Trên đây là ý kiến của ông Đoàn. Tôi rất tiếc rằng không thể cùng chung ý kiến với ông được.

Trước hết tôi không đồng ý về sự tin vào tính cách bất nhã và tàn bạo của động tác “Gieo thoi” để kết luận.

Theo ý tôi, điển cố nghĩa là một việc cũ, dùng điển cố mục đích gợi lên một hình ảnh quen thuộc để cụ thể hóa một ý trừu tượng nào đó muốn giãi bày. Do đấy sự dùng điển cố có lợi ở chỗ chỉ dùng có một vài chữ cũng phô diễn được rất nhiều ý tứ một cách tế nhị, linh động, đầy đủ rõ ràng.

Nhưng khi một điển cố đã được dùng nhiều lần và đã trở nên thông thường thì xuất xứ của nó có thể coi như không liên quan đến câu văn nữa. Người ta chỉ cần lưu ý đến tính chất tiêu biểu của nó thôi.

Ở đây Tiên Điền Nguyễn Tiên sinh chỉ dùng điển “tấu thoa triết sỉ” để tượng trưng cho sức kháng cự của người đàn bà trước thái độ lả lơi của người đàn ông. Có thế thôi, như vậy độc giả cũng như tác giả chỉ cần nhớ tới tính chất tiêu biểu của việc Gieo thoi chứ không cần phải băn khoăn về sự Tạ Côn bị gãy một hay hai cái răng hoặc về cử chỉ của người thiếu phụ kia bất nhã hay chẳng bất nhã.

Để chứng tỏ rõ ràng thêm quan điểm dùng điển và hiểu điển như trên, ta hãy lấy một câu Kiều nào đó làm ví dụ: “Một nền Đồng Tước khóa xuân hai Kiều” chẳng hạn 1 .

Ai cũng biết đây là một điển rút trong Tam Quốc Chí... hai Kiều tức là Đại Kiều và Tiểu Kiều ở Giang Đông vợ của Tôn Bá Phù và của Chu Công Cẩn. Đền Đồng Tước là đền do Tào Mạnh Đức dựng lên để thị uy với thiên hạ. Gia Cát Khổng Minh muốn khích Đông Ngô chống Tào nên bịa ra chuyện Mạnh đ ức sở dĩ hại Giang Đông là cốt bắt hai nàng Kiều tuyệt sắc kia giam vào đền Đồng Tước để hầu hạ mình lúc tuổi già.

Điển “Đồng Tước” và “hai Kiều” là như vậy. Nhưng do sự dùng quen người ta đã không cần nhớ đến xuất xứ của nó nữa.

“Hai Kiều” ở câu thơ trên chỉ có nghĩa là hai “người đẹp” và đền “Đồng Tước” là chỗ ở sang trọng, thâm nghiêm. Thế thôi. Nếu cứ truy nguyên một cách câu nệ chẳng hóa ra Tiên Điền Nguyễn Tiên sinh đã lẩm cẩm đem ví Thúy Kiều, Thúy Vân với hai người đàn bà có chồng bị bắt giam để làm trò chơi cho một ông thừa tướng gian hùng hay sao?

Vả lại khi đọc Đoạn Trường Tân Thanh cũng như khi đọc các áng thơ cổ, chúng ta có bao giờ câu nệ về điển cố đến nỗi cứ khăng khăng cho “cuộc bể dâu” là phải chu tuần ba mươi năm hoặc “Đào Nguyên” phải là chỗ dân Tần tránh loạn vào lập nghiệp đâu? Nếu vậy hỏi còn có nghĩa những câu như:

Cơ trời dâu bể đa đoan,

(Lời Thúy Vân nói với chị)

Hoặc:

Đào Nguyên lạc lối đâu mà đến đây?

(Lời Kiều nói với Đạm Tiên trong giấc mộng thứ nhất)

Tóm lại tính chất tàn bạo của điển “Gieo thoi” không thể là khởi điểm đích đáng để đi tới một kết luận nào cả.

Về lý do thứ hai tôi cũng nghĩ khác ông Đoàn. Theo lý không phải vì lẽ điển “Gieo thoi” đã được dùng từ trước trong Hội Chân Ký mà động từ “gieo” trong câu Kiều phải có chủ từ là Thôi Oanh Oanh. Còn như muốn chứng tỏ câu ấy có liên lạc mật thiết với mối giao duyên kỳ ngộ Thôi-Trương, ta cần phải khảo sát cách hành văn trong toàn thể đoạn này hơn là chỉ dựa vào điển cố.

Vậy ta hãy phân tích rành rẽ những lời Thúy Kiều nói với Kim Trọng bắt đầu từ: “... Đừng lấy làm chơi”, cho đến: “Còn thân ắt hẳn đền bồi có khi”.

Những lời nói ấy sở dĩ “đoan chính dễ nghe” và lung lạc được chàng Kim chính là bởi Thúy Kiều đã dàn xếp rất công phu, đón trước rào sau rất khéo léo.

Thực thế:

Vẻ chi một đóa yêu đào,

Vườn hồng chi dám ngăn rào chim xanh.

chỉ là câu đoán trước.

Cũng như:

Vội chi liễu ép hoa nài,

Còn thân ắt hẳn đền bồi có khi.

chỉ là câu rào sau. Nàng phải rào đón như vậy mới khiến cho Kim Trọng không mích lòng và mới dẹp được cơn sóng tình kia một cách êm ái. Dụng ý của nàng là ở 10 câu lục bát (đoạn giữa) trong đó ta nhận thấy nàng đã nêu lên một quy tắc ( đ ã cho vào bậc bố kinh...) rồi dẫn chứng bằng một mối duyên đáng lẽ đằm thắm mà lại hóa ra bẽ bàng: “Ngẫm duyên kỳ ngộ xưa nay...”. Như thế ta phải hiểu rằng câu lục bát “Gieo thoi” chỉ dùng để kết thúc những lời dẫn chứng và gợi lên cái thái độ chung của những người đàn bà muốn cho: “Mái tây chẳng lạnh hương nguyền” vậy.

Do đó câu thơ “Gieo thoi” không thể có một “cá nhân” nào làm chủ động, và chủ từ của nó cũng không phải là Thúy Kiều hay Thôi Oanh Oanh. Vả chăng nếu chuyển sang tản văn câu đó ắt sẽ thành: “Trước chẳng Gieo thoi giữ giàng để sau thẹn cùng người yêu lỗi ấy ở ai”. Tính cách phiếm chỉ của động từ “gieo” như thế đã rõ rệt. Và nếu ta đứng trên lập trường văn phạm Tây Phương mà xét thì câu văn này đã đặt dưới hình thức nghi vấn (Forme interrogative) sau chữ “ai” phải có một dấu hỏi(?). Vậy động từ “gieo” phải ở mode infinitif và như thế không thể có một chủ từ nào được cả.

Kết luận, câu thơ lục bát do ông Đoàn nêu ra không có chủ từ là vì theo cách giải ý và đặt câu, nó không thể có một chủ từ được. Chứ không phải chủ từ của nó là Thôi Oanh Oanh và vì Tiên Điền Nguyễn Tiên sinh đã hành văn không đủ khúc chiết khiến cho độc giả hiểu lầm...”

Qua những đoạn trích trong cuộc tranh luận trên đây, chúng ta lại càng thấy rằng có nhiều cách hiểu một điển tích và công việc quả là tế nhị cũng thực là phức tạp. Nhất là trong các câu thơ khi mà điển tích được trình bày cực kỳ gọn gàng và đầy ẩn ý, nó đòi hỏi người đọc phải nghiên cứu sâu xa và nhiều khi thực công phu mới hiểu thấu được tình ý của tác giả.

PHẠM ĐAN QUẾ

Theo Tìm hiểu điển tích Truyện Kiều

NXB Văn học 2000

(1) Năm 1951 - 1954, Giáo sư Đoàn Phú Tứ và nhà thơ Vũ Hoàng Chương cùng dạy văn chương tại Hà Nội.

(2) Trích theo Nguyễn Du - Về tác giả và tác phẩm - Nhà xuất bản Giáo dục - 1998.

1 Xin xem bức thư này ở điển tích số 23.

2 Nguyên văn: “Thiếp vô đầu thoa chi cự” (Nguyên Chẩn-Hội Chân Ký).

1 Câu này phỏng dịch Đường Thi: “Đồng Tước xuân thâm tỏa nhị Kiều


TỪ LÁY

VỚI VIỆC XÂY DỰNG NHÂN VẬT

TỪ HẢI

PHẠM ĐAN QUẾ

Từ Kim Trọng tới Thúc Sinh rồi đến Từ Hải, Thúy Kiều luôn luôn vươn tới tình yêu để cố gắng vượt lên khỏi cuộc sống nhục nhã, khổ đau mà số mệnh đã dành cho nàng. Tình yêu đã đem lại cho Kiều những phút giây hạnh phúc nhất của đời nàng, vì chỉ có tình yêu mới đem lại được hạnh phúc cho người con gái luôn mang khát vọng rực cháy về một tình yêu tự do. Nàng đã đến được với hai mối tình chân chính của Kim Trọng và Từ Hải. Cả hai đều là những nhân vật lý tưởng tuyệt vời, nhưng quan hệ giữa Thúy Kiều và hai người yêu trong mộng tưởng này lại rất khác nhau, cả hai đều rất xứng đáng với Kiều tuy ở những bình diện khác nhau. Họ đều đã đáp lại được niềm mơ ước của nàng ở những đoạn đời khác nhau nhưng mỗi người ở một mặt, không thể thay thế mà bổ sung cho nhau. Bên cạnh đó nàng còn có một mối tình rất thực tế khi nàng ở lầu xanh của Tú Bà, một mối tình “bình thường” như bao mối tình khác của một khách làng chơi, nếu không nói là “tầm thường” của chàng Thúc Sinh quen thói bốc rời. Chúng tôi muốn cùng bạn đọc nhận diện một trong ba người tình của Thuý Kiều qua một lớp từ đặc biệt là những từ láy.

Chúng ta đều biết Từ Hải đã đến với đời Kiều như một vì sao lạ, một vị cứu tinh. Nét tiêu biểu của Từ Hải là tính ngang tàng, lòng kiêu hãnh, tình yêu đắm đuối, ba tính cách nền tảng trong tâm hồn của người anh hùng. Chàng xuất hiện đột ngột với hư từ bỗng đâu trong đoạn thơ sau:

2165. Lần thâu gió mát trăng thanh,

Bỗng đâu có khách biên đình sang chơi.

2167. Râu hùm, hàm én, mày ngài,

Vai năm tấc rộng, thân mười thước cao,

2169. Đường đường một đấng anh hào,

Côn quyền hơn sức, lược thao gồm tài,

2171. Đội trời đạp đất ở đời,

Họ Từ tên Hải, vốn người Việt Đông.

2173. Giang hồ quen thú vẫy vùng,

Gươm đàn nửa gánh, non sông một chèo.

Chỉ bằng hai từ láy đường đường, vẫy vùng, Nguyễn Du đã nói lên cái sức mạnh tinh thần được biểu hiện cụ thể thành hành động của Từ Hải, khí phách của một người anh hùng mà ông yêu quý. Chàng đã có tất cả những biểu hiện bên ngoài khiến mọi người phải kính trọng và có năng lực hoạt động một cách tự do, không chịu một sự kiềm chế nào.

Đến khi chàng dứt áo ra đi thì trời bể cũng trở thành rộng lớn đến mức gây cảm giác mung lung, mờ mịt mà Nguyễn Du đã phải dùng từ láy mênh mang trong câu:

2215. Trông vời trời bể mênh mang,

Thanh gươm yên ngựa lên đàng thẳng dong.

Kiều nhớ đến Từ, nhìn mãi về phía chân trời nơi chàng đã ra đi, có ý trông chờ và nhớ mong mãi mãi:

2247. Cánh hồng bay bổng tuyệt vời,

Đã mòn con mắt phương trời đăm đăm.

2249. Đêm ngày luống những âm thầm,

Lửa binh đâu đã ầm ầm một phương.

2251. Ngất trời sát khí mơ màng,

Đầy sông kình ngạc, chật đường giáp binh.

Qua những từ láy: đăm đăm, âm thầm, ầm ầm, mơ màng, ta thấy không chỉ cái nhìn về phía xa xăm của Kiều, mối phiền muộn ngấm ngầm chỉ một mình nàng biết, mà cả tiếng người ồn ào, tiếng súng gươm nghe như tiếng sấm ầm ầm đến trạng thái nửa tỉnh nửa mơ như mơ màng trong cảnh ngất trời sát khí...

Khi Từ đã lập được sự nghiệp trở về đón Kiều thì bằng phượng liễn loan nghi... Kiệu trang sức bằng hình chim phượng (Liễn là xe, kiệu của vua đi) và đồ nghi trượng (binh khí và đồ vật quý giá bày biện trang trí hoặc để thờ) thì bằng hình chim loan. Cùng là những từ láy Sẵn sàng, giấp giới, rỡ ràng như lễ cưới của một bậc đế vương:

2265. Sẵn sàng phượng liễn loan nghi,

Hoa quan giấp giới, hà y rỡ ràng.

Mũ hoa, trang sức bằng vàng ngọc lóng lánh rực rỡ (Hoa quan giấp giới) và áo màu vàng của ráng chiều (Hà y) thì đầy màu sắc tươi đẹp nổi bật hẳn lên (rỡ ràng).

Rồi khi về đến trướng mai là những từ láy tượng thanh rộn ràng đầy âm hưởng thì thùng, rập rình của trống trận, nhạc quân:

2285. Tiệc bày thưởng tướng khao binh,

Thì thùng trống trận, rập rình nhạc quân.

Đến khi nghe Kiều kể lại cuộc đời gian truân của mình thì Từ nổi giận một cách dữ dội được diễn tả bằng từ láy đùng đùng trong câu:

2295. Từ công nghe nói thủy chung,

Bất bình nổi trận đùng đùng sấm vang.

Giúp Thúy Kiều thực hiện xong việc báo ân, báo oán, Từ Hải vốn vẫn không biết kiêng sợ gì ai, ngang nhiên làm việc theo ý của mình bởi đã có riêng một cõi biên thùy với từ láy nghênh ngang:

2447. Nghênh ngang một cõi biên thùy,

Thiếu gì cô quả, thiếu gì bá vương.

Trong ngôn ngữ của Từ thì khi mới gặp Kiều chàng đã coi khinh những đôi trai gái yêu nhau mà không có hướng nhất định trong cuộc đời như những kẻ trăng gió vật vờ và tâm sự:

2179. Từ rằng: Tâm phúc tương cờ,

Phải người trăng gió vật vờ hay sao.

Quả là Nguyễn Du đã ưu ái dành cho Từ Hải đến 15 từ láy đặc biệt chỉ trong đoạn đầu của cuộc sống với Thúy Kiều, tất cả đều trong một tâm trạng phấn chấn, tình thế đầy lạc quan của một cuộc sống vinh hiển, sáng tươi đầy hạnh phúc.

Cả đến khi bàn đến việc ra hàng, chàng vẫn kiên quyết không chịu vì biết rằng như vậy rồi sẽ có lúc cảm thấy xung quanh xa lạ và gây cho mình một sự sợ hãi mơ hồ:

2465. Bó thân về với triều đình,

Hàng thần lơ láo, phận mình ra đâu.

Nhưng chàng đã không phân biệt được rõ ràng, đã lẫn lộn giữa đúng và sai trong hành xử của mình trước tên Hồ Tôn Hiến quỷ quyệt và Nguyễn Du đã rất chính xác khi sử dụng từ láy hồ đồ tả tâm trạng của Từ lúc đó :

2461. Tin vào gửi trước trung quân,

Từ công riêng hãy mười phân hồ đồ.

Vì vậy khi nghe lời nàng nói mặn mà, thế công, Từ mới trở ra thế hàng dẫn đến những từ láy ngơ ngác, trễ tràng, giữ giàng trong quân ngũ:

2503. Tin lời thành hạ yêu minh,

Ngọn cờ ngơ ngác, trống canh trễ tràng.

2505. Việc binh bỏ chẳng giữ giàng,

Vương sư dòm đã tỏ tường thực hư.

Rồi đến cái hờ hững của Từ Hải, coi việc quân chỉ ở mức làm lấy có, không có sự chú ý nào để ra đầu cửa viên:

2511. Từ công hờ hững biết đâu,

Đại quan lễ phục ra đầu cửa viên.

Ngay cả khi đã sa vào bẫy của Hồ Tôn Hiến, chàng vẫn là một con người có khí phách qua hai từ láy dạn dàynhơn nhơn:

2517. Tử sinh liều giữa trận tiền,

Dạn dày cho biết gan liền tướng quân.

2519. Khí thiêng khi đã về thần,

Nhơn nhơn còn đứng chôn chân giữa vòng.

2521. Trơ như đá, vững như đồng,

Ai lay chẳng chuyển, ai rung chẳng dời.

Trong cảnh hầm hầm sát khí, hào lũy tan hoang, Kiều đến nơi thì vẫn còn hai từ láy nữa tơi bời, trơ trơ nói lên khí phách anh hùng dành cho chàng:

2523. Quan quân truy sát ruổi dài,

Hằm hằm sát khí ngất trời ai đang.

2525. Trong hào ngoài lũy tan hoang,

Loạn quân vừa dắt tay nàng đến nơi.

2527. Trong vòng tên đá bời bời,

Thấy Từ còn đứng giữa trời trơ trơ.

Hai từ láy hoàn toàn này đứng ở cuối cả câu lục lẫn câu bát tách riêng thành một nhịp cũng nói lên cái sức mạnh tinh thần của chàng biểu hiện ra khi chàng đã thu linh trận tiền.

Sau đó khi phải đối diện với Hồ Tôn Hiến, kẻ phản phúc đã hèn nhát lừa giết chồng mình, Thuý Kiều đã ngang nhiên ca ngợi Từ Hải lại bằng từ láy nói lên khí phách của Từ: vẫy vùngngang tàng. Nàng cũng nhắc đến cái chết của chàng bằng từ láy có âm hưởng mạnh tan tành thịt xương, trời bể ngang tàng:

2549. Rằng Từ là đấng anh hùng,

Dọc ngang trời rộng vẫy vùng bể khơi.

2551. Tin tôi nên quá nghe lời,

Đem thân bách chiến làm tôi triều đình.

2553. Ngỡ là phu quý, phụ vinh,

Ai ngờ một phút tan tành thịt xương.

2555. Năm năm trời bể ngang tàng,

Dẫn mình đi bỏ chiến trường như không.

Về sau, chính Thúc Sinh cũng ca ngợi Từ khi được Kim Trọng hỏi đến và dùng từ láy vẫy vùng, đùng đùng để mô tả cái sức mạnh ý chí của Từ:

2923. Vẫy vùng trong bấy nhiêu niên,

Làm nên động địa kinh thiên đùng đùng.

2925. Đại quân đồn đóng cõi đông,

Về sau chẳng biết vân mồng làm sao.

Đây là những từ láy cuối cùng Nguyễn Du viết về Từ Hải. Riêng từ láy vẫy vùng nói về một con người có thói quen hành động tự do, tuỳ thích, không chịu một sự kiềm chế nào đã được dùng ba lần trong Truyện Kiều thì tất cả đều tập trung vào Từ Hải: một lần trong lời tác giả khi giới thiệu chàng (quen thú vẫy vùng), một lần khi Kiều ca ngợi chàng trước Hồ Tôn Hiến (vẫy vùng bể khơi), và một lần trong lời Thúc Sinh kể lại với Kim Trọng ở trên. Đó cũng là một nét ưu ái của Nguyễn Du đối với người anh hùng của mình. Từ láy vẫy vùng cùng với một loạt từ láy khác như: Đường đường, mênh mang, đùng đùng, nghênh ngang, ngang tàng… quả đã giúp nói lên cái khí phách của Từ. Nhưng cũng thật là đáng tiếc khi những từ láy xuất hiện về sau kể từ chữ hồ đồ là những chữ: ngơ ngác, trễ tràng, hờ hững… đã dẫn đến cái chết đầy phẫn uất của Từ, dù đã được cứu lại bằng những từ láy dạn dày, nhơn nhơn, rồi đứng giữa trời trơ trơ và những lời ca ngợi của Thúy Kiều. Dành trên ba chục từ láy rất đúng việc, đúng người, đúng chỗ, để vẽ ra được tính cách, hành động, đời sống riêng cũng như lột tả được nét tâm lý của Từ Hải chứng tỏ Nguyễn Du không chỉ có một vốn từ láy thật là dồi dào, phong phú mà còn biết vân dụng chúng một cách linh hoạt đến tài tình.

PHẠM ĐAN QUẾ


Phụ Bản II

PHẠM TU & PHẠM NGŨ LÃO RẠNG DANH DÒNG HỌ PHẠM Họ Phạm Việt Nam hãnh diện có hai võ tướng nổi danh dưới vương triều Tiền Lý và vương triều Trần, trong lịch sử anh hùng bất khuất của dân tộc Tiên Rồng, đó là:

DANH TƯỚNG PHẠM TU ( 476 - 545).


Xã Thanh Liệt thuộc huyện Thanh Trì (trước thuộc tỉnh Cầu Đơ, rồi đổi tên là Hà Đông, sau sáp nhập với Sơn Tây thành Hà Tây, và từ ngày 1-8-2008 sáp nhập vào Hà Nội và nay là thành phố Hà Nội) từ xa xưa, là một xã văn hiến, địa linh nhân kiệt, có cả văn võ và thiền học. Nơi đây là quê hương các danh nhân:

- Danh tướng Phạm Tu: vị khai quốc công thần triều Tiền Lý

- Danh nhân Chu Văn An (1292 – 1370): học giả uyên bác, tấm gương sáng cho thầy giáo của muôn đời sau

- Thiền gia Pháp chủ Sư tổ Vĩnh Nghiêm (1840 – 1939): Phó hội trưởng Hội Phật giáo Thống nhất Việt Nam.

Hai danh nhân và nhà thiền học là những mốc son lịch sử, viên ngọc sáng của quê hương Thanh Liệt, Thanh Trì, Hà Nội.

Thần phả Thanh Liệt chép rằng vùng đất này xưa kia là xóm bãi vải tiến vua. Nằm bên dòng sông Tô Lịch thuộc thôn Văn Trì, làng Quang Liệt, huyện Thanh Trì, trấn Sơn Nam (nay là xã Thanh Liệt, Thanh Trì, Hà Nội). Ở vùng đất này có hai vợ chồng cụ Phạm Thiều và Lý Thị Trạch sống nhân đức, hiền hòa. Truyền thuyết kể rằng: Thấy vợ chồng sống có lòng thành, một ngày kia, trời cho điềm lạ… Một đêm phu nhân chiêm bao thấy vầng hào quang tỏ, sáng rực khuê phòng, có con bạch xà hoa cùng đến, sau hóa thành bông sen trắng, phu nhân với tay giữ lấy. Từ đấy mang thai và đến ngày 12-3 năm Bính Thìn (476) thì sinh nở, hương thơm ngào ngạt, đặt tên là Phạm Tu. Lớn lên, Phạm Tu có tư chất thông minh, hình dáng tốt đẹp, thường ở nhà nơi tĩnh thất, đã chăm đọc sách, lại hay sáo đàn, binh thư thao lược, cung tên đều thạo cả; đến khi trưởng thành, đức tài văn võ sức khỏe hơn người, dân làng thường gọi là Phạm Đô Tu.

Năm 541, Lý Bí khởi binh đánh đuổi nhà Lương, Phạm Tu triệu tập binh mã ra ứng nghĩa, những hào kiệt các châu, quận đều đứng lên hưởng ứng.

Tại Thanh Liệt đến nay, những địa danh như: cửa Triệu, cổng Đồn, cửa Trại, lá cờ, thanh kiếm voi ngựa… đều ứng với thời kỳ võ tướng Phạm Tu triệu tập huấn luyện binh mã tại quê nhà. Về sản xuất nông nghiệp, ông dạy nhân dân phải “Cửu niên tam tích” (Sản xuất 9 năm phải tích trữ 3 năm), phòng giặc giã, mất mùa, dịch bệnh…

Cuộc khởi nghĩa của Lý Bí thắng lợi, Thứ sử nhà Lương là Tiêu Tư thua chạy về Quảng Châu. Năm 544, Lý Bí vào thành Long Biên, xưng vương Lý Nam Đế, quốc hiệu là Vạn Xuân, cử Triệu Túc làm Thái phó, võ tướng Phạm Tu đứng đầu ban Võ.

Quân Lâm Ấp (sau là Champa) sang xâm lấn quân Cửu Chân, Lý Nam Đế cử tướng Phạm Tu đi dẹp, đuổi được giặc ra khỏi bờ cõi phía nam.

Tháng 6 năm 545, tướng nhà Lương là Trần Bá Tiên đem quân sang cướp nước nhà, Lý Nam Đế cùng chư tướng đưa quân ra đánh. Tướng Phạm Tu giữ cửa sông Tô Lịch (nay là phố Chợ Gạo, Hà Nội), võ tướng tuổi cao sức yếu, quân giặc đông, tướng hy sinh anh dũng giữa ngày 20-7 năm Ất Sửu (545). Vua Tiền Lý rút quân vào Gia Ninh đóng đồn ở hồ Điển Triệt, luyện tập binh mã để sau khôi phục.

Lý Nam Đế sai quan Thái Giám, cùng triều quan xét công trạng võ tướng, tặng phong là Long Biên hầu, đặt thụy là Đô Hồ, phong làm bản cảnh Thành hoàng xã Thanh Liệt.

Đó là vương triều Tiền (Hậu) Lý với: Lý Nam Đế (Tiền Lý) và kế tiếp là Lý Phật Tử (Hậu Lý), theo bài Việt Sử Ca với 15 vương triều đất Việt sau đây:

“Hùng Vương – Thục – Trưng – Tiền (Hậu) Lý – Ngô –

Đinh – Tiền Lê – Lý – Trần – Hồ –

Lê Sơ – Mạc – Lê (Trung hưng) – Tây Sơn – Nguyễn.

Lịch sử Tiên Rồng!”

Giữa thiên niên kỷ thứ Nhất sau Công nguyên, nước Vạn Xuân của Lý Nam Đế và võ tướng Phạm Tu xuất hiện với đường đường tư thế là Quốc gia – Dân tộc thứ ba của lịch sử nước nhà sau Văn Lang thời Hùng Vương và Âu Lạc thời Thục An Dương Vương từ thời trước Công nguyên. (Hồi giữa thế kỷ thứ Nhất sau Công nguyên, lịch sử dân tộc Việt Nam còn được chứng kiến sự kiện ba năm, từ 40 – 43:

“Đô kỳ đóng cõi Mê Linh,

Lĩnh Nam riêng một triều đình nước ta”

của Hai Bà Trưng. Nhưng những sử liệu đích thực chưa cung cấp được những thông tin đầy đủ và cụ thể về sự kiện này).

- THỜI KỲ TIỀN THĂNG LONG:

Mốc sự kiện và niên đại ở đây chính là năm 545, một năm sau khi thành lập nhà nước Vạn Xuân, khi một Tòa Thành được khởi dựng ở nơi của sông Tô Lịch (chính là miền đất gốc của Thăng Long – Hà Nội, qua các thời đại), làm nòng cốt và bằng chứng cho sự chính thức hình thành một “Thành” + “Phố”, một “Đô” + “Thị” ở nơi đây.

Và, một lần nữa, chính ở vị trí thời gian – không gian quan trọng này, lại thấy hiện diện nhân vật lịch sử võ tướng Phạm Tu – rạng danh họ Phạm, chiến đấu chống quân xâm lược phương Bắc và hy sinh anh dũng ở Tòa Thành nơi cửa sông Tô Lịch vào năm 545 này.

- THỜI KỲ THĂNG LONG:

1) Tính từ năm 1010 (năm có văn bản “Thiên đô chiếu”, vừa có hành động dời đô, định đô của vua Lý Thái Tổ), sau đó vương triều Trần lãnh đạo nhân dân ta chiến thắng quân Mông Nguyên (Mông Cổ cai trị nước Tầu) với võ tướng Phạm Ngũ Lão.

DANH TƯỚNG PHẠM NGŨ LÃO (1255 – 1320)

Quê làng Phù Ứng, Hải Dương, tài giỏi kiêm văn võ, được Hưng Đạo Vương tin cẩn, gả con gái nuôi và tiến cử với triều đình giữ chức Hạ phẩm phụng ngự, rồi thăng Quân hữu vệ thánh dực giản. Trong hai cuộc kháng Nguyên, ông dày công lao lần lượt giữ các chức: Hữu Kim ngô vệ Đại tướng quân, Thân vệ Đại tướng quân, tước Quân Nội Hầu. Ông từng được vua ban phù vàng hình rùa và phù vàng hình hổ. Ông mất năm 1320, thọ 65 tuổi, thơ văn của ông nay chỉ còn truyền tụng hai bài: Thuật hoài và Vãn Hưng Đạo Đại vương.

2) Cho đến năm 1888 (năm mà, vừa có văn bản của vua Nguyễn Đồng Khánh nhường đất, vừa có Sắc lệnh của Tổng thống Pháp và Nghị định của Toàn quyền Đông Dương, thành lập “Thành phố Hà Nội”.

- THỜI KỲ HÀ NỘI:

Đây là thời kỳ tiếp theo, (mặc dù địa danh Hà Nội thì đã bắt đầu có từ năm 1831, vài chục năm trước đó) có thể tính từ năm 1888, trong thời gian này, mang đặc trưng quán xuyến là một tòa Đô thị cận - hiện đại.

Chúng ta thấy rằng: “Thời kỳ Tiền Thăng Long” như vậy là cũng rất quan trọng, vì nó hợp cùng với “Thời kỳ Thăng Long” và “Thời kỳ Hà Nội” làm nên lịch sử hoàn chỉnh và đích thực của Đất này.

Như vậy, từ quê hương Thanh Liệt trên một điểm đầu nguồn sông Tô Lịch, cuộc hành trình kỳ vĩ của Danh tướng Phạm Tu, qua thời gian từ năm 542 – 545, tới không gian cuối sông Tô, nơi có Tòa Thành và trận ác chiến cửa sông Tô, thì kết thúc oanh liệt. Nhưng đây là một kết thúc oanh liệt với ý nghĩa kép: Lão tướng Phạm Tu vừa có mặt ở vị trí thời gian – không gian mở đầu thời kỳ lịch sử “Tiền Thăng Long”, cũng chính là sự bắt đầu đích thực của toàn bộ lịch sử gồm ba thời kỳ của Đất này; lại vừa tự mình Lập nên một gương hy sinh trong đấu tranh Anh hùng Bất khuất ở nơi đây. Chính là sự khởi đầu cho một Truyền thống vẻ vang của Lịch sử, và của Đất cùng Người nơi đây: Truyền thống Anh hùng Bất khuất – mà năm 2010, kỷ niệm 1000 năm định đô với truyền thống đó.

Và năm nay, 2012 là dịp kỷ niệm đúng 1467 năm tuổi của toàn bộ lịch sử Đất này. Và toàn bộ lịch sử 1467 năm ấy – sau Danh tướng Phạm Tu – cũng là một Lịch sử không chút nào rời xa Truyền thống Anh hùng Bất khuất quý báu đó!

Nhằm ôn lại truyền thống lịch sử của dân tộc, lịch sử của dòng họ trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc, tưởng nhớ đến Đô Hồ Đại Vương PHẠM TU – vị anh hùng được họ Phạm Việt Nam suy tôn là Thượng thủy tổ, nhắc nhở con cháu hiểu rõ giá trị đạo lý “Chim có tổ, người có tông”.

Năm nay 2012, là năm thứ hai, Hội Đồng Họ Phạm Tp. HCM (kể từ năm 2011, tất cả Ban Liên lạc Họ Phạm đều mang danh xưng mới là Hội Đồng họ Phạm) mặc dù được thành lập sau thủ đô Hà Nội rất nhiều năm, nhưng Tp.HCM đã hăng hái tổ chức hai kỳ Đại hội Họ Phạm toàn thành phố lần I, lần II và Lễ Giỗ Tổ họ Phạm và Đêm nhạc họ Phạm lần 1 vào năm 2011 và năm nay, Hội đồng họ Phạm Tp.HCM tổ chức Lễ Giỗ Tổ họ Phạm và Đêm nhạc họ Phạm lần 2 vào ngày 20-7 âm lịch, nhân ngày Giỗ thứ 1467 của Danh tướng PHẠM TU vào ngày 4-9-2012 tại Nhà Văn hóa Thiếu Nhi Tp.HCM.

Cũng tại đây, vào đêm ngày 5-9 sau đó là Đêm Nhạc “Hướng về Ngày Giỗ Tổ Họ Phạm lần 2”- theo Bs. Phạm Văn Căn, sẽ mang tên “Thương quá Việt Nam”, đây là tên một nhạc phẩm về tình tự dân tộc nổi tiếng của một nhạc sĩ họ Phạm là nhạc sĩ Phạm Thế Mỹ. Ngoài ra, họ Phạm còn có nhiều nhạc sĩ tiền bối như Phạm Duy, Phạm Tuyên (năm ngoái hai nhạc sĩ này có tham dự Đêm nhạc họ Phạm, hy vọng năm nay hai vị cũng sẽ hiện diện), Phạm Đình Chương, Phạm Trọng Cầu…

Hội đồng họ Phạm Tp.HCM hy vọng rằng các gia tộc họ Phạm trong toàn thành phố sẽ luôn luôn hướng về Ông Tổ họ Phạm, để tất cả các đồng tộc cùng hợp tác với vị Chủ tịch Hội đồng họ Phạm Tp.HCM nhằm nâng cao tinh thần vì dòng tộc, hoạt động hăng say trong công việc để làm rạng danh dòng họ Phạm, theo đúng tinh thần anh hùng bất khuất của Danh tướng Phạm Tu - vị Thượng Thủy Tổ họ Phạm mến yêu của chúng ta.

(Tham khảo: sách Danh tướng Phạm Tu, NXB Văn Hóa-Thông Tin, Hà Nội, 1999)

PHẠM VŨ

Hội đồng họ Phạm, quận Gò Vấp, Tp.HCM

XƯỚNG HỌA THƠ ĐƯỜNG

MỘT TRÒ CHƠI TRÍ TUỆ THANH CAO

Kỳ 2

Thùy Dương

THƠ MỜI HỌA

Với dự kiến tái thành lập Nhóm Thơ Đường HƯƠNG XƯA, xin kính mời quý Thi Hữu yêu thơ Đường đáp họa: Höông Xöa Thơm ngát tinh hoa tỏa bút đài Đường thi muôn thuở sắc không phai Hương xưa man mác tình tri ngộ Bình cũ xôn xao khúc cảm hoài Ngắm nguyệt tao nhân trầm nỗi nhớ Trông hoa mặc khách rộn niềm say Tri âm ai đó đồng thanh khí Kết nghĩa thi đàn hẹn trúc mai! THÙY DƯƠNG Bài Họa 1 :

Hương Xưa

ĐƯỜNG THI rạng rỡ giữa văn đài

Trải mấy phong trần vẫn chẳng phai

Bảy chữ thêm tươi màu hạnh ngộ

Tám câu càng thắm sắc quan hoài

Trời Hoa: Lý, Đỗ, tao nhân mộ

Đất Việt: Tùng, Tuy, mặc khách say

Náo nức tìm vần không ngại khó

Trúc này xin giữ trọn tình mai !

THANH NAM

Nguyên Chủ Nhiệm CLB Thơ Ca Q3

BÀI HỌA 2 :

Hương xưa

Đưa thơ vào mộng dựng lâu đài

Nhuộm đẹp tình người nắng gió phai

Nâng khúc thăng trầm tâm khắc khoải

Ngâm câu khoan nhặt dạ u hoài

Phàm nhân lắm kẻ hằng mê lụy

Thượng khách bao người vẫn đắm say

Bút động vườn xưa thơ nở rộ

Biến thành nhung gấm dệt mùa mai

Nhà Thơ Nghệ Sĩ Ưu Tú HỒ KIỂNG

BÀI HỌA 3 :

Hương xưa

HƯƠNG XƯA thoang thoảng ngát văn đài

Lòng mến Đường Thi khó nhạt phai

Tri ngộ khơi tuôn nguồn cảm hứng

Thâm tình giao cảm mối u hoài

Giai nhân e ấp vầng trăng sáng

Tài tử lắng trầm men rượu say

Gởi gấm tình thơ tình bất diệt

Đẹp như nắng sớm phủ cành mai !

Nhà Thơ ĐỒ BỔNG HÀNH THIỆN

294 CMT8 F13 Q.Tân Bình TP HCM


Hái một vì sao

Đời ta cuối bãi đầu ghềnh

Con thuyền không bến

                  lênh đênh ngậm ngùi

Đường trần vạn nẻo ngược xuôi

Thiên thu cổ độ

                  chưa nguôi nỗi sầu


Tình ta biết sẽ về đâu

Chim Uyên gãy cánh

                  dãi dầu nắng mưa

Ngàn sau lờ lững ngàn xưa

Đắp xây mộng mãi

                  vẫn chưa vẹn tròn


Duyên ta mây phủ trên non

Viễn du, phiêu bạt

                   mỏi mòn ngẩn ngơ

Nẻo về lẻ bóng bơ vơ

Vực sâu hố thẳm

                    biết chờ đợi ai


Thơ ta đơn lạnh u hoài

Hoa rừng, hương dại

                   dặm dài ưu tư

Tơ lòng dệt cánh tình thư

Chìm vào quên lãng

                    tạ từ Chúa Xuân


Lòng ta chai đá gian truân

Từ lâu gục chết

                    trầm luân lạc loài

Nhịp cầu đã gãy chua cay

Tim yêu khép kín

                    vòng tay hững hờ


Còn hay mất tự bao giờ

Ngay trong thực tại

                    còn ngờ chiêm bao

Choàng tay hái một vì sao

Bỗng dưng…

Nước mắt nghẹn ngào hoen mi


NGÀN PHƯƠNG

Ngày về

Chiều nay trở lại bến thu xưa

Kỷ niệm đong đầy tuổi ấu thơ

Nắng quái lênh đênh cồn cát trắng

Mây hồng bảng lảng bãi lau thưa

Bên trời cánh nhạn trôi lơ lửng

Quanh xóm lòng sông uốn lượn lờ

Cảnh cũ còn đây, người vắng bóng

Ôm đàn, lướt nhẹ mấy cung tơ

THANH PHONG

Lời lão tiều

Quảy gánh hoàng hoa bán chợ đời

Nghêu ngao rao giá xuống ngàn chơi

Thẹn cùng nghiên bút nhìn trơ bóng

Tủi phận mày râu xấu hổ cười

Bàn luận văn chương lời đã cạn

Ngây ngô máy vận nỗi niềm vơi

Thà làm tiều lão vui non nước

Hơn bả phù danh phải lụy người

HẢI ĐĂNG TRẦN VĂN HỮU


Chơi vơi

Chiều nay ra bến sông

Dòng nước xanh mênh mông

Nắng chiều vàng nhạt bóng

Sông thì thầm gợn sóng


Gió gửi đi muôn nơi

Em ở đâu em ơi?

Chiều nay sao buồn vắng

Cho lòng anh chơi vơi

LÊ MINH CHỬ

Nghe điệu dân ca

Nghe em hát điệu dân ca

Đuợm hồn dân tộc mặn mà dễ thương

Chứa chan tình cảm quê hương

Ngọt ngào da diết vấn vương tình người

LÊ MINH CHỬ

Yếu thế

Trên sai bảo mãi dưới không nghe

Biếng nhác làm sao được việc nè

Đủ sức ngày xưa cày mạnh mẽ

Hết thời hiện tại nín êm re

Nào khi cấm trại còn hăng hái

Đến lúc ra quân mới rụt rè

Lực bất tòng tâm nghe phát chán

Trên sai bảo mãi dưới không nghe

THANH CHÂU

GIÓ VÀ BIỂN


Gió thổi hồn vào biển

Cho biển biết vui, buồn

Biết bồi hồi, xao xuyến

Biết nồng nàn nụ hôn.


Cũng có đêm tâm sự

Biển cuời, nghe thật hiền.

Cũng có ngày giận dữ

Biển gầm lên, nghiêng thuyền.


Gió bỏ đi hờn dỗi

Biển nói không ra lời,

Mất tiếng rồi vẫn gọi:

Về đây em, gió ơi!...


Vũng Tàu, 12.9.2000

VŨ ĐÌNH HUY

THE WIND AND THE SEA


The wind blows a soul into the sea

Helping the sea to learn about happiness and sadness

To know about how to be upset and fretty

And to know about the ardour of a kiss


There were nights where the wind and the sea poured out their hearts

The sea laughed real gently

There were days of anger

The sea roared causing boats to oscillate.


Being sulky the wind went away

The sea sputtered

Although losing its voice, it still called:

Come back here, oh beloved wind!...

Vũng Tàu, 12.9.2000

VŨ ĐÌNH HUY

Translated by VŨ ANH TUẤN


ĐỪNG

Xin đừng buồn nữa bạn ơi

Buồn thêm vướng mắc rối bời nhịp tim

Đắm chìm trong nỗi niềm riêng

Mà nghe cay đắng ưu phiền tâm tư

Hãy sống cho thật vô tư

Chuốc thù, oán hận quá ư khổ lòng

Phải tường gạn đục khơi trong

Bùn nhơ vẫn nở sen hồng ngát hương

Cuộc đời là những đoạn trường

Cảm thông, chia sẻ, nhịn nhường cho nhau

Đừng gây những chuyện thương đau

Suối vàng kẻ trước người sau đấy mà

Hãy trao tình nghĩa thật thà

Cùng nhau tiến bước, chan hòa yêu thương

Tham quan cảnh đẹp quê hương

Hòa vui thơ, nhạc bước đường nở hoa

Anh em như thể một nhà

Đời vui nở những bài ca tuyệt vời.

XUÂN VÂN


Chỉ còn vài tiếng nữa là đạt "6 số = 100.000"

Tôi có bài thơ mới sáng tác để mừng Nội San tròn 100.000 lượt truy cập, tặng Chủ Nhiệm

Chúc Mừng

Mừng lần truy cập chẵn 100.000
Sáu Năm góp mặt với làng văn
Nội San bé nhỏ, que diêm nhỏ
Thắp lên điều tốt giữa nhân gian
Bút sắt, rời xa vòng thế sự
Tim son, hướng tới nẻo nhân văn
Chúc cho Chủ nhiệm ngày thêm trẻ

Tiếp tục điều hành... ít chục năm

Singapore ngày 8/8/2012

Tâm Nguyện



MÙA VU LAN

TỪ HOA CẨM CHƯỚNG ĐẾN “BÔNG HỒNG CÀI ÁO”

NGÀY CỦA MẸ: HOA CẨM CHƯỚNG

Vào chủ nhật tuần thứ 2 của tháng Năm, trong các gia đình Mỹ, con cái ở tất cả các độ tuổi đều đặc biệt quan tâm đến Mẹ mình. Đó là ngày duy nhất trong năm, khi con cái, dù già hay trẻ, cố gắng tỏ rõ sự tôn kính Mẹ mình một cách thiết thực.

Anh Quốc là một trong các nước đầu tiên đặt ra Ngày kỷ niệm người Mẹ. Thế kỷ 18, khi rất nhiều người còn làm gia nô cho các gia đình giàu có “Ngày của Mẹ” được đặt ra để họ có thể nghỉ việc về nhà ở với các bà Mẹ của mình. Mặc dù tập tục này đã mất đi, khi cuộc cách mạng công nghiệp làm thay đổi cách sống và cách làm việc của họ, nhưng một ngày Chủ nhật giành cho Mẹ vẫn được đặt ra như một ngày lễ vào thế kỷ 20.

Tại Hoa Kỳ, có được ngày lễ Ngày của Mẹ (Mother’s Day) là nhờ tính kiên tâm và tình yêu Mẹ mãnh liệt của một cô con gái, Anna Jarvis. Mẹ của Anna đã dồn hết tâm sức cho gia đình khi họ ở tiểu bang West Virginia (WV), trong khi cha cô nhậm chức Bộ trưởng ở Philadelphia, PA. Là con gái, Anna giúp Mẹ chăm sóc khu vườn nhà đầy những hoa Cẩm chướng trắng, loài hoa ưa thích của Mẹ cô. Khi bà mất vào ngày 5-5-1905, Anna quyết định tôn vinh Mẹ mình. Cô cầu xin vị mục sư ở nhà thờ cô thường đi lễ, cho đặt một bàn thờ để tưởng nhớ Mẹ mình. Cũng trong ngày Chủ nhật đó ở Philadelphia, vị mục sư đã cầu nguyện cho Mẹ của Anna và tất cả các bà Mẹ bằng một lễ “Ngày của Mẹ” đặc biệt. Cô Anna Jarvis khi đó bắt đầu viết thư cho các nghị sĩ Quốc hội tiểu bang WV, đề nghị họ đặt ra một ngày để tôn vinh các bà Mẹ.

Vào năm 1910, Thống đốc tiểu bang WV tuyên bố ngày Chủ nhật tuần thứ 2 của tháng Năm là “Ngày của Mẹ”; và một năm sau thì tất cả các tiểu bang Hoa Kỳ đều kỷ niệm ngày lễ này. Vào buổi sáng ngày lễ “Mother’s Day”, con cái những gia đình Mỹ, theo truyền thống, phục vụ bữa sáng cho Mẹ ở trên giường. Một số người khác lại tặng Mẹ những món quà do chính mình tự làm ra (Sau này cô Anna đã phản đối các món quà do các công ty chế tạo sẵn, vì như thế khiến các con lười biếng, không tự tay làm mà cứ ra cửa hàng mua quà tặng Mẹ, cô cho là như thế sẽ mất hết ý nghĩa cao quý lúc ban đầu). Trong dịp này, người lớn thì tặng Mẹ hoa cẩm chướng màu Đỏ - loại hoa chính thức của “Ngày của Mẹ”. Nếu Mẹ đã mất thì có thể sẽ mang hoa cẩm chướng màu Trắng đặt trên mộ Mẹ.

Ngoài ra, Hoa Kỳ còn có “Ngày của Cha” cũng rơi vào Chủ nhật - nhưng ở tuần thứ 3 của tháng Sáu. Thành phố Chicago, tiểu bang IL, đã tổ chức “Ngày của Cha” lần đầu vào năm 1915.

ĐOẢN VĂN - NHẠC PHẨM “BÔNG HỒNG CÀI ÁO”

Chúng ta biết là “Bông hồng Cài áo” – đoản văn nổi tiếng của Thiền sư Thích Nhất Hạnh sáng tác tại trại hè Camp Ockanickon ở Medford, NJ, Hoa Kỳ vào năm 1962 trong dịp Thiền sư nói chuyện với thanh thiếu niên về văn hóa Việt Nam và đã được đoàn Sinh viên Phật tử Sài Gòn chép tay 300 bản, mỗi bản đều có gắn thêm một bông hoa màu hồng cho người còn Mẹ, hay màu trắng cho người đã mất Mẹ. Rằm tháng Bảy năm ấy, họ họp nhau lại tại chùa Xá Lợi, làm lễ Bông hồng cài áo đầu tiên. Từ đó, lễ Bông hồng cài áo đã trở thành một truyền thống. Năm 1964, nhà xuất bản Lá Bối ra mắt độc giả bằng quyển Bông Hồng Cài Áo trong ngày Vu Lan. Năm 1965, đoàn cải lương Thanh Nga đã dựng và trình diễn vở tuồng Bông Hồng Cài Áo. Tại trong nước cũng như tại nước ngoài, đoản văn Bông Hồng Cài Áo đã được dịch và in ra nhiều thứ tiếng như Anh, Pháp, Đức, Hà Lan, Trung Quốc, Nga, Thái Lan và tiếng Lào.

Có người thắc mắc hỏi Thiền sư: Tại sao lại chọn hoa hồng và phải chăng chỉ hoa hồng là biểu trưng cho tình yêu, Thiền sư cho biết: “Mình nên hiểu chữ hồng trong bông hồng là đỏ. Cài hoa khác như hoa cẩm chướng cũng có màu đỏ. Không nhất thiết phải là hoa hồng, bất cứ hoa gì cũng được, kể cả hoa lan”.

Lễ Bông hồng cài áo tổ chức tại Làng Mai (miền nam nước Pháp - nơi Thiền sư viết sách, dạy thiền, làm vườn và giúp trẻ em nghèo đói ở khắp nơi) mỗi mùa hè kể từ năm 1983 đã làm theo tinh thần Việt Nam. Lễ này không những để vinh danh người Mẹ mà cũng để tưởng nhớ và vinh danh người Cha nữa. Mỗi người được cài hai bông hoa hồng, một dành cho Mẹ và một dành cho Cha. Bông hoa dành cho Cha nằm hơi cao lên một chút để phân biệt với bông hoa cho Mẹ. Và anh sẽ cài một bông hồng cho Cha khi Cha còn sống, một bông hồng cho Mẹ khi Mẹ còn sống.

Từ đoản văn nổi tiếng này, nhạc sĩ Phạm Thế Mỹ đã phóng tác ra một nhạc phẩm mang cùng tên “Bông Hồng cài áo” cũng rất nổi tiếng - khiến đoản văn Bông Hồng Cài Áo của Thích Nhất Hạnh càng nổi tiếng hơn:

- Một bông Hông cho em, một bông Hồng cho anh

- Và một bông Hồng cho những ai, cho những ai đang còn Mẹ

- Đang còn Mẹ để lòng vui sướng hơn…

Ý niệm về Mẹ thường không thể tách rời ý niệm về tình thương. Mà tình thương là chất liệu ngọt ngào, êm dịu và cố nhiên là ngon lành. Con trẻ thiếu tình thương thì không thể lớn lên được. Người lớn thiếu tình thương cũng không thể “lớn” lên được mà sẽ cằn cỗi, héo mòn.

Ngày Mẹ mất, tôi (Thích Nhất Hạnh) viết trong nhật ký: tai nạn lớn nhất đã xảy đến với tôi rồi! Dù tôi đã lớn đến cách mấy mà khi đã mất Mẹ thì cũng như đứa trẻ, cũng cảm thấy bơ vơ, lạc lõng, cũng không hơn gì trẻ mồ côi.

Một bầu trời thương yêu dịu ngọt, lâu quá mình đã bơi lội trong đó, sung sướng mà không hay, để hôm nay bừng tỉnh thì nhận ra đã mất rồi. Người nhà quê Việt Nam không ưa cách nói cầu kỳ. Với họ nói rằng Mẹ già là một kho tàng của yêu thương, của hạnh phúc cũng đã là cầu kỳ rồi. Nói Mẹ già là một thứ chuối, một thứ xôi, một thứ đường ngọt dịu, người dân quê đã diễn tả được tình Mẹ một cách vừa giản dị vừa đúng mức:

Mẹ già như chuối ba hương

Như xôi nếp một, như đường mía lau.

- Rủi mai này Mẹ hiền có mất đi

- Như đóa hoa không mặt trời, Như trẻ thơ không nụ cười

- Ngỡ đời mình không lớn khôn thêm, Như bầu trời thiếu ánh sao đêm…

Ngon biết bao nhiêu! Những lúc miệng vừa đắng vừa nhạt sau một cơn sốt, khi đó thì không có món ăn gì có thể gợi được khẩu vị của ta. Chỉ khi nào Mẹ đến, kéo chăn đắp lại ngực cho ta, đặt bàn tay trên trán nóng của ta và than thở “khổ chưa, con tôi”, ta mới cảm thấy đầy đủ, ấm áp, thấm nhuần chất ngọt của tình Mẹ, ngọt thơm như chuối ba hương, dịu ngọt như xôi nếp một và đậm đà lịm cả cuống họng như đường mía lau.

Tình Mẹ thì trường cửu, bất tuyệt; những chuối ba hương, đường mía lau, xôi nếp một ấy không bao giờ cùng tận.

- Mẹ Mẹ là dòng suối dịu hiền,

- Mẹ Mẹ là bài hát thần tiên, là bóng mát trên cao

- Là mắt sáng trăng sao, là ánh đuốc trong đêm khi lạc lối…

Công Cha như núi Thái Sơn

Nghĩa Mẹ như nước trong nguồn chảy ra”

Nước trong nguồn chảy ra là bất tuyệt. Tình Mẹ là gốc của mọi tình cảm thương yêu. Mẹ là giáo sư dạy về thương yêu, một phân khoa quan trọng nhất trong trường đại học cuộc đời. Không có Mẹ thì ta sẽ không biết thương yêu.

Mẹ là một dòng suối, một kho tàng vô tận, vậy lắm lúc ta không biết, để lãng phí một cách oan uổng. Mẹ là món quà lớn nhất mà cuộc đời tặng cho ta, những ai đã và đang có Mẹ. Đừng đợi đến khi Mẹ chết rồi mới nói: Trời ơi, tôi sống bên Mẹ suốt mấy mươi năm trời mà chưa lúc nào nhìn kỹ được mặt Mẹ. Lúc nào cũng chỉ nhìn thoáng qua. Trao đổi vài câu ngắn ngủi. Xin tiền quà. Đòi hỏi mọi chuyện. Ôm Mẹ mà ngủ cho ấm. Giận dỗi. Hờn lẫy. Gây bao nhiêu chuyện rắc rối khiến Mẹ phải lo lắng, ốm mòn, thức khuya dậy sớm vì con. Chết sớm cũng vì con. Để Mẹ phải suốt đời bếp núc vá may, giặt rửa dọn dẹp. Và để mình bận rộn suốt đời lên xuống ra vào lợi danh. Mẹ không có thì giờ nhìn kỹ con, và con cũng không có thì giờ nhìn kỹ Mẹ. Đến khi Mẹ mất, mình có cảm nghĩ: “Thật như là mình chưa bao giờ có ý thức thật rằng mình có Mẹ”.

- Mẹ Mẹ là lọn mía ngọt ngào

- Mẹ Mẹ là nải chuối buồng cau, là tiếng dế đêm thâu

- Là nắng ấm nương dâu, là vốn liếng Yêu thương cho cuộc đời…

Nhờ Mẹ mà ta biết thế nào là tình nhân loại, tình chúng sinh; nhờ Mẹ mà ta có chút ý niệm về đức Từ bi. Vì Mẹ là gốc của Tình thương, nên ý niệm Mẹ bao trùm ý niệm thương yêu của Tôn giáo vốn dạy về Tình thương. Đạo Phật có đức Quan Thế Âm được tôn sùng dưới hình thức Mẹ. Em bé vừa mở miệng khóc thì Mẹ đã chạy tới bên nôi. Mẹ hiện ra như một thiên thần dịu hiền làm tiêu tan khổ đau lo âu. Đạo Chúa có Đức Mẹ, Thánh nữ đồng trinh Maria. Tín ngưỡng bình dân Việt có Thánh mẫu Liễu Hạnh, cũng dưới hình thức Mẹ. Bởi vì chỉ cần nghe nói đến danh từ Mẹ, là ta đã thấy lòng tràn ngập yêu thương rồi. Mà từ yêu thương đi tới tín ngưỡng và hành động thì không xa mấy.

- Rồi một chiều nào đó anh về

- Nhìn Mẹ yêu nhìn thật lâu, Rồi nói nói với Mẹ rằng: Mẹ ơi Mẹ ơi…

Hoa Kỳ không có ngày Vu Lan nhưng cũng có “Ngày Mẹ (Mother’s Day) mồng mười tháng Năm” – hiện nay là vào chủ nhật tuần thứ 2 của tháng Năm. Theo tục lệ, nếu anh còn Mẹ, anh sẽ được cài một bông hoa cẩm chướng màu hồng trên áo và anh sẽ được tự hào còn Mẹ. Còn nếu anh đã mất Mẹ, anh sẽ cài trên áo một bông hoa trắng.

Tôi (Thích Nhất Hạnh hoặc chính bản thân Người viết, cũng vậy) nhìn bông hoa trắng trên áo mà bỗng thấy tủi thân. Tôi cũng mồ côi như bất cứ một đứa trẻ vô phúc khốn nạn nào; chúng tôi không có được cái tự hào được cài trên áo một bông hoa màu hồng. Người được hoa trắng sẽ thấy xót xa, nhớ thương, không quên Mẹ dù người đã khuất. Người được hoa hồng sẽ thấy sung sướng nhớ rằng mình còn Mẹ, và sẽ cố gắng để làm vui lòng Mẹ, kẻo một mai người khuất núi thì dù có khóc than cũng không kịp nữa.

Tôi thấy cái tục cài hoa đó đẹp và nghĩ rằng mình có thể bắt chước áp dụng trong ngày Báo hiếu Vu Lan.

- Mẹ ơi, Mẹ ơi! Mẹ có biết hay không?

- Biết gì, biết là, biết là con thương Mẹ không?

Chiều nay khi đi học về, hoặc khi đi làm việc ở sở về, em hãy vào phòng Mẹ với một nụ cười thật trầm lặng và thật bền. Em sẽ ngồi xuống bên Mẹ. Sẽ bắt Mẹ dừng kim chỉ, đừng nói năng chi. Rồi em sẽ nhìn Mẹ thật lâu, thật kỹ để trông thấy Mẹ và để biết rằng Mẹ đang sống và đang ngồi bên em. Cầm tay Mẹ, em sẽ hỏi một câu ngắn làm Mẹ chú ý. Em hỏi: “Mẹ ơi, Mẹ có biết không?” Mẹ sẽ hơi ngạc nhiên và hỏi lại em, vừa cười vừa hỏi: “Biết gì?” Vẫn nhìn vào mắt Mẹ, vẫn giữ nụ cười trầm lặng và bền, em nói: “Mẹ có biết là con thương Mẹ không?” Câu hỏi không cần được trả lời. Cho dù ngươi lớn ba, bốn mươi tuổi thì ngươi vẫn có thể hỏi một câu như thế, bởi vì ngươi là con của Mẹ. Mẹ và em sẽ sung sướng, sẽ được sống trong ý thức tình thương bất diệt. Mẹ và em sẽ đều trở thành bất diệt và ngày mai Mẹ mất, em sẽ không hối hận, không đau lòng.

- Đóa hoa màu hồng vừa cài lên áo đó anh

- Đóa hoa màu hồng vừa cài lên áo đó em

- Thì xin anh, thì xin em

- Hãy cùng tôi vui sướng đi, Hãy cùng tôi vui sướng đi!

Ngày Vu Lan ta nghe giảng và đọc sách về ngài Mục Liên và về sự hiếu đễ, công Cha, nghĩa Mẹ, bổn phận làm con. Ta lạy Phật cầu cho Mẹ sống lâu. Hoặc lạy mười phương tăng chú nguyện cho Mẹ được tiêu diêu nơi cực lạc, nếu Mẹ đã mất. Con mà không có Hiếu là thứ con bỏ đi. Nhưng hiếu thì cũng do tình thương mà có; không có tình thương thì hiếu cũng chỉ là giả tạo, khô khan, vụng về, cố gắng mệt nhọc. Mà có tình thương là có đủ hết rồi, cần chi nói đến bổn phận. Thương Mẹ là một cái gì rất tự nhiên, như khát thì uống nước. Con thì phải có Mẹ, phải thương Mẹ. Chữ “phải” đây không phải là luân lý, là bổn phận mà “phải” đây là lý đương nhiên. Con đương nhiên thương Mẹ, cũng như khát đương nhiên sẽ tìm nước uống. Mẹ thương con, nên con thương Mẹ. Con cần Mẹ, Mẹ cần con. Nếu Mẹ không cần con, con không cần Mẹ thì đó không phải là Mẹ là con. Đó là lạm dụng danh từ Mẹ Con.

Thương Mẹ không phải là một vấn đề luân lý đạo đức. Anh mà nghĩ rằng tôi viết bài này để khuyên anh về luân lý đạo đức là anh lầm. Thương Mẹ là một vấn đề hưởng thụ. Mẹ như suối ngọt, như đường mía lau, như xôi nếp một mà anh không hưởng thụ thì uổng cho anh, chị không hưởng thụ thì thiệt cho chị. Tôi chỉ cảnh báo cho anh chị biết mà thôi. Để mai này anh chị đừng có than thở rằng: đời ta không có gì cả. Một món quà như Mẹ mà còn không vừa ý thì họa chăng có làm Ngọc Hoàng Thượng Đế mới vừa ý, mới bằng lòng, mới sung sướng. Nhưng tôi biết Ngọc Hoàng không sung sướng đâu, bởi Ngọc Hoàng là đấng tự sinh, không bao giờ được diễm phúc có một Bà Mẹ…

Đó là điệp khúc tôi muốn ca hát cho anh nghe hôm nay. Và anh hãy ca, chị hãy ca cho cuộc đời đừng chìm trong vô tâm, quên lãng. Đóa hoa màu hồng tôi cài trên áo anh rồi đó. Anh hãy sung sướng đi.

THIỀN SƯ THÍCH NHẤT HẠNH NHẮN NHỦ VỚI CÁC BẠN TRẺ:

- Về việc nhạc sĩ Phạm Thế Mỹ đã phổ nhạc thành công ca khúc Bông Hồng Cài Áo từ bài văn của Thiền sư, Thiền sư nói:

Phạm Thế Mỹ làm bài Bông Hồng Cài Áo rất dễ thương và tự nhiên như thở vào – thở ra, tự nhiên như bước chân đi dạo, tự nhiên như khi nâng chén trà lên uống. Tôi không thấy tôi và nhạc sĩ là hai người khác nhau khi nghe ca khúc Bông Hồng Cài Áo, trước kia cũng vậy và bây giờ cũng vậy.

- Ngày lễ Bông hồng cài áo không phải là chỉ để tưởng nhớ công ơn Mẹ Cha. Các bạn phải biết thực tập nhìn sâu, tức là thực tập thiền quán trong ngày ấy. Phải thấy được những tài năng, đức hạnh và nét đẹp nào mà mình đã tiếp nhận từ Cha và từ Mẹ. Phải biết mỉm cười cho Mẹ, thở cho Cha và bước đi cho cả hai. Sự tiếp nối đẹp đẽ của Cha Mẹ nơi mình là biểu hiện cụ thể nhất cho lòng Hiếu…

- Ta hãy tôn vinh Mẹ, tôn vinh Cha trong trái tim. Bụt dạy: Vào thời chưa có Bụt ra đời thì thờ Cha thờ Mẹ cũng là thờ Bụt. Đây là điều tôi muốn nói với các bạn trẻ ở Việt Nam cũng như trên thế giới.

(Tham khảo: - Lễ hội ở Mỹ của Nguyễn Vũ Tuấn, NXB Văn hóa TT 2003 và – Bông Hồng cài áo của Thích Nhất Hạnh, NXB Thanh niên 2009)

PHẠM VŨ


PHÓNG LAO, ĐƯỢC ĐẤT

Đất của Vua, Chùa của Làng” là câu nói ta thường nghe ở cửa miệng dân chúng dưới thời phong kiến mỗi khi muốn tỏ bày chủ quyền đất đai điền thổ. Ngày xưa, khi một vị anh hùng nào đó nổi lên chốn lại ách xâm lăng của ngoại bang, một khi đã thành công, giang sơn gấm vóc thu về một mối thì đất đai, điền thổ là thuộc quyền sở hữu của vị anh hùng đó. Triều đình quân phân thành làng xã và đặt diện tích lớn nhỏ để người dân lãnh phần canh tác, thu hoạch hoa màu bán đi, để lấy tiền nộp thuế cho Nhà nước, gọi là thuế điền. Việc quân phân cũng tùy theo chức vụ lớn nhỏ của các hương hào đối với dân làng, có chênh lệch ít nhiều. Nhưng ngoài ra phần đất đã phân chia cho dân chúng để hàng năm nhà nước thu thuế về cho ngân quỹ, cũng có những loại ruộng đất để cấp cho những người có công ăn học được thành công trong khoa bảng để có đủ quan chức trong bộ máy hành chánh của một quốc gia. Tên gọi loại ruộng đất nói trên là đất “khai khoa” để cấp cho vị nào đó đỗ đại khoa đầu tiên trong một làng và con cháu họ kế tiếp nhau thừa hưởng, lấy huê lợi chi phí cho việc kỷ niệm thờ cúng ông bà tổ tiên hàng năm. Người thủ từ của một nhà thờ Họ, Tộc thường gọi là đất hương hỏa và đất hương hỏa đặc biệt là được miễn thuế. Người trông coi nhà thờ Tộc có trách nhiệm hàng năm tổ chức hội họp con cháu một lần tại từ đường để làm lễ giỗ Tổ, mọi chi phí đều khai thác trong huê lợi miếng đất do ông bà để lại, truyền tử lưu tôn và điều cấm kỵ là đất hương hỏa không được mua đi bán lại hoặc sang nhượng. Ngoài những loại đất do triều đình quân phân cho dân chúng gọi là công điền, công thổ và loại đất để thưởng cho các vị đã đỗ đạt khoa bảng, còn có những loại đất mà suốt trong thời kỳ các triều Lý, Lê, Trần, Lê (Hậu Lê), Nguyễn và mới đây cho đến cuối đời nhà Nguyễn, người dân vẫn quen gọi là “thát đao điền”, tên gọi nghe cũng lạ tai, nhưng đây là loại đất gì? Sự tích xin kể lại như sau: Lê Phụng Hiểu là danh tướng và cũng là công thần đời Lý. Ông người làng Băng Sơn, huyện Hoằng Hóa thuộc tỉnh Thanh Hóa (Trung phần). Có sức khỏe phi thường, trong dân gian còn truyền lại chuyện ông hồi 20 tuổi, nhân hai thôn Cổ Bi và Đàm Xá vì tranh ruộng đất cho dân làng ra đánh nhau, ông mới bảo với người làng Cổ Bi rằng: “Chỉ một mình tôi cũng đủ đánh được muôn người”. Dân làng Cổ Bi mừng lắm, liền làm cơm rượu mời ông ăn uống. Sau khi uống hết một vò rượu lớn và ăn sạch một nồi 30 cơm, ông mới ra khiêu chiến, dân làng Đàm Xá xáp đến, ông vươn mình nhổ một cây to bên vệ đường cầm ngang trong tay xông vào đánh nhau với họ. Dân Đàm Xá không địch nổi chịu thua, đành phải trả ruộng cho làng Cổ Bi. Bấy giờ vua Lý Thái Tổ tuyển người có sức mạnh để sung vào đội quân Túc vệ, nghe tiếng Phụng Hiểu, liền cho vời đến và phong ngay cho chức Võ vệ tướng quân. Đến khi vua Thái Tổ mất, Lê Phụng Hiểu đã định được loạn các Hoàng tử Võ Đức Vương, Dực Thánh Vương và Đông Chinh Vương tranh ngôi của Thái tử Phật Mã, tức vua Lý Thái Tông. Sau cuộc biến ấy, ông được phong làm Đô Thống Thượng Tướng Quân. Được ít lâu, ông theo vua Thái Tôn vào đánh Chiêm Thành, làm tiên phong phá tan được giặc và bắt được vua Chiêm là Chế Củ. Thành công trở về, vua Lý định thưởng chức tước và vàng bạc cho ông, nhưng ông đều từ chối, chỉ xin cho đứng trên núi Băng Sơn ném đao xuống, hễ rớt đến chỗ nào thì xin đất đến đấy để lập nghiệp. Vua bằng lòng. Lê Phụng Hiểu lên đứng ở trên đỉnh núi, ném vút thanh đao ra ngoài 10 dặm, rớt xuống vào địa phận làng Đa Mỹ (tính ra được đến hơn 1.000 mẫu ta). Tên “thát đao điền” được dùng từ đó để gọi ruộng thưởng cho công thần. Trên khoảng ruộng đất vua ban, Lê Phụng Hiểu cho con cháu đến ở, lập thành làng ấp. Đến khi ông mất, dân làng lập đền thờ là Phúc Thần, gọi là Lịch Đại Đế Vương miếu… Ngày nay, trong các cuộc Thế Vận Hội, cũng có môn thi ném lao, lực sĩ nào đạt được thành tích cao nhất sẽ được thưởng huy chương vàng đem về danh dự cho xứ sở mình, nhưng vì ham muốn thành tích nên các lực sĩ trong các môn thi cũng đôi khi phạm phải điều cấm kỵ là đã dùng y học để trợ lực (doping) chứ không dùng sức mạnh tự nhiên của trời ban cho mình.

PPT st.


Phụ Bản III

TÌM HIỂU và GIẢI MÃ

TRANH SIÊU THỰC 

Nói đến các bộ môn nghệ thuật thì có lẽ Hội Họa là môn tôi dốt nhất. Chẳng hiểu có phải tôi không có năng khiếu hay vì từ bé tôi chưa được ai dạy vẽ tranh hay giảng giải cho nghe về Hội Họa. Khác với các trẻ em ngày nay, từ mẫu giáo, các bé đã được các Cô chỉ dạy và tự vẽ được những bức tranh rất sắc sảo sinh động mà chính tôi cho đến bây giờ cũng chưa làm nổi. Thỉnh thoảng tôi cũng có dịp ghé qua các phòng triển lãm tranh hoặc xem giới thiệu trên Tivi các bức tranh của các họa sĩ nổi tiếng, nhưng thú thực tôi chẳng hiểu gì và chẳng thấy bức nào đẹp ở những điểm nào. Thực ra thì đôi khi cũng có những bức tranh hấp dẫn tôi, nhưng đó chỉ là những bức vẽ giống như cảnh thực, rất sinh động, vì tôi vẫn nghĩ tranh đẹp thì ít nhất phải giống cảnh thực mới gợi được cảm xúc. Còn loại tranh mơ hồ trừu tượng tôi không hiểu và chẳng thấy hấp dẫn gì. Bởi thế, ngày xưa đã có lần đi thăm Bảo tàng Le Louvre ở Paris, dạo xem suốt một buổi mỏi chân và mệt rã rời mà tôi chỉ mua được mỗi một bản sao của bức tranh Monaliza của Leonard de Vinci mà tôi thích nhất để mang về treo làm kỷ niệm.

Còn nói đến tranh siêu thực ư? Tôi không hiểu tí gì để bàn đâu, sợ người ta bảo mình dốt nát mà dám chê bai những gì thiên hạ cho là kiệt xuất – Thà cứ im lặng là hơn – Thú thực hồi còn trẻ, tôi thường hay thắc mắc khi nhìn một bức tranh vẽ người hay vật mà hình thù sao kỳ quặc lạ thường! Tôi không hiểu được tác giả vẽ cái gì, và muốn nói gì? Những hình thù quái dị này quả là không ai thấy trên thực tế. Vì thế nên người ta gọi là tranh “Siêu Thực” (Surrealist tức cao siêu hơn thực tế) thì cũng đúng thôi. Ai dám cãi là vô lý? Nhưng không có trong thực tế sao lại tưởng tượng ra để vẽ? Tác giả có dụng ý gì đây? Tôi thấy không ưa loại tranh này mà còn ác cảm với tác giả. Phải chăng họ muốn tỏ ra mình có đầu óc cao siêu khác thường ít ai hiểu được, một cách đề cao mình để trộ thiên hạ? Và từ đó tôi bỏ ngoài mắt không thèm tìm hiểu gì về loại tranh siêu thực này nữa.

Lại nói đến sự dốt nát về Hội Họa của tôi, hồi ấy tôi có ông anh họ dạy ở ĐH Văn Khoa. Không biết ông học Hội Họa từ bao giờ mà một hôm ông đem đến tặng tôi một bức tranh Tĩnh vật khá lớn. Đó là hình một quả dưa hấu bổ đôi, một nửa để nguyên, nửa kia cắt làm mấy múi, với màu xanh biếc của vỏ và màu đỏ au của ruột và mấy cái hột đen nhánh trông rất hấp dẫn. Tôi khen đẹp rối rít cho ông vui. Ông bảo: “Để em treo ở phòng ăn thì hợp”. Nhưng tính tôi vốn thành thực, tôi nói: “Em thấy màu sắc rất hấp dẫn giống y như thật, chỉ có cái ruột hình như không được mịn lắm, hơi xốp một chút”. Ông nói: “Em không hiểu. Phải nhìn từ xa”, vừa nói ông vừa đưa bức tranh ướm lên tường. “Thấy chưa? Hơn nữa tranh hội họa nó không giống y như tranh chụp đâu, người ta phải cường điệu những nét đặc trưng lên một chút để cho nó nổi bật” – “Vâng, em hiểu rồi. Đẹp lắm!” Nói thế cho ông vui nhưng trong thâm tâm tôi nghĩ: “Quả dưa này chín quá hơi úng rồi! Ngày Tết mà bổ phải quả dưa úng thế này chắc xui cả năm mất!”

Vài tuần sau, vào dịp mới nghỉ hè, ông lại dẫn ông Họa Sĩ mà ông đang thụ giáo đến thăm tôi. Sau vài câu giới thiệu xã giao, chúng tôi khởi đầu bằng câu chuyện Hội Họa. Tôi cũng thú thực: “Về Hội Họa thì em dốt lắm, chẳng hiểu gì đâu…” – “Tại Cô chưa có dịp tìm hiểu đấy thôi”, ông Họa Sĩ nói, “Hôm nào rảnh rỗi mời Cô đến chơi xem qua, nếu thích bức nào tôi xin biếu một bức”… Trước khi ra về ông lại nói: “À hôm nào rỗi mời Cô đến poser cho một kiểu để tôi vẽ tặng Cô một bức tranh bán thân”. Tất nhiên là tôi từ chối lấy cớ là không dám làm phiền ông, vả lại sợ ngồi lâu không quen, ngượng ngùng mất tự nhiên. Ông nói: “Có gì đâu, nếu Cô muốn chỉ độ một tiếng đồng hồ thôi”. Ông anh họ tôi cũng cố nói vào. Sau cùng tôi nói: “Thôi nếu anh đã có lòng tốt thì thế này nhé, em xin đưa một tấm ảnh bán thân của em để nhờ anh vẽ dùm được không”. Cuối cùng ông đành phải OK một cách bất đắc dĩ. Tôi chọn một tấm ảnh màu cỡ Carte Postale mà tôi ưng ý nhất đưa ông. Đúng một tuần sau, với ông anh họ tôi đi theo chở, ông mang đến một bức ảnh cỡ 24x36 với cái khung lớn thật đẹp, màu trắng ngà có phun cát lấm tấm, phía trong lõm cong xuống trông thật hiện đại. Nhưng nhìn bức ảnh tôi hơi thất vọng. Không dám làm hai ông phật ý, tôi kêu lên thật khẽ như tự nói với mình: “Ô! Sao nó không giống tôi! Tôi có đánh mắt vẽ mũi bao giờ đâu mà sao cặp lông mày lại đậm thế này và hơi lem nhem, cái mũi thì hơi cao!” Ông anh họ tôi hiểu ý liền nói: “Em đừng nhìn gần!” Rồi ông gỡ tạm một bức ảnh trên tường xuống, treo bức tranh lên “Đẹp chưa?” Tôi nói: “Nhưng sao không giống lắm”. Ông anh họ tôi hơi bực mình: “Tranh họa mà em muốn giống như ảnh chụp ư ? Thế thì em chỉ việc mang ra tiệm ảnh bảo nó agrandir cho chỉ vài hôm là lấy được. Việc gì người ta phải đi học Hội Họa?. Tôi bỗng thấy xấu hổ quá, nghĩ mình vừa dốt lại vừa quê! – “Vâng, bây giờ thì em hiểu rồi. Cám ơn hai anh rất nhiều. Em thật là dốt nát không hiểu thế nào là nghệ thuật”. Ngồi một lúc, tôi lại lấy mấy bức tranh siêu thực trên cuốn lịch tháng mà tôi xếp lại không treo đưa hai ông xem: “Thế còn mấy bức tranh này thì sao? Em không hiểu gì cả” – “À, đó là tranh siêu thực, cái này thì hơi cao, anh có nói bây giờ thì em cũng không hiểu. Thôi để một lần khác. Bây giờ thì xin lỗi, bọn anh phải đi”.

Ít lâu sau, Hội Việt Mỹ ở đường Mạc Đỉnh Chi có mở một lớp Hội Họa Cơ Bản. Tuy không ham thích gì nhưng tôi cũng quyết định đăng ký học. Học để hiểu biết một bộ môn nghệ thuật phổ biến trong giới trí thức mà mình quê mùa không hiểu gì thật đáng xấu hổ. Âm nhạc thì còn tự học được qua sách vở, bằng ký xướng âm chứ Hội Họa thì chẳng thấy sách nào dạy nên tôi quyết định phải bỏ thì giờ ra đi học. Qua một vài bài giảng lý thuyết, màu sắc vv…, tôi liền mua sắm đủ các dụng cụ như cọ và các hộp màu nước đủ loại. Còn giá và khung thì hôm nào đi thực tập sẽ mua. Thế rồi đùng một cái, tôi bỗng nhận được giấy báo là hồ sơ tôi xin đi học nước ngoài từ năm trước nay đã được chấp nhận. Thế là phải bỏ tất cả để đi học Anh Văn và lo thủ tục. Tạm biệt với lớp Hội Họa Cơ Bản vừa mới bén duyên.

Thế rồi trong những ngày xa nhà cô đơn ở xứ sương mù lạnh lẽo kia, một hôm nhân kỳ nghỉ Lễ Phục Sinh tôi cùng vài người bạn được một anh bạn Việt Nam có tiếng là “Thổ Công” của thành phố Luân Đôn dẫn đi thăm những nơi mà anh nói là không thể bỏ qua. Hôm đầu đi thăm Bảo Tàng Madame Tousseau, đã được ôm hôn (!) và chụp hình cùng các danh nhân thế giới bằng sáp giống y người thật đến nỗi có lúc bị lạc tôi chạy đến hỏi thăm lối ra. Ra ngoài thấy một ông bảo vệ đứng nghiêm lại tưởng người sáp không dám hỏi nhưng ông vẫy lại hỏi: “Này! Cô kia đi đâu?” Chỉ tiếc hôm ấy không được xem tượng Hồ Chí Minh bằng sáp (nghe nói thỉnh thoảng người ta dấu đi các tượng danh nhân nổi tiếng để cho du khách phải đến xem nhiều lần).

Hôm sau đi thăm Tate Gallery là nơi nổi tiếng với những cuộc triển lãm tranh kiệt xuất. Quả đúng như vậy, tuy trước đây tôi không thích thú gì với Hội Họa, nhưng bước vào đây, đứng trước những bức tranh lớn gần bằng cả bức tường, với cảnh tượng và màu sắc sống động như cảnh thực, tôi say mê đến choáng ngộp, tưởng chừng như mình đang đứng trong cảnh ấy và không muốn dời chân.

Sang đến khu vực SURREALISM, phần vì tôi vốn không ưa loại tranh này, phần vì đã khá mệt và mỏi chân, nhất là hôm ấy lại diện đôi giày mới mua hơi cao và chật làm đau chân, tôi nói với các bạn: “Thôi các anh chị vào xem đi, loại tranh này tôi không hiểu gì đâu, vả lại tôi hơi mệt và mỏi chân lắm rồi, cho tôi ngồi nghỉ ngoài hành lang này một lát”. Anh bạn bảo: “Đã đến đây xem thì vào xem cho hết, ngày mai họ dẹp rồi, mai mốt không còn dịp nào nữa đâu. Thôi cố lên một chút”. Rồi họ kéo tôi vào. Lạ thay! Vừa bước vào cửa, những bức tranh to lớn với hình thù quái dị mà tôi không hiểu gì lại gây cho tôi một sự thu hút lạ thường, một cảm giác hơi rờn rợn nhưng thích thú. Tôi mải mê ngắm hết bức này đến bức kia, thấy mình như lạc vào một thế giới kỳ ảo. Một hành tinh nào đây mà tôi đang muốn khám phá. Mãi đến lúc các bạn giục ra về tôi vẫn còn ngơ ngẩn như không biết mình đang ở đâu. Chúng tôi đến quầy mua một số hình ảnh tài liệu và tôi không quên chọn mấy chục bức tranh Siêu Thực thu nhỏ hình Carte Postale với giá khá đắt, không phải vì hiếu kỳ mà để về tìm hiểu khám phá ra những bí ẩn. Khi về nước, các bạn đến chơi tôi mang ra cho xem, nhưng chẳng ai hiểu gì và họ cũng chán không muốn xem. Cuối cùng tôi cũng chán và xếp vào một xó tủ. Độ mười mấy năm sau tình cờ một hôm tôi lục ra xem thì lạ thay bất giác tôi đọc được ở một số bức tranh vô nghĩa này một ý nghĩa rất chính xác! Thì ra gọi là tranh Siêu Thực nhưng đây chính là những sự thực đang có trên thế gian này mà ta không chú ý nên không nhìn thấy đó thôi, hoặc chúng đã tàng hình một cách bí ẩn khiến ta không nhận ra. Các nhà nghệ sĩ muốn vạch trần bộ mặt thực của chúng một cách kín đáo nên đã mượn những hình ảnh kỳ quái này để chuyển tải một sự đồng cảm đến những người xem có cái nhìn sắc bén và giàu sức tưởng tượng tinh tế. Nhưng nhiều người xem lại đòi hỏi sự mô tả rõ ràng nên không hiểu được. Còn về phần tôi, tại sao cũng những bức tranh ấy, xưa kia tôi suy nghĩ nát óc mà không hiểu gì thì nay chỉ trong khoảnh khắc tôi đã có được một ý niệm khá rõ rệt? Có lẽ vì tuổi đời càng cao tôi càng có thêm được kiến thức và kinh nghiệm về cuộc sống, về xã hội xung quanh, tất cả đã cô đọng thành một lớp dày trong tiềm thức tôi để tôi có thể nhìn ra sự vật với một cái nhìn tổng hợp, sắc bén. Khác nào như một bác nông dân lớn tuổi, chỉ nhìn một biểu hiện khác thường như một chiếc lá bị quăn là đã đoán được ngay nguyên nhân hay kẻ thù là loài côn trùng nào dù chúng ẩn tàng kín đáo đến đâu.

Sau đây, để minh họa cho bài viết này, xin gửi đến Quý Độc Giả một số bức tranh Siêu Thực để chúng ta cùng tìm hiểu và giải mã. Ước mong sẽ có được một sân chơi mới mẻ cho các thành viên CLB Sách của chúng ta.

Bức tranh thứ nhất: Une panique au Moyen Age – 1927

Tạm dịch: Một cuộc đấu đá hoảng loạn ở thời Trung Cổ.

Tác giả: René Magritte

98 x 74 cm – Oil on canvas – Private collection

Hình vẽ là mấy võ sĩ không đầu đấu đá nhau sát phạt.

Nghĩa đen : Ở thời Trung Cổ con người chưa có đầu óc suy nghĩ có hệ thống trước khi hành động. Chỉ biết khi nổi giận thì xông tới đấm đá nhau một cách hoảng loạn. Ai nhảy vào can cũng bị mắc kẹt.

Nghĩa bóng : Ở thời đại văn minh này cũng có những con người tuy không giỏi giang gì nhưng cũng muốn tỏ ra thông minh hiểu biết hơn người, ưa tranh cãi sát phạt nhau bằng những lý luận lạc hậu lỗi thời, thủ cựu.

Tới đây tôi chợt nhớ đến buổi nói chuyện của một nhà thơ tại một câu lạc bộ về đề tài: “Tìm hiểu Thơ Hiện Đại”. Trong phần trao đổi có mấy vị lên phản bác. Một vị nói: “Theo tôi đã gọi là Thơ thì phải có vần có điệu đọc lên nghe êm tai. Cái lối thơ Hiện Đại này không thể gọi là thơ”. Một vị khác nói: “Không có vần cũng có thể chấp nhận được nhưng đọc lên người nghe phải hiểu được ý nghĩa, nếu không ai hiểu thì không gọi là Thơ”… Rồi mâu thuẫn lại xảy ra giữa những người phản bác. Họ tranh cãi sát phạt, không ai dám nhảy vào can. Gần hết giờ những người nghe mỉm cười bỏ ra về mặc cho hai vị kia không ai chịu thua ai. Về nhà giở bức tranh ra tôi đã có được mấy câu minh họa:

Không đầu tranh cãi mới hay

Có đầu tranh cãi xưa nay thiếu gì

Cái đầu là để tư duy

Có đầu mà ruỗng khác chi không đầu.

Bức tranh thứ 2 : Xin mời giải mã

Comedy – 1921 (Một cảnh tượng khôi hài)

Tác giả: Paul Klee

Monotype and watercolour on paper. 12” x 17”


Lưu ý: Có thể có nhiều cách giải mã khác nhau tùy theo tâm trạng và quan điểm của mỗi người. Xin quý vị gửi lời giải mã về để CLB Xưa & Nay có được một sân chơi phong phú.

Thùy Dương


3. Tham gia công tác dẫn thủy nhập điền

Chương trình đào ao nuôi cá ngay trong vườn cây ăn trái của ông luật sư bỗng nhiên có một chuyển biến không thuận lợi. Hai cây chôm chôm và một cây xoài đang bắt đầu có trái từ từ héo lá rồi vàng khô, hé lộ ra những cành xơ xác. Thì ra, khi đào ao cá, mấy thanh niên đào sát mấy gốc cây này nên làm đứt nhiều rễ và cây chết là lẽ tự nhiên. Nhưng ông luật sư không lấy gì làm khó chịu, ông cho bứng mấy cây chết héo đó đem vứt ra sau vườn rồi cho mở ao cá rộng thêm ra, ông nói: “Ở đây sau này mình sẽ nuôi cá trắm cỏ, phát triển ngành nuôi trồng thủy sản”. Một thanh niên chợt hỏi: “Vậy rồi lấy thực phẩm ở đâu nuôi cá hả anh Năm?”. Tôi quên nói ông luật sư còn có cái tên thân mật là anh Năm. Anh từ từ đáp: “Thiếu cha gì tụi bây! Cỏ nè, lá khoai mì nè. Tốn kém không bao nhiêu mà hiệu quả kinh tế lắm nghe”. Rồi anh đứng dậy quay lưng trở vô văn phòng. Cô Tư từ nãy giờ đang ngồi bẹp dưới đất, đứng dậy, tay cầm đôi dép, tay kia phủi bụi hai bên mông lững thững theo sau. Tôi nhìn bao quát khu vườn cây ăn trái đang hình thành một ao nuôi cá phía trên có những tàng cây rợp bóng, sau này sẽ rất đẹp và nên thơ. Nhưng rồi tôi chợt nhận ra, khu vườn không đầy hai trăm mét vuông, ao cá đào len lỏi giống như người ta đào mương lên liếp trồng cây ở dưới miền Tây. Như vậy cái ao có lớn lao bao nhiêu đâu mà ông luật sư định lên kế hoạch nuôi trồng thủy sản đại trà? Chà! Tôi thấy ông có vẻ tâm đắc với cái kế hoạch lớn lao này. Các thanh niên lại tiếp tục rỉ rả đào đào xới xới. Trong đầu họ có lẽ cũng đang mơ một ngày nào đó, người ta thu hoạch cá trắm cỏ trong những cần xé to lớn. Rồi cá được vận chuyển ra xe tải chở về thành phố tiêu thụ. Đời sống nhân viên của Tổ hợp sẽ khắm khá, bữa ăn có thêm cá, thêm thịt thay vì phải độn toàn rau, củ như hiện giờ.

Từ hôm lên đây đến nay cũng hơn một tuần, con ngựa của Bác Sáu, cha cô Tư, bây giờ đã thuộc về tài sản của Tổ hợp dưới hình thức phần hùn, đã thuần thục. Mới đầu nó hứ hé cả ngày đêm, thằng cha phò mã kêu trời không thấu. Sáng nào cũng phải dậy sớm đi cắt cỏ vác về cả bao tải, nhưng đến chiều ngựa đã chén sạch sẽ. Có lần anh phò mã làm biếng chơi ác cắt cỏ tranh độn vào cỏ cho ngựa ăn. Ngựa biết và không thèm ăn, nằm xuống đất đưa bốn vó lên trời, thở phì phì. Phò mã sợ ngựa chết, cô Tư la, đành phải vác bao, tay cầm liềm lên đồi cắt đầy một bao cỏ về nạp cho ngựa. Tuấn mã ăn xong hí lên một tràng vang dội, hai chân trước đập xuống đất lia lịa, rồi từ phía sau đuôi, ngựa phóng ra một đống xia to tướng. Phò mã nhảy vội vào trong nhà lấy ra một cái xẻng, đến sát bờ rào đào một cái lỗ rồi xúc đống xia đổ xuống lỗ lấp đất lại. Phò mã quay lại trừng mắt với ngựa: “Sao mày không ăn luôn cho tao đỡ mệt”. Không biết ngựa có hiểu gì không, chỉ thấy lắc đầu qua lại, khịt khịt mũi như muốn chọc tức phò mã.

Sáng nay, ông luật sư lại trở về thành phố, tài xế vẫn là thằng Hoàng, em cô Tư. Hai người đi trên chiếc gắn máy Honda 67 còn khá mới.

Chưa tới mười một giờ, nắng bắt đầu gay gắt. Đám thanh niên xin cô Tư cho nghỉ sớm vì đói bụng quá. Họ dựng cuốc xẻng vào tường bước vào nhà vừa đi vừa dậm thình thịch mang cát đất vào nhà vương vãi khắp nơi. Cô Tư thấy vậy la lên bài hải: “Trời ơi, coi mấy ông nội kìa, dơ quá trời quá đất!”. Thằng Tân, nhỏ con nhất, sợ cô Tư la thêm, vội chạy ra sau bếp quơ cái chổi đem lên quét cát đất ra ngoài, ba bốn chổi là sạch trơn. Trong nhóm này có anh Hồng tuổi hơi lớn có lẽ cũng ngoài ba mươi, thích ca hát, đứng lên nói: “Hát hò một chút đi anh em, rồi uống nước cầm hơi chờ cơm.” Nói rồi anh ta bước vào phòng trong cầm ra một cây đàn ghi-ta vừa đi vừa rải tưng tưng rồi đưa cho một thanh niên ngồi trong góc: “Tâm, mày đàn đi. Cái này thì tao thua”. Tâm ôm đàn, so dây, lại rải tưng tưng vài tiếng, quay sang nói với một cô gái ngồi bên cạnh: “Yến hát nhe!” Rồi tiếng đàn cất lên, tiếng hát họa theo. Anh chàng nhạc sĩ này có tay nghề cao. Anh đàn nhuyễn như những nhạc sĩ trên sân khấu, chỉ khác một điều là không có ăn mặc cầu kỳ, màu mè rực rỡ như nhạc sĩ thứ thiệt. Cô gái cũng hát rất hay. Tôi còn nhớ đó là một bản Van-xơ, nhẹ nhàng, dìu dặt. Hai giọng ca một nam một nữ hòa quyện vào nhau:

“Ngày ấy cây si anh trồng ngay lối đi,

Đêm khuya cũng chẳng về. Thú thực lì ghê…”(1)

……

Mọi người im lặng ngồi nghe, thả hồn theo khói thuốc lá của một vài bạn trẻ ngồi gần cửa sổ, mùi mồ hôi, lúc mới vào nghe nồng nặc, như đã tan dần qua cửa sổ ra ngoài sân đầy nắng…

***

Một ngày nọ, gần trưa, ông luật sư về tới, nét mặt tươi cười, hớn hở. Mấy thanh niên đang đào ao cá gần đó cũng nhìn thấy, dừng cuốc xẻng, reo lên: “Anh Năm đã về!” Một anh chàng đứng phía sau xa cũng hò theo: “Ôi, niềm tin và hy vọng!”. Bóng dáng cô Tư vừa xuất hiện tay cầm thanh sắt định đập vào kẻng kêu họp, mọi người đã bỏ xẻng, bỏ cuốc, bước vào văn phòng. Anh chàng “niềm tin và hy vọng” vừa rồi, ngó cô Tư nói thêm: “Khỏi đánh kẻng, mỏi tay, cô Tư”.

Tổ trưởng bước ra nhìn mọi người, tươi cười xã giao, thân thiện: “Tôi với thằng Hoàng chạy một mạch từ thành phố về đây, nắng quá trời”. Rồi ngồi xuống ghế vẫn giững nét mặt tươi cười như có chuyện gì vui lắm. Cô Tư vẫn rút chân lên ghế ngồi bên cạnh nhìn Tổ Trưởng chờ đợi. Rồi việc gì đến cũng phải đến, Tổ trưởng tằng hắng, cất giọng: “Anh em thấy tôi tươi cười như thế này thì chắc cũng biết là có chuyện vui rồi. Tiếng tăm của tổ hợp Tâm Phúc đã vang dội đến quận nơi tôi ở. Các anh phụ trách ở đó đã không ngớt lời khen ngợi và sau cùng đã có nhã ý mời toàn thể tổ hợp của chúng ta tham gia vào một công tác hết sức quan trọng, đầy ý nghĩa. Đây là công tác xây dựng hệ thống thủy lợi hay còn gọi là hệ thống dẫn thủy nhập điền, đưa nước vào tưới tắm cho một vùng đồng ruộng bao la. Sự đóng góp công sức của chúng ta rất cụ thể và đem lại lợi ích trực tiếp cho người dân. Tôi vô cùng hạnh phúc và đã nhanh chóng nhận lời.”

Một em thắc mắc: “Rồi mình đi đâu mà làm gì vậy, anh Năm?”

- Đào kênh.

Anh tổ trưởng trả lời nhanh gọn rồi cười tươi như vừa tiết lộ một điều gì thích thú. Anh nói tiếp: “Ở đâu hả? Đức Huệ. Để đảm bào an toàn cho lộ trình công tác, quận sẽ cho chúng ta biết nơi công tác sau khi chúng ta đến điểm trung chuyển là Đức Huệ. Anh em không có gì phải lo lắng. Tôi và Cô Tư sẽ cùng đi với anh em. Đây là cơ hội không dễ dàng mà có. À, còn một điều đáng mừng nữa là quận sẽ cung cấp gạo cho chúng ta ăn trong suốt thời gian công tác. Chiều nay các anh em được nghỉ để về nhà chuẩn bị cuốc xẻng và các vật dụng cần thiết khác. Ngày mai tất cả phải có mặt ở đây lúc sáu giờ để lên đường. Ai muốn ở lại ăn cơm, nghỉ ngơi ở đây rồi mai cùng nhau lên đường cũng được.”

Sáng hôm sau, một đoàn người ngót nghét hai chục nhân khẩu kể luôn ông Tổ trưởng và cô Tư, chỉ riêng phò mã Thành ở nhà giữ ngựa và canh chừng “doanh trại”, lên đường hướng ra quốc lộ. Lội bộ gần một tiếng đồng hồ trên một khoảng đường dài gần năm cây số, mấy bà cô ở Saigon mới lên rền rĩ than mệt. Đây là ba phụ nữ vừa bước qua tuổi băm, ở Saigon bán quần áo, không có chồng con, nhằm lúc hàng họ ế ẩm lại thấy có phong trào hồi hương sản xuất nông nghiệp, biết được Tổ hợp Tâm Phúc đang sẵn sàng thâu dụng nhân sự, đồng thời cũng là chỗ quen biết với ông Luật sư Phan, họ không ngần ngại tham gia, mới ở được ba ngày và đã nếm mùi cơm độn. Họ bất ngờ được trở về Saigon và đang băn khoăn tự lự trước chuyện công tác đào kênh này.

Ra tới đường cái, chúng tôi thấy có một chiếc xe “ca” khoảng hai mươi lăm chỗ ngồi đang đậu gần đó. Ông tổ trưởng cũng vừa ra tới, thấy chiếc xe, ông reo lên: “Xe tới rồi, leo lên đi!” Tất cả chúng tôi phóng lẹ lên xe kiếm chỗ ngồi cho đỡ mỏi chân.

Xe chạy về hướng ngã ba Vũng Tàu rồi rẽ trái về Saigon, tôi cảm thấy trong lòng nôn nao kỳ lạ, giống như một người đã xa Saigon lâu lắm nay trở về thăm trong khi tôi mới rời Saigon không đầy bốn tháng. Các bạn trẻ quê ở ngoài Hố Nai, Bùi Chu, hay Phú Sơn vốn rất ít khi về Saigon, nay thấy vô cùng bỡ ngỡ, coi như đây là lần đầu tiên khám phá một vùng đất xa lạ.

Xe chạy hơn một tiếng đồng hồ về đến văn phòng quận “nhà” của ông tổ trưởng. Tài xế cho xe thắng vội làm mọi người đổ về phía trước. Tổ trưởng nạt tài xế: “Ẩu, mậy!” Tài xế cười ngỏn nghẻn: “Xin lỗi anh Năm, mới thay bố, thắng ăn hết xẩy luôn”.

Tổ trưởng đứng lên dăn dò: “Tụi em chờ anh một chút, anh vô Ủy Ban xong rồi mình đi Đức Huệ luôn”.

Một lát sau anh Năm trở ra xe, phóng lên cửa, bảo tài xế: “Xong, lên đường!” Rồi quay lại nói với chúng tôi: “Gạo có sẵn trên đó rồi. Thực phẩm phân phối tới tận Ban Quản Lý nông trường. Anh em yên tâm công tác, không sợ đói”.

Đến Đức Huệ trời còn nắng sáng, thời tiết ấm áp, chúng tôi lục tục vác cuốc, xẻng xuống xe chạy theo Tổ Trưởng. Khi đến một bến sông, theo chỉ dẫn của ông tổ trưởng, chúng tôi lần lượt bước xuống một chiếc ghe máy đậu gần bờ. Tổ trưởng nhắc chừng: “Từ từ xuống, coi chừng lọt sông nghe”.

Chúng tôi vừa an vị phía trước ghe, tài công đã cho ghe tách bến lên đường. ông tổ trưởng và cô Tư ngồi trên nắp khoang ghe dựa cabin nhìn phong cảnh hai bên bờ sông, cây cối thưa thớt. Nhà dân ở dọc theo sông giống hệt nhau và cách nhau đều đặn như có đo đạc cẩn thận. Trước mặt mỗi nhà đều có một giàn bầu hoặc một giàn mướp, có người còn trồng cả bầu thúng hoặc bầu hồ lô. Dân Saigon mới lên lần đầu tiên cảm thấy ngớ ra không biết bầu hồ lô là một loại quả gì, hỏi nhau inh ỏi. Tôi giải thích đó là một loại bầu không phải để ăn mà khi chín được phơi khô để làm một bình đựng nước hay đựng rượu. Ngày xưa ở bên Tàu, đời Đường hay Tống gì đó có tám người tu theo đạo Tiên gọi là bát tiên, trong đó có một ông tên Lý Thiết Quải, “hàng” của ông gồm một cây gậy bằng sắt để chống, “thiết” là sắt, còn “quải” có nghĩa là cây gậy, và một cái hồ lô làm từ trái bầu giống như loại bầu này đây để đựng thuốc cứu nhân độ thế và cái hồ lô của ông tiên Lý Thiết Quải luôn có khói bốc lên nghi ngút. Nhìn lên bức tranh vẽ Bát Tiên dễ nhận ra ông già chống gậy, tay cầm cái hồ lô có vẽ một làn khói từ từ bay lên.

Ghe bắt đầu đi vào một vùng đồng không mông quạnh và “cỏ non” xanh tận chân trời, không hề có một bóng cây thân gỗ “làm thuốc”. Thật ra đây không phải là “cỏ non” mà là “cỏ năng” chứng tỏ đây là một vùng đất phèn thê thảm. Người dân ở vùng nước phèn này thật sự khổ trăm bề. Nước có đầy dưới sông, dưới kênh, dưới rạch nhưng để ngó hay để cho con nít nhào xuống bơi lội nô đùa chứ không uống được, không nấu ăn được, không tắm được vì nó rít chịt, không làm cho xà bông tan để tạo ra bọt, và cũng không giặt gỵa gì được hết. Muốn có nước dùng để ăn, để tắm rửa giặt gỵa, người dân phải mua nước ngọt được chở tới bằng xe tải hay bằng ghe nếu có sông rạch thông thương đến tận chỗ.

Sau gần hai tiếng đồng hồ ghe cũng đến được Ban chỉ huy nông trường. Ông Tổ trưởng phóng lẹ qua cầu ván lên bờ đi thẳng vào văn phòng. Chúng tôi cũng vác cuốc xẻng bước qua cầu lẽo đẽo theo sau. Cô Tư và đám nhân viên nữ với những thứ lỉnh kỉnh nồi niêu xoong chảo đi đoạn hậu.

Một lát sau, Tổ trưởng bước ra, theo sau là một người đàn ông xuýt xoát tuổi tôi dẫn chúng tôi vào “căn tin” để ăn cơm trưa mặc dầu lúc bấy giờ đã hơn hai giờ chiều. Thật tình cả đám chúng tôi không còn nhớ hôm đó chúng tôi ăn cơm với thức ăn gì, chúng tôi đã nuốt vội vã vì đói quá. Đặc biệt ở đó cơm không có độn khoai mì, khoai lang gì cả vì chúng tôi được hưởng tiêu chuẩn của những người đào kênh.

Ăn xong chúng tôi được đưa đến một cái lán cách “căn tin” vài chục mét. Lán là một căn nhà bề ngang khoảng bốn mét bề dài chừng hai chục mét, mái lợp bằng tranh, rường, kèo, cột toàn bộ bằng tre. Giữa nhà là lối đi, hai bên là sạp bằng vỉ tre để làm chỗ nghỉ ngơi. Chúng tôi nhận ra đây là nơi cư ngụ trong thời gian làm công tác đào kênh. Bên cạnh chúng tôi là một lán khác nghe nói có người ở, đó là công nhân viên của xí nghiệp Tàu Vị Yểu trong Chợ lớn. Trong lán đang vắng vẻ, có lẽ giờ này họ đang đào kênh ở hiện trường.

Sáng hôm sau, chúng tôi vừa ăn sáng xong, một người của Ban chỉ huy nông trường dẫn chúng tôi ra địa điểm đào kênh. Anh giúp chúng tôi cắm cọc, làm dấu để đào cho đúng bản quy hoạch của nông trường. Cả nhóm chúng tôi được chia làm ba toán, mỗi toán năm hoặc sáu người trong đó có hai hoặc ba “kiện tướng” đào kênh. Những kiện tướng này thật ra là những thanh niên ở khu Hố Nai, nhà thờ Bùi Chu đã từng có kinh nghiệm đi đào kênh rồi, nên họ có “đồ nghề” như len, xẻng đúng tiêu chuẩn cho công việc đào kênh. Những người khác không phải trong nghề mang theo loại xẻng xúc cát, đá coi như vô dụng. Ngoài các kiện tướng, trong mỗi toán có vài ba em “thợ vịn” tức là không có tay nghề hay nói theo danh từ kỹ thuật là “chuyên môn bậc không”. Tôi được xếp vào hàng ngũ “thợ vịn” và công việc của đội ngũ này là đứng trong lòng kênh đợi ông kiện tướng xắn ra cục đất lập tức hốt quăng lên bờ. Việc phân công rất nhịp nhàng và công tác đào kênh của chúng tôi được diễn ra một cách thuận lợi.

Một hôm vào giờ nghỉ trưa, chúng tôi ngồi trên bờ kênh lấy cơm ra vừa ăn vừa tán gẫu. Câu chuyện hôm nay có phần sôi động khi một chàng thanh niên kể lại chuyện “Tiếu ngạo giang hồ” tới hồi Phước Oai Tiêu Cục bị phái Thanh Thành sát hại vô cùng bí ẩn. Xác chết lần lượt đưa về nằm la liệt ngoài sân. Không có người nào bị một vết đâm hay một vết chém nào cả. Sau cùng Tổng Tiêu đầu Lâm Chấn Nam bí mật điều tra bằng cách mổ bụng vài tử thi ra xem thì phát hiện tim người nào người nấy đều bị nát bấy, ngoài ra không còn thấy có một vết thương nào khác. Lâm Chấn Nam biết ngay sát thủ là người của phái Thanh Thành và những người đã chết vì độc chưởng, đó là…

Anh chàng thanh niên kể đến đây chợi khựng lại: “Chưởng này là…là, là cái gì ta quên bà nó rồi” .

Tôi buột miệng chêm vô: “Tồi tâm chưởng!”

Mọi người đồng loạt reo lên: “A, hay quá, anh Bảo biết chuyện này, kể tiếp đi anh Bảo, thằng này nó không nhớ đâu”.

Thế là tự nhiên tôi giống như đi rước họa vào thân đành phải tiếp tục kể tiếp nhân tiện tôi muốn tạo bầu không khí vui vẻ để anh em tiếp tục công tác.

Tôi đang kể lại nguyên nhân khiến người của Phước Oai tiêu cục bị giết hằng loạt thì đến giờ làm việc trở lại. Tôi định nhảy xuống lòng kênh thì mấy chàng trẻ nhao nhao lên: “Thôi anh Bào khỏi làm, anh ngồi đó kể tiếp đi. Tụi em làm hết cho”.

Vậy là kể từ đó cứ sau giờ nghỉ trưa tôi ngồi trên bờ kênh kể chuyện Tiếu ngạo giang hồ trong khi mọi người tiếp tục đào xới.

Đã qua đến ngày thứ tám, các ông kiện tướng đã đi xong hai lớp đất trên mặt, họ bắt đầu đào lớp đất kế tiếp bằng len ống. Công việc này chỉ dành riêng cho các kiện tướng. Những “thợ vịn” không cần phải ra hiện trường, nhưng riêng tôi thì phải ở lại để tiếp tục kể cho hết cái chuyện Tiếu ngạo giang hồ, một phần tôi cũng muốn động viên tinh thần xung kích của các anh ấy. Họ sẵn sàng làm việc trong khi mấy người khác nghỉ ngơi, hoặc tản bộ trên bờ kênh ăn đậu hũ nước đường, gánh hàng rong duy nhất có mặt trên vùng đất này.

Khi tôi kể đến hồi Đông phương Bất Bại và Dương Liên Đình bị cái đám Lệnh Hồ Xung, Nhậm Ngã Hành và Doanh Doanh tiêu diệt thì cũng vừa đúng lúc thời hạn công tác đào kênh của chúng tôi đã kết thúc.

Sáng hôm sau, chúng tôi lên đường trở về Saigon. Khi ngồi ghe máy đi về chợ Đức Huệ, một chàng thanh niên mà mấy bữa trước đây được gọi là kiện tướng còn luyến tiếc: “Phải chi còn làm thêm mấy ngày nữa để anh Bảo kể cho hết cái chuyện Tiếu ngạo giang hồ”. Một chàng khác nói vào: “Thôi, mười lăm ngày ngâm mình trong nước phèn chưa đã ngứa sao mầy còn muốn ở lại?”

(còn tiếp)

Dương Lêh

(1) “Ngày ấy mình yêu nhau” của nhạc sĩ Tuấn Lê

(2) Hình ảnh từ nguồn Internet.

Chân lý để làm gì? 

Sống ở đời, tôi cũng như mọi người trên thế gian này đều ước mơ có một cuộc sống hạnh phúc. Đó là nguyện vọng chính đáng của con người, là mục tiêu ta phải phấn đấu để giành lấy.

Hiểu biết quy luật của trời đất, của tự nhiên v.v… để sống thoải mái là mục đích nghiên cứu khoa học chân chính. Hiểu biết mình là ai? Có những khả năng tiềm ẩn nào giúp ta định hướng đi của đời mình cho chính xác? Nhưng đôi khi ta cũng chưa hiểu được là ở chỗ nào ta có thể thể hiện mình tốt nhất? Có lúc ta tự hỏi: Chúng ta đang theo đuổi cái gì? Chúng ta sống vì cái gì? Trò đời cái gì bàn lắm là nát, tranh luận lắm lại càng xa chân lý. Chiến tranh không thể chấm dứt, sự bất công và nghèo khổ không thể chấm dứt, nếu nguyên nhân gây ra nó vẫn còn… Nhìn chung, đại đa số con người hành động không ý thức, hoặc sống theo một lề lối khuôn khổ không thích hợp, tự đóng kịch với chính mình và luôn chịu ảnh hưởng của ngoại cảnh nên không vừa ý, dễ bất mãn.

Thực tại luôn chuyển biến hay nói cách khác: Tất cả đều “vô thường”. Bởi vậy, phải luôn luôn ý thức rằng mình đang đi trên con đường tìm chân lý. Đừng tự cho mình đã nắm được chân lý tuyệt đối. Bài học mọi thời đại là: Nếu cá nhân sai lầm thì mình họ chịu. Chủ gia đình sai lầm thì cả nhà chịu họa. Còn nếu ông vua sai lầm thì trăm họ lầm than.

Ta còn muốn chia sẻ với cuộc đời nên ta hãy viết để chia sẻ với con người. Từ nhìn nhận thực trạng sự việc. Ta có thể đóng góp được gì? Đóng góp bằng cách nào? Có thực tế hay không, hay chỉ là ước vọng, là ảo tưởng? Hứa hẹn ngàn chuyện, vạch ra bao ý tưởng, kế hoạch, chương trình nghe thấy hay, nhưng không thực hiện được một phần thì có ích chi? Muốn thực hiện được ý tưởng của mình, hạn chế ít nhất rủi ro, ngáng trở mà không bị cuốn theo dòng xoáy xu thời thì phải làm gì? Chẳng cái gì cố ép mà được, quả ngắt vội không bao giờ ngọt. Cho nên việc đầu tiên là ta phải giải phóng ý thức của mình. Chấp nhận đương đầu với kẻ thù trong mình. Bởi không ai sợ địch mà thắng địch bao giờ.

Một khi trong tay ta còn nắm chặt một vật gì mà không buông xuống thì làm sao ta mới có cơ hội lựa chọn để nắm lấy những thứ khác tốt đẹp hơn. Về tư tưởng cũng vậy. Nếu một người cứ khư khư bảo thủ với quan niệm của mình thì trí tuệ của anh ta cũng chỉ có thể đạt được ở một mức độ nào đó mà thôi. Làm sao có thể tiếp thu những cái mới tốt đẹp được. Bởi chúng ta không thể thay đổi được thế giới xung quanh nên ta phải chỉnh sửa chính mình. Ví như ta không thay đổi được chiều hướng của luồng gió nhưng ta có thể thay đổi điều chỉnh cánh buồm của thuyền mình… Con người chỉ cảm thấy thực sự hạnh phúc khi cho phép cá tính của mình được bộc lộ, chứ không phải làm theo nhận xét của người khác hoặc đối đầu với ý kiến của họ. “Tự do là khả năng biểu lộ ý chí, hành động theo ý muốn của mình”.

Ví dụ: có hai nhóm leo lên đỉnh núi để đạt được (chân lý, lý tưởng, hạnh phúc…): Chân, Thiện, Mỹ. Một nhóm leo ở sườn núi phía đông, còn nhóm kia leo ở sườn núi phía tây. Nhóm nào cũng cho mình đi đúng đường còn nhóm kia là sai. Thâm chí cực đoan hơn là không đi theo đường của ta thì các người sẽ là kẻ thù của ta. Trong khi đích đến là đỉnh: Chân, Thiện, Mỹ như nhau. Nếu không có tư tưởng tự do, cứ làm theo ý kiến nhận xét của người khác, chần chừ, do dự, lo sợ đủ thứ thì biết bao giờ mới tới đích. Ngạn ngữ có câu: “Trên đường đi nếu cứ mỗi lần nghe tiếng chó sủa mà bạn dừng lại thì bạn sẽ chẳng bao giờ đến đích cả”.

Cuộc đời có quá nhiều đau buồn bởi những điều bất như ý: nào được, mất, hơn thua, sinh ly, tử biệt v.v… mệt mỏi vì đối đầu.

Sự cởi mở của thời cuộc đã xua đi những lóp sương mù u ám của định kiến. Có những người thức tỉnh như sau một giấc mơ dài, giờ đây định hướng để tiến tới. Tất nhiên họ phải chiến đấu với mọi cám dỗ, với các bất lợi của hoàn cảnh xung quanh và hy vọng… và cũng có những người không nhìn thấy ánh sáng rực rỡ ở tương lai phía trước. Họ là những người lạc lõng, đáng thương. Phải chăng họ sẽ bị một lực lượng siêu nhiên nào đó trừng phạt? Không! Họ sẽ phải tự rút ra bài học từ lỗi lầm. Ví dụ như bài học của đoàn người từ quê lên tỉnh. Bản đồ chỉ dẫn có sẵn không dùng, đường có sẵn không đi. Cứ khăng khăng đi theo ý mình cho đó là sáng tạo, mở ra con đường mới ngắn hơn… Họ động viên nhau hăng hái đi vào rừng rậm, đầm lầy, núi cao… dẫm lên gai góc đau đớn, rắn độc, chết chóc, lạc lối lung tung. Trong đoàn có những người hiểu biết khuyên răn đủ điều họ vẫn không nghe. Trái lại còn cho họ là nhu nhược, tiêu cực, vu khống họ là phản bội, trù dập triệt hạ họ. Hậu quả hy sinh biết bao người cuối cùng mới ý thức được sự ngu xuẩn của mình rồi quay trở lại con đường có sẵn mà người ta đã trải qua hàng trăm năm trước. Họ sung sướng, kiêu ngạo, tự hào là đã tìm ra chân lý!

Một ví dụ khác. Người mẹ phải trải qua thời kỳ thai nghén để cho một sinh linh có điều kiện, thời gian hoàn thiện rồi mới ra đời. Mọi sự cố khách quan hay chủ quan khiến cho nó ra đời sớm hơn hoặc muộn đều phát sinh hệ lụy. Trở về với quy luật tự nhiên giản dị như vậy mà nhiều khi có những người không nhận ra.

Tự do tư tưởng cũng có nghĩa không phải muốn nghĩ thế nào thì nghĩ. Trước hết phải biết thoát ra khỏi áp lực bắt ta phải suy nghĩ theo một lề lối riêng nào đó. Phải biết tự suy ngẫm và tìm lấy con đường đi cho chính mình.

Đời là một bài học vô cùng quý giá mà ai cũng phải trải qua, phải học. Cõi đời đầy những vô thường khi thế này, khi thế khác đâu êm xuôi bằng phẳng. Không những thế đời người lại ngắn ngủi và luôn bị giằng xé bởi cuộc đấu tranh giữa nội tâm và ngoại cảnh, thậm chí còn như bị một lực lượng vô hình nào đó chi phối (hay còn gọi là vận mệnh, số phận…). Đâu mấy ai ý thức được rằng những quyết định sai lầm, sự phung phí tiền của, thời gian… hôm nay là dọn đường cho sự đau khổ của ngày mai. Chỉ tiếc rằng khi đắc thời người ta thường quên đi quá khứ rất nhanh, để rồi lại đi vào “vết xe đổ của người xưa”, để rồi “thân bại danh liệt”. Cũng bởi chúng ta có tính hay quên nên cứ phải học đi học lại các bài học đau khổ. Chua chát thay chỉ trong đau khổ nhục nhã ê chề người ta mới lại chịu học.

Tạo hóa đã ban cho con người hơn hẳn con vật là có trí thông minh để phán đoán, nhận xét và phân biệt. Vì vậy chúng ta đi tìm chân lý để sống tốt hơn, chứ không phải để dạy và càng không phải khổ vì nó.

02/7/2012

LÊ MINH CHỬ


Người Việt Nam đầu tiên

dịch “Sông đông êm đềm” là ai?

( Như Phong, 1917-1985 )

THÚY TOÀN

Lâu nay, các độc giả Việt Nam thường chỉ biết đến bản dịch “Sông Đông êm đềm” do dịch giả Nguyễn Thụy Ứng thực hiện (đã được NXB Văn hóa ấn hành lần đầu từ năm 1959 đến 1961).

Tuy nhiên, cũng cần nhắc đến một bản dịch khác tác phẩm bất hủ này của M. Solokhov (1905 - 1984) xuất hiện ở ta trước đó khá lâu, ngay sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công.

Tác phẩm sử thi trường thiên của nhà văn hào Nga đã xuất hiện trên tờ báo Cứu quốc, cơ quan tuyên truyền tranh đấu của Tổng bộ Việt Minh, bắt đầu từ số 231 ra ngày 4 tháng 5 năm 1946 và được đăng tải trong nhiều số. Bản dịch lấy tên là “Trên sông Đông êm đềm”, người viết: Michel Cholokov (phiên âm theo tiếng Pháp), người dịch: Hồng Hà. Mỗi số đăng một đoạn trong khuôn khổ 12x21cm, xếp gọn ở một góc, thường ở trên trang 4. Nếu ai sưu tập báo Cứu quốc những năm 1945, 1946, chỉ qua hình thức tờ báo cũng có thể thấy bước đi mạnh mẽ của Cách mạng. Những số báo Cứu quốc ra ngay sau Cách mạng Tháng Tám in trên các khổ giấy khác nhau, chất lượng khác nhau, số trang khác nhau. Có số báo in trên những trang lớn hơn kích cỡ tờ báo Nhân Dân hay Lao Động ngày nay. Tiếp đó lại in trên khổ giấy báo thông thường (khổ 30x40 cm). Giấy thì là giấy rơm lờm xờm, không đủ sút tẩy, có tờ vàng khè, có tờ lại pha phẩm xanh lơ, xen vào đấy cũng có số in trên giấy trắng, kiểu giấy bản dày và số trang dày mỏng khác nhau. Nhiều số báo chỉ là một tờ hai mặt. Nhưng đến số 230 bạn đọc được thông báo: Bắt đầu từ số ra ngày 4-5-1946, báo sẽ đăng thường kỳ bản dịch trường thiên tiểu thuyết “Trên sông Đông êm đềm”, và kể từ số 231 ra ngày 4-5-1946, báo cứu quốc đã đều đặn ra nhiều trang: Ba trang đầu dành chủ yếu đăng các bài vở như trước, từ trang 4 trở đi là các bài về xã hội, văn hóa, văn nghệ. Như trên đã nói, “Trên sông Đông êm đềm” xuất hiện trên báo Cứu quốc trong khung cảnh như vậy.

Đến đây, một câu hỏi buộc tôi phải tìm hiểu để rồi đây đáp ứng thắc mắc - chắc hẳn sẽ nảy ra ở các bạn đọc: Vậy thì dịch giả Hồng Hà là ai?

Tôi nghĩ ngay đến nhà văn, nhà báo Hồng Hà, tác giả nhiều cuốn sách nổi tiếng viết về Bác Hồ, trong đó đặc biệt được nhiều người tìm đọc là hai cuốn: “Bác Hồ ở Pháp” (1977) và “Bác Hồ trên đất nước Lênin” (1981), cùng với đó là bộ phim 4 tập quay theo kịch bản văn học của ông về Chủ tịch Hồ Chí Minh. Tìm đọc tiểu sử nhà văn Hồng Hà in trong Kỷ yếu của Hội Nhà văn Việt Nam ra năm 2007, tôi được biết thêm: Hồng Hà tên thật là Hà Văn Trường, sinh ngày 5-9-1928. Như vậy năm nay nhà văn 82 tuổi. Trong phần tiểu sử còn cho biết: “Viết báo Cứu quốc sau Cách mạng Tháng 8 năm 1945”. Vậy có phải bản dịch “Trên sông Đông êm đềm” công bố trên báo Cứu quốc số ra ngày 4-5-1946 là của chàng trai Hà Văn Trường mà sau này viết báo, viết văn lấy bút danh Hồng Hà, trở thành cái tên quen thuộc trong giới văn chương, báo chí và cả trong hàng ngũ cán bộ lãnh đạo chính trị?

Dù sao đi nữa tôi vẫn phân vân. Vào thời điểm đó, năm 1946, chàng trai Nam Định Hà Văn Trường mới 18 tuổi và hình như một tài liệu nào đó có cho biết cụ thể hơn là nhà báo Hồng Hà bắt đầu sự nghiệp trên báo Cứu Quốc từ 1948. Vậy thì ông khó có thể là dịch giả bản dịch ra năm 1946.

Điểm lại các cây bút thường xuất hiện trên báo chí cách mạng thời kỳ này, tôi lẩy ra một số người ngoài sáng tác, còn xuất hiện tên ở cuối bài dịch tư liệu hoặc tác phẩm nước ngoài: Hải Triều, Học Phi, Xuân Diệu, Nguyễn Huy Tưởng (Thao Trường), Như Phong… thì phát hiện ra: Nhà văn Như Phong (1917 - 1985) tên khai sinh là Nguyễn Đình Thạc, sinh tại Hà Nội, có cái bút danh Hồng Hà bên cạnh mấy bút danh khác nữa như Lam Vũ, Nguyễn Kiên Trì.

Như vậy, bút danh Hồng Hà ở bản dịch “Trên sông Đông êm đềm ” xuất hiện trên báo Cứu quốc năm 1946 có thể là của nhà văn Như Phong. Chàng trai Hà Nội Nguyễn Đình Thạc tham gia Cách mạng từ năm 1937, hoạt động trong Đoàn Thanh niên Dân chủ. Năm 1938 anh phụ trách phần văn nghệ báo Thế giới, sau này có tham gia xây dựng Hội Văn hóa Cứu quốc. Với bút danh Như Phong, Nguyễn Đình Thạc đã sáng tác nhiều truyện ngắn đăng trên báo chí công khai ở Hà Nội khi đó. Truyện ngắn của Như Phong đã làm cho anh con trai Hà Nội khác là Nguyễn Sen (tên khai sinh của nhà văn Tô Hoài) rất mến mộ. Nhà văn Tô Hoài nhớ lại trong hồi ký của mình: “Trong những cây bút viết truyện ngắn thời kỳ này mà tôi thường đọc, tôi không thích những truyện ngắn nhẹ nhàng của Khái Hưng, Nhất Linh, mà trong lớp trẻ viết truyện ngắn như Nguyên Hồng, Cao Thọ Ân, Nguyên Xuân Huy, Ngọc Giao, Thanh Châu, Nguyễn Văn Xuân, Phạm Dụ tôi yêu truyện ngắn Cao Thọ Ân và Như Phong hơn cả, mặc dầu Như Phong viết không nhiều. Truyện ngắn Như Phong gọn thoáng, mới lạ, khơi gợi nhiều đối với một người đương tìm học và tìm lẽ sống như tôi”. Tô Hoài kết luận: “Hình ảnh lý tưởng về con người cầm bút khá hấp dẫn đến lúc ấy đối với tôi là Như Phong và Nguyên Hồng những người gần gũi xấp xỉ trên tuổi tôi một chút”.

Chính bản thân nhà văn Như Phong sau này cũng đã tâm sự: “Sức mạnh kỳ diệu của văn nghệ, đó là một điều có thật trong cuộc sống những cuốn tiểu thuyết hay những bài thơ đã từng định đoạt cho phương hướng cả một đời người. Tôi nói một điều mà tôi biết rõ. Nhìn lại những chặng đường tư tưởng của mình, tôi thấy rằng tôi đã trở nên tôi như bây giờ xấu có tốt có, nhưng không đến nỗi mù mịt về con đường mình đi, chính là nhờ ở những đêm nào đó hồi mười sáu tuổi thao thức không ngủ với tập “Tái sinh” của Lep Tonstoi, trong khi gió mùa đông nói những chuyện gì bát ngát, bao la trên những mái nhà cũ của thành phố… Tất nhiên, sau đó còn bao nhiêu cái khác do cuộc sống mang lại, sau đó còn những nỗi bất bình chua chát trong một xã hội đen tối và ngột ngạt, còn phong trào những năm 36, 39, còn ánh sáng của Đảng, nhưng tôi nghĩ rằng sự lựa chọn lớn nhất của đời tôi đã bừng sáng lên rồi trong những đêm bắt đầu biết yêu ghét mạnh mẽ và rõ ràng như vậy”.

Những ngày Cách mạng Tháng Tám, Như Phong có chân trong ban lãnh đạo khởi nghĩa ở Hà Nội, là một trong những cây bút chủ chốt của các báo chí cách mạng như Cứu quốc, Tiên Phong, Sự Thật…

Đến đây tôi càng có thêm cơ sở để tin điều phỏng đoán tác giả bản dịch “Trên sông Đông êm đềm” với bút danh Hồng Hà là nhà văn Như Phong. Tuy nhiên để khẳng định chắc hơn, tôi đã mang theo bản sao chụp số báo Cứu quốc 231 ra ngày 4-5-1946 tìm đến hỏi chuyện nhà văn Tô Hoài ở khu tập thể Nghĩa Tân (quận Cầu Giấy, Hà Nội).

Trên trang 4, trang văn nghệ, bắt đầu đăng kỳ 1 bản dịch “Trên sông Đông êm đềm” lại có cả bài “Đêm mưa nghe tiếng ngâm thơ” của chính nhà văn Tô Hoài. Nhà văn cầm xem, tủm tỉm cười vui khi tôi hỏi xem ông có nhớ lại tác phẩm của mình không và khi tôi chỉ xuống bản dịch “Trên sông Đông êm đềm”, hỏi người dịch có bút danh Hồng Hà là ai, thì nhà văn càng cười vui, trả lời ngay: “Như Phong chứ ai”. Ông cho biết, bấy giờ theo yêu cầu ra những trang văn nghệ, Như Phong đã nhận dịch tác phẩm của văn hào Nga Xô Viết Mikhain Solokhov. Dịch đến đâu in đến đấy, đều đặn hàng ngày.

Bấy giờ nhà văn Như Phong đảm nhận chức kiểm duyệt ở Sở Thông tin tuyên truyền. Và có lần chính ông kiểm duyệt lại tự cắt bỏ một vài đoạn trong bản dịch của mình đưa in thường kỳ trên báo Cứu quốc này…

Sau buổi được tiếp kiến nhà văn Tô Hoài thì tôi có thể khẳng định chắc chắn người đầu tiên dịch tác phẩm tiểu thuyết trường thiên của nhà văn hào Nga Mikhain Solokhov “Trên sông Đông êm đềm” ra tiếng Việt in trên báo Cứu quốc bắt đầu từ số 231 ra ngày 4-5-1946 ký tên Hồng Hà chính là nhà văn Như Phong. Tôi thật sự vui mừng và tự hào còn vì nhà văn Như Phong có thời gian dài làm Giám đốc nhà xuất bản Văn học (1965 - 1980), nơi tôi đã được làm việc gần như suốt cả cuộc đời công tác của mình.

Thúy Toàn





Phụ Bản IV

Người Mẹ Kế

Truyện ngắn của Dorothy Marie Johnson (1905-1984), Hoa Kỳ.

Bản dịch của Nguyễn Văn Sâm

Rời bỏ quê nhà, xe của chúng tôi chậm chạp vượt qua từng dặm đường dài, băng qua cánh đồng cỏ lộng gió hướng về dãy núi cao.

Chúng tôi ra đi với chiếc wagon một ngựa kéo và một ít đồ đạc. Ban đầu chúng tôi có bốn người. Cha tôi và tôi đi bộ theo xe vì tôi tuy mới mười một tuổi mà đã lớn xác. Hai đứa em gái tôi lon ton, nô đùa phía sau xe, rồi bị tống lên xe nằm sau khi đã thấm mệt.

Xe thuộc loại Conestoga có bánh xe rất lớn, không có mui, thuận tiện để vượt qua những cánh đồng cỏ. Giống như những chiếc mà bà con của Cha đã dùng để đi về miền Viễn Tây trước đây, nhưng chiếc xe nầy thì cũ kỹ quá, ngựa lại yếu nhớt, uể oải. Lúc thì kêu cót két, lúc thì kêu rầm rầm, xe ì ạch nhắm hướng một thành phố nhỏ nơi bìa rừng mà Cha nghĩ là có một ông bác đang làm chủ một trại cưa nhỏ.

Đi được hai tuần thì có thêm cô Mary nhập bọn. Từ đâu cô lạc lõng đến đây cô không hề hé môi về chuyện đó. Cha không muốn cho cô thêm vô nhóm, nhưng cô nhứt định đòi đi theo.

Cô cương quyết: "Em muốn nhập bọn với một gia đình và chăm sóc tụi nhỏ. Em không trở về đâu. Nếu anh không cho em đi theo, em sẽ đi theo bất kỳ xe nào khác". Cha cau mày nhìn cô, cô trừng đôi mắt xanh lơ ngó Cha.

Cha hỏi: "Cô mấy tuổi?"

Cô đáp: "Em mười tám tuổi rồi chớ bộ. Thiếu gì người đi ngựa ngang qua đây, nhưng em thích theo gia đình anh. Em không trở về đâu!"

Cha dịu giọng: "Bốn cha con tôi sắp cạn lương thực rồi. Tiền nong cũng sạch bách. Tôi không xoay sở nổi nếu đoàn có thêm người. Ông quay đi làm như thể là không muốn nhìn mặt cô. "Cô phải đi bộ theo".

Thế là cô theo chúng tôi và chăm sóc cho hai em gái tôi, nhưng Cha không buồn ngó ngàng hay chuyện vãn lời nào với cô.

Ngoài đồng thì gió thổi mạnh. Đến núi thì trời đổ mưa. Dân cư cho biết vùng này mưa liên miên suốt mùa Hè. Mưa làm rã mục gốc rạ, làm hư hại mùa màng. Người ta tiếp đón chúng tôi một cách thờ ơ. Những người nghe chúng tôi trình bày đều đi qua với cùng tâm trạng của chúng tôi, lo âu cho tương lai cuộc sống.

Cha tôi cũng thế. Mỗi ngày, so với xe, ông đi gấp đôi. Ông mang súng vào rừng, sục sạo nhiều nơi nhưng chẳng thấy bóng dáng con mồi nào. Trước đến giờ ông săn nai lấy thịt nuôi gia đình. Nhưng lúc nầy chúng tôi đâu được nếm qua chút nào đâu, may mà được dân định cư miễn cưỡng tặng cho một ít.

Chỉ một lần, ông mang về được một con nhím; loại này thịt ngon, nhiều mỡ. Cô Mary đem chặt khúc và nướng. Khói bay mù mịt làm cô chảy nước mắt sống ràn rụa. Hai cha con tôi căng tấm vải dầu che mưa để lửa khỏi tắt.

Một ngày kia, chúng tôi dừng chân tại một căn chòi gỗ cũ kỹ và trống trải, chẳng có gì trong đó hết. Cha cho biết phải tạm trú nơi đây thôi vì ngựa đã kiệt sức rồi, không thể kéo xe trên những đoạn đường núi nữa.

Căn chòi ít ra cũng hữu dụng để che chắn gió mưa. Chúng tôi còn lại mấy củ khoai và một ít bột bắp. Cha bỏ cả buổi trời xuống mò cá ở một khe suối gần đó, cuối cùng cũng chẳng bắt được con nào. Cho đến ngày nay, tôi chẳng tha thiết gì tới chuyện bắt cá. Bộ mặt buồn so, hốc hác của Cha ngày xưa còn mãi ám ảnh tôi.

Cha kéo cô Mary và tôi ra ngoài chòi. Những giọt mưa từ các cành cây rơi ướt vai chúng tôi. Ông cho biết:

- "Ta biết chúng ta đang ở đâu. Từ đây đến nhà bác John rồi trở về mất khoảng bốn ngày đường. Đó là một thành phố nhỏ, sẽ có đồ ăn. Họ sẽ cho ta một ít dù bác John còn ở đó hay không cũng vậy".

Ông nhìn tôi và khuyên: "Con phải nghe lời cô Mary nghe con".

Đó là lần đầu tiên ông chấp nhận sự hiện hữu của cô Mary kể từ khi cô theo gia đình chúng tôi, cách đây hai tuần.

Ông nói tiếp: "Lâu nay con luôn luôn nghe lời Cha nhưng từ nay con phải tuân lời cô Mary. Cô có thể khôn lanh hơn".

Bỗng ông chua chát: "Người đời chẳng hề tốt với mình, họ chỉ biết 'sống chết mặc bây ai lo phận nấy' thôi. Nhưng ra thành phố, ta sẽ tìm được đồ ăn đem về đây".

Ông hít mạnh, nói tiếp: "Ở đây, nếu đói quá thì giết con ngựa đi. Thà làm như thế còn hơn chịu chết đói hết".

Ông hôn từ giã hai đứa nhóc, đoạn cầm súng, choàng cái mền lên người rồi chầm chậm lê bước đi.

Căn chòi mốc meo, không có nền. Chúng tôi đốt lửa trên nền đất và cho khói thoát ra qua một cái lỗ ở nóc chòi. Khói bay mịt mù, nhưng chúng tôi phải đốt lửa để hong củi cho khô bớt.

Đêm thứ ba chúng tôi mất con ngựa. Một con gấu làm nó hoảng sợ nên đã tung chạy biệt dạng. Nghe tiếng động, cô Mary và tôi phóng ra nhưng trời tối đen, chẳng thấy được gì.

Vừa rạng sáng tôi đã ra đi tìm nó. Tôi đã đi có lẽ đến mười lăm dặm. Phải tìm cho ra con ngựa đem về. Chắc chắn tôi sẽ bị Cha quất nếu Cha về mà thấy mất ngựa. Tôi bị lạc đường hai ba lần, tưởng phải chết mất xác vì có ai biết đâu mà tìm. May mà tôi tìm được đường về.

Ngày thứ tư. Chưa thấy cha về. Chúng tôi đã ăn đến phần lương thực cuối cùng.

Ngày thứ năm, cô Mary đi tìm con ngựa. Hai đứa em gái tôi thút thít, co ro sát vào nhau trong mền bên cạnh đống lửa. Chúng vừa sợ vừa đói.

Người tôi chẳng bao giờ khô ráo vì luôn phải ra ngoài đem thêm củi vô hay phải ra gọi cô Mary. Nghe gọi, cô sẽ không đi lạc. Tôi không khóc như hai đứa nhỏ vì tôi đã lớn, mười một tuổi rồi.

Gần tối, men theo tiếng tôi gọi, cô Mary trở về chòi.

Cô không tìm được ngựa, đến một miếng da hay một túm lông cũng chẳng thấy đâu. Thay vào đó, cô vác về một cục lớn màu trắng, dòm giống như một trái bí rợ.

Chẳng nói chẳng rằng, cô ngó quanh quất, biết là Cha tôi chưa về.

Em Elizabeth hỏi: "Cái gì vậy cô?"

- "Nấm. Có lẽ nặng đến ba ký".

- "Cô làm gì với cục nấm đó," tôi nhếch mép: "Để đá banh chắc!"

- "Ăn - có thể". Cô đặt nó vào góc chòi. Tóc cô sũng nước, xõa xuống đôi vai. Cô ngồi co ro bên cạnh đống lửa.

Bé Sarah bắt đầu thút thít, luôn miệng kêu: "Đói bụng quá".

Tôi nói: "Nấm không ăn được đâu. Ăn vô chết liền đó".

- "Có thể," Cô Mary đáp. "Nấm có thể làm chết người. Cô không làm bộ giống như một số người rằng mình biết hết mọi thứ trên đời đâu".

Tôi hỏi cô: "Cái dấu gì trên bờ vai của cô vậy? Cô bị gai quào rách áo khi vô rừng hả?"

- "Theo cháu, nó là cái gì?". Cô vừa nói vừa cúi đầu xuống đám khói.

Tôi đoán: "Trông giống như những vết thẹo".

- "Đúng là thẹo. Chúng đã dùng roi quất cô. Thôi, lo việc của cháu đi. Cô cần suy nghĩ một chút".

Bé Elizabeth lại thút thít: "Sao Cha không về?"

Cô Mary dỗ dành: "Cha sắp về rồi. Trời tối quá Cha chưa về được. Chắc chắn Cha sẽ về lo cho cháu mà".

Cô đứng dậy, đến lục lọi hộp đựng lương thực. Tôi càu nhàu:

- "Trong đó chỉ còn mấy cái dĩa không thôi mà. Nếu còn chút gì trong đó tụi cháu đã thấy rồi".

Cô đứng lên, đi lấy cái hộp mỡ nhím. Cô nói tỉnh bơ:

- "Cô có đồ gì để ăn rồi. Nhưng các cháu chưa được ăn đâu. Cô không muốn nghe ai kêu ca gì hết, rõ chưa?"

Rồi cô hành động, thấy thiệt là ác. Cô cắt cục nấm, đem chiên bằng mỡ nhím. Mùi nấm chiên thơm lừng khiến hai nhóc chui ra khỏi mền. Nhưng bằng giọng quyết liệt, cô bắt buộc chúng chui trở vô. Chúng tấm tức khóc, thấy thiệt thương tâm.

Tôi nén khóc, căm gan, theo dõi coi cô làm gì tiếp theo.

Tôi cố chịu đựng mùi thơm của nấm chiên. Nhưng được một lúc, tôi ngỏ lời:

- "Chia cho cháu một ít đi".

- "Mai nghe. Ngày mai, có thể được. Nhưng hôm nay thì không".

Cô quay lại phía tôi, quyết liệt: "Đừng quấy rầy cô. Để cô tính".

Cô quỳ cạnh đống lửa và chiên hết số nấm.

Ước gì có được cây súng của cha, tôi sẽ nã vô cô lập tức.

Cô không ăn liền. Cô nhìn lát nấm chiên dòn một hồi lâu. Đoạn nói: "Sáng ngày mai, cô nghĩ là cháu có thể cho biết là các cháu có muốn ăn hay không".

Hai đứa nhóc nhìn cô chăm chăm khi cô ăn. Bé Sarah gặm đỡ cái bao tay bằng da cũ.

Rồi cô Mary bò vào mền ngủ với chúng. Chúng cố tránh xa cô.

Tôi hoảng sợ đến nỗi bao tử bồn chồn dù rằng nó trống trơn.

Cô Mary nằm trong mền đâu được lâu. Cô ra lấy nước trong xô uống, đoạn ngồi bên đống lửa. Cô nhìn tôi qua màn khói.

Cô nói nhỏ với tôi: "Nếu gặp nấm độc, cô không biết cô sẽ ra sao. Cháu cố gắng lo cho hai đứa em nhe. Vì Cha cháu sắp về rồi... Cháu nên đi ngủ đi. Đêm nay cô sẽ đi ngủ rất trễ " .

Và người ta cũng sẽ ngồi thức như thế. Nếu đó là đêm cuối cùng của đời người. Thần Chết có thể đến với người ta bất kỳ lúc nào. Người ta ngồi kế bên đống lửa mịt mù khói. Ngồi đấy để ôn lại những gì cần nhớ lại, để cảm nhận được sự thú vị của đời người.

Chúng tôi ngồi yên lặng; hai đứa trẻ đã ngủ. Được một lúc, tôi hỏi:

- "Bao lâu thì chất độc mới ngấm hả cô?"

Cô đáp: "Cô chẳng nghe thấy gì hết. Thôi đừng nghĩ đến chuyện đó nữa " .

Một lúc sau tôi gục xuống, cằm tựa vào ngực, ngủ ngon lành.

Có lẽ thánh Peter cũng ngủ gục như vậy trong khi Đức Chúa Trời quỳ cầu nguyện suốt đêm khi Ngài biết rằng ngày mai mình sẽ bị bắt.

Cô Mary đi tới đi lui chộn rộn làm tôi tỉnh ngủ. Màn đêm sáng dần. Cô nói:

- "Cô nghĩ là nấm không độc. Bây giờ ta có thể nói như vậy được rồi, phải không?"

Tôi đáp cụt ngủn: "Cháu đâu biết được " .

Cô ra đứng trước cửa chòi. Ngước nhìn bầu trời. Mưa còn rơi rơi. Hình như cô thấy bầu trời đẹp lắm.

Cô đi vào, đem chiên các lát nấm. Hai nhóc háo hức thèm thuồng mà lòng lo sợ. Ba anh em chúng tôi ăn một cách ngon lành, no nê cho đến lúc cô Mary nói: "Mấy cháu ăn nhiêu đó đủ rồi." và cô không chiên thêm nữa. Phần cô, cô không ăn miếng nào.

Hôm ấy căn chòi buồn tẻ bỗng có một ngày khác thường. Cô Mary vui hết biết, cô kể hết chuyện này đến chuyện khác, cô còn cùng chúng tôi tham gia trò chơi "Tìm cái đê" với trái thông khô.

Đến xế chiều mọi người bỗng nghe một tiếng gọi lớn, hai em tôi reo lên, tôi lao ra trước, chạy đến quãng rừng thưa.

Mưa đã dứt. Cha tôi phóng ra từ quãng rừng. Ông dẫn theo một con ngựa, trên lưng chở một cái bao. Tôi biết trong đó là cả một kho lương thực.

Ông cắt dây cột quanh cái bao, ngó chúng tôi với ánh mắt âu lo:

- "Còn một người nữa đâu rồi?"

Ngay lúc đó, cô Mary từ tốn bước ra khỏi căn chòi. Khi cô tiến về phía chúng tôi, mặt trời bắt đầu sáng hừng lên.

Người mẹ kế của tôi là một người đàn bà tuyệt vời.

Nguyễn Văn Sâm dịch

Victorville, CA, July 10- August 1, 2012

Khối Óc Bằng Vàng

La cervelle d’or

của nhà văn Pháp Alphonse Daudet

Dịch thuật: Thanh Châu

Gởi đến một bà đã yêu cầu những mẩu chuyện vui… Thay vì một câu chuyện duyên dáng hài hước, mà tôi đã hứa kể cho bà nghe, thì hôm nay, bà chỉ có được một truyền thuyết buồn mà thôi…

À la dame qui demande des histoires gaies… Au lieu du joli conte badin que je m’étais promis de vous faire, vous n’aurez encore aujourd’hui qu’une légende mélancolique.

La légende de l’homme à la cervelle d’or.

Truyền thuyết về người đàn ông có khối óc bằng vàng.

Thuở xưa, một người đàn ông có khối óc bằng vàng; vâng, thưa bà, một khối óc toàn bằng vàng!...

Lúc nó vào đời, các vị lương y cứ nghĩ rằng đứa bé này ắt không sống sót được, vì cái đầu của nó quá nặng và cái hộp sọ của nó cũng lón quá cỡ. Tuy nhiên nó vẫn sống và lớn lên dưới ánh mặt trời như mọi cây cỏ…

Chỉ có cái đầu của nó là luôn luôn lôi kéo nó… Thật là tội nghiệp, khi nhìn thấy nó cứ cụng đầu vào bàn ghế ở mỗi bước đi… Nó thường hay ngã xuống…Một ngày nọ, nó té lăn từ trên cao bậc thềm xuống, rồi dập đầu vào một góc đá cẩm thạch; cái sọ của nó ngân vang như một thỏi kim loại. Người ta cứ tưởng rằng thằng bé nầy phải chết; nhưng mà khi đỡ nó dậy người ta chỉ thấy một vết trầy xước nhẹ với hai hoặc ba giọt vàng đóng ở mái tóc. Như vậy, cha mẹ nó nhận định rằng đứa con nít nầy có khối óc bằng vàng.

Sự việc được giữ gìn bí mật. Thằng bé tội nghiệp nầy, chính nó cũng không nghi ngờ chuyện gì… Thỉnh thoảng, nó hỏi tại sao, người ta cứ cấm nó chạy ra cửa để chơi đùa cùng với những đứa trẻ khác…

Mẹ nó trả lời:

- Người ta sẽ bắt cóc con mất!... Kho báu cưng của mẹ!...

Thế là, thằng nhỏ rất sợ bị bắt cóc; nó quay vào nhà chơi một mình, mà không phàn nàn gì, và nó lê lết một cách nặng nề từ phòng nầy qua phòng khác…

Vừa lúc nó lên mười tám tuổi, cha mẹ nó mới tiết lộ một món quà khổng lồ mà nó đã nhận được của thần Định Mệnh; và vì họ đã săn sóc và nuôi dưỡng nó đến chừng nầy…, họ yêu cầu nó hoàn trả lại, một chút vàng của nó. Đứa trẻ không do dự, mà còn ngay lập tức nữa. – Làm sao? Bằng cách nào? Truyền thuyết không nói đến điều nầy. – Chỉ biết nó moi sọ lấy ra một khối vàng to bằng trái táo mà nó đặt vào đầu gối mẹ nó một cách hãnh diện. Thế rồi, quá chói mắt bởi sự giàu có mà nó mang trong đầu, điên cuồng tham vọng, say đắm quyền lực, nó rời bỏ nhà cha mẹ và bước vào đời để hoang phí của cải…

Với cái đà mà nó sống một cách đế vương và gieo rắc tiền bạc mà không cần tính toán…, người ta nói rằng khối óc của nó không bao giờ vơi… Tuy nhiên khối óc của nó vẫn cứ vơi, và từ từ người ta cũng có thể nhìn thấy đôi mắt của nó trở nên thất thần, gò má của nó trở nên teo tóp.

Cuối cùng, sáng một ngày kia, sau cuộc ăn chơi trác táng điên rồ, gã bất hạnh nầy đứng một mình giữa những mảnh vụn ngổn ngang của buổi tiệc xa xỉ, nó tái mặt hoảng sợ về cái lỗ hổng to tát mà nó đã tạo ra cho khối kim ngân của nó; đã đến lúc phải dừng thôi.

Kể từ đây là một cuộc sống mới. Người đàn ông có khối óc bằng vàng bắt đầu sống riêng lẻ bằng sức lực của đôi tay mình, nghi ngờ và sợ sệt giống như một kẻ hà tiện. Nó chạy trốn mọi cám dỗ, và cố gắng lãng quên cái gia tài định mệnh mà nó không muốn đụng vào nữa… Rủi thay!, một người bạn đã bám theo nó trong lúc cô đơn và người bạn nầy biết rõ bí mật của nó.

Một đêm nọ, người đàn ông tội nghiệp nầy giựt mình thức giấc vì một cơn đau đầu…, một cơn đau đầu kinh khủng; nó chồm dậy bàng hoàng, và thấy trong ánh trăng, người bạn chạy trốn vừa dấu cái gì đó trong áo khoác…

Lại thêm một chút óc của nó bị người ta lấy đi!…

Một thời gian sau, người đàn ông có khối óc bằng vàng trở nên si tình, và lần nầy thì tất cả phải hết… Nó thương đắm đuối trong lòng, một người đàn bà bé nhỏ, tóc vàng hoe, ả cũng thương nó, nhưng mà ả cũng thích luôn cả những món quà xa xỉ và những đôi giày bốt có kết hoa.

Trong tay của con người duyên dáng nầy - một nửa là chim xanh, một nửa là búp bê -, những mảnh vàng cứ tan theo niềm vui của nó. Ả ta có tất cả mọi sự đua đòi, còn nó thì không bao giờ biết nói không vì sợ làm phiền lòng nàng. Nó giữ kín đến cùng về cái gia tài bi thảm nầy.

- Có phải là chúng ta thật giàu có không vậy?... Nàng bảo.

- Ô! Vâng…, rất giàu có! Gã tội nghiệp trả lời.

Và nó cười âu yếm với con chim xanh đang gặm nhấm dần khối óc của nó một cách vô tư. Tuy vậy, đôi lúc nó cũng lo sợ, nó muốn ăn ở hà tiện. Thế rồi, người vợ bé nhỏ tung tăng đến với nó và bảo:

- Chồng em giàu sang lắm!, hãy mua cái gì đó đắt giá cho em đi…

Và nó mua ngay cái gì đó đắt giá cho vợ nó.

Câu chuyện như vậy kéo dài được hai năm. Đó rồi, vào một buổi sáng người vợ nhỏ bé nầy chết, mà người ta không biết tại sao, cũng giống như một con chim xanh… Kho báu đã tiêu hao đến tận đáy. Với chút đỉnh vàng còn sót lại, nó làm một đám an táng lộng lẫy cho người vợ thất lộc yêu dấu của nó… Chuông nhà thờ đổ liên hồi, xe tang cao cấp toàn đen, ngựa kéo được gắn bông trên đầu, mình phủ gấm nhung điểm bạc. Tất cả những gì mà nó cho là đẹp. Vàng còn nghĩa lý gì quan trọng đối với nó bây giờ?... Nó đem vàng dâng lên nhà thờ; nó đem vàng cúng đạo tỳ; nó đem vàng cho cùng khắp…

Như vậy, khi nó bước chân ra khỏi nghĩa trang, thì nó không còn gì về khối óc kỳ diệu đó, họa chăng một vài mảnh vàng nhỏ còn sót dính trong sọ nó…

Thế rồi, người ta thấy nó đi trên đường với vẻ lạc lõng, vừa loạng choạng như người say rượu.

Vào đêm, giờ mà các hiệu tiệm lên đèn. Nó dừng lại trước khung kính, nơi mà người ta trình bày cả đống vải sợi, những trang sức lấp lánh dưới ánh sáng. Nó đứng đó rất lâu để nhìn hai đôi giầy bốt viền lông chim. Nó tự nhủ vừa cười khẽ:

- Tôi biết có một người rất thích đôi giầy bốt nầy!...

Và chỉ nhớ đến người vợ bé nhỏ của nó, nó bước vào hiệu để mua…

Cô bán hàng đang ở phía trong; bỗng nghe một tiêng la lớn, cô vội vàng chạy ra, cô bán hàng phải hốt hoảng lùi lại, vì thấy một người đàn ông đang đứng dựa vào quầy thu ngân, ngơ ngác nhìn cô ta một cách đau đớn. Một tay y cầm đôi giầy bốt xanh viền lông chim và trình tay kia mấy mảnh vàng ở đầu ngón tay còn dính đầy máu!...

Như vậy đó, thưa bà, truyền thuyết về người đàn ông có khối óc bằng vàng là như vậy đó…

Mặc dầu cái nét có vẻ hư ảo, truyền thuyết nầy là thật sự từ đầu đến cuối. Có những người trong đời, bị bắt buộc phải sống bằng cân não của mình, và trả giá bằng cốt tủy những đồng tiền vàng xinh đẹp về tất cả vật dụng nhỏ nhặt nhất cho cuộc sống.

Đối với họ là một sự đau đớn mỗi ngày, và thế đó, khi mà họ đã quá mệt mỏi để chịu đựng…

Một lá thư

sai chính tả

Giờ trả bài tập làm văn luôn là giờ sôi động nhất vì thầy giáo thường đọc cho cả lớp nghe hai bài, bài được điểm cao nhất và bài có điểm thấp nhất.

Tất nhiên, bài cao điểm được những tràng pháo tay và bài điểm thấp là những trận cười, chưa kể sau đó còn hình thành nên nhiều giai thoại từ những câu mà thầy nhận xét là "què, cụt, thiếu sức thuyết phục...".

Và giai thoại này đôi khi còn lan truyền ra cả các lớp khác mà tác giả của nó chỉ còn cách là lấy cả hai tay mà che mặt lại. Cả lớp đứa nào cũng hồi hộp khi xấp bài trên tay thầy đã vơi nhiều rồi mà bài của mình còn chưa thấy đâu.

Hôm nay, như thường lệ, thầy mở cặp lấy xấp bài ra là cả lớp nhấp nhỏm. Với đề ra là "Hãy kể lại một kỷ niệm sâu sắc của em", thầy đã nói rằng lớp có bốn mươi học sinh thì chắc chắn sẽ có bốn mươi kỷ niệm khác nhau, không như khi chứng minh trích đoạn nào đó bị thầy chê là đơn điệu, chúng tôi thường chống chế "Thầy ơi, học cùng nhau thì làm sao mà dẫn chứng không trùng lập nhau được."

Khác thường, là thầy đưa xấp bài cho trưởng lớp chỉ giữ lại một bài. Chỉ một! Đứa nào cũng nhón người nghểnh cổ cho cao lên một chút để cố nhìn cho ra tên của ai và được mấy điểm nhưng không được. Bài hay nhất? Dở nhất?

Giỏi văn nhất lớp là Kim Chi. Nhưng rồi dự đoán của chúng tôi tiêu tan khi Kim Chi với tay nhận bài của mình từ tay trưởng lớp. Vậy là thầy giữ lại bài dở nhất rồi! Cả lớp chuyển ánh mắt nhìn về phía Cường với tiếng cười khúc khích. Cường thường có những câu văn kiểu như "Đi một ngày đàng học một sàng khôn, vậy nên chúng ta phải đi nhiều ngày hơn nữa"... Nhưng rồi Cường cũng nhận được bài của mình.

Vậy thì của ai? Hay? Dở? Làm sao biết trước được bài sẽ đọc lên hôm nay là của ai! Trời, môn văn... có khi bài trước mới được 6 điểm với lời phê "Lối hành văn trong sáng, nên đọc nhiều để dẫn chứng phong phú hơn" thì bài sau nhận được ngay điểm 4 với lời phê "Quá lan man dông dài!" Điểm bảy môn văn của thầy là một ước mơ xa! Ngay cả Kim Chi cũng nói vậy.

Chúng tôi nhìn theo tay của trưởng lớp cho đến khi bài cuối cùng được phát ra. Chỉ mình Dũng là chưa có. Không hẹn mà cả lớp đều ngạc nhiên nhìn về phía Dũng, tác giả bài văn trên tay thầy. Tránh cái nhìn của cả lớp, Dũng ngoảnh ra cửa sổ. Không thấy mặt Dũng nhưng có thể thấy rõ hai vành tai và cổ của Dũng đỏ ửng.

Dũng là học sinh trường huyện mới chuyển về lớp tôi được hai tháng nay. Không có gì nổi trội, nơi Dũng cái gì cũng bình thường và chưa có gì tỏ vẻ ra là đặc biệt về môn văn cả. Vậy mà điểm 8. Phải, điểm 8! Chúng tôi nhìn rõ số 8 đỏ chói trong ô điểm khi thầy đưa tay sửa lại cặp kính trên sống mũi, cử chỉ quen thuộc mỗi khi thầy xúc động. Giọng thầy trầm trầm:

"Kỷ niệm sâu sắc nhất của em là khi nhận được thư của ba em.

Nhà em nghèo lắm nhưng ba má cho em ra phố học để sau này em có thể làm được điều gì đó tốt đẹp hơn. Cho em ra phố, ngoài việc phải kiếm tiền làm thêm để có tiền trang trải chuyện học hành của em, ba em còn phải làm những việc mà khi ở nhà em có thể đỡ đần được cho gia đình. Chưa bao giờ ba má viết cái gì cả. Hồi em còn ở nhà, mỗi khi cần viết thư về quê hay viết đơn từ là em viết..."

Thầy ngừng đọc, nhìn cả lớp:

- Các em, thầy sẽ viết lại nguyên văn lá thư của ba bạn Dũng lên bảng cho chúng ta cùng đọc.

Một chuyện lạ! Tất cả chúng tôi hồi hộp tò mò từng chữ hiện ra dưới tay thầy.

"Con iu thươn của ba. Chìu hôm qua ba kiu người báng con heo đễ có tiềng gưởi cho con con nhớ nhà khôn? Cã nhà nhớ con nhìu lấm cố họch nge chừn nào mùa màn song ba má xẻ ra thăm con"

Lá thư vọn vẹn có 44 chữ.

Khi thầy quay lại thì Dũng đã úp mặt xuống bàn, hai vai run run. Mắt thầy cũng hoe đỏ. Cả lớp im phăng phắc trước lá thư đầy lỗi chính tả trên bảng, lá thư yêu thương gởi gấm của một người cha vốn chỉ quen với cày cuốc lần đầu cầm bút viết thư cho con.

MDst

CHỨNG NHÂN

- Bớ người ta… cứu cứu…

Tiếng người đàn ông đột ngột la lên kinh hãi làm rúng động cả khu xóm.

Mọi người ngơ ngác, hốt hoảng đổ ra xem, họ chỉ nhau vào một căn nhà đang mở toang cửa. Những người hiếu kỳ nhanh chân nhất vừa ló đầu vào đã vội rụt ra cũng tiếng kêu thất thanh. Thế nhưng tính tò mò vẫn tỏ ra có ưu thế hơn nỗi sợ. Nên dù có thò vào để lại vội rụt ra thì cũng chỉ mươi phút sau, con hẻm nhỏ chỉ rộng độ 3m đã đầy những người là người. Chợt có ai đó nhắc to lên là đi báo công an. Rồi từng tốp từng tốp xúm vào nhau đoán già đoán non sự thể. Tíếng vào lời ra, ai cũng cho rằng mình đoán đúng nguyên nhân dẫn đến vụ việc cho kẻ xấu số trong ngôi nhà kia. Có điều, trong ngôi nhà ấy, ngoài một cái xác treo toòng teng thì không thấy bóng một ai. Chi tiết ấy càng làm cho sự việc thêm li kỳ, bí ẩn.

- Công an tới rồi, tránh ra chút đi bà con.

Đám đông chẽ ra, nhường lối cho nhà chức trách. Ba người công an mới đến, nhìn qua hiện trường rồi hỏi:

- Người nhà nạn nhân đi đâu hết rồi hở các bác?

- Hai đứa nhỏ thì đi học rồi, còn chồng cổ chắc lại đi lái xe rồi.

- Vậy ai phát hiện ra đầu tiên ạ?

- Hình như thằng Sam thì phải?

- Có phải người đàn ông măc bộ đồ xanh sậm có râu quai nón không?

- Đúng rồi, đúng nó rồi đó. Ủa mà nó đi đâu qua đây mà biết sớm vậy cà?

- Thế nhà anh ta ở đâu?

- Nó ở xã bên kia cơ, chỉ hay qua vùng này mua heo thịt thôi.

Bỗng một người như nhớ ra:

- Thôi rồi, chắc là do chuyện tối qua rồi.

- Chuyện tối qua là chuyện gì?

- Chứ bà không biết gì à?

- Không, tối qua coi phim xong tui đi ngủ tuốt luốt, có hay gì đâu. Mà có chuyện gì vậy?

- Chuyện này… à mà phải hỏi ông Phan mới rõ được.

- Ông Phan khối phó an ninh đó hả?

- Ừ.

Nghe mấy lời bàn tán ấy, một anh công an nhướng hỏi:

- Vậy nhà ông Phan ở đâu hở bà con?

- Ông ở gần đây thôi, nhưng mà giờ này chắc ổng đi chạy xe ôm rồi. Mấy chú muốn gặp ổng hả? Đứa nào chạy đi kiếm ông Phan về cái đi.

Trong thời gian chờ đợi, những anh công an thu thập những thông tin cần thiết của nạn nhân. Một câu hỏi được đặt ra “Mưu sát hay tự sát?”. Nó chỉ có thể cho đáp án khi hồ sơ của vụ việc được khép lại. Ông Phan đạp mạnh cần thắng khiến nó kêu lên kin kít. Gạt vội chân chống, ông hơ hãi chạy vào. Ông đứng sững trước cảnh tượng, rồi kêu lên kinh hoàng:

- Trời ơi! Sao vậy hở trời? Tưởng êm rồi chớ.

Một anh công an hỏi:

- Ông là khối phó an ninh của khu vực này?

Ông Phan thờ thẫn gật đầu, mắt vẫn chăm chăm nhìn vào cái xác. Những người hiếu kỳ lúc này đã không còn cảm giác sợ hãi, một phần đã có thể yên tâm khi nhà chức trách thi hành nhiệm vụ, một phần có lẽ cũng đã quen mắt. Nạn nhân là một phụ nữ khoảng độ trên dưới tuổi bốn mươi, bị treo cổ bằng một sợi dây điện, đầu sợi dây treo trên thanh xà còn rõ dấu mới cắt. Sắc mặt đã chuyển dần sang màu đỏ bầm, nhưng cơ thể vẫn còn hơi hơi ấm. Cô đã tắt thở chưa quá hai tiếng đồng hồ. Nơi xảy ra vụ việc lại ngay tại phòng đầu tiên của ngôi nhà, có thể gọi là phòng khách, vì ngoài một bộ bàn ghế salon kê sát góc nhà còn một phần làm nơi thờ tự. Xác nạn nhân treo ngay trước bàn thờ này. Những anh công an dò tìm thật kỹ những dấu vết. Không có chiếc ghế đổ hoặc một vũng nước (trường hợp nạn nhân đứng trên một cây đá lạnh) dưới chân nạn nhân, cũng không có vết tích của sự lôi kéo chống trả. Lần theo hệ thống dây điện trong nhà, không phát hiện có đường dây nào bị đứt. Vậy sợi dây điện kia ở đâu ra? Những ngăn hộc tủ được kiểm tra rất kỹ. Cũng không thấy dấu hiệu của một vụ trộm cướp. Một số đồ vật có giá trị vẫn còn nguyên vị trí. Bỗng một anh công an “A” lên một tiếng khi tìm thấy trong một ngăn hộc đựng những thứ đồ dùng đã cũ, một mớ dây điện trùng màu với sợi dây treo cổ nạn nhân và cũng có một vết mới cắt, chứng tỏ có bàn tay của người trong nhà. Phát hiện quan trọng này có sự định hướng rõ hơn cho cuộc điều tra. Trở ra gian phòng ngoài anh công an xem xét kỹ hơn phạm vi hiện trường. Chiếc khăn trải bàn thờ có chút xô lệch, có dấu chân in rõ giữa lớp bụi, rõ nhất là những đầu ngón chân. Một thế đứng nhón, với. Nhìn lên trần nhà. Đó là một mái lợp tôn, không có lớp la phông, nên lộ rõ những thanh xà gồ. Khoảng cách từ mặt bàn lên đến thanh xà gỗ gần nhất độ 2m. Một phán đoán vút qua. Anh công an mở rộng tầm kiểm soát. Và thứ vật dụng trong phán đoán của anh đã được tìm thấy. Đó là một thanh gỗ dài chừng hơn 1m, có dấu cám rau bám một đầu, đang gác chéo lên một thanh ngang dưới chân bàn. Sau khi lấy dấu tay trên thanh gỗ, anh công an còn đưa ướm thử khoảng cách độ chéo từ chiếc bàn đến mối dây, nó tạm cho ra một đáp án nhỏ. Trong khi đó, một người công an khác ngồi ghi chép những gì ông Phan đang tường trình lại.

Đã vào khoảng 11g đêm, cả khu xóm đã chìm vào cõi tịch mịch. Hoan dừng tay phe phẩy chiếc quạt nan khi thấy cu Hợp đã ngủ say. Đặt nhẹ đầu thằng bé xuống gối, sửa lại chân tay con cho ngay ngắn, xong Hoan kéo tấm chăn đắp lên cho cả hai chị em. Bé Hảo đã ngủ rất say, chân hơi choãi ra, Hoan khép lại chân cho con bé rồi nhè nhẹ bước ra khỏi giường, dắt mép màn cẩn thận trước khi bước sang gian phòng bên cạnh. Có tiếng người đàn ông nho nhỏ nhưng tỏ vẻ sốt ruột:

- Xong chưa em? Sao lâu thế?

- Xong đây, xong rồi đây. Gớm, nóng thế?

Hoan vừa trả lời vừa thao tác trong bóng tối và lòn nhanh vào giường. Từ đó phát ra những tiếng hưng hức… Bỗng cả hai giật bắn mình khi có tiếng cửa mở đập đánh sầm một tiếng. Cùng lúc ánh đèn vụt sáng choang cả căn phòng. Chưa kịp hiểu ra chuyện gì thì cái màn bị giật mạnh rách đánh roạt. Tất cả những diễn biến ấy chỉ tích tắc vài giây, chưa kịp đủ thời gian cho hai thân thể kịp trở tư thế, thì đã cong oằn vì những nhát quất vun vút của một chiếc thắt lưng. Hai tấm thân trần đang còn nham nháp mồ hôi chỉ còn biết cuộn lấy nhau dưới cơn mưa đòn. Dường như cảnh tưởng ấy càng kích thích sự căm hận cho người chứng kiến, càng tăng lực quất của cánh tay, cơn căm hận điên cuồng không có khả năng dừng lại. Toàn thân người đang vung những nhát quất là một khối lửa bùng bùng, tưởng chừng thiêu đốt cả được hai kẻ tội đồ ra tro.

Những âm thanh khủng khiếp đó có lẽ còn làm rung chuyển đến cả những cái gì nữa chứ không chỉ là giấc ngủ hai đứa bé ở phòng bên cạnh. Chúng kinh hoàng trợn to mắt với những gì đang nhìn thấy, cu Hợp sợ quá nép vào chị khóc thét lên, bé Hảo cũng níu lấy em mà khóc. Nhưng tiếng khóc của hai chị em không mảy may ảnh hưởng đến sự việc đang xảy ra. Vì những người lớn còn đang mải lo đến những mối bận tâm của họ. Chợt bé Hảo ngưng khóc khi nghĩ đến một điều gì đó, và bé vội bỏ em chạy vụt đi, cu Hợp càng khóc to hơn khi ngã chúi đầu vào cánh cửa. Bé Hảo băng mình trong đêm tối, thường ngày nếu bảo bé ra đường lúc ban đêm thế này một mình thì chắc còn khó hơn cả đi chân không trên mặt nước. Nhưng hôm nay thì đêm tối cũng không đáng sợ bằng những gì bé vừa nhìn thấy. Bé chạy đến nhà ông Phan, không phải bé biết ông là khối phó an ninh, chỉ là bé thấy ông hay uống rượu đánh cờ với ba. Đến trước của nhà ông, bé vừa khóc vừa gọi:

- Bác Phan ơi ! Bác Phan ơi!...

May mà ông Phan mới đi nằm chưa ngủ, nên nghe ngay tiếng trẻ con khóc gọi, ông hoảng hốt tức tốc bật dèn, mở cửa:

- Ủa con bé Hảo! Có chuyện gì vậy con ?

- Bác Phan ơi! Ba con đánh má con với chú Sam quá trời luôn…

Không cần hỏi đến câu thứ hai, ông Phan vội bé xốc bé Hảo lên chạy vội đến nhà Kiên. Đến nơi thấy Kiên vẫn đang say trong cơn thù hận vung chiếc roi da trên hai thân thể đã tứa máu. Ông bỏ bé Hảo xuống đất, lao vào ôm ngang lưng Kiên, miệng hét:

- Kiên… Kiên… thôi thôi đi, mày đánh chết tụi nó bây giờ…

- Ông buông ra, tôi phải giết chúng nó mới được… buông ra…

- Bình tĩnh, bình tĩnh lại đi Kiên ơi… nghe tao đi Kiên… còn có pháp luật nữa mà, mày coi chừng quá tay đi tù chết đó…

- Tôi giết chúng nó rồi tôi đi tù cũng được…

Vừa nói vừa lôi, ông Phan đã kéo được Kiên ra xa cái giường. Gã đàn ông, thấy có cơ hội bèn tọt ngay xuống giường định vơ đám quần áo rồi bỏ chạy. Kiên vằn đỏ hai con mặt chỉ vào mặt hắn quát:

- Mày chạy tao giết.

Sam vội dúm người ngồi tụt dưới đất. Trên giường Hoan rũ rượi ôm đầu gục vào một góc. Ông Phan nhìn cảnh tượng quá chối nên lựa lời bảo Kiên:

- Thôi, mày nghe tao, từ từ rồi tính, cho tụi nó mặc đồ vô đi đã, để coi kỳ quá Kiên à.

Sam vụt quỳ sụp chắp tay lạy Kiên:

- Em lạy anh, anh tha cho em, em không dám nữa, anh tha cho em, em lạy anh…

Ném một cái nhìn khinh bỉ vào gã đàn ông đang quỳ sụp dưới chân mình. Kiên quay lưng nói với ông Phan:

- Ông lập giùm tôi cái biên bản.

Ông Phan tần ngần:

- Có cần phải làm vậy không Kiên?

Kiên sẵng giọng:

- Ông có làm không?

Ông Phan chép miệng, quay nhìn hai đứa nhỏ vẫn dúi vào nhau bên cánh cửa, ông chợt thấy thương chúng nó quá. Để cho chúng nó phải chứng kiến một cảnh tồi tệ như thế này thì thật quá tàn nhẫn. Ông đến cạnh bé Hảo nói:

- Con lấy cho bác mượn cuốn vở với cây viết rồi dắt em về phòng ngủ đi.

Bé Hảo vâng lời, sau khi đưa vở với bút cho ông Phan, bé chùi nước mắt dắt em riu ríu sang phòng bên. Lúc này Kiên mới nhìn đến hai con. Anh thương con thì lại càng hận hai kẻ dâm loàn kia. Kiên cắn chặt hai hàm răng, nắm chặt lại hai bàn tay, nhắm nghiền đôi mắt, nếu không có ông Phan chắc anh đã quay lại nện cho hai người một trận nữa rồi. Giây lát, ông Phan hỏi:

- Ai ký trước đây?

- Ông đưa cho tụi nó ký trước đi.

Sam cúi gằm mặt, nguệch ngoạc một chữ ký. Khi đưa cho Hoan ông Phan phải qua mặt đi. Người đàn bà không kềm được những ngón tay run rẩy khi đặt bút ký vào tờ biên bản như ký vào một bản án tử hình. Một sự nhục nhã nhất trong cuộc đời một người đàn bà khi bị phơi bầy trong một tình cảnh xấu xa nhất.

- Tụi nó ký xong hết rồi nè, mày tha cho tụi nó được chưa?

Kiên im lặng, ông Phan khẽ hất hàm. Chỉ chờ có thế, gã đàn ông vơ vội đống quần áo chạy vù ra cửa, người đàn bà cũng chúi mặt lủi xuống nhà sau. Ông Phan đến cạnh Kiên vỗ về:

- Thôi, đi nghỉ đi, mai rồi tính. Nghe tao, bình tĩnh lại đi, đừng nóng quá mà ân hận đó.

Giọng Kiên uất nghẹn:

- Nhục quá, nhục quá. Tôi đâu có ngờ, lâu nay nghe người ta xầm xì, tôi đâu có tin, vậy mà…

- Tao biết. Đàn ông mà, chuyện như vậy… nhưng thôi, ráng đi, mình phải nên rộng lượng một chút. Với lại còn phải nghĩ đến mấy đứa nhỏ nữa, thiệt tội cho tụi nó quá.

Nhắc đến con, lòng Kiên lại nhói lên. Anh thở hắt:

- Thôi anh cũng về nghỉ đi, làm phiền anh quá.

- Phiền hà gì mày. Thôi tao về nghe. Nhớ đừng làm gì nóng vội nữa đó.

Ông Phan không yên tâm cứ dặn đi dặn lại. Kiên gật:

- Được rồi, tôi biết mà, anh cứ về đi, tôi không làm gì nữa đâu.

Ông Phan về rồi. Kiên ngồi rũ gục xuống bàn. Nỗi đau nhục khiến anh tê tái cả cõi lòng. Là một tài xế xe tải đường dài, anh luôn dọc ngang đường trường. Do môi trường và điều kiện công việc, cánh tài xế thường để lại một ấn tượng không mấy vui tai về đời sống xô bồ tình cảm. Trách thì cũng chẳng đến đâu, cũng chẳng giải quyết được gì khi có những tình huống dễ khiến cho con người ta mất phần kiểm soát bản thân. Không chỉ nhu cầu về tâm sinh lý, mà một phần do người đàn ông thường không chống chọi được trong cảm giác buồn, cô đơn, trống trải. So với phụ nữ, trong lĩnh vực này họ không là phái mạnh. Họ luôn cần có sự vuốt ve, yêu chiều, và cảm giác mình đang được cần đến. Đôi khi họ cho rằng bản thân họ là một sự cần thiết cho những người khác phái, điều này như thổi phồng thêm lòng tự tôn, tự mạn trong họ, cho dù không ít lúc chỉ là sự ảo tưởng. Kiên cũng không ngọai lệ, tuy nhiên chưa bao giờ anh có ý xem nhẹ gia đình. Anh luôn xác định, những câu chuyện vui chơi không bao giờ đóng một vai trò quan trọng trong đời sống của anh. Thời gian gần đây, anh loáng thoáng nghe đôi lời xa xôi bóng gió của bà con trong xóm. Cho là chuyện tầm phào của mấy bà rảnh rỗi ngồi lê, anh không mấy để tâm. Nhưng chỉ có thể bỏ qua được một câu, hai câu chứ làm sao bỏ được năm câu, bảy câu. Nhất là thái độ giễu cợt rất lộ liễu “Chỉ có thằng đàn ông bạc nhược mới để vợ mình đi với thằng khác mà không dám nói gì”. Đến nước thế thì có muốn bưng tai bịt mắt cũng không dược nữa rồi. Để ý vợ, anh cũng thấy có vài dấu hiệu khả nghi, dù thế nào thì cũng phải xác định một lần cho rõ. Thế là… nỗi đau vì bị phản bội, vì mất niềm tin và cũng vì đó là sự nhục nhã nhất của người đàn ông, khiến Kiên tức đầy ngực muốn nghẹt thở. Anh bật dậy, vớ lấy chai rượu tu ừng ực, chất rượu nóng tràn ào cổ đổ xuống ruột càng như một chất cháy. Một thoáng suy nghĩ tỉnh táo lướt qua, Kiên cố dằn mình bằng cách chụp lấy chai nước lọc và cũng tu ừng ực. Xong anh vào phòng hai đứa con, nằm ôm lấy chúng. Cu Hợp đã ngủ say, nhưng vẫn lúc lúc nảy lên tiếng nấc. Không một phút chợp mắt, tảng sáng Kiên lặng lẽ ra khỏi nhà.

Nghe ông Phan kể chi tiết sự việc, nhà chức trách đưa ra những phán đoán. Có khả năng tự vẫn, nhưng cũng có khả năng bị chồng sát hại. Nhưng nhân vật thứ ba cũng gây nên một sự khó hiểu. Lý do gì mà anh ta có mặt tại hiện trường sớm thế? Trong khi lẽ ra, anh ta phải trốn biệt sau trận đòn ghen chí tử ấy chứ. Nhưng ở anh ta không có động cơ giết người, hơn nữa, cũng chính anh ta đến trình báo với cơ quan công an đầu tiên. Một anh công an lấy điện thọai ra gọi cho tổ pháp y. Bỗng ngoài cửa xôn xao:

- Tránh ra, tránh ra… vợ tôi làm sao hả?

Kiên vừa vẹt đám người hiếu kỳ vừa la lên thảng thốt. Anh len được vào trong nhà, và chết sững trước cái xác toòng teng của vợ. Rồi vụt hét lên:

- Ai! Ai đã giết vợ tôi hả? Trời ơi!!!

Ông Phan vội đứng lên ôm lấy vai Kiên:

- Bình tĩnh đi Kiên, chưa chắc vợ mày có phải bị giết không. Mày ngồi xuống đây đi, bình tĩnh cùng mấy anh công an đây tìm ra nguyên nhân.

Kiên lảo đảo rục xuống cái ghế trong đôi tay dìu đỡ của ông Phan. Anh đờ đẫn ôm mặt, rên lên:

- Tôi đâu có ngờ… sao lại vậy chứ?

- Anh nén đau thương để hợp tác cùng chúng tôi tìm ra mấu chốt của sự việc. Mong anh thành thật cung cấp thông tin nhé.

Kiên im lặng, lúc này anh đã hiểu vì sao vợ anh chết.

- Anh Kiên này! Lần cuối cùng anh gặp vợ anh là khi nào?

Lần cuối cùng ư? Những gì của đêm qua ào về trong tâm trí Kiên. Đó chính là hình ảnh của lần cuối cùng, là khoảnh khắc cuối cùng của một cuộc hôn nhân, là một dấu tích cuối cùng của một cuộc đời mà đến cả khi nhắm mắt anh cũng không thể nào bôi xóa nổi.

Một cái thở hắt, Kiên nói như là với cả một sự cố gắng:

- Sáng nay, khi tôi đi, ba mẹ con còn đang ngủ.

- Thế thì… phải đón hai đứa nhỏ về đây thôi.

Nghe một anh công an nói thế, ông Phan có phần như hoảng hốt:

- Không thể cho chúng nó tránh đi được sao?

Một tiếng thở dài:

- Biết làm sao được, vì đây là một mạng người mà. Biết đâu chúng lại là một nhân chứng quan trọng thì sao?

Có thể coi như đó là một yêu cầu bắt buộc. Hai đứa nhỏ được nhanh chóng đưa về. Nhìn thấy mẹ, chúng hét ầm lên và ôm chặt những người lớn. Khó khăn lắm mới dỗ chúng nín khóc được. Bé Hảo nói trong nước mắt:

- Sáng nay không có ba ở nhà, mẹ nói là mẹ bịnh, biểu tụi con qua nhờ chú Chiến chở đi học giùm.

- Lúc hai đứa đi học, có ai ở nhà với mẹ không?

- Dạ không, có một mình mẹ thôi.

Cuộc thẩm vấn tạm dừng lại khi bên pháp y đến. Cái xác lúc này mới được hạ xuống. Và cuối cùng kết luận của biên bản khám nghiệm là: Ngoài những vết bầm, lằn trên cơ thể, nạn nhân chết do bị vỡ cuống họng, nghẹt thở dẫn đến nhồi máu cơ tim.

Sam cúi gằm trên trang giấy. Viết gì vào bản tường trình đây? Sam không ngờ những hành vi rất cá nhân lại dẫn đến một kết cuộc nghiêm trọng và bi thảm như vậy. Tâm trạng bấn lọan, Sam có cảm giác mọi chỉ trích, trách oán đang đổ cả vào mình. Tự trong thâm tâm, Sam cũng mơ hồ một câu hỏi “Có phải chính mình là nguyên nhân của thảm cảnh cho cả hai gia đình không?”. Bi kịch đã bắt đầu từ một sự ham hố nhục thể, thiếu suy xét và kềm chế. Thuộc típ người bỗ bã, suồng sã, buông tuồng, Sam lại làm cái nghề đồ tể. Chuyên đi tìm mua heo về mổ bán thịt. Một lần đến nhà Hoan mua heo, thấy Hoan đẫy đà, tươi mát, Sam ỡm ờ dăm câu đùa cợt, đôi mắt lúng liếng của người đàn bà đa tình lại càng thôi thúc ngọn lửa đàn ông trong hắn. Biết rõ chồng Hoan thường xuyên đi vắng, gã đàn ông chẳng còn phải e ngại gì khi nhanh chóng nhận được một tín hiệu đồng tình từ người đàn bà. Và họ mau chóng lậm vào nhau, mặc kệ cái gọi là đạo lý, mặc kệ những con mắt dò xét chung quanh, mặc kệ một hậu quả đã được cảnh báo trước. Họ nghĩ chỉ cần khéo chùi mép là được. Trên đời này thường rất hiếm những bí mật tuyệt đối, nhất lại là những chuyện mà không cần phải nói, người ta cũng dư hiểu tính chất và diễn biến của nó. Để rồi…

Lẽ ra, sau một trận đòn ghen chí tử như thế thì Sam phải biệt tích khỏi khu vực ít nhất là một thời gian dài mới đúng. Chắc chắn là vậy, nhưng không hiểu sao lúc gần về sáng, hắn bỗng thấy nóng ruột kinh khủng. Cứ như có một đám cháy lớn đang bùng bùng trong lòng vậy. Một cái gì đó thúc đẩy, Sam không thể giữ được một thái độ bình tĩnh. Sự nóng nảy cứ lồ lộ trên mặt, tay chân lúng túng, đầu óc lùng bùng. Vợ hắn thấy vậy cứ theo sau truy gạn. Đêm qua khi về đến nhà, Sam đã khỏa lấp tình trạng của mình bằng cách giả say. Nên bà vợ hiền lành cứ mặc nhiên cho chồng ngủ khì trên ghế salon. Nhưng thái độ lạ của Sam sáng nay đã gây thắc mắc cho người phụ nữ ấy. Để thoát khỏi sự đối phó với vợ, Sam bực dọc khoác áo dắt xe ra khỏi nhà. Đến một quán cà phê, Sam gọi một ly đen đá, ực mấy hơi liền vẫn không trấn át nổi nỗi cồn cào trong ruột. Có lẽ sự gắn bó trong một thời gian khá dài đã đủ tạo thành một nhịp giao cảm trong tâm thức con người. Sam liều đi đến nhà Hoan, định bụng chỉ cần nhìn thấy Hoan là yên tâm quay về ngay. Đến đầu hẻm, Sam dừng xe dưới một gốc cây, kéo sụp mũ xuống, dõi mắt về nhà Hoan xem chừng động tĩnh. Sam nhìn thấy Kiên ra khỏi nhà rất sớm, hắn dã khấp khởi mừng thầm. Đến lúc nhìn thấy hai đứa trẻ được một người ở cạnh nhà chở đi học, Sam cũng chưa dám vào ngay. Hắn cố đợi thêm một lúc lâu sau nữa vì sợ Kiên đột ngột trở về, rồi mới lò dò đến gõ nhẹ và cửa nhà Hoan, không có tiếng trả lời, đến lần thứ ba thì Sam xô cửa, vừa nhìn vào, Sam bật la lên thất thanh rồi nhảy ào lên chiếc xe rú ga vọt đi.

Tất cả những thông tin thu nhặt được xung quanh vụ án, nhà chức trách đưa ra kết luận đây là một vụ tự vẫn. Tất nhiên, với kết luận ấy thì không ai phải chịu trách nhiệm trước luật pháp. Nhưng với bản án lương tâm thì có thể ngang mức “chung thân”. Với Kiên, bản án này vô cùng tàn khốc. Tổng hợp những cảm trạng: đau đớn, ray rứt, ân hận, nuối tiếc… đã trở thành một sự căm hận sâu sắc. Mỗi khi nhìn cửa nhà trống trải, con cái nheo nhếch vì thiếu bàn tay chăm sóc của mẹ, thì lửa hận trong anh lại phun trào. Một ý đồ được nung nấu trong sự phun trào đó, và ngày càng quyết liệt.

Những người công an lại thêm một lần hối hả đến một hiện trường. Lần này tại một rẫy cà phê, xác người đàn ông với nhiều nhát đâm chém nằm úp mặt trên một bờ đất. Không khó để nhận diện, và nhận diện được nạn nhân cũng đồng nghĩa nhận diện được luôn hung thủ. Bởi vụ việc xảy ra từ mấy tháng trước vẫn còn như mới trong trí nhớ mọi người.

Kiên hối hả tống những bộ quần áo của hai con vào cái túi xách. Hai đứa nhó ngơ ngác khi nghe ba nói cho về thăm bà nội. Và chúng cũng cuống quýt với những tíếng thúc giục của ba. Kiên làm mọi việc trong một trạng thái bấn lọan, cuống cuồng sợ hãi. Trước lúc ra tay, anh chỉ có một ý nghĩ là làm sao để trả cho được mối hận đang nung nấu trong lòng. Nhưng khi nhìn kẻ thù của mình chết thật sự, thì anh bủn rủn với ý nghĩ: “Trời ơi! Mình đã giết người”. Chạy trốn là giải pháp duy nhất anh có thể nghĩ ra được trong lúc này. Và cái nơi anh nghĩ đến chính là một vùng quê xa xôi, có một bà mẹ đã lưng còng mắt mỏi. Nhưng Kiên giật thót mình rồi đờ người ra buông rơi các thứ khi thấy những bộ cảnh phục xuất hiện. Những người hàng xóm đã kịp có mặt cho Kiên dặn với một câu:

- Giúp tôi cho các cháu về bà nội…

Bé Hảo và cu Hợp cố vùng khỏi những cánh tay để chạy theo cái xe vừa đẩy ba chúng lên. Tiếng khóc thét của chúng cứ như những mũi kim xoáy vào lòng mọi người.

Đàm Lan


|  51 |
 52 |
 53 |
 54 |
 55 |
 56 |
 57 |
 58 |
 59 |
 60 |
 61 |
 62 |
 63 |
 64 |
 65 |
|  66 |
 67 |
 68 |
 69 |
 70 |
 71 |
 72 |
 73 |
 74 |
 75 |
 76 |
 77 |
 78 |
 79 |
 80 |
|  81 |
 82 |
 83 |
 84 |
 85 |
 86 |
 87 |
 88 |
 89 |
 90 |
 91 |
 92 |
 93 |
 94 |
 95 |
|  96 |
 97 |
 98 |
 99 |
 100 |
 
|  51 |
 52 |
 53 |
 54 |
 55 |
|  56 |
 57 |
 58 |
 59 |
 60 |
|  61 |
 62 |
 63 |
 64 |
 65 |
|  66 |
 67 |
 68 |
 69 |
 70 |
|  71 |
 72 |
 73 |
 74 |
 75 |
|  76 |
 77 |
 78 |
 79 |
 80 |
|  81 |
 82 |
 83 |
 84 |
 85 |
|  86 |
 87 |
 88 |
 89 |
 90 |
|  91 |
 92 |
 93 |
 94 |
 95 |
|  96 |
 97 |
 98 |
 99 |
 100 |
 
Netadong.com thiết kế