Hiện có 23 người xem / 2518465 lần xem
         info@sachvatranh.com       84 (0) 1 222 929 703        

VÀI CHI TIẾT VỀ KỲ HỌP NGÀY 09/11/2013 CỦA CÂU LẠC BỘ SÁCH XƯA & NAY

Mở đầu phiên họp, như thường lệ. Dịch giả Vũ Anh Tuấn đã giới thiệu với các thành viên hai cuốn sách, một mới và một cũ. Cuốn sách cũ là cuốn “Chuyến du hành vòng quanh nước Pháp của hai đứa trẻ - Le Tour de France par deux enfants” được xuất bản năm 1877. Cuốn sách này là cuốn sách mà ông đã có từ năm 16 tuổi và đã giữ được cho tới ngày nay, tức là trong suốt 62 năm nay.

Sách khổ 12cm x 18cm, dày 524 trang, trong có hàng trăm hình minh họa bằng bút sắt rất đẹp, và được xuất bản năm 1877 (146 năm trước). Nữ tác giả cuốn sách tên là Augustine Fouillée, nhưng bà ký bút hiệu là G. Bruno. Sách kể truyện hai anh em André và Julien Volden, sinh sống ở xứ Lorraine, là nơi bị sát nhập vào Nước Phổ sau cuộc chiến Pháp-Phổ vào các năm 1870-1871, và sau cái chết của cha mẹ, hai anh em đã dắt nhau đi khắp các đô thị ở Pháp để tìm người thân. Và, “đi một đàng, học một sàng khôn”, trong khi đi, hai anh em đã gặp đủ hạng người, đủ mọi hoàn cảnh, tình huống, cuối cùng họ đã trưởng thành và lập được một trang trại thật tuyệt vời. Cuốn sách đã cuốn hút Dịch giả Vũ Anh Tuấn từ thuở thiếu thời và đã giúp ông biết được khá nhiều chuyện hay hay về nước Pháp, nhất là đã giúp ông học được rất nhiều từ vựng Pháp. Cuốn sách này đã được dùng trong chương trình Trung Học của Pháp trong suốt thời Đệ Tam Cộng Hòa và còn được tiếp tục dùng cho tới thập niên 50 mới thôi. Cuốn sách cũng được bán rất chạy, tính cho tới 1900, số lượng cuốn được in và bán là 6 triệu cuốn.

Năm 2000 nó lại được nhà xuất bản Bélin tái bản, và năm 2006, nó lại được xuất bản một lần nữa bởi nhà xuất bản France Loisirs. Một cô em gái của Dịch Giả Vũ Anh Tuấn sống ở Pháp có ý muốn mua tặng cho ông một bản nhưng ông đã từ chối và trả lời là ông thích bản đã ở bên ông suốt 62 năm qua hơn. Cuốn sách thứ nhì được giới thiệu là một cuốn Tự Điển Chính Tả Tiếng Việt của một tác giả tên là Nguyễn Thế Truyền do Nhà Xuất Bản Thanh Niên in năm 2008. Tình cờ gặp cuốn Tự Điển này tại một tiệm sách cũ, Dịch giả Vũ Anh Tuấn đã bị hấp dẫn bởi hai chữ “Kiểu mới” in ở ngay dưới tên sách. Mở cuốn Tự Điển dày 1678 trang. ông đọc lướt qua và thấy hay hay nên đã ẵm về. Đây là một cuốn Tự Điển khá tốt với bảng từ phong phú, lại có xen lẫn một số minh họa và có những chú giải rất thuận tiện cho người sử dụng, đồng thời còn có một số phụ lục khá hữu ích như: Chữ viết tắt, tên nhân vật cộm cán trên toàn cầu, các địa danh vv… Giới thiệu xong, hai cuốn sách đã được các thành viên chuyền tay nhau xem một cách thích thú.

Tiếp lời Dịch giả Vũ Anh Tuấn, Bs Nguyễn Lân-Đính đã lên nói chuyện về việc ông ra Hà Nội tham dự một cuộc họp mặt của các cựu học sinh trường Albert Sarraut, mà ông được coi là một trong những huynh trưởng. Và sau đó ông cũng kể qua về việc có một số hội thảo và buổi họp mặt liên quan tới việc tái bản một số sách của cụ Nguyễn Văn Vĩnh mà ông là người cháu nội được chung sống với cụ Vĩnh trong 5 năm cuối đời của cụ.

Sau khi Bs Đính nói xong, bà Tâm Nguyện đã có một cuộc nói truyện về ông thầy của bà và việc bà do chịu ảnh hưởng của ông thầy đó, nên đã dành rất nhiều thời giờ trong đời để chuyên tâm nghiên cứu về Phật Giáo. Bà Tâm Nguyện nói xong, anh Vũ Đình Huy đã khen bà Tâm Nguyện viết hay và đề nghị bà cung cấp cho anh một số tư liệu.

Tiếp lời anh Huy, anh Lê Hùng Dương đã lên nói chuyện về đế tài ngôn ngữ và các thành viên cũng tham gia bàn luận.

Buổi họp kết thúc lúc 11 giờ 13 cùng ngày.

Vũ Thư Hữu


VÀI ĐIỀU HAY HAY VỀ MỘT CUỐN SÁCH

MỚI – MÀ – CŨ MÀ TÔI MỚI CÓ

Cách đây mấy tuần, tôi có việc phải ghé thăm Lm. Triết, và tình cờ thấy cuốn sách này được để ở trên một chồng sách, phía ngoài căn phòng của ngài. Tôi hỏi là ngài có cuốn sách này từ bao giờ, thì Lm. Triết cho biết của một người bán sách cũ mới mang lại, và ngài cũng chưa quyết định lấy, tôi liền nhờ ngài lấy hộ; thế là, mấy ngày sau tôi hân hoan sang ẵm nó về, và trên đường về, tôi cảm thấy vui như được gặp lại một người đẹp sau nhiều năm xa cách... Quý bạn có thể cho là tôi hơi bị ấm đầu, khi có trong tay cả bốn, năm ngàn cuốn sách, để chật ních cả thư phòng, mà nay thấy cuốn gì mà lại ham thế? Thật ra tôi ham vì có lý do của riêng tôi, và tôi thực sự đã có tới hai cuốn sách này trước rồi: một cuốn bằng Pháp văn, và một cuốn bằng Anh văn. Đây là một tác phẩm lừng danh của nhà văn Xcốtlen Sir Arthur Conan Doyle (1859-1930), cha đẻ của thám tử lừng danh Sherlock Holmes và đại văn hào này cũng là một nhà văn mà tôi cho rằng, ông là một trong mấy văn hào viết hay nhất từ xưa tới nay, và sau này và mãi mãi. Vì ngoài các tác phẩm trinh thám lừng danh, ông còn viết cả truyện khoa học giả tưởng và lịch sử tiểu thuyết luôn. Và cuốn sách mà tôi mới có đây là cuốn Toàn Bộ Các Truyện về Thám Tử Sherlock Holmes (Sherlock Holmes – The Complete Stories), là cuốn tôi đã có ở nhà hai cuốn khác rồi, một cuốn bằng Pháp văn và một cuốn bằng Anh văn như tôi đã nói ở trên. Vậy thì vì lý do nào mà tôi lại ham… thêm cuốn này? Thưa chính là vì hàng chữ nằm ở bên cạnh “Với các minh họa lấy từ tờ báo Strand Magazine” (With Illustrations from the Strand Magazine). Vâng hai cuốn tôi đã có không cuốn nào có minh họa như cuốn này, mà có phải ít đâu, sách có cả vài trăm minh họa cực đẹp. Và Strand Magazine là một nguyệt san cực hay của người Anh, trọn bộ được 711 số, ra đời từ 1891 và tồn tại tới 1950 mới đình bản.

Tổng cộng số truyện mà nhân vật chính là Thám tử Sherlock Holmes là 205 truyện, và tôi đã đọc quá nửa và thấy là truyện nào cũng hay, cũng li kì, cũng lôi cuốn người đọc. Viết đến đây, tôi hồi tưởng lại hồi 36, 37 năm trước, hồi mới giải phóng, những người thuộc chế độ cũ như tôi rất khó tìm được việc làm nên phần lớn đều rảnh rỗi. Riêng cá nhân tôi thì tôi đã rảnh rỗi từ trước giải phóng cả 2 năm trước, và tiếp tục làm việc riêng của tôi, là công việc dịch các tác phẩm văn học ra ngoại ngữ, nên tôi hoàn toàn tự do, chẳng hề có anh chủ, chị chủ nào. Vào lúc đó tôi đã bê cả hai cuốn sách truyện Sherlock Holmes to đùng, một bằng Pháp văn và một bằng Anh văn ra và đọc cả hai cuốn một lúc, đọc câu tiếng Anh xong, lại đọc ngay câu tiếng Pháp, vừa đọc vừa so sánh bản dịch, nhất là vừa tự động học cách viết của tác giả cũng như của dịch giả. Ôi thật là tuyệt vời, vì tôi học được rất nhiều cách nói, cách viết rất hay trong cả hai ngôn ngữ. Tôi buồn cười nhất là hai cụ và các em tôi cho là tôi hành động hơi ấm đầu một chút, và mặc dầu đã nghe tôi giải thích, các cụ và các em tôi vẫn cho là cách đọc sách của tôi chẳng giống… con giáp nào cả!

Cuốn sách tôi nhờ Lm. Triết mua hộ khổ 16cm x 24cm và dày 1408 trang, và trong chứa đựng cả vài trăm tấm minh họa rất đẹp, hầu hết truyện nào cũng có minh họa đi kèm. Cuốn sách nặng khoảng 1 ký rưỡi và thuộc loại sách dành cho những người chơi sách. Ngay giờ phút này, tôi cũng được tự do, và còn tự do hơn bao giờ hết vì tôi đã quyết định nghỉ không làm việc nữa mà dành hết thời giờ còn lại cho thú đọc sách và cho quý bà của tôi. Nên, với cuốn Sherlock Holmes mới này, tôi sẽ lại làm một chuyện không giống ai, mà chỉ giống tôi, là tôi sẽ dùng một cái bàn nhỏ và đọc cả ba cuốn một lúc, để làm gì quý vị có biết không? Thưa để xem cuốn mới này có khác gì cuốn tiếng Anh cũ của tôi sẵn có không, vì kinh nghiệm cho tôi biết tây nó cũng tam sao thất bản như thường lệ, chứ đừng tưởng tây là cái gì cũng trúng phóc! Đồng thời tôi cũng tận hưởng nốt những chuyện tôi chưa đọc từ trước tới giờ, và vẫn tiếp tục học, vì nếu một trang (Việt) nam tử có thể vì các quý bà của mình bây giờ và mãi mãi, thì cũng có thể tiếp tục học bây giờ và mãi mãi… trong vĩnh hằng vĩnh cửu.

Hơn nữa, như tôi đã tự hứa với mình, trong ngàn thu tôi sẽ rất bận, vậy thì dại gì mà trong vài chục thu còn lại này, tôi lại không làm điều mình thích là đọc nốt Sherlock Holmes và… tiếp tục học!

Trích Hồi ký 60 năm chơi sách, Chương VI

Vũ Anh Tuấn

Ca trưởng Hải Linh

và Ca khúc Hang Be-lem bất tử

1. Ca Trưởng Hải Linh (04/10/1920 - 06/01/1988):

Đây là danh hiệu thầy Hải Linh ưa thích nhất cho dù thầy có những chức danh khác như Nhạc sư dạy tại Quốc gia Âm nhạc (1956-1961), Nhạc sư tại Đại Học Đà Lạt (1970-1975), Nhạc trưởng ( 1961-1970) khi sang nghiên cứu giáo dục âm nhạc tại Đại học Ohio (Hoa Kỳ) hay Nhạc sĩ với những bài hát TÔN VINH THIÊN CHÚA và TÁN TỤNG QUÊ HƯƠNG tuyệt vời…

Cuộc đời và sự nghiệp:

Thầy Hải Linh sinh ngày 04-10-1920 tại làng Ứng Luật, phủ Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình, địa phận Phát Diệm. Vì trùng với ngày lễ thánh Phanxicô Assisi nên chọn thánh Phanxicô làm bổn mạng. Tên thật của thầy là Trần Văn Đệ. Thân phụ là ông cố Trần Văn Minh, thân mẫu là bà cố Nguyễn Thị Lan, thường gọi là ông bà chánh Minh. Thân phụ làm nghề đắp tượng, còn thân mẫu làm “bà trùm” lo việc dạy “học trò” dâng hoa, dâng hạt, ngắm lễ… tại xứ Ứng Luật. Đôi tay khéo léo của thân phụ trong nghệ thuật đắp tượng và tiếng ca hồn nhạc đượm tính tôn giáo và dân tộc của thân mẫu trong nghệ thuật âm thanh đã góp phần làm nên một con người nghệ sĩ, rất nhạy cảm trước cái hay cái đẹp của nghệ thuật nói chung và của âm nhạc nói riêng.

Gia đình ông cố có 7 người con, gồm 5 người con trai và 2 người con gái. Hải Linh là con trai thứ hai. Một người em trai thứ 6, là cố Lm. Louis Trần Công Hoan, tức nhạc sĩ Hùng An, qua đời ngày 25/5/1980 tại xứ Duyên Lãng, địa phận Xuân Lộc.

Nay các anh chị em đều đã qua đời (2013), chỉ còn lại con cháu chắt…

Lên 10 tuổi, Hải Linh được gia đình gửi đến cha già Trác để chuẩn bị đi tu. Sau cha già Trác đổi thành Trần Đức Trị theo chữ đầu của tên cha nghĩa phụ như thói quen thời ấy.

Năm lên 12 tuổi ông vào tu tập tại Trường Thử ở Trung Linh (Nam Định), nơi đây ông được Lm. Rangel người Pháp (tên Việt là cố Lễ) tập luyện ca nhạc và khơi động năng khiếu về âm nhạc. Ông sớm say mê âm nhạc, tự tìm tòi học hỏi.

Năm 16 tuổi, Hải Linh lên Tiểu chủng viện Ninh Cường, ở đó Hải Linh đã phụ trách việc tập hát và đệm đàn nhà thờ. Nhân việc cha già Trác, thuộc về giáo phận Thái Bình được tách ra từ Giáo phận Bùi Chu, nên Hải Linh nhận cha già Liễn thuộc Bùi Chu làm nghĩa phụ, và lại được đổi tên là Trần Văn Linh, theo chữ đầu của tên cha già Liễn (ngày sinh trên khai sinh là 30-10).

Năm 20 tuổi, Hải Linh vào học tại trường Thầy Giảng (Bùi Chu) và sau đó được giữ lại trường để dạy Pháp văn và Âm nhạc. Đây là thời gian thầy Hải Linh bắt đầu sáng tác một số bài hát đạo cũng như đời. Có lẽ bài hát đạo đầu tay của Hải Linh là bài: “Mẹ ơi, đoái thương xem nước Việt Nam” vào khoảng 1944. Hải Linh cùng với Vũ Minh Trân và một số bạn hữu khác như Thăng Ca (Ngô Duy Linh), Võ Thanh (Vũ Đình Trác), Hồ Khanh (Trần Thái Hiệp)… thành lập Nhạc đoàn Sao Mai, và đã xuất bản nhiều tập ca vịnh như: Ca vịnh Đức Mẹ (1946), Ca vịnh Đức Mẹ Fatima – Thánh cả Giuse (1949), Ca vịnh Thánh Tâm – Thánh Thể (1949)… Một số các bài của thời kỳ sơ khởi này như:

- Lòng con đau đớn thiết tha

- Ngày nay con đến

- Nguyện xin Thánh cả Giuse quyền cao sang

- Nổi bật nhất là bài “Hang Belem”, sáng tác 11-1945 cho mùa Giáng sinh năm ấy. Chính tác giả đã điều khiển ca đoàn nhà thờ chánh tòa Phát Diệm hát lần đầu tiên trong thánh lễ đêm Giáng sinh năm ấy. Cha Giám đốc Đại chủng viện là Lm. Phạm Ngọc Chi đã khen ngợi, và từ đó lưu tâm khuyến khích Hải Linh học hỏi và sáng tác thêm. Sau này, khi làm Giám mục địa phận, chính Ngài đã gửi Hải Linh đi du học về âm nhạc ở nước ngoài vào năm 1950.

Năm 30 tuổi, trên con tàu Athos II, từ Saigon sang Marseille, Thầy Hải Linh được gửi đi Roma học tại Pontifical de Rome (Ý). Học được khoảng 7 tháng thầy đổi qua Pháp ở với cha Lương Kim Định tại căn nhà số 21 Rue Beaurepaire, Paris X cho tiện việc học tập. Từ 01-5-1951 thầy học nhạc Bình Ca và Ca Trưởng tại Viện Giáo Nhạc thuộc Institut Catholique de Paris, đồng thời học sáng tác tại Trường Nhạc CÉSAR FRANCK do giáo sư Guy de Lioncourt làm giám đốc và trực tiếp hướng dẫn Hải Linh. Chính Giáo sư đã thổ lộ, theo lời kể của Cố Nhạc sĩ Lm. Hoàng Kim: “Trong suốt cuộc đời dạy học của tôi, tôi chỉ gặp được 2 người có tài, một người Nhật, là Kishio Hirao, làm trưởng ban nhạc Đài Phát thanh Tokyo, Nhật Bản, và người thứ hai là Phanxicô Hải Linh”. Hải Linh ra trường với luận án tốt nghiệp đậm đặc mùi vị dân tộc “Màu sắc nhạc Việt trong B ình ca” tại Nhạc viện César Franck (1956).

Ngoài việc học chính thức tại 2 trường nói trên, Hải Linh còn tìm học và trao dồi thêm với một số giáo sư nổi tiếng khác về ngũ âm cũng như về điều khiển. Các tác phẩm trong thời kỳ du học tại Paris đã nói lên thao thức tìm một nhạc ngữ phù hợp với ngôn ngữ đa thanh của dân tộc:

- CHÚA KHẢI HOÀN

- AVE MARIA 1

- NGỢI KHEN

- Nhất là các bài RA KHƠI, NHẠC VIỆT, HÒ NON NƯỚC, CÓC QUÂN, DUYÊN KỲ NGỘ, CHUÔNG HÒA BÌNH, LÂM KHỐC… mang đầy âm hưởng dân tộc. Giáo sư Guy de Lioncourt đã nhiều lần tỏ vẻ thích thú khi nghe “Monsieur François” (người Pháp gọi Hải Linh bằng tên thánh Phanxicô) giải thích tại sao chỗ này thì viết thoáng mỏng, chỗ kia phải đơn giản hóa hòa âm, chỗ khác phải viết theo tinh thần đối âm, chỗ khác nữa lại phải đi cùng chiều thay vì có thể đi ngược chiều… chung quy là cốt đề cao tính giai điệu của nhạc ngữ dân tộc và nhất là tôn trọng thanh điệu (dấu giọng) của ngôn ngữ Việt Nam. Không thể nào dòng trên chúng ta hát “Lạy Chúa” mà bè phụ họa theo đúng hòa âm lại hát “Lạy Chùa” được. Một người du học không mất gốc, một học trò biết tự trọng và được người Thầy xứng danh là bậc Thầy tôn trọng và thán phục quý mến. Từ đó, Hải Linh càng ngày càng xác tín hơn về hướng đi của mình trong công việc đưa nhạc ngữ dân tộc từ bậc giai điệu (đơn điệu) lên bậc đa âm đa điệu. Và hai chủ đề chính cho các sáng tác sẽ là: TÔN VINH THIÊN CHÚA và TÁN TỤNG QUÊ HƯƠNG.

Năm 1956, ông trở về Việt Nam, ngoài việc dạy Hợp ca tại Trường Quốc Gia Âm Nhạc, ông thành lập Ca đoàn HỒN NƯỚC nhằm thực hiện hoài bão của mình là TRÌNH TẤU SỐNG ĐỘNG các tác phẩm được soạn ra bằng một LỐI VIẾT THOÁNG MỎNG theo tinh thần Á Đông.

- 02/1957: Thành lập Ca đoàn Hồn Nước nhằm đưa âm sắc dân tộc vào dòng nhạc Tây phương.

- 6/1957 : Sơ diễn tại rạp Thống Nhất trong dịp phát thưởng của trường Nguyễn Bá Tòng.

- 23/12/1957: Buổi ra mắt công chúng đầu tiên tại rạp Olympic của Ca đoàn Hồn Nước dưới sự điều khiển của Ca Trưởng Hải Linh đã được hoan hô nhiệt liệt.

- 05/02/58 ông lập gia đình với cô Phạm Thị Ly.

- Năm 1958: tại Thảo Cầm Viên Sài Gòn, Ca trưởng Hải Linh đã điều khiển Ca Đoàn Hồn Nước trình tấu bản Đà Lạt Trăng Mờ với phần nhạc đệm của Dàn Nhạc Giao Hưởng New York (do nhạc trưởng Sherman hướng dẫn đến viếng thăm Việt Nam).

- Và tiếp tục trong những năm sau, các lần trình tấu của Ca trưởng Hải Linh đều có tiếng vang… Các bài sáng tác trong thời kỳ này gồm có:

· AVE MARIA 3 (Tấu lạy Bà)

· RA ĐỜI

· NỮ VƯƠNG HÒA BÌNH

· ĐÀ LẠT TRĂNG MỜ

· LÒNG MẸ

· CUNG ĐÀN BẠC MỆNH 1,2,3

· CHINH PHỤ NGÂM

· CHUỖI CƯỜI…

· Riêng bài NỮ VƯƠNG HÒA BÌNH đoạt giải nhất trong cuộc thi sáng tác cho Đại Hội Thánh Mẫu toàn quốc năm 1959.


Năm 1961 Nhạc sĩ Hải Linh được học bổng sang nghiên cứu âm nhạc, giáo dục tại Đại học Ohio (Hoa Kỳ). Tại đây, ông cũng được các nhạc trưởng, nhạc công và khán thính giả Hoa Kỳ tán thưởng, nhất là trong lối trình diễn sống động và tinh tế. Năm 1969 ông sang Pháp dự định hoàn thành luận án tiến sĩ về "Cơ cấu giai điệu trong nhạc Việt", nhưng vì một số lý do nên phải bỏ dở luận án.

Nhận xét về tài năng nhạc học dân tộc này, Giáo sư Trần Văn Khê kể lại những kỷ niệm mà ông có với nhạc sư Hải Linh khi gặp nhau tại Pháp, ông kể: “Lúc đó ông Ngô Duy Linh cũng đang học ở Sorbon với tôi lối chừng 1970, Hải Linh có đến gặp tôi để mà hỏi thăm về âm nhạc dân tộc. Khi đó tôi có nói những cái hay trong nhạc lễ tại miền Nam Việt Nam thì Hải Linh có ghi âm lại để nghiên cứu. Hải Linh đã học nhiều điều trong dân ca và đem ra áp dụng trong nhạc công giáo tức là thánh ca rất thành công vì có được màu sắc dân tộc”.

Trở về nước năm 1970, ngoài việc dạy nhạc tại Viện Đại học Đà Lạt, Nhạc sư Hải Linh tham gia Ủy ban Thánh Nhạc toàn quốc, tiếp tục củng cố ca đoàn Hồn Nước, phát triển Ca Đoàn Hồn Nước tới một trình độ điêu luyện, và thực hiện các cuốn băng: Một Giờ Hợp Ca 1 và 2, đồng thời đã dày công huấn luyện 40 lớp ca trưởng - là những người điều khiển các ca đoàn hợp xướng tại Saigon và Đà Lạt. Các bản nhạc sáng tác ông trong thời kỳ này:

· Te Deum

· Ave Maria 2

· Bộ lễ Nữ Vương Hòa Bình

· Hồng Ân Thiên Chúa

· Thằng Bờm

· Tiếng Thu

· Con Bướm Trắng

· Đồng Tiền Vạn Lịch …

Đại hội Thánh Nhạc Toàn Quốc năm 1972 tại trường Lasan Taberd cũng là một cái mốc đáng ghi nhớ trong giai đoạn này.

Sau giải phóng 1975 thầy tiếp tục dạy một số lớp Ca trưởng và tập hát cho lớp Hợp Xướng trong khuôn viên Nhà thờ Huyện Sĩ. Thầy cũng dạy đệm đàn, sáng tác cho một số người tại tư gia.


Đặc biệt, bài KHÚC CA MẶT TRỜI (lời thơ Đoạn nói về Ông Anh Mặt Trời của Thánh Phanxicô Assisi do Lm. Vũ Đình Trác chuyển dịch) được hát lần đầu tiên tại Nhà thờ Đa-kao 10-1979, nhân kỷ niệm 50 năm Dòng Phanxicô được thành lập tại Việt Nam. Và năm 1982, nhân kỷ niệm 800 năm ngày sinh của Thánh Tổ phụ Phanxicô thì phần lớn TRƯỜNG CA CÁC TẠO VẬT (gồm Hợp ca Mở đầu, Đoạn I Ông Anh Mặt Trời, Đoạn II Chị Hằng Nga và Tinh Tú, Đoạn III Anh Gió, Đoạn IV Chị Nước và Chung Khúc, sáng tác chung với Lm. Xuân Thảo, cũng đã hoàn tất và được trình tấu lần đầu cũng tại nơi đây. Những đoạn còn lại được sáng tác sau đó là Đoạn V Anh Lửa, Đoạn VIII Chị Chết, rồi năm 2003 thêm Đoạn VI Chị Đất Mẹ Hiền và Đoạn VII Anh Chị Em Loài Người.

Ông đã thổ lộ tâm tình với các môn sinh ca trưởng, ca viên: Vũ trụ bao la với muôn giải thiên hà, với mặt trời, mặt trăng, tinh tú, với trời mây, sông biển, núi rừng, chim muông và con người, tất cả là một bản hợp ca không ngừng ngợi khen Chúa Trời ” .

Năm 1982, Thầy đã lập Nhóm QUÊ HƯƠNG để vừa học vừa góp tay thực hiện các chương trình do Thầy đề ra: Phác họa và khai triển các chương trong 2 cuốn sách LỐI VIẾT THOÁNG MỎNG và LỐI TRÌNH TẤU SỐNG ĐỘNG, cùng với một số học trò còn lại, gồm Thiên Lan Nữ tu MTG Thủ Đức, Nhạc sĩ Nam Hải, và Lm. Xuân Thảo tu sĩ dòng Phanxicô.

Các bài hát khác được sáng tác trong giai đoạn này gồm có:

· VINH DANH THIÊN CHÚA

· PHƯỢNG TRÌ

· KINH LẠY CHA

· KHÚC NHẠC CẢM TẠ

· CHÚC TỤNG THÁNH GIUSE

· TÌNH NƯỚC NON

· HOAN CA MÙA TRƯỜNG XUÂN

· THƠ THƠ 1, 2,

· TÁN TỤNG HỒNG ÂN, TÌNH CHÚA YÊU TÔI, BẾN THIÊN ĐÀNG, YÊU CON ĐỜI ĐỜI, MÙA HỒNG ÂN, MẸ VÔ NHIỄM… (Các bài từ Tán tụng Hồng Ân trở đi là soạn chung với một số tác giả khác).

14g45 ngày 08/05/1986 Thầy đã rời Sân bay Tân Sơn Nhất đi đoàn tụ gia đình tại Mỹ và cư ngụ tại New Orleans, bang Louisiana, ở cùng nơi với Lm. Ngô Duy Linh. Chưa kịp nghỉ ngơi, Thầy đã phải tập dượt cho Ca đoàn Hợp tuyển Việt Nam, để hát tại Đại hội mục vụ Thánh nhạc toàn quốc tổ chức tại New Orleans chiều 01/07/1986. Tại đây gần 800 người gồm Ca trưởng, nhạc công Dương cầm, Quản cầm và các nhạc sĩ sáng tác công giáo Mỹ đã cảm phục tài nghệ của Nhạc sư. Cha Virgil Funk, chủ tịch Hiệp hội Ca nhạc sĩ mục vụ Hoa Kỳ đã lượng giá sự đóng góp của Việt Nam tại Đại hội như sau: “Về lượng, các ông có vẻ yếu kém (chỉ có 80 ca viên), nhưng về phẩm thì phái đoàn Việt Nam đã ghi được thành tích đáng kể. Điều đáng kể thứ nhất là Việt Nam đã cho thính giả và các chuyên gia âm nhạc thánh ca Mỹ, thưởng thức những ca điệu Việt Nam rất độc đáo và hấp dẫn. Điều đáng kể thứ hai là Nhạc sĩ Hải Linh đã xuất hiện như một biến cố âm nhạc cao siêu và kỳ tài”. Hôm đó, nhạc sư điều khiển bài Tán tụng Hồng ân và Hồng ân Thiên Chúa.

Kế đó, ông mở các lớp Ca Trưởng tuần tự ở nhiều Tiểu bang khác nhau. Đồng thời, tập dượt cho nhiều Ca đoàn ở nhiều nơi khác nhau để hát trong nhiều dịp lễ.

Trong gần 20 tháng ở Mỹ, Nhạc sư đã tập dượt để điều khiển trên 12 buổi ca hát chính thức. Buổi điều khiển có ý nghĩa sau cùng đối với Nhạc sư có lẽ là đêm Giáng Sinh 24/12/1987 tại họ Đức Mẹ Lên Trời ở Avondale, bang Louisiana, khi bài Thánh ca Hang Be-lem tròn 42 tuổi. Và trách nhiệm nặng nề lo tập hát cho Đại lễ Phong Thánh Tử Đạo Việt Nam tháng 6/1988 tại Roma là nỗi ưu tư lo lắng nhất cuối đời Nhạc sư. Thầy đã sáng tác thêm một số bài hát cho dịp này, như NHÂN CHỨNG ĐỨC TIN, BÀI CA KHẢI HOÀN… và đã lên chương trình tập dượt ở nhiều nơi.

Ngày 05/01/1988, lúc 5giờ chiều, Nhạc sư rời New Orleans đi Los Angeles để tập hát theo chương trình dự tính, thì đêm hôm ấy tới nơi trong một trạng thái mệt mỏi, khó ngủ. Một phần tuổi già, một phần lớn sức yếu vì bao công việc dồn dập và liên tục, cộng thêm với bao lo lắng ưu tư cho lý tưởng Hợp ca, nên sáng hôm sau, Nhạc sư bị đau nặng phải đưa đi bệnh viện. Nhạc sư đã từ trần vì nhồi máu cơ tim, lúc 6giờ30 chiều ngày 06/01/88 tại bệnh viện Fountain Valley.

Ngày 16/01/1988, lúc 9 giờ, linh cữu được chuyển từ Westside Funeral Home tới nguyện đường Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời để cử hành lễ an táng cuối cùng. Sau đó, linh cữu được chuyển đến Nghĩa trang Avondale, nơi an nghỉ cuối cùng của Nhạc sư, tọa lạc tại Restlawn Park Cemetery, Garden of Family Devotion, Block H, Square G, Plot 22, Lot 2.

Nhạc sư Hải Linh ra đi thật đột ngột, bất ngờ, để lại bao kính thương, luyến tiếc. Còn bao nhiêu công việc đang dở dang chưa kịp hoàn tất, dù rằng những gì đã hoàn tất cũng đã là một đóng góp to lớn cho nền âm nhạc nói chung, và cho Việt Nam nói riêng. Đó là khoảng 60 bài để TÔN VINH THIÊN CHÚA, 60 bài để TÁN TỤNG QUÊ HƯƠNG, với trên dưới 40 bản đệm đàn, bản dạo đàn, cũng như trên 10 tập tài liệu soạn ra để huấn luyện Ca trưởng, dạy đệm đàn, dạy sáng tác… Thầy dạy học không chỉ từ kiến thức đã học được từ trường lớp, mà quan trọng hơn là từ kinh nghiệm sáng tác và trình tấu của mình. Vì thế, đóng góp quan trọng hơn cả, qua tất cả những gì Nhạc sư sáng tác và dạy lại, đó là một LỐI VIẾT THOÁNG MỎNG đượm tính dân tộc, khả năng diễn đạt phong phú và tinh vi những cảm xúc của con người Việt Nam trước Đấng Tạo hóa cũng như trước Quê Hương Đất Nước, trước nhân tình thế thái, bằng chính ngôn ngữ Việt Nam với nguyên vẹn các ấn tín thẩm mỹ dân tộc, đi đôi với LỐI TRÌNH TẤU SỐNG ĐỘNG nhờ cách điều khiển sắc bén, hiệu nghiệm và ngoạn mục, nhờ cách đệm đàn khéo léo và chọn lọc, nhờ cách hát theo tinh thần của Tiết tấu, với một lối phát âm “tròn vành rõ chữ” như cha ông ta thường nói. Đóng góp đó, Nhạc sư muốn cô đọng lại trong 2 cuốn sách mang cùng tên với hai chủ đề trên. Tuy chỉ mới dự thảo còn cần khai triển và biên soạn, nhưng với tất cả những gì để lại cũng như truyền đạt cho hậu bối, Nhạc sư Hải Linh đáng là bậc Thầy có công lớn trong nền âm nhạc Việt Nam.

Nhạc sư Hải Linh đã chia sẻ trong một lần phỏng vấn: “Tôi phải thú nhận rằng tôi không có sáng tác gì cả vì chỉ có một Đấng Tạo Hóa mới thực sự sáng tác mà thôi. Còn tôi cũng như bao nhiêu người khác thì không dám nói là mình sáng tác. Tôi chỉ có "sàng tạc" được một đôi bài. Sàng là sàng qua lọc lại; tạc là dựa vào một mô thức đã có sẵn để chế biến... như người tạc tượng vậy. Viết nhạc cũng cực như lao động chân tay vậy vì phải cưu mang, phải tính toán, rồi còn phải biết lý tưởng hóa những cảm nghĩ, tình cảm vv... Mỗi bài phải có một sức sống riêng. Tất cả những bài tôi viết nằm trong hai chủ đề là: Tôn Vinh Thiên Chúa, và Tán Tụng Quê Hương Việt Nam.

Tôi phải cảm tạ Thiên Chúa suốt ngày, suốt đời tôi, vì Ngài đã cho tôi biết được một thứ ngôn ngữ tế vi và phổ quát của nhân loại. Tôi cũng phải luôn luôn tán tụng Quê Hương vì đã dưỡng dục tôi”.

Thầy rất kỹ trong sáng tác, chọn lựa từng câu, nắn nót từng nốt nhạc để cho ra một tác phẩm. Thế nhưng lâu lâu thầy cũng phải chỉnh lại chữ này hay kéo dài trường canh nọ cho dễ hát hơn (trước đây khi còn in ronéo ta vẫn thấy có chữ bản chỉnh sửa năm…).

Đưa nhạc vào thơ:

Đây chính là một ngón tài hoa của nhạc sĩ Hải Linh đã biến những lời thơ thành nhạc. Đó là một nghệ thuật đòi hỏi người nhạc sĩ phải có tâm hồn thơ như nhà thơ .

Với thầy Hải Linh thơ được dệt đi dệt lại và thêm những từ điệu V iệt N am : à mà, là, chứ, tình bằng , ớ dù… bản nhạc thoát ra khỏi quy luật của câu lục, câu bát nhưng vẫn giữ được cái phần hứng, phần hồn của thơ .

Chúng ta hãy nghe lại những tác phẩm: Thằng Bờm, Hò Non Nước, Cung Đàn Bạc Mệnh, Duyên Kỳ Ngộ… mới thấy được sự tài tình của người nghệ sĩ đã đưa thơ vào nhạc, sống trong thơ như chính mình làm ra những vần thơ đó vậy.

Lm. Xuân Thảo đã viết: “ Tiếp xúc với ca dao, với Nguyễn Du, Đoàn Thị Điểm, Hàn Mặc Tử, Lưu Trọng Lư , … Hải Linh giúp chúng ta đến gần và yêu mến văn học, yêu mến thi ca hơn. Điều này không phải ai cũng làm được ” .

Những sáng tác qua thơ ca:

- Thơ Hàn Mặc Tử:

Đà Lạt trăng mờ, Ra đời

Trường ca Ave Maria: gồm 10 bài. Sáng tác chung với Cát Minh.

Nhạc kịch thơ Duyên kỳ ngộ: là một thể loại tiểu nhạc kịch (micro-opera).

- Lời Kinh của Thánh Phanxicô:

Trường Ca Các Tạo Vật: gồm 10 bài. Sáng tác chung với Xuân Thảo.

- Đại tấu khúc Chinh phụ ngâm (trích thơ Đặng Trần Côn).

Tác phẩm này được viết theo nhạc Việt nhưng hình thức vẫn theo lối cổ điển Tây phương, chia làm ba hành âm (mouvement):

· Từ khi có lệnh chiến chinh "Trống tràng thành lung lay bóng nguyệt" cho đến khi người chinh phụ tiễn chinh phu lên đường lo việc nước.

· Cảnh người chinh phụ cô đơn chiếc bóng ở lại nhà săn sóc mẹ già và con thơ “Gà eo óc gáy sương năm trống”.

· Phần kết kể lại ngày đoàn viên…

- Ca dao: Thằng Bờm

- Thơ Lưu Trọng Lư: Tiếng Thu

- Trích thơ Nguyễn Du (Truyện Kiều):

Năm 1958, nhân ngày giỗ (22.9) đại thi hào Nguyễn Du, lần đầu tiên truyện Kiều được phổ nhạc. Trước đây cha ông ta chỉ bói Kiều và lảy Kiều, nay hát Kiều. Nguyễn Du và Hải Linh cùng “kể lể”: Trăm năm trong cõi người ta, để rồi bắt sang những tâm sự chết người của “cung đàn bạc mệnh”:

Khúc đâu Tư Mã Phượng cầu…

Khúc đâu Hán Sở chiến trường…

Kê khang này khúc Quảng Lăng…

T hiệt lòng mình, cũng nao nao lòng người…

Trường ca cung đàn bạc mệnh gồm 4 cung chia ra như sau:

· Cung thứ nhất, gồm 10 bài, tả tiếng đàn của Thúy Kiều gảy cho Kim Trọng nghe

· Cung thứ hai, gồm 6 bài, mô tả tiếng đàn của Thúy Kiều gảy cho Thúc Sinh và Hoạn Thư nghe.

· Cung thứ ba là tiếng đàn của Thúy Kiều gảy cho Hồ Tôn Hiến.

· Và cung thứ tư là tiếng đàn của Thúy kiều gảy cho Kim Trọng lúc tái hồi.

Thật đáng tiếc, cố nhạc sĩ Hải Linh đã chưa hoàn tất cung đàn bạc mệnh cuối cùng…

Cây đại thụ trong làng thánh nhạc Công giáo Việt Nam đã không còn nữa, nhưng bóng mát vẫn còn tỏa rộng. Sự nghiệp của Thầy Hải Linh vẫn còn được kế thừa nơi những người ca trưởng ông đã đào tạo trong và ngoài nước, duy chỉ có tài năng là không ai thay thế được. Tuy nhiên di sản nhạc sĩ để lại, những nhạc bản để Tôn vinh Thiên Chúa và Tán tụng Quê hương, sẽ mãi mãi tồn tại với thời gian, nhất là mỗi mùa Giáng sinh trở lại tiếng hát về Hang Be lem lại được cất lên khắp các thánh đường Công giáo, và âm hưởng còn vang vọng mãi nơi hồn người.

Hàng năm cứ vào ngày 06 tháng 01, Nhóm Quê Hương cùng với các học viên Các Lớp Nhạc Quê Hương thường tổ chức Thánh Lễ Giỗ cầu nguyện cho cố Nhạc Sư Hải Linh tại Thánh đường Giáo xứ Phanxicô Đakao và Đêm Nhạc Tưởng Nhớ tại giáo đường giáo xứ Xóm Thuốc để cầu nguyện và tưởng nhớ đến Nhạc sư Hải Linh qua một số nhạc phẩm tiêu biểu.

2. Ca khúc Hang Be-lem:

Đêm đông lạnh lẽo Chúa sinh ra đời.

Chúa sinh ra đời nằm trong hang đá nơi máng lừa.

Trông hang Bê lem ánh sáng tỏa lan tưng bừng

Nghe trên không trung tiếng hát thiên thần vang lừng

Đàn hát (réo rắt tiếng hát), xướng ca (dư âm vang xa).

Đây Chúa thiên tòa giáng sinh vì ta.

Người hỡi (hãy kíp bước tới), đến xem (nơi hang Bê lem)

Ôi Chúa giáng sinh khó khăn thấp hèn.

Nửa đêm mừng Chúa giáng sinh ra chốn gian trần

Người đem ơn phúc xuống cho muôn dân lầm than

1- Nơi hang Bê lem thiên thần xướng ca

Thiên Chúa vinh danh chúng nhân an hòa

2- Nơi hang Bê lem chiên lừa thở hơi

Tan giá đêm đông ấm thân Con Người.

3- Nơi hang Bê lem mục đồng xúm quanh

Ca hát vang lừng mến yêu chân thành.

4- Nơi hang Bê lem huy hoàng ánh sao

Đưa lối Ba Vua phương đông đến chầu

5- Nơi hang Bê lem ta quỳ thiết tha

Xin Chúa nhân hiền xuống ơn chan hòa.

Lúc sinh thời, cố nhạc sĩ Hải Linh đã có lần kể về sự ra đời của bài hát Hang Be-lem:

"Đó là bài đầu tiên mà tôi viết vào tháng 11 năm 1945. Lúc ấy tôi được 25 tuổi và đang dạy học ở trường thầy Giảng Bùi Chu.

Một hôm, tôi đi ngang qua Tòa soạn bán nguyệt san Đường Sống ở Nam Định, ông Minh Châu - chủ nhiệm - thấy tôi thường hay hát nên đố tôi làm được một bài để đăng vào báo Đường Sống nhân mùa Giáng Sinh. Tôi nhận lời và hẹn ba ngày sau trở lại.

Sau ba ngày tôi đưa bản nhạc Hang Be-lem tới Tòa soạn và tập sơ qua cho một số anh chị em trong Tòa soạn. Khi hát lên, mọi người thấy thích quá nên ông Minh Châu mới thương lượng với tôi thế này: Ông sẽ trả chi phí cho người cầm bản nhạc lên Hà Nội để tìm Mạnh Quỳnh và thuê Mạnh Quỳnh khắc vào bản gỗ. Sau khi đã in 2000 số báo Đường Sống, ông Minh Châu sẽ cho tôi lại bản gỗ của bản nhạc. Tôi cũng đồng ý như vậy.

Tôi còn nhớ, lúc đó tôi đã in ra 500 bản với giá 3 hào hay 3 xu gì đó. Tôi gởi lên Hà Nội 10 bản. Một số nhà thờ hát và nhiều người thấy hay nhưng không tìm đâu ra bản nhạc. Thật đúng tôi là một anh nhà quê! Đối với thủ đô Hà Nội mà chỉ có gởi 10 bản nhạc! Một điều rất đặc biệt là Cha Kim Định đã mua một bản danh dự với giá 100 đồng! Tôi cũng gửi biếu Đức Cha Phạm Ngọc Chi – lúc ấy còn là Linh mục và đang dạy ở trường Lý Đoán Phát Diệm – một bản.

Bài Hang Be-lem đã ra đời như thế, và đã được chính tác giả điều khiển ca đoàn nhà thờ chính tòa Phát Diệm hát lần đầu tiên trong thánh lễ Đêm Giáng Sinh năm 1945. Và đây cũng có thể xem là ca khúc quen thuộc nhất của bất cứ người công giáo nào khi lễ Giáng Sinh tới gần.

Lời nhạc gần gũi và đậm nét dân dã của ca khúc đã nằm trong trí nhớ của hàng triệu giáo dân. Lời hát êm ái mà chân thật như một trang cổ tích kể lại đêm giáng trần của một em bé mà khi sinh ra, sự chí thánh đã làm khung cảnh lạnh lẽo chung quanh trở nên ấm áp vì tình thương của Ngài. Nhạc sĩ Hải Linh đã đem tâm tình của một con chiên để ngợi ca Thiên Chúa hơn là viết thánh ca từ tâm thức phụng vụ. Giai điệu chân thành, lời ca êm ái là nguồn cảm hứng cho biết bao thế hệ các ca đoàn khắp trong và ngoài nước khi hát bài hát này.

Trong tâm thức chia sẻ và ngợi khen hết mực đối với Thiên Chúa, ca khúc Hang Belem tôn vinh niềm tin vĩnh cửu, tình thương vô bờ và lấp lánh trần gian giữa khung cảnh lạnh lẽo của một đêm đông xa tít tắp trong kinh thánh đã trở thành kỷ niệm cho hàng ngàn nhà thờ trong và ngoài nước…

Những câu hát khởi đi từ giữa thập niên 1940 của thế kỷ trước, vẫn còn vang vọng mỗi dịp mừng lễ Giáng sinh, từ trong các thánh đường Công giáo tại Việt Nam và theo chân đoàn con cái Chúa đi khắp những miền xa xôi trên thế giới, từ những đài phát thanh, đài truyền hình đến tận các tư gia. Ngày nay trên các tụ điểm sân khấu vang lên tưng bừng trong những đêm Noel. Không chỉ có thế nhà nhà đều mở nhạc Giáng Sinh và thể nào cũng có bài Hang Be-lem. Bài hát thật giản dị, dễ nhớ, đã đi sâu vào lòng người. Nhiều người thú nhận đó là bài thánh ca Giáng sinh đầu tiên và duy nhất mà họ thuộc nằm lòng và chắc chắn nó sẽ tồn tại mãi mãi trong lòng những người Công giáo Việt Nam và trên toàn thế giới.

Khi tập hát bài Hang Be-lem thầy đã hướng dẫn rất kỹ:

- Chúa từ trời cao hạ xuống trần gian nên giai điệu sẽ trải từ trên xuống.

- Thầy không chấp nhận hòa âm trong câu đầu tiên Đêm đông lạnh lẽo Chúa sinh ra đời. Ai hòa âm 2, 3 hoặc 4 bè đều được thầy nhẹ nhàng “cám ơn” hết.

- Chữ lẽo cao độ bằng chữ Chúa nhưng chữ lẽo có dấu ngã nên hát bằng 2 dấu cho nhẹ nhàng. Nhiều người hát chữ Chúa thấp hơn chữ lẽo là không đúng.

- Đàn hát (réo rắt tiếng hát), xướng ca (dư âm vang xa). Những réo rắt và dư âm đi liền nhau.

- Người hỡi (hãy kíp bước tới), đến xem (nơi hang Be lem). Hãy kíp và nơi hang liền nhau.

- Đây Chúa thiên tòa giáng sinh vì ta. Chữ giáng như trên đã nói: Chúa trên cao giáng xuống trần – nốt Do xuống nốt La – đa số hát sai 2 nốt này toàn đá từ dưới lên!!!

- Nửa đêm mừng Chúa giáng sinh ra chốn gian trần. Chữ giáng này chỉ hát 1 nốt và cao hơn chữ Chúa nửa cung thì đa số lại hát chữ giáng này bằng 2 nốt và cũng đá từ dưới lên!!

Giờ đây xin mời mọi người thử nghe lại bài Hang Be-lem theo sự hướng dẫn của chính tác giả sẽ thấy hầu hết các ca sĩ hát thâu băng cassette trước giải phóng, hay bây giờ qua CD đều sai chữ giáng. Đa số dùng 2 dấu và toàn đá lên chứ không luyến xuống. Có lẽ mọi người cho rằng bài hát quá quen, ai cũng thuộc, nên chỉ cần hát cho rõ mà quên đi phần ý và cũng chẳng cần xem lại nốt nhạc của tác giả chăng?

Hãy nghe Nguyễn Ánh 9, một nhạc sĩ đã có thâm niên 60 năm trong nghề tâm sự:

Ca sĩ bây giờ đa số chỉ chú trọng ăn mặc, make-up cho đẹp, chịu khó múa và lên sân khấu hát thì sau lưng có một đám múa phụ họa. Nhưng ít chú trọng đến xúc cảm âm nhạc, chỉ để tâm đến kỹ thuật nhiều nên tình cảm cho bài hát không còn.

Gần như mọi người không ai xa lạ với nhạc phẩm Hang Be-lem. Thế nhưng ai là tác giả của bài hát nổi tiếng đó, người biết người không và cũng không ít người có thể trả lời được… Hiện nay mọi sân khấu trong những đêm Noël đều hát nhưng ít có nơi giới thiệu tác giả là ai? Thậm chí còn giới thiệu sai tên bài hát cho đó là bài hát đêm đông… có lẽ vì mở đầu là chữ đêm đông chăng?

Cho dù thời gian trôi qua mọi người bị cuốn theo trào lưu xem hang đá, nhất là những ngày cận Giáng sinh, tại đường Phạm Thế Hiển gần cầu chữ Y. Suốt con đường này nhà nhà thi nhau làm hang đá từ trên lầu hai ba tầng trải dài xuống đất. Tượng Chúa Hài Đồng to thiệt là to. Ông Già Noel lúc la lúc lắc. Đèn chớp đủ màu… Nhưng cuối cùng họ cũng dồn về thánh đường để nghe những giai điệu ngọt ngào của Giáng sinh, tưởng nhớ mầu nhiệm Ngôi Hai giáng thế trong cảnh nghèo hèn và cùng hát bài Hang Be-lem trước khi chia tay trong sự bình an của Chúa Hài Nhi.

Hiện nay tác quyền những nhạc phẩm của cố nhạc sĩ Hải Linh được hai con của thầy Hải Linh là Cecilia Tran và Joey Tran ủy cho cha Ngô Duy Linh và Ông Trần Mạnh Hùng. Trước khi mất Cha Ngô Duy Linh muốn những gì thuộc quyền Ngài sẽ trở về cội (Giáo phận Bùi Chu). Ông Trần Mạnh Hùng cũng đã ủy thác cho Ủy Ban Thánh Nhạc VN. Tập Thánh ca Hải Linh tưởng niệm 20 năm qua đời (1988-2008) của thầy đã chính thức phát hành.

Đặc biệt trong đó ghi rõ những bài nào được dùng trong phụng vụ…

Chúng ta rất mong những tác phẩm đạo cũng như đời của Ca Trưởng Hải Linh sẽ tiếp tục được xuất bản trong một ngày gần đây.

Hà Mạnh Đoàn


Phụ Bản I

VỊ ĐẮNG TUỔI GIÀ

Từ lúc bắt đầu ra làm việc và có nhà riêng đến giờ, ngoại trừ những lúc đi du lịch thì tôi chỉ quanh quẩn bên gia đình. Cũng hiếm khi về nhà cha mẹ ruột, vì ông bà dưới quê vẫn thường xuyên lên xuống thăm cháu. Ngược lại, những lần tôi sinh nở, hay gia đình có việc bận là mẹ tôi lại đến nhà để giúp tôi. Lúc đó tôi cũng rất vô tư, xem nhà của mình như nhà của cha mẹ, nên nghĩ là ông bà tự do, thoải mái khi ở nhà tôi, cho nên tôi chưa hề có cảm giác sống ở nhà người khác ra sao. Bây giờ đến lượt tôi tới ở nhà của con gái để phụ giúp nó sắp sinh và dọn nhà. Chồng nó lại là người nước ngoài, nên không tránh khỏi e dè, mới biết được thế nào là cảm xúc của người buộc phải ở nhà người khác! Cả thằng rể tôi cũng nói với vợ nó là tự nhiên nó thấy căng thẳng khi tôi tới ở nhà nó, vì chính nó cũng sợ làm điều gì sơ xuất để mẹ vợ phải phiền lòng. Nhưng tình thế bắt buộc, không thể khác được!

Vừa dọn qua nhà mới được 1 ngày thì con gái tôi lại thấy có dấu muốn sinh, dù còn đến 1 tháng nữa mới tới ngày. Thế là đang đêm, vợ chồng nó gọi tôi dậy báo cho biết là nó đã gọi điện cho bác sĩ là người theo dõi nó suốt từ đầu thai kỳ, để nhờ tư vấn. Ông bảo đến ngay bệnh viện để ông khám. Xong, vợ chồng nó lật đật vô bệnh viện. Sau đó con tôi gọi điện về cho biết nó phải nằm lại. Bác sĩ kết luận là em bé còn chưa biết thở, nhưng đang muốn ra. Ông cố gắng giữ nó lại ít ngày, cho nó tập thở rồi nếu chừng nào kềm không được thì mới cho sinh.

Bác sĩ cũng phải túc trực để theo dõi. Cứ cách hai giờ, ông lại phải tiêm cho nó một mũi thuốc để kềm cơn đau đẻ. Nhưng cũng chỉ kềm được 2 ngày, vì càng lúc cơn đau càng thôi thúc, thuốc không còn tác dụng, nên con tôi được chuyển lên phòng để chuẩn bị sinh.

Ở nước ngoài họ chăm sóc sức khỏe thai phụ rất kỹ. Từ lúc bắt đầu mang thai, thai phụ phải đi khám định kỳ để bác sĩ theo dõi sự phát triển của bào thai. Ngoài ra, thai phụ còn được học để biết tất cả diễn tiến của việc sinh nở. Họ chiếu phim cho thấy cách các sản phụ sinh: Sinh bình thường thì như thế nào? Sinh mổ thì ra sao. Cả hai vợ chồng còn tham dự một khóa học chăm sóc trẻ sơ sinh để khi có em bé không bị lúng túng. Trước đó, con tôi chọn phương pháp gây tê để sinh tự nhiên. Nhưng cuối cùng, sau 5 giờ cố gắng sinh tự nhiên mà không được, do vị trí thai nhi nằm khó, nên phải sinh mổ.

Trước hết cũng phải cho thằng rể nước ngoài điểm son về khoản chăm lo cho vợ. Kể từ lúc đưa vợ vô bệnh viện là anh chàng xin nghỉ phép để túc trực với vợ 24/24. Nó chỉ về nhà để thay đổi quần áo mà thôi. Cho tới khi vợ ra viện thì hai vợ chồng cùng về. Đứa bé sinh thiếu tháng nên phải nằm lại lồng kính, để bệnh viện săn sóc.

Cũng phải phục bệnh viện nước ngoài về cách moi tiền hợp lý mà bệnh nhân không thể không tự động móc túi. Số là các sản phụ khi sinh thì phải nằm lại. Có nhiều phòng, giá tiền khác nhau. Phòng có nhiều người nằm chung thì chi phí sẽ nhẹ hơn. Nhưng phòng đó đông đúc, không cho người nuôi ở lại. Người muốn có người nuôi thì phải thuê phòng nằm một mình. Người nuôi sẽ được cung cấp mền để ngủ ở sofa, và đóng thêm tiền thì được phục vụ cơm ngày 3 bữa. Giá tiền ăn mỗi ngày 100 đô. Sản phụ thì tiền ăn đã tính chung với tiền phòng.

Ở Singapore bệnh viện công lại mắc hơn bệnh viện tư đối với người nước ngoài, nên đa số người nước ngoài chọn bệnh viện tư. Ai có bảo hiểm thì đỡ. Có điều muốn bảo hiểm sinh đẻ thì phải đóng trước khi sinh 2 năm! Như vậy có lẽ vừa tìm hiểu nhau thì lo mua bảo hiểm là vừa! Chi phí cho việc sinh nở khá cao. Trong lúc con tôi sinh thì một người làm chung cơ quan với chồng nó cũng sinh đôi. Họ làm lâu năm nên được cơ quan đóng bảo hiểm cho, và chi phí cho ca sinh đôi đó lên đến 50.000 đô Sing. Trường hợp của con tôi, lúc xuất viện, tính hết các khoảng là tròm trèm 20.000 đô Sing. Nhưng kể ra thì cũng đáng để tốn, vì gặp trường hợp sinh khó như con tôi, rặn mãi đến 5 tiếng đồng hồ mà đứa bé không ra. Nếu không có bác sĩ giỏi chuyên môn để mổ kịp lúc thì không biết tính mạng của hai mẹ con ra sao.

Thời gian vợ chồng con tôi ở trong bệnh viện thì tôi ở nhà trông nhà và tự đi chợ, nấu ăn. Cũng may là chợ nằm ngay bên kia đường, chỉ cần xuống lầu, băng qua đường là tới. Tài xế ở Singapore thì rất lịch sự. Chỉ cần thấy người đi bộ đứng bên lề, là tự động dừng xe rồi khoác tay kêu qua. Không có giành đường như ở Việt Nam ta.

Thỉnh thoảng con tôi hoặc chồng nó gọi về, báo cho biết diễn tiến trong bệnh viện. Sau khi con gái tôi sinh xong thì tôi mới vô thăm. Đứa bé thì đang nằm lồng kính ở phòng khác, không được vô thăm. Con gái tôi thì mới sinh mổ, còn bị ảnh hưởng của thuốc mê. Tôi có hỏi thằng rể đứa bé giống ai thì nó trả lời là không kịp nhìn rõ, vì cô mụ chỉ đưa cho xem rồi ngay lập tức bồng đứa bé chạy vội vào phòng chăm sóc đặc biệt! Phòng đó chỉ những người cha mới được vô thăm các bé. Thân nhân khác chỉ được đứng ngoài cửa kính nhìn vô thôi, vì các bé yếu, nên phòng phải vô trùng.

Sau khi sinh mấy ngày thì bác sĩ cho con tôi xuất viện về truớc. Hôm sau Bệnh Viện báo cho biết tình hình sức khỏe đứa bé đã ổn định, cho phép rước bé về. Nhưng buộc phải có người mẹ thì bệnh viện mới giao con. Tôi cũng tháp tùng vợ chồng nó vào bệnh viện để đón bé. Cô mụ ẵm và đưa em bé ra tận cửa bệnh viện mới trao lại cho người nhà.

Đừng tưởng chỉ có cánh Taxi Việt Nam ta mới có kiểu chạy vòng vòng. Cả 5 lần tôi đi Taxi vô bệnh viện để thăm con gái là 5 giá khác nhau. Chỉ có 2 lần chạy đúng giá là chưa đến 8 đô. Những lần khác đều trên 12 đô, mà mình không biết đường thì họ chạy kiểu gì cũng phải chịu thôi. Có một lần tôi còn bị tài xế cố ý cho xe chạy vòng vòng. Từ phi trường về nhà. Lúc lên xe, tôi đã đưa địa chỉ, tên đường cho ông ta. Ông ta chạy lung tung xong rồi dừng lại ở một chung cư cũng mang số đó, nhưng ở đường khác. Tôi nói không phải ở đây, chung cư kia nằm trên đường Commonwealth, gần đó có nhà thờ. Ông ta mới vờ… ờ ờ xong vòng qua khu bên kia. Lần đó thay vì từ sân bay về nhà khoảng hơn 20 đô, tôi phải trả gần 30 đô!

Những lúc ở nhà một mình, không có việc gì làm, tôi lan man nghĩ đến cảnh những cha mẹ già phải sống nhờ nhà của con cái để thấy thông cảm cho những bậc làm cha mẹ phải chịu cảnh đó. May mà con tôi nhờ tới giúp. Tôi vẫn có nhà riêng và tự sinh sống, không cần sự trợ giúp của đứa nào, mà tới ở nhà con vẫn không thấy thoải mái như ở nhà. Làm gì cũng phải dè chừng, vì “nhập gia tùy tục”. Thằng rể Tây lại rất kỹ nên cũng phải để ý mọi thứ. Chợt nhớ tới những câu chuyện về cha mẹ hai bên mà tôi nghe từ rất nhiều năm trước đây.

Một bà bạn kể lại: Bà có bà bạn, chỉ có một mẹ, một con. Chồng mất lúc bà còn rất trẻ, nhưng bà ở vậy rồi lo làm việc để nuôi dạy cậu con. Trước 75, cho cậu ta đi du học bên Pháp. Vừa tốt nghiệp, chưa kịp về thì phải kẹt ở lại. Mấy năm sau đó, khi tình hình ổn định thì cậu mới liên lạc được với mẹ và báo cho biết cậu đã lập gia đình với một cô đầm Pháp, bạn học, và tìm cách để bảo lãnh cho mẹ sang Pháp để mẹ con được sống gần nhau. Qua nhiều thủ tục rườm rà, mất mấy năm thì người mẹ cũng sang Pháp với con. Những ngày đầu đoàn tụ mẹ con vui mừng biết bao nhiêu. Nhưng chẳng được bao lâu thì cũng có chuyện rắc rối xảy đến.

Ai cũng biết những bà mẹ Việt Nam thì hay chăm chút cho con. Con và dâu đi làm thì bà ở nhà coi việc nội trợ, dọn dẹp. Bà thấy trong phòng của con và dâu mền, gối để ngổn ngang, sách vở bừa bãi, nên sáng nào, sau khi bọn chúng đi làm, bà cũng vô lau, quét, sắp xếp mọi thứ. Không ngờ con dâu lại không bằng lòng. Một buổi nọ, khi dọn giường, bà thấy một mẫu giấy nó viết để dưới gối. Bà cũng là dân có học, biết tiếng Pháp, nội dung nó viết: “Yêu cầu đừng xâm phạm không gian riêng của vợ chồng nó”, và nó đề nghị: “tốt nhất là bà nên để cho vợ chồng nó có cuộc sống tự do”. Từ đó bà ngưng dọn phòng, và lặng lẽ không nói gì với con trai, vì sợ nó khó xử. Một bên là mẹ, môt bên là vợ, nó sẽ chọn ai, khi cả hai cùng là người mà nó yêu thương nhất. Suy nghĩ kỹ, bà phải quyết định xa con để bảo tồn hạnh phúc cho con.

Sau đó bà nhất quyết đòi trở về VN, với lý do là nhớ quê hương. Thằng con rất muốn mẹ ở gần để báo hiếu, tìm mọi cách để can ngăn, nhưng bà không đổi ý. Nó trách bà không thương nó, nhưng cuối cùng cũng đành mua vé máy bay cho bà hồi hương. Không biết từ đó cho tới lúc bà ra đi mẹ con có còn gặp lại hay không? Có khi thằng con còn hờn mẹ vì sao chỉ có một mẹ một con mà bà nhẫn tâm bỏ nỏ để về quê sống thui thủi một mình, không sống gần cho nó báo hiếu. Nó làm sao biết được bà cũng tan nát cõi lòng, nhưng vì con mà bà đành phải chấp nhận hy sinh niềm vui được sống gần con của mình, để hạnh phúc vợ chồng của con được trọn vẹn. Bà cũng không hề hé môi để nói với con về cách cư xử của cô dâu đầm, thà chịu cho con trách!

Có một người Việt lần đó đến trại dưỡng lão ở nước ngoài kể lại. Một bà nọ người Việt, sống với con và dâu. Lần đó con và dâu rủ bà đi cắm trại ở một vùng xa thành phố. Nó bỏ đồ xuống, kêu bà ở đó chờ vợ chồng nó đi mua thêm chút đồ ăn uống. Bà chờ mãi tới gần xế chiều mà không thấy nó quay lại, nên vừa khóc vừa lần ra đường lớn. Người đi đường thấy vậy gọi cảnh sát. Họ chở bà về đồn. Nhờ thông dịch tới. Nhưng hỏi con bà ở đường gì? Thành phố nào để họ đưa về thì bà không biết gì hết. Thế là họ đưa bà vô viện dưỡng lão luôn từ đó.

Một chuyện khác mà tôi được biết do chính người trong cuộc kể: Anh này từ miền Bắc, vào làm việc ở miền Nam. Thỉnh thoảng mẹ của anh từ miền Bắc cũng vô thăm con rồi ở chơi có khi cả tháng. Có lẽ do từ lúc ở Bắc đã có xung đột rồi, nên con dâu mỗi lần thấy mẹ chồng vô là bỏ sang nhà hàng xóm, hay đi đâu đó chơi, bỏ mặc mẹ chồng ở nhà với chồng. Cho tới khi bà về Bắc thì mới về nhà! Sau đó thì tôi không gặp lại anh này, không biết anh có còn tiếp tục sống với vợ lâu dài trong tình trạng như vậy hay không?

Rõ ràng những cuộc sống với nhiều thế hệ ở chung có lẽ không tránh khỏi va chạm nếu một trong các bên không biết điều hoặc không chịu nhường nhịn nhau. Người già thường trái tính, trái nết, nếp sống đã quen, nên khó thay đổi. Đôi khi người con rể hay con dâu không đủ kiên nhẫn để chịu đựng. Dễ gì có người dâu nào được như nhà thơ Xuân Quỳnh: “Mẹ đâu là mẹ riêng anh. Mẹ là mẹ của chúng mình đấy thôi”. Làm sao những cô con dâu thời nay đủ sâu sắc để suy nghĩ mà biết ơn mẹ chồng như Xuân Quỳnh: “Mẹ sinh anh để bây giờ cho em”, mà đa phần chỉ thấy những cô con dâu thời đại chê mẹ chồng lạc hậu, vụng về, quê mùa, dốt nát, không muốn mẹ chồng ở chung nhà để đỡ chướng mắt!

Họ quên rằng trái ngọt mà họ đang hưởng. Người chồng giỏi giang, kiếm tiền dễ dàng để có nhà cao, cửa rộng, đồ dùng tiện nghi, tiền bạc rủng rỉnh cho họ đi shopping xuất phát từ sự chắt chiu từng đồng xu trong biết bao nhiêu năm dài của những bà mẹ nghèo khổ cho con ăn học để có ngày này! Đọc trên báo ta thấy rất nhiều bà mẹ không kể đến bản thân, cố gắng tìm mọi cách để nuôi con ăn học. Có một bà mẹ nhiều năm dài không có cơm mà ăn, phải ăn cám, vậy mà nuôi những 4 đứa con đi học Đại học! Những đứa con đó cũng thật là xuất sắc. Hàng tháng mẹ chỉ có khả năng cho mỗi đứa 50.000đ, vậy mà nó cũng đủ sức gói ghém thế nào đó để học được. Quả là những tấm gương cho những đứa được cha mẹ nuông chiều, tiền bạc cung cấp thừa mứa lại đổ vào ăn chơi, phá tán! Có bà mò cua, bắt ốc, làm thuê làm mướn, nhưng cũng gom góp, dè sẻn từng xu để “mua cái chữ” cho con! Những đứa con thành đạt đó làm sao quên được sự hy sinh, gian khổ của mẹ mình? Vì thế, nếu chẳng may rơi vào hoàn cảnh bất hòa, nếu bắt nó phải chọn lựa giữa mẹ và vợ hay chồng thì nó phải làm thế nào? Những người dâu hay rể có nghĩ đến tình cảm của vợ hay chồng mình không? Làm cha mẹ cũng khó xử, biết phải làm thế nào cho đúng khi rơi vào cảnh bất hòa với dâu hay rể?

Sống mỗi người một nhà. Thác mỗi người một mồ”! Xem ra ông bà ta còn cho là sau khi chết mà vẫn phải nằm chung e rằng còn chưa yên! Bản thân tôi qua việc phải e dè khi sống chung với con gái và rể mới thấy quả là việc cư xử với nhau khi phải sống chung lâu dài thật không đơn giản chút nào. Tôi có bà bạn già, có hai đứa cháu nội ở Mỹ. Bà sang đó để phụ trông coi hai đứa cháu, vì vợ chồng thằng con đi làm việc hết. Một lần bà về Việt Nam. Tôi với bà đi chơi ở biển Cần Giờ, tôi thấy bà mua một lúc những… 5 ký lô khô cá đối! Tôi hỏi bà mua khô gì mà nhiều thế? Bà bảo: Tủ lạnh tụi nó thì đầy thịt heo, thịt gà, nhưng mình không muốn tự ý lấy để ăn. Vì thế bà mua để trữ để có thức ăn riêng của mình. Phần tôi cũng không khác. Thằng rể của tôi hay đi Siêu Thị, nó mua về nhiều thứ trái cây để ở nhà. Con tôi dặn muốn ăn gì thì cứ lấy, đừng chờ vợ chồng nó mời. Nhưng tôi tự nghĩ: Thằng rể đi làm từ sáng đến tối, không có thì giờ ăn. Nó sẽ nghĩ sao cứ vài bữa lại phải mua thêm trong khi nó không động tới? Chính vì vậy mà tôi cũng thà đi mua những thứ mình thích để khỏi phải lấn cấn. Cứ cho là khách sáo đi. Nhưng thà vậy còn hơn là để cho nó đánh giá là bà già vợ ham ăn!

Không phải ai cũng chịu suy nghĩ và có lòng tự trọng. Nhiều bà mẹ quê chơn chất, cứ nghĩ nhà của con mình như là của mình. Như thế tránh sao khỏi dâu, rể khó chịu? Trường hợp của tôi còn là tự ái của cả một dân tộc. Rể tôi người nước ngoài. Nó chưa từng sống chung với gia đình người Việt nào, vì thế, tôi nghĩ, nếu mình thiếu thận trọng, có thể qua mình nó sẽ đánh giá cả một dân tộc là điều không nên.

Ở mỗi tuổi, mỗi vị trí, chúng ta đều có cái nhìn về mọi việc khác nhau. Thời tuổi trẻ, chúng ta thường vô tư, ít thắc mắc. Nhưng đến lúc già thì bắt đầu suy nghĩ nhiều hơn. Cuộc sống chung giữa thế hệ già, trẻ khó tránh khỏi nhiều dị biệt, bởi người già hay vụng về, chậm chạp, đâu có thể theo kịp thời đại, vì sức đã mòn. Nếu con cái không khéo cư xử thì chắc chắn trước sau cũng có đụng chạm. Nhiều người ở nhà quê thường ít chú trọng đến ngăn nắp, do đó, sống chung với người ở thành phố, nhà không rộng, nên mọi thứ phải có trật tự để dễ tìm. Thế là khi cần, không tìm được món mình muốn sử dụng, có người đã tỏ thái độ khó chịu. Người già lại hay tự ái, hay hờn mát! Giờ này tôi mới hiểu tại sao nhiều cha mẹ ở quê lên thành phố thăm con, hôm trước, hôm sau đã vội muốn quay về với lý do “nhớ nhà”. Rất có thể có liên quan tới những việc tuy nhỏ nhặt mà lại gây phiền lòng đó, nhưng vì con cái vô tư nên không nhận ra.

Không chỉ ở nước ta, mà ở nước ngoài chuyện ngược đãi cha mẹ cũng không thiếu. Vừa mới đây, báo đưa tin ở Anh, có hai vợ chồng già đã biểu tình để yêu cầu cô con gái nối lại điện cho mình. Họ cho biết, vì bất hòa với con gái nên hai vợ chồng đã dọn lên ở tầng trên. Tầng dưới để cho đứa con gái ở, và họ đã đưa tiền cho cô ta đóng tiền điện trước khi đi nghỉ hè. Nhưng khi quay về thì cô ta đã cắt điện, để cho hai ông bà phải dùng nến để thắp sáng cả mấy tuần liên tiếp! Không biết nếu nhằm vào mùa Đông mà không có điện để sưởi thì số phận hai ông bà đó sẽ ra sao?

Người ta nói: “Có nuôi con mới biết lòng cha mẹ”. Thật vậy, ai có con đều biết: khi có đứa con, mọi người đều nâng niu hơn vàng ngọc. Đút từng muỗng nước. Chăm chút từng miếng ăn, giấc ngủ. Cả con bị muỗi đốt thôi cũng thấy đau lòng. Nhưng thay vì nhìn cảnh mình chăm con để thấy ngày xưa cha mẹ cũng nâng niu mình như thế, thì nhiều người quên bẵng đi để sẵn sàng ngược đãi cha mẹ, chỉ lo cho con cái. Ông bà ta nói: “Nước mắt chảy xuống” thật không ngoa.

Sống mỗi người một nhà” là hạnh phúc mà không phải tuổi già nào cũng có thể có được. Nhiều người không may về già, không còn tài sản, không có sức để làm kiếm tiền nữa, phải nương nhờ con là cả một sự bất hạnh. Dễ gì có con hiếu thảo. Dù có con hiếu thảo, biết thương cha mẹ thì đôi khi lại gặp dâu, rể không biết điều. Họ sẵn sàng chửi chó, mắng mèo, đá thúng, đụng nia để tỏ thái độ bực bội! Trong tình cảnh như vậy cha mẹ đau lòng biết mấy! Không lẽ mách với con để vợ chồng nó xào xáo? Nhưng sẽ cố nhịn được bao lâu? Nếu có điều kiện để dọn đi thì còn nói gì. Chỉ e buộc phải ở đó vì không có chỗ nào khác để đi! Phải chăng vì thế mà ông bà ta có câu: “Đa thọ, đa nhục”? Bởi sống càng lâu mà con cái thấy cha mẹ vô tích sự, cứ phải nuôi báo cô, chẳng may nó lại nghèo túng, kiếm sống khó khăn thì càng bi đát hơn.

Cha mẹ nuôi chín mười con, nhưng chín mười con không nuôi nổi cha mẹ”. Không hiểu nuôi người già có tốn kém lắm hay không mà câu nói đó lúc nào cũng không cũ! Ngày xưa tôi nhớ có đọc chuyện kể về một bà mẹ nhiều con nên chúng nó thay phiên nhau nuôi. Cứ ở với đứa này một thời gian rồi chuyển qua nhà đứa khác. Chúng nó lại tỵ nạnh nhau, nên mỗi lần rời nhà đứa này là đứa kia phải cân để xem có nuôi mẹ đàng hoàng không. Trong số có đứa nghèo nhất, lo cho bà không được bằng mấy đứa kia nên bà mẹ chuẩn bị sẵn cục chì, để lúc cân thì đeo vô cho nặng thêm, nên có câu: “thương con mẹ phải bù chì cho con”! Người già thường khó ngủ. Nghĩ tới cảnh cứ mỗi tháng người mẹ lại phải chuyển chỗ ở, lạ nhà, lạ chỗ, sao mà thấy xót xa cho phận già! Nhưng bà này kể ra cũng còn may. Thế hệ này thì khác nhiều rồi!

Báo mạng gom lại cả đống chuyện con cái ngược đãi cha mẹ. nào là con dâu khóa cửa nhốt, bỏ đói mẹ chồng. Nào là con dâu bắt mẹ chồng phải quỳ lạy xin lỗi mình. Nào là con dâu đòi sang tên giấy đỏ nhà cho mình mà mẹ chồng không chịu, muốn bán để lấy một ít và còn lại chia cho các con nên nó phóng hỏa đốt trụi căn nhà! Cả 7 người con đây cha mẹ già ra đường…

Người Á Đông ta thường cho rằng “Tứ Đại đồng đường” là một đại gia đình hạnh phúc, vì con cháu có điều kiện để hầu hạ, báo hiếu cho ông bà, cha mẹ. Nếu được vậy thì còn gì bằng. Trong khi đó, người nước ngoài có tiền đa phần chọn vào Viện Dưỡng Lão để sống, tránh làm phiền lòng con cái. Thà “ở xa mỏi chân” hơn là “ở gần mỏi miệng”! Họ có lý của họ, và ở Mỹ có Khu dưỡng lão cao cấp dành cho những người có tiền. Khu phố rất sang, chỗ ở tươm tất, phục vụ rất chu đáo. Y tá, bác sĩ lúc nào cũng túc trực. Ăn uống, dọn dẹp có người lo. Hàng tuần còn có xe để đưa đi shopping hoặc đi dã ngoại, tắm biển. Lại lúc nào cũng có hàng xóm cùng trang lứa để chuyện trò. Còn sống với con cái thì chúng bận đi làm cả ngày, ở nhà chỉ thui thủi một mình! Nhiều người lớn tuổi sống với con cái không được thì thuê nhà dành cho người thu nhập thấp, mỗi tháng chỉ đóng có hơn 70 đô. Ngoài ra ở Mỹ chính phủ không cho phép để người già ở nhà một mình. Họ sợ có gì không ai hay để kịp thời giúp đỡ. Người già mà nghèo thì hàng tháng còn được lãnh trợ cấp nên không lo đói.

Con cái ngày xưa thì: “Mỗi đêm mỗi thắp đèn trời. Cầu cho cha mẹ sống đời với con”. Ngày nay có người còn nhờ Thầy tụng để cha mẹ bệnh sớm quy tiên! Có người phải nuôi mẹ già bệnh nằm một chỗ nhiều năm đã hỏi tôi có nên làm như vậy hay không, vì có người khuyên ông nên làm như thế. Tôi đã can, và nói, chỉ cần có ý nghĩ muốn cho mẹ chết sớm, thì đó đã là tội ác. Và ông đã không làm.

Sinh một đứa con, nuôi cho khôn lớn vất vả biết bao nhiêu. Lẽ ra tuổi già là lúc con cái đền ơn, báo hiếu. Đạo Phật hay Thiên Chúa đều dạy phải hiếu dưỡng cha mẹ. Nhưng con cái thời nay có những đứa không những không hiếu thảo, mà ngược lại, còn đối xử tệ bạc, đánh chửi cha, mẹ, ông bà. Tìm cách chiếm đoạt nhà cửa, đất cát không được thì đòi chia. Đứa nghèo thì trách là nó đâu có muốn ra đời, tự ông bà bắt nó có mặt ở đây để phải khổ! Đứa mà cha mẹ có của thì giành nhau, mắng cha mẹ ở bất công, cho đứa khác nhiều hơn nó! Có lần có việc đến Tòa Án, tôi còn thấy có người mang đơn kiện mẹ đòi chia đất. Nhân viên hòa giải khuyên anh ta nên rút đơn, vì sẽ tốn tiền án phí mà cũng không thắng được, vì đất là tài sản của mẹ anh, bà đứng tên, anh không có quyền buộc bà phải chia cho khi bà đang sống. Nhưng anh ta nằng nặc nhất định kiện! Người chung quanh cho biết, mẹ anh đã từng cho đất rồi, anh ta đã bán để ăn xài hết rồi. Nay đòi thêm, trong khi những anh em của anh ta còn chưa được chia phần!

Nhiều năm trước, có người cha kiện con giật nhà của mình, rồi vì giận tức đứa con hỗn láo, ông đã uất ức lên cơn đau tim chết ngay giữa phiên Tòa! Có một cặp vợ chồng đều là bác sĩ. Anh chị ở nước ngoài gởi tiền về để xây nhà cho cha mẹ, nhưng hai vợ chồng bác sĩ lại giành, đòi đuổi cha mẹ ra khỏi nhà. Đôi bên phải đưa nhau ra tòa, nhưng bên kia chứng minh được đã gởi tiền về, nên vợ chồng bác sĩ thua kiện! Không biết đạo làm con mà còn như vậy liệu Y đức cặp này có được bao nhiêu đây? Mới đây, có một ca sỹ Việt kiều nói là đã bỏ ra cả chục tỷ để trục xuất vợ chồng đứa em trai, vì thằng em nghe lời vợ âm mưu chiếm nhà của cha mẹ ruột!

Nhìn lại mình, tôi thấy mình quá may mắn vì đến tuổi này tôi vẫn tự lo được cơm áo, không cần ai trợ cấp, cũng không phiền đến đứa con nào. Có lần thằng rể nước ngoài của tôi cũng hỏi vợ nó xem mẹ có cần gì thì nó sẽ gởi. Nhưng tôi cảm ơn nó, bảo nó cứ lo cho gia đình nhỏ của nó, bao giờ cần tôi sẽ hỏi. Nhu cầu của tôi thì ít. Ăn uống đạm bạc. Không bon chen, so bì với ai. Không chưng diện, không đi du lịch. Không thích những nơi ồn ào. Không bao giờ tự đến nhà hàng trừ những khi dự đám cưới. Ông nhà tôi cũng đã đoàn tụ ông bà từ mười mấy năm qua nên cũng không phải phục vụ ai. Muốn ăn, ngủ giờ nào tùy thích. Bạn bè cũng không nhiều. Thỉnh thoảng mới gặp nhau. Tóm lại là quanh năm thường xuyên làm bạn với chiếc TV và cái máy tính. Cuộc sống gần như ẩn tu, có nhiều thì giờ để nghiên cứu Kinh sách, viết lách, thơ thẩn để thư giãn. Tôi cũng không có tài sản để cho con cái tranh giành. Như vậy là quá hạnh phúc đối với tôi rồi, không còn mong gì hơn.

Ở nước ngoài cũng như nước ta, chuyện cha mẹ giao hết tài sản, tiền bạc cho con cái, cuối cùng rồi mất luôn con cái là chuyện xảy ra như cơm bữa! Xóm tôi cũng có một bà, nuôi cháu từ nhỏ, nên bao nhiêu tiền, vàng, đất cát giao hết cho cháu giữ, không chừa một ít bỏ túi để rồi mỗi ngày chờ ăn được 3 bữa cơm cũng mỏi mòn. Bây giờ than với lối xóm thì đã muộn! Chính cha ruột của cô này cũng là nạn nhân luôn. Không biết cô ta nói ngon ngọt thế nào, mà sang tên chủ quyền căn nhà cho cô ta. Tới khi cần tiền, muốn bán thì cô ta bảo phải chia cho cô ta phân nửa tiền căn nhà thì cô ta mới ký. Đưa ra tòa để đòi lại chủ quyền nhà thì không được! Ông ta chỉ còn biết tức tối, rồi phân bua với lối xóm là nó lừa đảo! Vì vậy, người nhiều kinh nghiệm khuyên rằng chỉ có đồng tiền là trung thành với ta thôi. Không biết có đúng hay không? Có tiền không cho con thì nó trách. Nhưng giao hết cho nó tới lúc nó trở mặt thì bằng chứng đâu mà kiện thưa? Tuổi già lại không còn sức lực để làm ra tiền, đành phải đầu hàng số phận!

Theo quan niệm của Đạo Phật, con cái đến với cha mẹ một là để trả nợ, hai là đòi nợ. Cha mẹ chỉ là người cho mượn đường để chúng vào đời. Vì thế ông bà ta nói: “Cha mẹ sinh con, trời sinh tính”. Muốn nó theo ý mình cũng không được. Biết thế để đừng khổ sở khi thấy nó là con mà sao chẳng nghe lời mình.

Những người con hiếu thảo cũng không hiếm. Nhưng nêu ra một số câu chuyện con cái ăn ở bất nhân ở trên để thấy tuổi già dễ bị tổn thương nếu không phòng xa, vì con cái thời này cũng khó tin lắm. Nhưng biết sao được khi Duyên Nghiệp vô hình, vô ảnh mà tác động lên tất cả. Ngay cả cái thân của ta mà nó cũng phản bội ta. Cứ ngày càng già suy. Bệnh hoạn không mời cứ tới! Tuổi già là con đường mà ai cũng phải tới. Nhìn vào những tấm gương đó để cảnh tỉnh cho bản thân.

Không ai thương ta bằng chính ta. Đề phòng cho mình thoát được cảnh hàng ngày ngửa tay chờ con, dâu, rể bố thí cho từng bữa ăn là phúc đức lớn. Khi đổ bệnh thì còn chút tiền dằn túi để thuê người, con cái cũng đỡ phải hầu hạ và cũng tránh được cho nó tội đối xử tệ bạc với mình thì phải chăng là “trong họa có phúc”?

Nhiều người cứ nghĩ rằng nó là con, lúc nhỏ mình hết lòng lo cho nó, sao nó lại cư xử với mình chẳng ra gì, so sánh với những đứa con của người khác để rồi cay đắng giận hờn trách móc con. Không biết rằng có khi là oan gia kiếp trước giờ tái ngộ để đòi nợ nhau! Do đó, nếu ta nương lời dạy của Đạo Phật để Biết rằng cha mẹ, con cái chỉ là những người có duyên cùng đi chung với nhau trên một chuyến tàu. Mỗi người đều có Nghiệp riêng. Tới ga nào của ai thì nấy phải xuống, không thể ngồi chung mãi, để đừng buồn khổ khi phải chia ly hay cách nó cư xử với mình. Đó là cách giải quyết cho cái Tâm được nhẹ nhàng, bởi muốn thay đổi cũng không được.

Thay người già để nói lên những điều này, tôi mong rằng thế hệ trẻ biết rằng “sóng trước đổ đâu, sóng sau đổ đó”. Ai rồi cũng tới lúc phải già, yếu. Nếu không nghĩ đến công ơn sinh thành dưỡng dục thì cũng nên nghĩ đến Nhân Quả. Thử nghĩ mai kia liệu mình già đi, con cái cũng đối với mình như vậy thì mình có vui không? Ngày xưa, có lẽ ông bà ta muốn cảnh tỉnh những đứa con bất hiếu, nên có chuyện một người nuôi cha, lấy cái gáo dừa cho cha làm chén ăn cơm. Một ngày kia ông thấy đứa con cũng ngồi tẩn mẩn gọt cái gáo dừa. Ông hỏi gọt để làm chi vậy? Nó nói để mai mốt cha già cho cha đựng cơm ăn! Người cha lúc đó mới giật mình.

Tuổi già là phải chấp nhận sự bất lực của bản thân. Con cái đối xử với mình thế nào còn tùy phúc phận. Nhiều người đã cẩn thận mua bảo hiểm sức khỏe, bảo hiểm nhân thọ để phòng xa. Có gì thì con cái cũng đỡ hao tốn. Nhưng không may có những người không có điều kiện thì đành chấp nhận phó mặc cho con cái, vì những trường hợp như những người ở quê, tiền kiếm ra không đủ chi dụng, có đâu để phòng xa. Các hãng Bảo hiểm thì nhận đủ thứ trường hợp: Bảo hiểm Sức khỏe, Nhân thọ, tai nạn, thất nghiệp. Thậm chí nốt ruồi, bộ ngực, cặp giò của các diễn viên… Nhưng không có nơi nào nhận Bảo hiểm cách con cái cư xử với cha mẹ. Vì thế, bậc cha mẹ chỉ còn trông chờ vào sự hiểu biết của con cái. Dù lúc nó còn bé, cư xử với nó hết lòng, thậm chí hy sinh cả sản nghiệp để cho con ăn học cũng chưa chắc về già nó đối xử tử tế. Gặp phải đứa “nhất vợ, nhì trời” thì thua trắng!

Cho nên, khi còn sức khỏe thì cố gắng để tự thu xếp cho bản thân thế nào đó cho ổn thỏa. Không xong thì biết đó là Nhân Quả mà mình phải trả kiếp này. Tốt nhất là đừng gây thêm Nghiệp để án chồng án. Có giận hờn, chưởi mắng nó cũng đâu có thay đổi được gì! Hiểu vậy là ta đã làm cho Nghiệp của mình nhẹ bớt, để tuổi già cũng được an ổn. Không giận con cái. Không oán trời trách đất, mà biết chấp nhận, và tìm cách để thay đổi cái Tâm, cái nhìn của mình trước mọi việc. Nếu có được con cái hiếu thảo là phúc đức lớn của tuổi già. Chẳng may gặp phải nghịch tử thì cũng hiểu được lẽ Nhân Quả để tự an ủi rằng có lẽ kiếp nào đó mình còn làm khổ nó nhiều hơn thế. Giờ chấp nhận trả cả vốn lẫn lời và tự tìm cho mình những niềm vui thanh cao nho nhỏ như viết văn, làm thơ, chăm sóc hoa kiểng, tham gia Câu Lạc Bộ của những người cao tuổi để những ngày cuối đời được thanh thản, chờ ngày “đoàn tụ ông bà”. Sắp xếp cho cuộc sống cuối đời được như thế thì cũng đỡ phải nếm vị đắng của tuổi già. Giả sử hoàn cảnh bắt buộc thì cũng không làm cho mình quá bất ngờ vậy.

Tâm Nguyện

NẠN… ĐẠO CHÍCH

TRONG VĂN HỌC!

Lamartine đã từng chôm câu thơ rất tuyệt vời này của Nicolas-Germain Léonard: “Chỉ thiếu một người mà cả thế giới đều quạnh hiu”. Nhưng điều đó vẫn không ngăn được ông trở thành…Lamartine vĩ đại! Sau đây là những vụ đạo văn lớn nhất trong lịch sử văn học phương Tây.

Để tăng thêm hiểu biết, mài dũa xúc cảm, mở rộng kiến thức, lấy thêm tư liệu, nhà văn thường cầu cạnh đến các tác giả cổ. Ở đó ông ta có thể phát hiện những đề tài và đôi khi biến nó thành cái của riêng mình. Như vậy sáng tác, đào bới, khai phá, bình phẩm văn học, chẳng qua chỉ là… ăn cắp tư tưởng và văn phong? Đúng là nhà văn không thể thoát ra khỏi văn hóa và ký ức. Viết là tái tạo tinh thần của người khác sau khi đã tiêu hóa. Nhưng ảnh hưởng thấm sâu hay cạn, văn chương có bị xem là ăn cắp hay không đều do nhà văn có làm quá đáng hay không. Thế thôi!

Vấn đề đạo văn đã có từ thời xa xưa và dường như lúc đó người ta không xem trọng quá đáng như hôm nay. Hérodote, Sophocie, Eschyle và nhiều tác giả cổ khác cũng đã từng bị người cùng thời tố giác về tội… ăn trộm văn chương! Danh từ plagiarius trong tiếng La tinh có nghĩa là: ăn cắp và tàng trữ nô lệ của kẻ khác. Trong một bài thơ châm biếm của thi sĩ Martial vào thế kỷ 1, danh từ này có ý nghĩa mới là… ăn trộm các bài văn. Từ đó trong tiếng Pháp có từ ngữ plagiat (tác phẩm mô phỏng một tác phẩm khác) và động từ plagier (đạo văn).

Vào thế kỷ 16 và 17, nền văn học Pháp còn nằm gọn trong cái tổ kén Hy Lạp và La tinh. Thời kỳ đó, người ta bắt chước thoải mái và chẳng ai thắc mắc. khi nhắc đến quyển Tùy bút (Essais) của mình, Montaigne nói rõ: “cóp nhặt từ Plutarque và Sénèque”. Nhưng sau khi ông chết, một người bạn là Charron in quyển “Túi khôn”, trong đó có nhiều trang lấy trong Tùy bút. Một nữ độc giả trung thành của Montaigne đã viết thư phản đối. Người ta có thể lấy các tác giả cổ, dịch ra, bắt chước. Nhưng chép lại các tác phẩm đương đại là điều không thể chấp nhận được.

Ở rạp hát vào thế kỷ 17, việc sáng tác là điều ngoại lệ. Người ta không ngần ngại bắt chước, lấy lại các tác phẩm cổ..

Những tên trộm văn chương ngày nay thường nấp dưới bóng cây cổ thụ Molière, và để tự xóa tội cho mình, họ đã viện dẫn câu nói nổi tiếng của ông: “Tôi thu hồi tài sản của mình ở nơi nào… phát hiện ra được!”. Cần lưu ý rằng câu này cũng… khác hoàn toàn với nguyên văn! Nguyên văn thật ra là: “Tôi tự cho phép mình lấy lại tài sản ở nơi nào phát hiện ra được”.

Trong tác phẩm Những trò quỷ quyệt của tên đày tớ, Molière bị tố giác đã ăn cắp đoạn nói về người Thổ và cuộc lưu đày dưới tàu của Cyrano de Bergerac trong tác phẩm Thầy giáo bị tổ trát. Xem ngày xuất bản và cách kể chuyện, dường như có thể xác định được rằng Molière đã… chôm chỉa!

Nhưng nếu kẻ trộm lại chính là Cyrano? Ông và Molière từng quen biết nhau. Họ đã từng nói chuyện, trao đổi ý kiến với nhau. Molière đã từng hỏi: “Phải làm cái quái quỷ gì trong cuộc lưu đày dưới tàu này?” và nêu rõ tất cả những chi tiết có thể làm cho câu chuyện thêm đậm đà. Ông đã nói ra. Cyrano rất thính tai, đã cẩn thận ghi chép lại. Molière bỏ đi ngao du. Tác phẩm Thầy giáo bị tổ trát ra đời năm 1654. Chương 4, đoạn 2 có kể về người Thổ và cuộc lưu đày. Năm 1671 Molière lấy lại… “tài sản” của mình trong Những trò quỷ quyệt của tên đày tớ! Và tin chắc là của mình, ông nói: “Tôi tự cho phép mình lấy lại…”.

Vào thế kỷ 18, kết tội đạo văn là đòn phép thường xuyên trong các trận bút chiến. Voltaire rất trơ trẽn: ông ta thường xuyên chôm chỉa nhưng lại mắng nhiếc thậm tệ những kẻ đạo văn! Ông không bao giờ sỉ vả kẻ mà mình đã chôm, như Rabelais, mà chỉ coi y là… “một tên hề say xỉn” hoặc như cha Le Moyne, được gọi là… “chẳng có khả năng ăn nói gì cả”.

Thời kỳ đó còn có vài sự kiện rất kỳ cục. Như Donatien Alphonse François De Sade đã chôm rất nhiều tư tưởng triết lý của Fréret, Holbach và Voltaire cho các tác phẩm: Triết lý phòng the, Câu chuyện Justine và Juliette của mình. Có nhiều đoạn… “bê gọn nguyên xi không một chút sửa đổi” (!)

Vở kịch Đứa con tự nhiên của Diderot xuất bản năm 1757 có một số đoạn đối thoại giống hệt như Người bạn thật của Goldoni. Quần chúng lên tiếng phản đối. Năm 1758 ông phải công khai thừa nhận và tìm cách chống chế trong một bài diễn văn có tựa đề: Kich thơ.

Để viết tác phẩm Du lịch châu Mỹ, Chateaubriand đã làm mấy việc rắc rối: kề về cuộc hội kiến với Tổng thống Washington mà ông chưa bao giờ gặp và mô tả một vài nơi mà ông chưa hề đặt chân đến! Ông đã chôm các đoạn văn đó của Charlevoix, Bartram, Carver, hay Beltrami, Boonet, Imlay… Bà Combourg cũng là một tác phẩm được “xào nấu lại” từ tác phẩm của các nhà tự nhiên học, các nhà địa chất học, các thừa sai và các nhà quân sự này với giọng văn khô khốc hoặc dài lê thê…

Stendhal cũng làm công việc chôm chỉa! Năm 1814, dưới bút danh Louis Alexandre César Bombet, ông xuất bản tác phẩm Những bức thư viết từ Vienne, Áo quốc, về nhà soạn nhạc lừng danh Joseph Haydn… Nhà văn Ý Giuseppe Carpani biết ngay nó được chôm từ Haydine mà chính ông đã xuất bản vào năm 1812 tại Milan. Louis Alexandre César Bombet đã “biến” luôn khi Carpani viết thư ngỏ trên một tờ báo vào năm 1815: “Ngài nói rằng ngài bị chứng bệnh sốt của tôi tại Vienne vào năm 1799 và được chữa khỏi bằng một thánh lễ của Haydn. Tôi xin kể hầu ông rằng chính ông bác sĩ Franck đã nói với tôi, chứ không phải ngài, rằng âm nhạc của Haydn đã có tác dụng chữa bệnh đối với tôi”. Stendhal gỡ lại danh dự bằng một sự thay đổi, như ông vẫn quen làm sau này: giễu cợt các bút danh và những trò đạo chích trong văn học.

Ăn cắp văn không phải lúc nào cũng… dễ nuốt! Bà Genlis quỷ quái vào năm 1830 đã phải giải nghệ sau một vụ kiện tụng với nhà xuất bản Roret: bản thảo Bách khoa tự điển cho thiếu nhi của bà bán với giá 400 franc, lại chép “y xì” từ điển của tác giả Masselin xuất bản năm 1820!

Tại sao trong tác phẩm Những dòng văn chương quen thuộc Lamartine chẳng bao giờ nhắc đến tên Nicolas-Germain Léonard, một thi sĩ “thứ thiệt” nhưng ít tiếng tăm của thế kỷ 18? Lý do: để khỏi bị… mang tội đạo chích! Chính Léonard đã viết ra câu thơ: Chỉ thiếu một người mà cả thế giới đều quạnh hiu! (Un seul être vous manque et tout semble dépeuplé). Câu thơ này được ký tên Lamartine không sai một chữ, là một trong những viên ngọc quý của nền văn học phương Tây! Ông còn chôm nhiều vần thơ trứ danh khác của Léonard.

Balzac, người sáng tạo cả một thế giới cũng cần đến tư liệu. Những chuyện vui đã được ông “ôm gọn” từ các tác giả Rabelais, Bandello, Béroalde de Verville hay Tabourot. Bộ tiểu thuyết Tấn trò đời cũng có nhiều đoạn chôm chỉa, nhưng tinh vi hơn! Trong Béatrix (1839) chân dung các phụ nữ mô phỏng theo Những chân dung hiện đại (1837) của Théophile Gautier.

Alexandre Dumas cũng phải đối phó với những lời tố giác… ăn cắp văn chương! Ông tự bào chữa cho mình một cách độc đoán và ngạo mạn: “Thiên tài không hề ăn cắp; ông ta chỉ… tịch thu thôi!”.

Nạn đạo chích rất phổ biến trong văn học thế kỷ 19. Jean Cousin, tức bá tước Courchamps, đã chôm nhiều chương trong Thung lũng tử thần của Jean Potocki khi viết Chuyến bay tử thần và bị báo chí phát giác. Năm 1855, Edmond About viết tác phẩm Tolla nhưng lại “quên” chú thích đó là bản dịch từ một cuốn sách của Victoria Savorelli! Sardou đã phải viết Những vụ ăn cắp văn của… tôi do áp lực của dư luận! Emile Zola sử dụng tư liệu một cách tùy tiện. Anatole France và bà Arman de Caillavet hợp tác viết quyển Biện minh cho đạo văn trong đó có đoạn viết: “Khi một nhà văn chỉ lấy của người khác cái gì thích hợp và có lợi cho mình và biết chọn lựa kỹ… thì anh ta được gọi là kẻ lương thiện”!

Đại… đạo văn trong thế kỷ 20!

Năm 1911, anh em Tharaud lấy quyển Năm được mùa tại Périgord của Eugène Le Roy để làm thành… Vợ bé nữ tỳ.

Năm 1924, Blaise Cendrars xuất bản một tuyển tập thơ tự do với nhan đề Kodak. Tất cả đều được chép “nguyên xi” từ một quyển tiểu thuyết đăng nhiều kỳ của Gustave Le Rouge, bạn ông, với tựa đề: Bác sĩ Cornélius kỳ lạ! Khi mọi việc vỡ lở, ông phải viết lời tự thú trong quyển Con người khiếp đảm (1945) và dành một phần lớn tác quyền để… trả nợ!

Năm 1903, quyển Nghi lễ của các nhà khôn ngoan Sion xuất bản tại Saint-Pétersbourg được coi là bằng chứng về một âm mưu thống trị toàn cầu của người Do Thái, do các nhà “khôn ngoan ở Sion” kích động. Nó được tái bản nhiều lần, được dịch ra đủ mọi thứ tiếng, là sách gối đầu giường của những kẻ chống Do Thái trong thế kỷ 20. Những năm 1921, người ta mới phát hiện phần lớn tác phẩm này được chép lại từ một quyển sách châm biếm Napoléon III xuất bản năm 1864 của một tác giả ít tiếng tăm tên Maurice Joly có nhan đề: Cuộc tranh luận dưới địa ngục giữa Machiavel và Montesquieu! Khi phát hiện ra rằng những “đề nghị” của Machiavel được giả mạo là lời nói của các nhà “khôn ngoan ở Sion”, người ta không ngớt sỉ vả bọn người có âm mưu thâm độc. Về thực chất “âm mưu thống trị toàn cầu của người Do Thái” là một trò lừa đảo tai hại, khiến cho gần 3 triệu người phải mất mạng trong các lò thiêu xác của Đức quốc xã! Ngày nay nhiều đảng phái Quốc xã vẫn còn in lại tác phẩm này để kích động những kẻ bài Do Thái.

Năm 1933, Robert Francis xuất bản cuốn tiểu thuyết Vựa lúa với ba người đẹp, về thực chất là chôm chỉa từ Anh Meaulnes của Alain Fournier! Năm 1967, Guy des Cars xuất bản Mọi màu sắc chép lại từ Những tên cướp màu (1955) của Guy Insard! Nội vụ được đưa ra tòa. Guy Insard vốn là một cảnh sát chuyên nghiệp. Tòa ra phán quyết Guy des Cars phải ghi tên Guy Insard trên tác phẩm đó.

Thung lũng bông hồng của Lucien Bodart lấy nguyên xi rất nhiều đoạn dài trong Từ Hi, nữ chúa (1911) của G. Lié-Sou và Đệ tam cường Trung quốc (1965) của Roger Pélissier. Chiếc xe đạp xanh của Régine Deforges gây nhiều tai tiếng hơn cả. 100 trang đầu của quyển tiểu thuyết này “lấy gọn” từ “Cuốn theo chiều gió”. Régine Deforges chẳng cần giấu giếm che đậy gì cả.

Năm 1982, Jacques Attali cũng làm trò cười cho thiên hạ với quyển Lịch sử thời gian. Các tác giả Jean-Pierre Vernant, Ernst Junger, Le Goff, Tardy… chẳng thể nào tìm thấy các dấu ngoặc kép trước và sau những câu nói của mình trong tác phẩm này. Mãi đến những lần tái bản về sau … mới có!

Để viết Một bước dài đến với Thượng đế (đoạt giải Goncourt năm 1989), Jean Vautrin đã sử dụng nhiều ý tưởng của Patrick Griolet trong hai tác phẩm: Những câu châm ngôn ở Louisiane (1986) và Gia đình Cadjins và những người da trắng ở Louisiane (1986). Vụ này đã được chính tác giả thừa nhận sau khi bị phát giác, nhưng tòa án lại không công nhận ở hai lần xử sơ thẩm và phúc thẩm!

Các tay chôm chỉa dùng triết lý này để biện minh: đó là góp phần phổ biến các ý tưởng! Voltaire đã từng viết: “Sách vở giống như củi lửa trong bếp lò. Người ta mồi lửa từ nhà bên cạnh, đốt lên cho nhà mình, rồi chuyền sang nhà khác. Và nó là của chung!”.

ĐINH CÔNG THÀNH (Theo EDJ, 2/97)

ĐỖ THIÊN THƯ st


MỘT BÀI VIẾT 72 NĂM TRƯỚC

KHOA VÕ HỘI THÍ

NĂM CANH THÌN (1880)

Trong một kỳ trước, chúng tôi đã nói sau khoa võ trường thi năm Mậu-dần (1878), ở Huế còn hai khoa thi hội về ngạch võ nữa(1).

Năm Canh-thìn (1880) niên hiệu Tự-đức thứ 33, mở khoa thi hội cả văn lẫn võ tại kinh đô Huế.

Số thí-sinh ứng-cử có tất cả 1000 võ cử-nhân và 1000 thí-sinh tam trường. Trong khi thi và trước ngày thi, các thí-sinh đều được nhà nước cấp cho lương ăn ở kinh, mỗi suất được hai hộc lương và hai quan tiền.

Chương-trình thi hội đại-khái như thi hương(2), nhưng chỉ khác là da nặng hơn vài bậc. Ví dụ như tạ nặng hơn, chạy giài, súng bắn, đích để xa, v.v. Ai được trúng cách thi hội mới được vào đình đối.

Trước khi vào thi đình, phải nộp đơn nói rõ đã học đủ thập bát ban võ-nghệ, binh thư, binh pháp, nay tình-nguyện vào đình-thí.

Còn những thí-sinh có đơn nói rõ “vô hữu thức tự” (không biết chữ), không học binh-thư, thì gọi là phó trúng-cách mà lấy vào hạng phó-bảng.

Chính trúng cách mà hỏng đình-thí thì phải thoái-hồi cử-nhân.

Đình-thí: thi luôn trong một ngày ở ngay sân điện Thái-hòa, chỉ có nghỉ độ mươi phút là lúc nhà vua ban cho ăn uống.

Khoa ấy đức Dực-Tôn se mình, nên có quan khâm mệnh chủ khảo và các quan giám-khảo hội đồng chấm ở điện Thái-hòa.

Các bài thi gồm có:

1. Thập bát ban võ nghệ. – Phải đi đủ cả mười tám thứ binh khí, dùng binh khí thật; sai một bài cũng bị đánh hỏng.

2. Đấu quyền. – Thí-sinh phải đấu với 5 người lính ngự-lâm do quan trường đã tuyển ra. Phải đấu cho kỳ thắng được ba người mới có điểm ưu bình, chỉ thắng được hai: hỏng! Những người lính ngự-lâm mà thua các thí-sinh thì phải phạt lương trong 9 tháng. Vì thế họ đều hết sức trổ tài ra đấu.

3. Đấu roi, đấu côn. – Cũng đấu với 5 người ngự-lâm như trên.

Xong ba kỳ này, thiện dụng binh khí gì thì dùng thứ ấy ra đấu với 5 người lính ngự-lâm: thắng ba, mới đỗ.

Qua các kỳ thi trên là giời sẩm tối. Nhà vua có ban yến (cơm rượu). Trước khi ngồi vào mâm, các thí-sinh đều làm lễ tạ ân.

Ăn xong, các thí-sinh vào kỳ đối sách. Mỗi thí-sinh phải làm một đầu bài. Đại để khoa ấy hỏi về Tôn, Ngô binh-pháp, Binh-gia yếu lược, Võ kinh, Võ lược, những trận lớn của các danh tướng xưa.

Trong khi đối sách, thí-sinh nào viết chậm thì đã có thư-ký đằng-lục viết hộ.

Đối sách xong, lại phải sát hạch lại bằng cách thi bắn. Mỗi người phải bắn 9 phát. Phải trúng đích ít ra là 3 phát. Kỳ này gọi là “phúc-bạch cửu-phục” để phòng thi gian.

Khi các quan trường xét các phân số có ưu bình mới tâu lên nhà vua xin châu phê lấy đỗ.

Ngày truyền lô: Một viên quan trong ban giám-khảo, áo, mũ tề-trỉnh, bưng bảng có vẽ rồng, ngồi trên bành voi, dịch loa mà xướng danh từng tên người đỗ một.

Truyền lô xong, người ta rước bảng rồng ấy ra niêm yết ở Phú-văn-Lâu để thiên hạ cùng biết.

Các ông tân-khoa đều được ban một cái mũ, một áo bào màu lam. Rồi do quan trường đưa vào điện Thái-hòa, bái mạng, tạ ân, dự yến.

Lệ bản-triều: các tạo-sĩ cũng được ban cờ biển và cho về vinh quy ba tháng.

Tân khoa được phép dừng trạm đi do dịch từ kinh về tận nguyên quán. Khi gần đến tỉnh mình còn cách ba cung trạm, thì quan Tổng-đốc và quan Đề-đốc bản tỉnh tuân theo giấy sức trong Bộ, phải mang binh lính, voi ngựa ra ngoài ba cung trạm đón tiếp nhà võ tân khoa. (Chỗ này khác với văn tiến-sĩ).

Hết hạn ba tháng, tạo-sĩ được sơ bổ ra làm quan thụ hàm ngũ-phẩm cai-đội; nhưng sáu tháng sau thì được thăng lên một trật. Phó bảng phải một năm rưỡi.

Con các quan võ cũng được tập-âm như bên văn. Lệ định: Con võ quan từ ngũ-phẩm trở lên gọi là: “Anh danh”; từ ngũ-phẩm trở xuống gọi là “Giáo dưỡng”. Họ đều được khai vào học trường vũ-bị ở Kinh và ăn lương nhà nước.

Những quan võ, do chân khoa-mục xuất thân, khi ra làm quan, mới được có hai chữ “tinh binh”, “cấm binh” (cũng như văn: hàn lâm).

Có một điều lạ: theo lệ đã định, hễ quan văn mà cải sang làm quan võ thì người cha phải phạt 50 quan tiền! Còn con quan võ đổi sang quan văn thì người cha lại được thưởng năm mươi quan tiền. Quan võ muốn cải sang bên văn phải tốn sụt một trật lúc đi cung chức; nhưng trong những lúc triều hội thì vẫn theo phẩm-cấp mà đứng vào ban.

Xem thế, đủ biết ở nước ta vẫn sùng văn, không thượng võ, cho nên thế-gian có những câu:

Văn thì cửu phẩm là sang

Võ thì tứ phẩm còn mang gươm hầu!

Và:

Quan văn mất một đồng tiền

Làm cho quan võ mất quyền quận-công!

Nhưng xét ra: văn võ đều đáng trọng cả. Trong khi quan văn cai-trị thu xếp ở trong cũng cần phải có quan võ uy, trấn chỗ biên giới thì nước mới bình-yên được.

Khoa Canh-thìn (1880) có tất cả 15 ông phó bảng (khoa này không có ông nào đủ phân số đỗ Tạo-sĩ. Mà một sự lạ: từ khi bản-triều khai khoa võ, không có một người Bắc-kỳ nào đỗ Tạo-sĩ cả).

Dưới đây, tôi xin lục đăng những quí tính phương danh các vị đại khoa khoa ấy, do một cụ đã dự thí cho biết(2). Vì lâu ngày nên không đủ và tên họ sợ có sai-nhầm, mong rằng những ngài nào là con cháu các cụ sẽ làm ơn đính chính cho:

Nguyễn-viết-Ký quán làng Quất-động, làm đến lãnh-binh Hải-dương hưu trí thăng hàm đề đốc.

Nguyễn-Long quán Gia-định (Nam-kỳ), ngụ Hà-nội, là con giai quan suất đội Nguyễn-văn-Nghĩa, cháu quan Nam-thiên thượng-trấn tổng-trấn Nguyễn-văn-Luận, làm thủy-vệ quân-cơ hồi quân Pháp hạ thành Hà-nội năm Nhâm-ngọ (1882), sau quyền nhiếp phủ Đa-phúc, đi giám-sát trường Nam, có sự bất đồng với qaun chủ khảo, xin cáo hồi(3).

Nguyễn-văn-Thảo quán làng Đông-phù, huyện Thanh-trì, làm đến Vệ-úy phấn nghĩa ở Kinh.

Võ-hữu-Hùng quán làng Hạ-trì, phủ Hoài-Đức, làm đến Phó quản-cơ Hải-dương.

Phạm-văn-Duệ quán huyện Tiên-lữ Hưng-yên (là con ông Phạm-văn-Tài, lãnh-binh Hưng-yên) làm đến Suất đội tỉnh Tuyên-Quang rồi mệnh cố.

Phó bảng Khiển (không nhớ họ), người làng Lạc-chính, Ý-yên, Ninh-bình, làm chức đốc-binh, sau tử trận trong thành Nam-định.

Phó bảng Tường : người phố

Phó bảng Dự : Hàng tre Hà-nội

Còn sáu vị nữa vì lâu ngày nên không sao biên được hết. Mong rằng các bạn ưa khảo cứu sẽ bổ túc thêm cho.

Trong bảng này có hai ông đại-khoa có chân “Anh danh”.

TIÊN ĐÀM

HOÀNG KIM THƯ st

(1) Xem Tri Tân số 2, trang 7.

(2) Cụ Cử Nguyễn-đình-Trọng tiểu húy là Tốn có thi đình khoa Canh-thìn, nhưng bị hỏng và phải thoái hồi cử nhân mặc dầu trong kỳ thi bắn cụ đã quán cả ba kỳ, nghĩa là bắn trúng cả 9 phát.

(3) Tiểu-sử này là do ông Nguyễn-ngọc-Mai, thứ nam Cụ Bảng Nguyễn-Long, cho biết. Xin trân-trọng kính tạ ông.

Phụ Bản II

Đôi Mắt Người Sơn Tây

Người tình mơ mộng

của QUANG DŨNG

Bốn vùng văn hóa: bốn xứ Đông-Đoài-Nam-Bắc

Giữa lòng miền đồng bằng Bắc Bộ, cái nôi của nền văn minh sông Hồng, nền văn hóa Việt cổ, có vùng văn hóa Thăng Long-Hà Nội, và chung quanh bốn phương tám hướng có bốn vùng văn hóa Đông Đoài Nam Bắc đã làm nên đại vùng văn hóa Bắc Bộ Việt Nam ngàn năm.

Người Thăng Long xưa tự hào mình là người Kẻ Chợ và gọi những kẻ từ khắp nơi khắp chốn đến với kinh đô, là dân tứ xứ (Đông Đoài Nam Bắc) hay dân tứ trấn (Hải Đông, Sơn Tây, Sơn Nam, Kinh Bắc) hay dân tứ chiếng (chữ "chiếng" đọc trại từ chữ trấn mà ra) với sắc thái xem thường (nhiều hay ít): "trai tứ chiếng, gái giang hồ".

Rời Thăng Long, đi theo hướng tây-đông rồi nam-bắc, chúng ta sẽ lần lượt làm quen với bốn vùng văn hóa gọi theo người xưa là: xứ Đông, vùng đất của các tỉnh Hưng Yên, Hải Dương, lên một chút là Hải Phòng, xuống một chút là Thái Bình; xứ Nam là vùng đất của Hà Nam, Nam Định, xuống một chút là Ninh Bình; và xứ Bắc, vùng đất của Bắc Ninh, Bắc Giang ngày nay.

Văn hóa xứ Đoài, từ trung du đến đồng bằng Bắc Bộ

ĐOÀI là tên một quẻ trong Bát quái, thường chỉ hướng Tây. Vì thế Xứ Đoài (xứ Tây) có Phú Thọ, Vĩnh Phúc ở phía bắc, Hà Đông - Sơn Tây ở phía nam, tiếp giáp Thăng Long - Hà Nội. Phú Thọ - Vĩnh Phúc là đất trung du, nơi gặp gỡ của ba dòng sông lớn: sông Hồng, sông Lô, sông Đà, nơi có kinh đô Phong Châu của vua tổ Hùng Vương, nơi người Việt cổ tổ tiên ta, con cháu rồng Lạc tiên Âu, đã dựng nước Văn Lang rồi Âu Lạc, đã sáng tạo nên những trống đồng, thạp đồng to đẹp, tượng trưng cho một văn hóa Đông Sơn hay văn hóa Lạc Việt, hay văn minh sông Hồng cách nay trên dưới ba ngàn năm.

Từ lâu dân ta vẫn luôn tâm niệm:

"Dù ai đi ngược về xuôi,

Nhớ ngày giỗ Tổ mùng mười tháng ba".

SƠN TÂY

L à một thị xã trực thuộc thủ đô Hà Nội. Do địa bàn sinh tụ nên địa danh này luôn là trung tâm kinh tế, văn hóa, chính trị, xã hội của khu vực phía Tây Bắc thủ đô Hà Nội.

Theo thư tịch cổ thì tên Sơn Tây xuất hiện lần đầu tiên vào năm 1469, đó là trấn sở Sơn Tây đóng ở xã La Phẩm, huyện Tiên Phong, phủ Quảng Oai (nay thuộc Tản Hồng, Ba Vì, Hà Nội), thời đó gọi là Sơn Tây Thừa Tuyên. Đến thời Lê Cảnh Hưng do bị ngập lụt, nước làm lở thành, trấn sở được dời về xã Mông Phụ, huyện Phúc Lộc, phủ Quảng Oai (nay thuộc xã Đường Lâm).

Theo Đại Việt địa dư toàn biên của Nguyễn Văn Siêu thì: " Năm Minh Mệnh thứ 12 (1832), chia hạt gọi là tỉnh Sơn Tây. Đặt chức Sơn Hưng Tuyên Tổng đốc, cai trị các hạt Sơn Tây, Hưng Hóa, Tuyên Quang; tỉnh lỵ trước ở xã Cam Giá (làng Mía) huyện Phúc Thọ, năm 1890 được dời đến xã Thuần Nghệ, huyện Minh Nghĩa (nay là huyện Tòng Thiện) " .

Năm 1831, Minh Mạng cải cách hành chính, giải thể Bắc Thành, đổi các trấn thành tỉnh, trấn Sơn Tây đổi thành tỉnh Sơn Tây. Thành trấn Sơn Tây cũ trở thành tỉnh lỵ của tỉnh Sơn Tây.

Sau khi ổn định chính quyền cai trị tại Việt Nam, năm 1834, thực dân Pháp thành lập thị xã Sơn Tây, làm thủ phủ của tỉnh Sơn Tây mới, với các ranh giới phía tây, phía bắc và phía đông là sông Đà, sông Hồng và sông Đáy.

Ngày 0 1 tháng 7 năm 1965 tỉnh Sơn Tây nhập với tỉnh Hà Đông thành tỉnh Hà Tây . Thị xã Sơn Tây mất vị trí tỉnh lỵ vào tay thị xã Hà Đông và nhiều lần sát nhập vào Hà Sơn Bình (1975-1978), Hà Nội (1978-1991), Hà Tây (từ 1991).

Thị xã Sơn Tây được công nhận là đô thị loại III ngày 30 tháng 5 năm 2006 và đã được thủ tướng chính phủ ký quyết định nâng cấp lên thành phố Sơn Tây trực thuộc tỉnh Hà Tây ngày 2 tháng 8 năm 2007.

Ngày 1 tháng 8 năm 2008, cùng với toàn bộ tỉnh Hà Tây, thành phố Sơn Tây được nhập về thủ đô Hà Nội. Ngày 8 tháng 5 năm 2009, Chính phủ ra nghị quyết chuyển thành phố Sơn Tây thành thị xã Sơn Tây trực thuộc Hà Nội .

Danh thắng Sơn Tây:

Chùa Mía.

Chùa Mía là danh lam nổi tiếng xứ Đoài, có hiệu là “Sùng nghiêm tự” cách thủ đô Hà Nội chừng 45km về phía Tây. Chùa được xây dựng trên một quả đồi nằm giữa làng Đông Sàng...

Làng Văn hóa Du lịch các dân tộc Việt Nam

Là trung tâm hoạt động văn hóa, thể thao, du lịch mang tính quốc gia, nơi tập trung tái hiện, gìn giữ, phát huy và khai thác các di sản văn hóa truyền thống của các dân tộc Việt Nam Địa chỉ: Đồng Mô, thị xã Sơn Tây.

Sân golf Đồng Mô

Sân golf quốc tế Đồng Mô nằm trong quần thể khu du lịch Đảo Vua - Đồng Mô, thị xã Sơn Tây.

Giếng cổ đá ong Đường Lâm

Hiếm có ngôi làng nào ở xứ Đoài lại nhiều giếng như Đường Lâm.

Làng cổ Đường Lâm

Trải qua bao thăng trầm, Đường Lâm vẫn lưu giữ hình ảnh của một ngôi làng cổ Việt Nam với cổng làng, cây đa, giếng nước, ao sen...

Sơn Tây: vùng đất địa linh, nhân kiệt.

Nằm ở phía tây Hà Nội, Sơn Tây được biết đến như trung tâm của một vùng văn hoá có núi Tản, sông Đà, là vùng đất “địa linh, nhân kiệt”.

Sơn Tây: làng cổ, thành cổ.

Là vùng đất cổ của người Việt, Sơn Tây quê hương của Phùng Hưng và Ngô Quyền, có nhiều di tích văn hóa lịch sử nổi tiếng. Khi mà tốc độ đô thị hóa đang tàn phá gần hết những nét văn hóa...

NGƯỜI TÌNH SƠN TÂY MƠ MỘNG của Nhà thơ Quang Dũng (1921 - 1988).

Quang Dũng tên thật là Bùi Đình Diệm, sinh năm 1921 tại làng Phượng Trì, huyện Đan Phượng (nay thuộc Hà Nội). Năm 1947, đại đội trưởng đoàn quân Tây tiến.

Hoạt động văn nghệ ở Liên Khu III thời kháng chiến. Sau 1954, sống như một kẻ vô danh tại miền Bắc. Mất ngày 13.10.1988 tại Hà Nội.

Ông là người rất hiền từ, chan chứa tình người như đã thể hiện qua những bài thơ của ông. Quang Dũng vừa cầm bút, vừa cầm súng, ông từng là đại đội trưởng của Trung Đoàn Thủ Đô trong công cuộc kháng chiến chống Pháp. Những tác phẩm nổi tiếng của ông trong thời kỳ này là Đôi Mắt Người Sơn Tây (Hoa Thanh Bình), Đôi Bờ, Tây Tiến, Những Làng Đi Qua... Trong kháng chiến, ông cũng tham dự một cuộc triển lãm hội họa với một bức tranh tựa đề Gốc Bàng. Ông cũng soạn nhạc, bài hát Ba Vì được dân chúng trong vùng kháng chiến hát trong nhiều năm.

Bài thơ Đôi Mắt Người Sơn Tây

Quang Dũng là nhà thơ thời tiền chiến có nhiều bài thơ hay, trữ tình như: Tây Tiến, Đôi Bờ... nhưng Đôi mắt người Sơn Tây là một bài thơ được nhiều người ái mộ, được người yêu thơ thuộc nằm lòng. Bài thơ như nói lên cuộc gặp gỡ đượm màu chia ly giữa nhà thơ với người con gái trong thời loạn lạc, một thoáng quen nhau và chia tay giã biệt - một cuộc tình buồn ngắn ngủi:

Em ở thành Sơn chạy giặc về

Tôi từ chinh chiến mới ra đi

Cách biệt bao lần quê Bất bạt

Chiều xanh không thấy bóng Ba Vì

Như vậy người con gái nầy chắc hẳn ở Sơn Tây, và đã gặp nhà thơ? Nhưng nàng là ai, tên gì, làm gì, ở đâu? Nhiều giai thoại cho rằng Quang Dũng quen người con gái Pháp vì có câu “Mắt em dìu dịu buồn Tây Phương”. Nhưng Tây Phương cũng là địa danh của tỉnh Sơn Tây ngày ấy với ngôi chùa Tây Phương nổi tiếng (bài thơ Mười hai vị La Hán ở chùa Tây Phương của Huy Cận).

Trong lịch sử thi ca đã có nhiều thiếu nữ làm ngẩn ngơ bao người thưởng ngoạn, luôn cả các văn nhân thi sĩ như chuyện của nàng T.T.Kh tác giả bài Hai sắc hoa Tigôn, hay hình ảnh người con gái trong Tống biệt hành của Thâm Tâm:

…Em nhỏ thơ ngây đôi mắt biếc

Gói tròn thương tiếc chiếc khăn tay…

đã làm các nhà phê bình tốn bao nhiêu giấy mực.

Thời kháng chiến ngoài những bài thơ trữ tình kể trên, Quang Dũng còn có những bài thơ khác cũng hay như bài ‘Những Làng đi qua’:

Những làng trung đoàn ta đi qua

Tiếng quát dân quân đầu vọng gác

Vàng vọt trăng non đêm tháng chạp

Nùn rơm khói thuốc bạch đầu quân

Quang Dũng là người đa tài, có thời gian nhà thơ sống bằng nghề vẽ tranh, làm nhạc công cho gánh hát… Trong kháng chiến, có lần Quang Dũng tham dự cuộc triển lãm hội họa với bức tranh tựa đề: Gốc Bàng. Ông còn soạn cả nhạc nữa, bài ‘Ba Vì mờ sương’ được nhiều người hát trong thời kháng chiến:

Ba Vì mờ cao

Làn sương chiều xa buông

Gió về hương ngát thơm

Đưa hồn về đâu…?

Trở lại chuyện Người con gái Sơn Tây, theo nhạc sĩ Phạm Duy (bạn học của Quang Dũng ở trường Thăng Long Hà Nội- Quang Dũng ngồi sau Phạm Duy hai hàng ghế) kể lại, lúc Quang Dũng còn là Đại đội trưởng trung đoàn Tây Tiến đóng quân ở Hòa Bình. Vừa được nghỉ phép, về thăm gia đình ở Phùng thuộc tỉnh Sơn Tây, anh tạt qua nơi có tên là kinh Đào ở gần chợ Đại, thăm người tình cũ tên là Nhật. Người tình nầy, còn có một mỹ danh nữa là Akimi, nàng có hàng cà phê trong vùng cách mạng mà ông thường hay ghé uống. Nàng chính là người đẹp Sơn Tây, nguồn cảm hứng dạt dào cho Quang Dũng viết bài Đôi mắt người Sơn Tây, ông đã tặng nàng bài thơ có câu:

Tôi nhớ xứ Đoài mây trắng lắm

Em đã bao ngày em nhớ thương

Akimi (Nhật) sống cùng mẹ, trong cái quán nước đơn sơ nầy, nhà thơ thường hay lui tới, có lần Quang Dũng sáng tác ngay một bài thơ ca ngợi nàng và dán ngay lên vách nứa:

Tóc như mây cuốn, mắt như thuyền

Khuấy nước kênh đào sóng nổi lên

Ý nhị mẹ cười sau nếp áo

Non sông cùng đắm giấc mơ tiên…

Đây là bài thơ mới phát hiện sau nầy do chính bà Nhật - định cư ở Hoa Kỳ cung cấp. Qua thơ, người thưởng thức vẫn thấy một bóng hình đẹp, lãng mạn của người con gái, tuy rằng không thấy mặt…?

Có lần Phạm Duy cùng Quang Dũng đi xe đạp về chợ Neo, hai người chạy song song trên đường làng. Thi sĩ kể về mối tình của mình với người đẹp Akimi và đọc lên bài thơ tặng nàng:

Thương nhớ ơ hờ thương nhớ ai

Sông kia từng lớp lớp mưa dài

Mắt kia em có sầu cô quạnh

Khi gió heo về một sớm mai

Đôi bờ

Sau nầy, chiến tranh lan rộng, Akimi theo mẹ về thành bỏ lại người xưa… tan vỡ một mối tình… Tới 1954, nàng di cư vào Nam, sống ở Sài Gòn, một thời là kiều nữ của nhà hàng Tự Do, đến 1975 sang Mỹ định cư. Nàng đi để lại cho Quang Dũng một nỗi nhớ ơ hờ chỉ biết:

Bên nầy đất nước nhớ thương nhau

Em đi áo mỏng buông hờn tủi

Dòng lệ thơ ngây có dạt dào…

Bài thơ càng nổi tiếng như cồn ở Miền Nam, khi cố nhạc sĩ Phạm Đình Chương phổ nhạc qua cung thứ rất hay. (Bài hát nầy chỉ qua giọng truyền cảm của nam danh ca Duy Trác mới thể hiện nổi). Có người ngạc nhiên khi thấy ông phổ một lượt tới hai bài thơ trong đó:

· Đoạn đầu ad lib lại lấy bài Đôi Bờ,

· Phần sau là phần chính, phổ từ bài Đôi mắt người Sơn Tây, rất độc đáo, rất hiếm trong âm nhạc.

Chính người đẹp Akimi, là nguồn cảm hứng dạt dào cho những bài thơ bất tử của Quang Dũng và Phạm Đình Chương là người có công đã chấp cánh tiếp cho thơ Quang Dũng bay cao, bay xa mãi trong lòng người…

Bài thơ: Đôi mắt người SơnTây

Em ở thành Sơn chạy giặc về

Tôi từ chinh chiến cũng ra đi

Cách biệt bao lần quê Bất Bạt

Chiều xanh không thấy bóng Ba Vì.

Vừng trán em vương trời quê hương

Mắt em dìu dịu buồn Tây Phương

Tôi thấy xứ Đoài mây trắng lắm

Em có bao giờ em nhớ thương.

Từ độ thu về hoang bóng giặc

Điêu tàn thôi lại nối điêu tàn

Đất đá ong khô nhiều ngấn lệ

Em có bao giờ lệ chứa chan.

Mẹ tôi em có gặp đâu không

Những xác già nua ngập cánh đồng

Tôi cũng có thằng em còn bé dại

Bao nhiêu rồi xác trẻ trôi sông.

Đôi mắt người Sơn Tây

U uẩn chiều lưu lạc

Buồn viễn xứ khôn khuây.

Cho nhẹ lòng nhớ thương

Em mơ cùng ta nhé

Bóng ngày mai quê hương

Đường hoa khô ráo lệ.

Bao giờ trở lại đồng Bương Cấn

Về núi Sài Sơn ngắm lúa vàng

Sông Đáy chậm nguồn quanh phủ quốc

Sáo diều khuya khoắt thổi đêm trăng.

Bao giờ tôi gặp em lần nữa

Ngày ấy thanh bình chắc nở hoa

Đã hết sắc mầu chinh chiến cũ

Còn có bao giờ em nhớ ta.

Bài hát: Đôi mắt người Sơn Tây

Nhạc sĩ Phạm Đình Chương phổ từ 2 bài thơ ‘Đôi mắt người Sơn Tây’ và ‘Đôi bờ’ của Quang Dũng

Thương nhớ ơ hờ thương nhớ ai

Sông xa từng lớp lớp mưa dài

Mắt em ơi mắt em xưa có sầu cô quạnh

Khi chớm thu về, khi chớm thu về một sớm mai.

Đôi mắt Người Sơn Tây

U uẩn chiều luân lạc

Buồn viễn xứ khôn khuây,

Buồn viễn xứ khôn khuây.

Em hãy cùng ta mơ

Mơ một ngày đất mẹ

Ngày bóng dáng quê hương

Đường hoa khô ráo lệ.

Tôi từ chinh chiến đã ra đi

Chiều xanh không thấy bóng Ba Vì

Sông Đáy chạm nguồn quanh phủ Quốc

Non nước u hoài, non nước hao gầy, ngày chia tay.

Em vì chinh chiến thiếu quê hương

Sài Sơn, Bương Cấn mãi u buồn

Tôi nhớ xứ Đoài mây trắng lắm

Em có bao giờ, Em có bao giờ,

Em thương nhớ thương.

Đôi mắt Người Sơn Tây

U uẩn chiều luân lạc

Buồn viễn xứ khôn khuây,

Buồn viễn xứ khôn khuây.

Em hãy cùng ta mơ

Mơ một ngày đất mẹ

Ngày bóng dáng quê hương

Đường hoa khô ráo lệ.

Đôi mắt Người Sơn Tây

Đôi mắt Người Sơn Tây

Buồn viễn xứ khôn khuây.

TÓM TẮT

Sau 1954, nhà thơ Quang Dũng vì vụ Nhân văn – Giai phẩm, bị đi chỉnh huấn và lui về ẩn thân. Về sau này, như những nhà thơ lớn khác, Nguyễn Bính, Hồ Dzếnh... ông mai một và mất đi trong âm thầm.

Trích một đoạn Phạm Duy viết khi nghe tin ông mất:

“Tôi đã điện đàm với Nàng (Akimi) báo tin buồn và ước mong có dịp gặp con người có vầng trán mang trời quê hương và đôi mắt dìu dịu buồn Tây Phương đã từng là nguồn cảm hứng cho những bài thơ bất hủ của Quang Dũng để tôi - rất có thể - nhìn thấy những giòng lệ nhạt nhoà tuôn chảy. Những giòng lệ làm tôi hình dung ra được một con sông đào vùng tề hay cả một vùng biển lớn mang tên Thái Bình Dương lúc nào cũng sẵn sàng để chia rẽ đôi bờ cho những người tình thuộc thế hệ tôi, thế hệ đầu tiên bị chiến tranh và thù hận bao vây không ngừng nghỉ.

Quang Dũng đã nằm xuống trên một mảnh đất quê hương tôi mong rằng cũng không xa cánh đồng Bương Cấn của anh là mấy. Thôi nhé, xin chúc anh ngủ yên trong giấc mộng thiên thu để cho chúng tôi tiếp tục buồn hộ anh nỗi buồn viễn xứ khôn nguôi...”

Chính từ các bài thơ: Tây tiến, Đôi mắt người Sơn Tây và Đôi bờ mà các nhạc sĩ Phạm Duy, Phạm Đình Chương và Cung Tiến phổ nhạc – đã chắp cánh thêm cho ba bài thơ đã nổi tiếng thì càng nổi tiếng hơn nữa vậy.

PHẠM VŨ

(Tham khảo: Tài liệu trên Sách báo & Internet)

ĐÍNH CHÍNH SỐ 90 trang 108 câu 7 từ dưới lên

Tôi chợt nhớ đến 2 câu thơ của dịch giả Vũ Anh Tuấn thuộc trường phái Thiên Cữu

(Cậu Ông Trời):

Trong Ta tiếng Việt đi đầu

Tiếng Anh, tiếng Pháp đi hầu hai bên!



ĐÔI LỜI VỀ NHÀ THƠ NGA

NIKOLAI RUBTXOV

Nhà thơ Nikolai Rubtxov (1936-1971) là một hiện tượng đặc biệt trong văn học Nga, xuất hiện cùng thời điểm với Vưxôtxki (1938-1981). Khác với V.Vưxôtxki, ngay từ thuở sinh thời tiếng tăm đã lừng lẫy, thực sự đã trở thành thần tượng của nhiều tầng lớp xã hội, đặc biệt trong giới trẻ, trên khắp đất nước Xô Viết từ cuối những năm 1950. Tên tuổi của N.Rubtxov cùng với sáng tác thơ của ông xuất hiện một cách nhỏ nhẹ từ giữa những năm 1960, phải từ sau cái chết bi thảm chấm dứt cuộc đời ngắn ngủi cũng như thời gian sáng tác càng ngắn ngủi hơn của ông, sáng tác thơ ca của ông mới dần dần thực sự chiếm lĩnh được trái tim người đọc và đến ngày nay trở nên “không thể thiếu được khi nói đến thơ ca Nga đương đại”.

Sinh thời N.Rubtxov chỉ kịp xuất bản được 4 tập thơ:

Thơ trữ tình (1965),

Ngôi sao của đồng ruộng (1967),

Tâm hồn gìn giữ (1969),

Tiếng rì rầm của rừng tùng” (1970).

Nhưng sau khi nhà thơ qua đời bạn bè và những người thân đã tiếp tục sưu tầm các sáng tác của ông và xuất bản tiếp hàng chục tập sách khác:

Những bông hoa màu xanh ”(1975),

Con tàu cuối cùng ”(1973),

Thơ trữ tình tuyển chọn ”(1977),

Tuyển tập (1984) và vv…

Thơ N.Rubtxov ngày càng thu hút bạn đọc rộng rãi. Ngay cả sau khi Liên Xô sụp đổ, vào những năm 90 khó khăn thơ ông vẫn được tái bản với số lượng lớn, tổng cộng lên tới con số hơn vài triệu bản

N.Rubtxov từng có một bài thơ 4 câu đùa đùa thật thật:

“Lời chuẩn xác của tôi sẽ còn vang vọng!

Có lẽ rồi tôi trở thành nhà thơ lừng danh.

Ở làng quê, tôi sẽ được người ra dựng tượng

Là đá hoa cương tôi vẫn ngây ngất men nồng

Ngày nay N.Rubtxov không chỉ được dựng tượng ở quê hương ông, mà còn được dựng tượng ở nhiều nơi khác, những địa điểm mà ông từng sống và sáng tác, gắn bó ít nhiều trong cuộc đời ngắn ngủi của mình. Sắp tới theo kiến nghị của nhiều tổ chức xã hội và được chính quyền Matxcơva chấp thuận, tượng đài kỷ niệm N.Rubtxov sẽ được dựng lên tại Matxcơva bằng tiền quyên góp của bạn đọc, những người hâm mộ ông và có sự hỗ trợ của chính quyền địa phương cũng như trung ương.

N.Rubtxov được đánh giá là một trong những nhà thơ Nga được xếp vào hàng nhà thơ của dân tộc. Trong nhiều công trình tổng kết thơ Nga những năm gần đây ông được xếp vào hàng những nhà thơ lừng danh nhất mà số lượng đó chỉ hơn 50 người một chút mà thôi. Thơ ông luôn đề cập tới các số phận của nước Nga, thiên nhiên Nga, lịch sử Nga, trong hàng loạt bài thơ hiện lên bóng dáng, tên tuổi những nhân vật, như A.Puskin, F.Doxtoevxki, N.Gogol, M.Lermontov và vv… Vấn đề trong thơ ông được khơi sâu còn là mỗi nhân vật trữ tình của thơ ông đều mang các tính cách dân tộc Nga, tâm lý dân tộc Nga. Số phận bi kịch riêng tư của ông hòa trộn vào lịch sử nhiều đau thương của cả nước Nga, cuộc đời lưu lạc của chính ông đến khắp nơi, mọi ngõ ngách của đất nước được phản ánh cả không gian bao la của tổ quốc rộng lớn của ông, cũng như tâm hồn sáng tạo của nhân dân Nga, mà ông là một phần máu thịt…

Thơ N.Rubtxov là tiếp tục các truyền thống thơ ca mang đậm tính cách Nga, từ Puskin, Chưutchev, Fet, Exenin… như ông từng nói trong bài thơ tuyên ngôn của ông:

“Tôi sẽ không bao giờ đi sao chép

Từ sách vở của Chưutchev hay của Fet

… Nhưng lời thơ chân thành tôi sẽ kiểm tra

Qua hai ông Chưutchev cũng như Fet

Để tiếp tục cuốn sách Chưutchev và Fet

Bằng cuốn sách của Rubtxov thằng tôi”

Thúy Toàn

Em đã tiễn con tàu…

Nikolai Rubtxov

(Nhà thơ Nga, 1936-1971)

Em ở lại trên bờ cảng biển

Với nụ cười nhòa lệ dâng tràn,

Bão tố lại cợt đùa buồm nắng,

Cả tình yêu, cả thương nhớ nơi anh.


Anh lao đến nơi nào trong vũ trụ,

Dầm bão dông, một cánh chim bằng,

Anh đã phải lòng đại dương khắc nghiệt

Bởi tiếng rền, tiếng thổn thức tháng năm.


Đã phải lòng thành phố người cực Bắc

Từ biển khơi lưu lạc lại tìm về,

Bởi là nơi thử thách cơn rét buốt,

Bởi là nơi thử thách mối ưu tư,


Bởi nơi có muôn vàn tiếng nói,

Nơi tìm về thương nhớ, nhân từ,

Với nụ cười chan hòa nước mắt

Em đã đến tiễn con tàu trong gió mưa.

1969

Thúy Toàn dịch

SỢI TÓC

Thiếu Khanh

Có gì lạ lùng như sợi tóc

Cứ nhạt dần khi mình vẫn đậm đà thương

Cả những sợi trắng từ khi mới mọc

Mà vẫn dịu dàng chung một mùi hương


Mỗi buổi sáng vương trên nền gối trắng

Nhánh mơ xưa trong những khúc tình ca

Như dấu hỏi hồn nhiên nằm lẳng lặng

Anh mềm lòng: hạnh phúc ở đâu xa!


Anh se sẽ lùa thêm hơi thở mới

Cho ấm tóc em giữ chúng chậm phai màu

Tiếng khúc khích em cười trên mặt gối:

“Đầu bên đầu sợi tóc dễ lây nhau!”


Hỡi cô Tấm ngày xưa trong trái thị

Có hiền như sợi tóc nép trên vai?

Ôi không giống như trong nhiều truyện kể

Rằng ngàn năm công chúa cứ xinh hoài.


Em khẽ đọc bài thơ xưa anh viết

Anh dột lòng không thấy tóc em xanh

Anh ngây ngất với trăm điều chưa nói hết

Hay tóc tình xưa chưa kịp đọng thơ anh?


Như bài thơ, cuộc sống cũng vần bằng vần trắc

Dù dưới trăng vẫn nhớ lúc bên đèn

Qua ghềnh thác nhớ ngọt bùi trăng mật

Trắng tự bao giờ sợi tóc vẫn thân quen.


Khi nắng gió hong tóc em khô vàng chẻ ngọn

Trong cuộc đổi đời trên rừng núi Phương Lâm

Đêm âu yếm thở làn hương tóc thoảng

Thương đời nhau sợi tóc cũng thăng trầm


Mỗi cánh chim non bay chuyền rời khỏi tổ

Một chút màu xanh mái tóc chuyển sang con

Nhìn đôi mắt con trong bình minh rạng rỡ

Hai đứa mình trẻ lại vợ chồng son.


Sang kiếp sau cùng chia nhau vui buồn nữa nhé

Mình đâu cần kết tóc để làm tin

Trên mặt gối vang nhiều tiếng cười

                        và thấm nhiều ngấn lệ

Cũng từng nghe rộn rã tiếng tim mình.


Nay con mình có con - chúng mình có cháu

Ngót nửa con đường mới đó đã qua mau

Em sợi ngắn anh sợi dài trên ngực áo

Đâu phải tình cờ sợi tóc đổi cho nhau!

Saigon , 11/2013

(Ngân Khánh Tình Ta)


DỪNG BƯỚC PHIÊU LƯU


Những chuỗi ngày trôi như thoáng qua

Tưởng như Ta chẳng đã là Ta

Ai đã vào đời, ai đã sống?

Ai từng nhỏ lệ khóc phôi pha?


Thân nầy của ai, hay của TA?

Mà sao chẳng giống tháng năm qua?

Từng buổi già suy, từng bước yếu

Như nước đầu ghềnh, như nắng sa!


TA mãi lao theo những khóc cười

Đâu hay đã nhạt nét xuân tươi

Chiều nay soi bóng trên dòng nước

Chợt thấy đời mình đang cuốn trôi!


Ta sống những năm như giấc mê

Giật mình, quá nửa kiếp ê chề!

Ham gì đeo bám đời lận đận!

Dừng bước phong sương, trở gót về.

TÂM NGUYỆN

ĐƠN PHƯƠNG 

Ôi khoảng trống tâm hồn

nhân rộng mãi

lớp lớp mây giăng

thảng thốt…

gió sang mùa…

Chiếc bóng lẻ

chênh vênh

Tình cho đi

không trở lại

Lá vàng đau

thu chết…

chuyến đò xưa…

NGÀN PHƯƠNG

Thời Gian

Phù dung tím lịm

chiều say…

Mới đây đã hết một ngày rồi ư?

Trăng tròn rồi khuyết ưu tư

Mới đây đã một tháng từ tạ nhau

Mai vàng rộn nở xôn xao

Mới đây đã hết năm dào dạt trôi

Tóc pha sương trắng chơi vơi

Mới đây mà đã một đời…

nhanh ghê…!

NGÀN PHƯƠNG

Hoa sa mạc

Bụi hoa sa mạc đượm hương trời

Ngạo nghễ vươn gai giữ thế côi

Lạnh lẽo đêm sương gom nhựa sống

Nồng nàn ngày nắng tạo duyên đời

Từng phen bão cát thân luôn vững

Suốt tiết khô mưa lá chẳng rơi

Sống giữa phong trần xanh tốt cội

Hoang vu hoa nở đẹp trong ngời

THANH CHÂU

Trái bưởi

Ngon lành phải kể bưởi năm roi

Nhiều nước, mềm xơ thật giống nòi

Bát ngát hoa thơm hương tận mũi

Xinh tươi quả chín múi dày thoi

Mê chua phụ nữ luôn tàng trữ

Hảo ngọt thanh niên mãi hỏi đòi

Thật khó ăn chơi dòng trái quý

Mua về lột vỏ móc rồi moi

THANH CHÂU

HÃY MỞ TUNG RA

Hãy mở tung cánh cửa

Để biết rằng bầu trời còn hẳn ánh thái dương!

Và tít trên cao, cao hơn nữa, là cõi thiên đường.

Nơi ta chưa bao giờ được một lần nếm trải.


Hãy mở tung những cửa ải

Để gió từ khắp khắp dồn về

Lùa vào tận chập chùng sơn khê

Của những cõi lòng bao đêm ngày u mê ám khói!


Hãy mở tung cho vầng hồng chói lọi

Rọi vào tận hang cùng ngõ hẹp của trí não rối bời

Bởi hằng hà sa số ma trơi

những toan tính sao cho ta phải đè lên trên hết thảy!


Hãy mở tung cửa ra cho bao điều trái phải

Đều lộ ra dưới ánh sáng ngời ngời.

Như những sợi tóc đã bạc tươi

không còn chỗ nấp trên mái đầu nhìn xa nom còn đen lay láy!


Hãy mở tung con tim xem máu tươi còn chảy

trong huyết quản đã thâm sì những chước quỷ mưu ma.

Có thể rằng từ con tim ấy chỉ còn túa ra

giòng nhợt nhạt qua bao tháng năm không ánh nắng!


Hãy mở tung con mắt và đừng lảng tránh

Hàng bao nhiêu câu hỏi đầy chữ tại sao

Ví như: Tại sao cuộc đời vẫn đầy dẫy khổ đau

Mà môi ta vẫn loa lên những ngôi từ xanh mườn mượt!


Hãy mở tung lỗ tai, đừng thở dài đánh sượt

Mỗi lần ai đó ta gặp trước lối đi

Cánh tay đen sạm, đôi mắt ngô nghê

Miệng lắp bắp lời cầu van: tôi đang đói lắm!


Hãy mở tung kho ra, xem trong ấy còn dài hay ngắn

chút lòng thương ngày tháng đã dần phai.

Phải chăng, trong ấy chỉ ngập những ngất ngây

Vì vẻ đồ sộ vô hồn của hằng hà sa số của cải bòn từ bao giờ và từ đâu không nhớ.


Hãy một lần mở ra, dẫu lòng hằng e sợ

rằng phải chăng ta còn được gọi là người.

Hãy mở ra cho ánh nắng thắm tươi

Tràn muôn lối vào, và xua đi trùng trùng loài virus!

LAM TRẦN 25.11.2013

Rong Rêu

Rêu phong mờ phủ dấu chân ai
Thềm vắng vườn hoang, giấc mộng dài
Lạnh lẽo thinh không, lòng cô quạnh
Gác vắng lầu xưa, nhớ gót hài
Sen trắng thoảng hương, hồn tê tái
Tìm đâu dáng ngọc, nét trang đài
Cỏ dại phất phơ chiều gió cuốn
Lòng buồn ngơ ngẩn, nắng vàng phai...

Phạm Thị Minh-Hưng _ 14/3/2013

Tình yêu vĩnh cữu

Gió thổi về từng cơn se lạnh

Ta chợt thèm làn hơi ấm yêu thương

Sánh bước cùng ai trên một con đường

Lòng hòa quên giấc mơ hồng hạnh phúc.


Ai cũng muốn có ngày trọng đại nhất

Chìm đắm mình những giây phút thăng hoa

Âm nhạc du dương và thánh thót tiếng ca

Lời chúc tụng xen với lời ước hẹn.


Để cho dù non mòn biển cạn…

Cho mối tình đầu thuần khiết tinh anh

Trong tiếng vỗ tay và niềm vui vô hạn

Trong tình người và chứng giám của trời xanh


Niềm yêu thương ánh lên từng cử chỉ

Làm sao quên những khoảnh khắc tuyệt vời

Kỷ niệm ngày trọng đại nhất trong đời

Của chú rể cô dâu ngời hạnh phúc


Hãy để cho ngày trọng đại nhất

Lưu giữ mãi tình yêu vĩnh cửu của con người

LÊ MINH CHỬ

TÌM CHI

Cánh buồm nâu căng gió

Ra khơi, đi xa vời.

Buồm ơi, tìm chi đó

Nơi kia nước nối trời?

Đồ Sơn, 24.7.1964

VŨ ĐÌNH HUY

LOOKING FOR WHAT

The billowed out brown sail

Sailing to the open sea, sailing real far

Oh sail, what are thee looking for

Was that a certain place where, to the sky water is connected?

Đồ Sơn, 24.7.1964

VŨ ĐÌNH HUY

Translated by VŨ ANH TUẤN


HƯƠNG HOA

Mai hồng én liệng tầng không,

Nước long bong nắng, mây bồng bềnh trôi.

Gió ai ướp đâm hương trời

Thoảng vườn tôi, đã xa vời rồi ư?

28.01.1965

VŨ ĐÌNH HUY

FLOWERS’ SCENT

Early in the morning, swallows hovered over the sky

With the sound of sunlit rapid running water, clouds were drifting and bobbing

Whose wind was embalmed with heavenly scent

That flashingly blew over my garden, but that had been far away already?

28.01.1965

VŨ ĐÌNH HUY

Translated by VŨ ANH TUẤN


HƯƠNG HOA BƯỞI

Khẽ khàng bưởi mở cánh hoa,

Gió bay đến lấy hương ra ướp đời

Ngất ngây chân bước không rời

Lòng xao xuyến nhớ hương người phương xa

Vĩnh Phú, 03.3.1965

VŨ ĐÌNH HUY

POMELO FLOWERS’ SCENT

Softly the pomelo tree’s flowers opened their petals

Flowing wind came, taking their scent to embalm the sky

I walked unsteadily while not wanting to leave

As my stirring mind recalled certain far away person’s scent.

Vĩnh Phú, 03.3.1965

VŨ ĐÌNH HUY

Translated by VŨ ANH TUẤN

Tác giả: Dương Lêh

Nói đến môn cờ tướng thì khó mà có ai qua nổi anh chàng Tư Địa ở khu Kinh B này. Người ta thường giỏi một nghề nào chắc chắn phải bắt nguồn từ sự đam mê, và ngược lại có yêu nghề, có đam mê thì cái nghề mới được thăng tiến. Khi gặp một đối thủ đồng cân đồng sức anh có thể nhịn ăn để kết thúc cho được bàn cờ rồi mới ăn qua loa trước khi tiếp tục. Gặp những bàn cờ “tàn” theo kiểu “nhứt mã chiếu vô cùng” Tư Địa vẫn kiên nhẫn tìm thế tấn công vì còn hai con chốt vừa được “qua sông”.

Kiểu cách đánh cờ của Tư Địa cũng rất đặc biệt, anh hay vẽ trong không khí phía trên bàn cờ đường đi của từng quân cờ theo kế sách của anh để chống lại đối phương. Có lần người ta hỏi anh:

- Nè, Tư Địa, cha đánh cờ mà hay vẽ quá, người ta biết đường mình đi hết sao?

- Trời ơi, đánh cờ mà đ ể cho người ta biết mình sẽ đi nước nào thì dở ẹc.

Rồi anh ta giảng, bản thân người đánh cờ không chỉ là một ông tướng đang cầm quân ra mặt trận mà còn là một quân sư vừa dùng mưu lược vừa cầm trường thương giết giặc, thắng không kiêu, bại không nản. Anh ta hay vẽ trước đường đi của mình thực ra đều có mưu kế sắp đặt trước. Đó chỉ là nghi binh, là hư, không có thực. Khi đối phương càng “chọc quê”, mình phải thật im lặng, giống như cảnh người ngậm thẻ, ngựa cất lạc, để tiến hành phục kích. Quả thật khi đối phương chọc quê thường là đang thắng thế, mà hễ thắng thế thì kiêu ngạo mới chọc quê, và kiêu ngạo thì hở sườn. Nói tới đây Tư Địa đưa bàn tay chỉ còn ba ngón kéo áo thun lên khoe cái bụng chang bang không thấy được cọng xương sườn nào hết. Rồi ông kết luận:

- Hở sườn là mình bụp liền. Nói xong ông cười khẹc khẹc.

Có lần Tư Địa đụng một tay cờ bên kinh A qua chơi gọi là làm vài ván sơ giao, vài ly cà phê chứ không ăn tiền ăn bạc gì cả. Tay này biệt danh là Dách cô Ngạn (tiếng Quảng Đông là một con mắt), đúng là anh ta chỉ có một mắt cho nên anh ta đeo một cặp kính đen giống như một tay sát thủ trong một phim Hồng Kông. Anh này, gốc người Hoa, bước vào quán Bà Năm hai tay giơ lên nắm lại theo kiểu bái tổ xá xá mọi người trong quán.

Bàn cờ được đem ra để trên bàn, Tư Địa và Dách cô Ngạn, mỗi người ngồi một bên chọn cờ sắp ra bàn chuẩn bị bắt đầu. Anh chàng Dách cô Ngạn có kiểu ngồi đặc trưng của người Hoa. Anh ta ngồi một chân đặt trên ghế, đầu gối gần đụng cằm, một chân thả xuống đất chống mũi chân lên chiếc dép. Tư Địa ngồi ngay ngắn, hai chân thả xuống đất. Bàn tay mặt chỉ còn ba ngón đưa đi đưa lại linh hoạt trên bàn cờ. Dách cô Ngạn nhìn bàn tay thiếu ngón của Tư Địa, hỏ i:

- Sao còn ba ngón hà?

- Lưỡi cưa ăn, thôi, hỏi chi vậy, đi trước đi.

Bàn cờ đã bắt đầu. Hai người ghìm nhau từng nước, âm thanh lóc cóc vang từng hồi, từng chặp. Hai ba người khác bắc ghế ngồi chung quanh để xem nhưng im lặng không ai dám bàn bạc để hai cao thủ thoải mái thi đấu.

Hóa ra trước kia Tư Địa từng làm thợ cưa, theo anh kể trước đây, anh thủ một cái cưa mâm và phụ trách xẻ gỗ, từ những tấm gỗ lớn anh xẻ thành những thanh gỗ nhỏ. Anh đứng một đầu đẩy tấm ván vào lưỡi cưa đang xoay tít, đầu kia do một đàn em còn non tay nghề giữ việc rút tấm gỗ và thanh gỗ vừa xẻ ra. Hồi đó không có gì gọi là bảo hộ lao động. Rủi ro đối với loại cưa mâm này rất nhiều. Cái rủi ro thường gặp mà anh thợ chánh thường bị u đầu sứt trán, có khi bị chấn thương sọ não là khi anh thợ phụ chụp không kịp đầu tấm gỗ, chiều xoay của lưỡi cưa dựng đầu thanh gỗ lên và đập ngược vào đầu anh thợ chánh, trường hợp này nếu có mũ bảo hộ thì sẽ đỡ cho cái m ỏ ác của anh thợ chánh, vì cú đập này xảy ra rất nhanh chóng. Tư Địa không ở vào trường hợp này, anh bị một rủi ro khác không thể lường được. Trong lúc anh đang đẩy thanh gỗ vào lưỡi cưa đang xoay, bất ngờ một con chuột chạy dưới chân và quào nhẹ bàn chân làm anh giật mình, động tác đẩy gỗ của anh bị quá đà và anh đã đẩy bàn tay anh vào lưỡi cưa. Tư Địa chỉ nghe nhói một cái và giật tay lại. Ngón trỏ và ngón giữa đã văng khỏ i bàn tay của anh rồi…

Tư Địa có cái tật vừa đánh cờ vừa nói lầm bầm với chính mình. Khi anh đưa con pháo vào giữa, anh lẩm bẩm: “vô pháo đầu, súng ống tập trung lại cho địch nó sợ”. Khi bị bao vây, nguy khốn: “Chết rồi, mình bị ‘Thập tam thái bảo’ dập rồi”, và anh tự an ủi: “Không sao, ‘thập tứ nữ anh hào của ta đâu’”. Anh chống đỡ như thế nào không biết để đối phương gõ vào cờ của anh một cái cốp và giựt lấy một quân sĩ. Tư Địa giật mình: “ chết cha, nó “sực sĩ” (ăn sĩ) rồi. Dách cô Ngạn là người Hoa, hiểu từ ngữ “sực sĩ”(1) mà Tư Địa vừa nói, không giận, bình tĩnh, một tay chống cằm làm cho cái mặt y méo xẹo, dùng ngón giữa và ngón trỏ kẹp quân cờ huơ qua huơ lại kiểu mấy ông tiên đánh cờ trong phim tàu, nhưng nhìn mặt Dách cô Ngạn lúc này giống ông tướng hát bội hơn là giống một tiên ông đạo cốt.

Hai người quần nhau một lát, đột nhiên nghe một tiếng “cốp” vang dội, thì ra Dách cô Ngạn vừa ăn thêm một quân “sĩ” nữa. Anh chàng độc nhãn cười hềnh hệch: “Nị chết dồi a, cờ mất sĩ như “lĩ”(2) mất quần ha, ha, ha”. Tư Địa lính quýnh, nói lẩm bẩm: “Ây dà, chả sexy sô(3) mình rồi he, không sao, ở truồng đánh cũng được”. Độc nhãn nói tiếp: “Đừng lo, ngộ cho nị con tượng làm cái khăn quấn lại để chào khán giả”. Tư Địa lẩm bẩm trong miệng không biết đang nói gì, giơ ngón tay trỏ vẽ lên vẽ xuống như đang tính toán dữ dội. Qua lại thêm vài nước cờ, thình lình Tư Địa đẩy quân pháo núp đàng sau con ngựa làm thành thế chiếu tiền mã hậu pháo. Đây là thế độc chiêu của Tư Địa, lợi dụng lúc Dách cô Ngạn đang hiu hiu đắc chí, Tư Địa sử dụng đòn du kích, dứt điểm. Độc nhãn giật mình muốn nhảy khỏi ghế: “Ỷ! Ngộ chết dồi, ngộ chết dồi!”. Tư Địa cười khẹc khẹc: “Sắp bàn khác!”.

Vừa lúc đó tổ trưởng Hêng Sái bước vô, nói to: “Bà con đi liền ra Ban điều hành, lãnh khoai lang”. Mọi người giải tán, ai về nhà nấy lấy rổ rá bao bị đi lãnh khoai. Dách cô Ngạn trả tiền cà phê rồi trở về kinh A. Ông Tổ trưởng này người Kampuchia gốc Hoa nên nói tiếng Việt còn lơ lớ. Ông là một trong số những người tương đối lớn tuổi nên được chọn làm tổ trưởng phụ trách các công việc hành chánh, sắp xếp nơi ăn chốn ở cho người dân từ thành phố lên đây lập nghiệp.

Một lát sau, mọi người bước lên bờ đê làm thành một hàng dọc hướng ra đường cái rồi đi về phía Ban Điều Hành. Khi đến nơi đã thấy hai đống khoai lang như to hai quả núi Châu Thới nằm chình ình trước văn phòng Ban. Người ta đổ xô vào hai đống khoai lang cào hốt đổ vô bao, vô giỏ mang theo rồi đem lại cân. Ở đây có người phụ trách kiểm tra, đối chiếu với sổ gạo, sau đó mọi người lần lượt ra về. Có người lãnh nguyên cho cả nhà đông nhân khẩu, bao khoai lớn, nặng quá không vác nổi phải bỏ xuống xuồng của Ba Thêm chở về tới nhà, tốn vài đồng bạc. Hai đứa con của Năm Giác mình mẩy dính đầy đất cát, mỗi đứa nắm một đầu bao khoai khiêng đi, bước chân nghiêng qua nghiêng lại. Thằng Khởi năm nay cũng mười lăm tuổi, nó vui tính vừa khiêng bao khoai vừa cười vừa nói:

- Bà già đẻ gì mà đẻ dữ, bảy tám đứa, báo hại khiêng khoai lang mệt xỉu.

Con chị, tướng tá mập mạp, đi đàng sau hối thúc:

- Đi đại về mầy ơi, lèng èng hoài.

- Tối nay tui cho Ốc-xô ăn khoai nướng.

Thằng Khởi lấy tên một loại bột nêm đặt tên cho chị nó vì trên bao bì có in hình một anh đầu bếp mập thù lu giống như bà chị dễ thương này.

Mấy anh em nhà Tư Dần khiêng hai bao khoai lớn hết cỡ. Số là nhà này đông con quá. Năm đó Tư Dần khoảng ba mươi ngoài, Anh này còn chị Hai, chị Ba còn ở lại dưới Thành phố. Lên đây lập nghiệp ngoại trừ Tư Dần mấy đứa còn lại gồm năm sáu mạng, đều là con của bà sau. Bà trước đã chầu trời từ lâu ông già anh Tư Dần mới rước bà sau về, nhờ tốt nái hay sao mà bà rỉ rả sinh cho ông thêm mấy đứa nữa. Khi thằng út sinh ra thì ông già cũng vừa được sáu mươi. Tính ra tới thằng út nó mang được số thứ tự thứ tám thứ chín gì đó. Tư Dần năm đó cũng đã ba mươi mấy rồi, chưa lập gia đình, là con bà trước.

Tư Dần với thằng Xinh, lớn nhất trong đám con bà sau, khiêng một bao khoai đi trước hai thằng nhỏ hơn khiêng một bao đi sau, theo sau ba thằng nhóc vừa đi vừa múa qua múa lại như một đám múa lân ngày Tết.

Tối đó, trời sáng trăng nhiều nhà trải chiếu ở trước sân nhà ngồi hóng mát bên cạnh nồi khoai luộc, thưởng thức ánh trăng đang trải một vùng sáng trên mặt kinh. Những làn sóng lăn tăn lấp lánh ánh bạc lan tỏa ra hai bên bờ. Phía nhà Sáu Xị có người đang đàn một bản sáu câu vọng cổ rồi có tiếng của một người đàn ông văng vẳng bài “Võ Đông Sơ, Bạch Thu Hà”. Khung cảnh có đủ trời, trăng, mây, nước thật hết sức thanh bình, an lạc.

Nhà Hai Trí đang thưởng thức món khoai lùi. Anh lấy cái cà ràng nhóm một bếp lửa bằng củi ráng để nướng khoai. Có một cái chõng tre để trước nhà làm chỗ cho vợ chồng và một đứa con ngồi thưởng trăng. Nghe nói hồi trước anh học luật ra trường làm việc ở đâu đó ở Thành phố. Khi nghe bà con rủ rê về quê làm rẫy làm đồng. Anh bồng con dắt vợ chạy theo. Lên đây anh cố gắng học người ta nuôi trồng để sống qua những ngày nhàn hạ. Mỗi sáng anh đi vào tận trong bưng để câu, kiếm vài con cá về làm cái ăn cho thằng con trai đầu lòng mới được hai tuổi. Sau khi lo đâu vào đó anh bắt đầu xách xẻng ra phía sau đất thổ cư để đào ao chuẩn bị nuôi cá. Anh dự bị thả cá rô vì giống cá này chịu được nước phèn mà ở đâu chứ chỗ kinh B này thì phèn “mát trời ông địa”. Người dân ở đây “chê” không xài nước ở dưới mấy con Kinh mới đào. Nhà nào cũng có lu lớn hay thùng phi để đựng nước mưa, nước để sử dụng cho sinh hoạt hằng ngày được cung cấp bằng ghe lớn mang tới đậu ngay trước nhà ông tổ trưởng. Từ trên ghe người ta kéo ống vô tận từng nhà dân, hết nhà này đến nhà khác. Người dân cứ căn cứ thùng chứa mà trả tiền. Hai Trí để ý mấy con Kinh mới đào nước đỏ au, nổi váng, nhưng chỉ vài ngày sau nước trong xanh rồi thấp thoáng những anh cá rô tung tăng bơi lượn.

Sau khi biết được khu này có nguồn cá tôm sung túc, tuần rồi anh tháo chiếc nhẫn cưới cùng với anh Năm ở xóm trong xuống Thành phố, tới chợ Phú Lâm, bán chiếc nhẫn, mua mỗi người hai dây lưới bén, chuẩn bị kế hoạch thu gom cá rô. Trước khi ra về hai anh em không quên vô một cửa hàng ăn uống làm vài chai bia với một đĩa đồ nhắm. Thức ăn ngon lại có bia mát lạnh, hai người ăn không no mà cũng chẳng say. Nhưng hai người không thể ăn uống thêm vì ở cái cửa hàng đó người ta bán kèm nghĩa là muốn uống bia phải mua thức ăn, mua một đĩa thức ăn được mua hai chai bia. Đúng với công thức “hai chai một đĩa”. Hai người đành phải lên xe lam đi về, vừa nhìn phong cảnh hai bên đường vừa tưởng tượng phải chi ở nhà, chỉ với một đĩa thức ăn của quán lúc nãy hai người có thể nhăm nhi được vài xị đế, đủ sức ấm lòng rồi leo lên giường đánh một giấc đến sáng hôm sau, chứ uống theo kiểu ở cửa hàng này hai người không thấy “phê” gì hết.

Sáng hôm sau, chị Hai kêu anh dậy sớm để ra thăm lưới mà anh đã giăng từ chiều hôm qua. Tới nơi anh nhìn qua làn nước trong vắt thấy có những chiếc lá khô, cành cây nhỏ dính trong lưới, anh nói với bà xã:

- Sao rác rến không hà, em ơi!

Chị Hai bước tới nhìn xuống, mừng rỡ reo lên:

- Cá đó anh, không phải rác đâu.

Rồi chị khom xuống nắm một đầu lưới kéo lên, còn anh nhảy xuống kinh bước qua bên kia bờ nhổ đầu lưới lên. Anh Hai chạy lại phía trên một anh nhổ thêm tay lưới thứ hai rồi cùng bà xã về nhà, ra sau hè nhà ngồi gỡ cá. Anh Hai loay hoay không biết làm sao đưa con cá ra mà không bị đứt dây lưới. Thấy ông xã tay chân lóng cóng chưa biết làm gì để lấy được con cá, chị Hai ngồi xuống ôn tồn nói:

- Anh đẩy con cá tới luôn qua khỏi dây lưới sẽ lấy được dễ dàng.

Anh Hai nghe lời làm theo, quả nhiên đúng như lời vợ “dạy bảo”:

- Hay! cứ “tới luôn bác tài” là lấy được con cá. Mà sao em biết hay quá vậy?

- Thì hồi xưa ở Nha Trang c hủ nhật nào cũng theo ông già đi lưới cá, gỡ một hai lần là làm được liề n.

Anh Hai cảm thấy thẹn thùng trong lòng không dè chuyện nhỏ này mà phải có vợ chỉ dạy mới biết được. Nhưng anh cũng tự an ủi liền: “Không sao, học hỏi ở vợ mình cũng tốt thôi”.

Ngày hôm đó, bữa cơm nhà anh Hai Trí thịnh soạn hẳn lên. Có cá rô nướng để anh nhâm nhi một chút rượu đế, cá rô kho cho bà xã và không quên gỡ phần nạc, loại bỏ xương sạch sẽ để cho thằng đệ tử. Anh Hai luôn luôn quan tâm đến việc đầu tư cho đứa con trai sao cho nó lớn lên được khỏe mạnh. Người ta thường khen anh bằng cái câu “hy sinh đời bố, củng cố đời con.”

Xích vô trong một chút là nhà Tư Dần sống chung ông già và đàn em con của bà kế mẫu. Bà này buôn bán ở Thành phố. Cứ hai tuần một lần bà lên thăm đàn con và tiếp tế thêm tiền chợ. Chuyện cơm nước cho gần một chục miệng ăn dù ở tuổi đang lớn cũng không có gì khó khăn nhờ có gạo được trợ cấp dài hạn. Mấy đứa nhỏ cứ bình tĩnh ăn no chóng lớn. Ban ngày mấy đứa lớn đi làm chuyện lặt vặt trong khu vực như đào ao, lợp nhà, vét mương chiều về tắm rửa ăn uống xong kéo ra trải đệm ở sân trước nằm ca vọng cổ. Tối nay nhà Tư Dần cũng làm một nồi khoai lang giống như người ta nấu bánh chưng ngày Tết. Mấy đứa nhỏ hồi chiều đã làm một bụng cơm rồi vậy mà thấy khoai lang tụi nó ăn tới tấp thấy thương lắm. Có đứa đề nghị:

- Bữa nào kêu má đem đường cát trắng lên ăn với khoai lang mới ngon.

Thằng anh nó khoảng mười lăm mười sáu gì đó, làm ra vẻ rành đời:

- Mầy không biết, khoai lang ăn với đường tán mới là đúng điệu nhà quê. Đường càng đen càng ngon. Đường cát hay là mật ong ăn với khoai lang không ngon bằng.

Thằng nhỏ tiu nghỉu không cãi lại anh nó, đưa miếng khoai lang lên miệng cắn một miếng, nhìn ra dòng Kinh đang sưởi tắ m ánh trăng…

***

Tổ trưởng Hêng Sái họp tất cả bà con lại để phân chia công tác. Số là Ban điều hành đã bố trí công việc làm cho mọi người dân trong tổ để cho bà con có thu nhập và từng bước ổn định đời sống. Mỗi nhà sẽ lãnh một liếp đất ở phía bên kia đất thổ cư. Mỗi liếp có bề rộng 6 mét và bề dài là 200 mét. Công việc phải xong trong vòng hai chục ngày, như vậy tính bình quân mỗi nhà một ngày phải cuốc mười thước tới. Bà con khoái quá, thấy công việc không có gì khó khăn, coi như có được việc làm ổn định. Mấy tay chuyên đi làm mướn như Tư Địa, anh em nhà Tư Dần, nhà Sáu Xị, cha con nhà Năm Giác coi như chuyện nhỏ, họ có thể vừa đi cuốc liếp vừa đi làm mướn ngoài giờ dễ dàng.

Sáng hôm sau, bà con xếp hàng dọc trên bờ kinh B đi lần ra Ban Điều Hành. Vai vác cuốc, mặt mày người nào người nấy hớn hở. Dẫn đầu đoàn người không ai khác hơn Tư Địa. Ông này có tuổi đời khoảng bốn mươi nhưng có tiếng tăm đầy rẫy của một người đa năng, đa hệ. Ngoài môn cờ tướng anh còn rất giỏi giang về việc đào kinh, cất nhà, làm ruộng làm rẫy, cho nên mọi công việc chung của khu kinh B này ai cũng bầu anh là “chủ xị”, là đầu tàu hướng dẫn mọi người thực hiện công tác. Tuy bàn tay không còn đủ ngón nhưng khi anh chà láng bờ kinh thì mấy ông nông vụ trên Ban điều hành xuống nghiệm thu không chê vào đâu được.

Kế bên nhà Tư Địa là nhà của một đôi vợ chồng trẻ, mới cưới được vài tháng. Anh chồng vừa suýt soát ba mươi, dáng người thanh nhã có phần ẻo lả một chút, anh có tên là Hùng nhưng không được “dũng” mà người ta hay gọi anh là Hùng “rụng”. Sở dĩ anh có biệt danh này là vì anh có hai cái răng cửa không cánh mà đã bay mất rồi, tuy vậy anh vẫn còn giữ được nét điển trai. Mỗi sáng khi ra đồng, anh chăm chỉ cuốc cho tới khi mặt trời ở ngang đỉnh đầu là đủ vượt chỉ tiêu trung bình chừng một mét. Coi như anh đã hoàn tất một ngày lao động. Buổi chiều anh quan quẩn ở nhà với cô vợ trẻ. Có lần Tư Địa rủ đi đào ao cá kiếm thêm thu nhập. Hùng rụng từ chối:

- Em đi làm cả ngày để bà xã ở nhà một mình, buồn tội nghiệp.

Tư Địa xúi:

- Ráng đi làm kiếm tiền sửa sang hàng tiền vệ chứ mầy để như vậy hoài sao?

- Anh Tư yên tâm, xong cái vụ bang liếp này, có tiền, em xuống Saigon “tút” lại liền.

Thời gian trôi cũng nhanh, lật bật kỳ hạn hai chục ngày cũng đã hết. Hùng rụng cũng vừa dứt xong nhát cuốc cuối cùng để về nhà báo cho cô vợ trẻ biết anh đã hoàn thành công tác một cách vẻ vang. Công tác nghiệm thu của mấy ông nông vụ cũng đã hoàn tất nhanh chóng.

Ngày lãnh thù lao cho công việc cuốc liếp đã tới, bà con trong khu kinh B cũng xếp hàng một lên bờ kinh đi ra Ban điều hành nhận tiền thù lao. Vợ Tư Địa phấn khởi vừa đi vừa ẹo qua ẹo lại giống như những người mẫu thời trang đang trình diễn trên sân khấu. Năm Giác đi sau nói với Tư Dần:

- Tư Dần mầy coi bà Tư Địa đưa cái vòng số ba của bả quăng qua quăng lại thấy đã đời Vân Tiên. Tối nay Tư Địa chắc là tiêu tan hồn vía.

- Coi chừng bả nghe được bả bằm anh không còn cái răng ăn cháo bây giờ. Tư Dần vừa cười vừa che miệng nói.

Sau khi nhận được tiền thù lao cuốc liếp bà con trong khu kinh B rất vui vẻ, nhiều nhà tổ chức một chầu ăn khao nhè nhẹ. Nhà Năm Giác làm thịt con gà mái dầu đã đẻ được bốn năm lứa rồi. Ông nói với hai đứa con lớn:

- Làm thịt con gà ăn đi bây. Mấy bữa đi cuốc liếp ăn cá khô không hà. Bữa nay bồi dưỡng bù.

Tối đó, sau khi làm một tô cháo gà lấy sức, Năm Giác ngồi nhâm nhi ly rượu đế với cái đầu gà nóng hổi.

Không cần phải bồi dưỡng như nhà Năm Giác, nhà Hai Trí vẫn sinh hoạt bình thường. Anh nói với vợ:

- Để mai anh xuống thành phố mua một tay chài về đi chài cá, bảo đảm cá tôm cho thằng đệ tử.

Đêm đến, Hai Trí nằm gác tay lên trán thao thức, trong lòng nôn nao với cái tương lai xán lạn sau khi anh mua được tay chài để về bắt cá. Lần trước mua hai tay lưới về, ngày nào Hai Trí cũng kiếm dược một mớ cá gom lại cũng gần vài trăm cà ram. Bữa cơm luôn có đầy đủ chất đạm. Nhưng khổ nỗi giăng lưới thường gặp mấy ông rắn ri cá hoặc ri voi. Mấy ông rắn họ “ri” cũng hiền, có cắn cũng không ai chết nhưng dính vô là quậy rách lưới. Mỗi lần bắt được một ông “ri”, Hai Trí đem đi tặng Sáu Xị. Khỏi nói tối đó nhà Bảy Xị có ngay một món rắn xào sả ớt, rồi cùng với tiếng đàn tiếng hát trong khi cái ly rượu đế chạy vòng tròn hết người này tới người khác.

Hai Trí dự định mỗi sáng sớm anh đi rảo đến các con kinh ngang quăng chài tới khi trời sáng trắng anh trở về là kịp lúc anh phải ra đồng cho công việc sắp tới. Ông tổ trưởng vừa bật mí cho biết kế hoạch của Ban điều hành sẽ cho trồng thơm để xuất khẩu trên các liếp bà con vừa cuốc xong. Hai Trí thấy mấy ông trên Ban điều hành quả là tài giỏi. Mấy ổng phải là “ba bốn trí” mới nghĩ ra được như vậy, chứ anh chỉ là “hai trí”, như cái tên của anh, thì không ăn thua gì. Đất phèn trồng thơm là trúng chứ không thế nào trật được. Ở bên Chợ Đệm, cũng là vùng đất phèn, người ta trồng thơm từ đời kiếp nào và đã làm giàu nhờ trái thơm ngon ngọt này. Thơm chợ Đệm bán tràn lan dọc quốc lộ. Ai về miền tây khi trở lên Saigon đều ghé Chợ Đệm mua vài trái thơm làm gia vị cho những món ăn khoái khẩu: Mực xào với thơm, cá ngừ kho với thơm, thịt kho rim cũng với thơm, rồi canh thơm… nói chung món ăn nào có thơm đều giúp làm cho nồi cơm mau hết.

Hai Trí thấy cuộc sống tương lai của anh và gia đình phải gắn với cái Kinh B này. “Con Kinh ta đào” trong vắt này sẽ là nguồn cung cấp cá tôm vô tận cho gia đình anh và cả bà con trong xóm... Người phụ nữ đã có với anh một đứa con trai kháu khỉnh phải giã từ món cá biển ở Nha Trang để “về sông ăn cá” với anh, thưởng thức khí hậu trong lành của vùng sông nước Kinh B này...

(1) ‘Sĩ’ đọc trại thành ‘xỉ’ đồng âm với “xỉ” trong tiếng Quảng Đông là phân người ta.

(2) Người Hoa đọc âm “đ” tiếng Việt thành âm “l” có nghĩa gái ăn sương.

(3) Sexy show: màn biểu diễn thoát y

Phụ Bản III

THẦY TRÒ

Trời chang chang nắng, cái nắng oi nồng làm lưng áo đẫm mồ hôi. Buổi sáng đã dần qua, để lại hiên nhà lền khên bàn ghế mà trên đó nào đĩa, nào thìa, cùng chút ít thức ăn còn lại từ phần điểm tâm khách hàng. Chú chó ve vẩy cái đuôi cụt ngủn xơi gọn những cục xương thơm tho với ánh mắt đầy cảm kích với ông chủ của mình, người đang vội vàng thu dọn bãi chiến trường, trong ánh nắng lúc càng gay gắt.

- Chú để con dọn phụ với! Chàng thanh niên với giọng sệt Bắc vừa trờ cái xe đạp tới, vừa lên tiếng với tôi.

- Thôi! mình chú làm được rồi! Tôi bảo thế, nhưng Mạnh nào có nghe. Cậu nhanh nhẩu đẩy cái xe cà tàng sát vách tường rồi rất mau chóng, thu hết chén đũa vào chiếc xô, lau mấy cái bàn cho sạch, xếp chúng cạnh chiếc xe của cậu, rồi vớ lấy cái chổi chà, định quét, khi tôi vừa dội lên hè chậu nước xà bông nhỏ cho sạch.

Tôi hỏi:

- Sao cháu đến muộn thế.

- Dạ, sợ chú thím bận bán hàng nên bây giờ cháu mới dám vào.

- Có sao đâu! Thật ra, cái nghề của chú chỉ tíu tít từ 6 đến 8 giờ thôi. Sau đó, khách lai rai ra vào thôi, nên thời gian giúp cháu tiện hơn lúc này. Nhưng không sao, cháu đến giờ nào, chú cháu mình làm giờ ấy nhé.

- Vâng ạ!

Thế là thầy trò chúng tôi bắt đầu bài học đầu tiên. Cũng may là Mạnh đã biết chơi guitar ít nhiều nên việc “chỉ giáo” cho cậu không đến nỗi khó khăn lắm. Tôi chỉ thấy buồn cười, khi ông thầy là tôi mà y phục là áo ba lỗ, quần py-za-ma, tay cầm cái chổi; học trò quần áo tề chỉnh hơn một chút, chẳng có chỗ mà ngồi, mà cũng chẳng dám ngồi, tay cầm quyển sách chi chít những nốt nhạc, và miệng thì to không thua bà bán ve chai nào, cứ thế mà đồ rê mi pha inh ỏi. Thỉnh thoảng, giọng cậu bị ách lại vì bị thầy la lên sai rồi, sai rồi. Uốn uốn nắn nắn chút đỉnh, rồi cậu lại tiếp tục pha mi rê đồ còn to hơn lúc nãy, cứ như chẳng nhìn thấy người đi đường và các ông bà hàng xóm đang tròn xoe mắt nhìn hai gã đàn ông đang kẻ thì quét quèn quẹt, người thì vác loa miệng ra thi gan với nắng trưa.

Mạnh ngoài Bắc vào. Cậu thuê phòng trọ gần nhà tôi. Biết tôi tập hát cho ca đoàn nhà thờ, và vì cũng là người có đạo, cậu đòi tôi dẫn vào. Tôi làm sao từ chối kẻ có lòng. Vả lại, thêm một giọng ca thì tốt chứ sao. Nhiều lúc, tôi ngẫm nghĩ, cả đời tôi chưa đưa được ai về với Hội Thánh Chúa, nên nếu có giúp các bạn trẻ trong ca đoàn thì cũng là cách đơn giản đem lời Chúa đến tha nhân. Mạnh ở quê, có vợ và một con. Cậu bàn giao việc nhà cho vợ, gom ít tiền vào miền Nam “tiền trạm”. Cậu bảo, ở quê, cháu cũng có ban nhạc be bé đi giúp vui đám cưới thôn làng, vừa vui, vừa có thêm chút tiền; nay vào Nam, nhờ chú giúp học thêm nhạc lý và xướng âm cho cứng cáp, về còn giúp giáo xứ nhà, kẻo chúng cháu kém quá…

Dĩ nhiên là tôi nhận lời. Mà thời gian quá ít ỏi, nên Mạnh nài nỉ tôi cứ sáng sáng, khi quán điểm tâm của vợ chồng tôi đã màn màn, cậu sẽ đến học với tôi. Hôm đầu đến, cậu biếu vợ tôi chục cam sành, làm tôi vừa nghĩ ngợi, lại vừa phải la cậu một trận chí chết:

- Cháu phải biết là, chúng ta giúp nhau vì cháu có một động lực tuyệt vời khi đến đây: học hỏi để giúp đỡ giáo hội. Vậy thì phải nhớ rằng, việc chú dẫu có toàn tâm toàn ý giúp cháu thì cũng chỉ là gián tiếp mua vé vào nước trời cho chính mình thôi. Cháu cho cô chú quà, thì còn công phúc gì?

Thật ra, có quà cũng vui vui. Nhưng thấy Mạnh nghèo mà có chí nên phải nói vậy kẻo cứ nay quà mai cáp thì khổ cho cả hai. Mạnh thấy tôi tập hát mà chả thèm xướng âm nên nể lắm, lúc đầu cứ gọi tôi là thầy. Tôi chỉ tay lên cây Thập Tự ám khói trên vách nhà, nói với cậu, này nhé, chỉ có cái ông kia mới là thầy thôi. Chú cháu ta cứ xưng hô theo tuổi tác là tốt nhất. Vả lại, chú có bằng cấp gì mà thầy với cô cho thêm xấu hổ. Rồi tôi chỉ cho cậu mấy cái kệ sách đầy những tài liệu thánh ca, cùng với sách giáo khoa của các bậc thầy như Lm. Tiến Dũng, Lm. Kim Long…

- Cháu cứ cố gắng thì sẽ hơn chú thôi. Còn kiến thức của chú, thật ra, chỉ từ sách vở. Chỉ nhờ có bấy nhiêu mà chú đã có thể tập và viết lách tứ lung tung như thế, thì đến phiên cháu, cháu cũng làm được thôi.

Mạnh giở đống sách cũ mèm của Cha Tiến Dũng, rồi le lưỡi, và cười

- Khiếp quá chú ơi!

Đến lúc người ta mở rộng hẻm. Vỉa hè nhà tôi bị trưng dụng cho con hẻm thêm chút chiều ngang. Vợ chồng tôi cơi nhà lên một tấm. Sửa nhà mà không dám nghỉ bán hàng, vì nghỉ thì đói. Nhà cửa bề bộn, công việc khó khăn nên người giúp việc sợ quá bỏ làm. Thế là vừa ôm sô công việc buôn bán vốn đã vất vả, vừa lo quét vôi, sơn cho đoạn cuối công trình mà túi tiền đã kiệt cạn. Mạnh vời người anh họ, cũng dân Bắc, đến giúp tôi sơn vôi nhà. Chàng bó cái chổi thật bự, gấp 3 cái chổi quét vôi bình thường, rồi, thấp thì cầm lưng chổi mà quét, cao thì xỏ vào cái cây vừa vừa, cao nữa thì thọc hẳn cái cây dài, cứ thế mà quét. Nước vôi cũ chưa kịp khô, thì thợ sơn hỏa tiễn này đã đè lớp khác lên, nên chả ra làm sao cả. Mạnh lấy làm áy náy vì ông anh ẩu tả ấy. Cậu thay mặt chủ nhà cho anh mình nghỉ việc, và tự tay giúp mọi sự cho tôi, dù tôi đã hàng tỉ lần xin cậu cứ để mặc tôi. Thỉnh thoảng, chúng tôi làm vài lon bia, thầy trò mặt mũi đóng bụi, đã đen vì nắng lại sậm màu bia, lại còn lải nhải đồ rê mi pha, với lũ sách mở tuềnh toàng, la liệt.

Rồi Mạnh phải dời nơi ở, vì giá thuê nhà quá đắt. Và vì tay nghề mộc của cậu chưa có chỗ đứng trong cái thành phố tranh sống này. Và cũng vì cậu đem cả vợ con vào, thuê nhà đâu chẳng rõ. Chỉ biết, thỉnh thoảng vợ chồng cậu đến thăm, mang theo đứa bé xinh xinh. Cặp chân mày rậm của cậu luôn nhướng lên niềm vui gặp lại ông thày bất đắc dĩ. Về sau, cậu mở cửa hàng may màn cửa. Có lúc vợ chồng tôi cũng lui tới hỏi han mà chả giúp được gì. Vợ chồng cậu cũng cứ tíu tít mỗi khi tôi đến. Nhà cậu cũng có cây organ cu cũ, cây guitar chắc là theo cậu đã lâu. Thấy tôi nhìn mấy cái nhạc cụ ấy, Mạnh bật cười:

- Muốn mà chưa được chú ơi! Nhưng chẳng có ngày nào mà cháu không gảy đàn, chẳng có ngày nào mà không dạy cho con gái cháu trên cây oọc này, mà cũng chẳng có lễ Chúa Nhật nào cháu không hát lễ, dù là ở đâu, cháu cũng xin vào ca đoàn cả. A! Mà chú biết không, vợ cháu là cây solo nhà thờ ngoài quê cháu đấy!

LAM TRẦN 20.11-1013

CÁI CHẾT CỦA MỘT ẤU CHÚA

LA MORT DU DAUPHIN

của ALPHONSE DAUDET

Ấu chúa đang bệnh!...

Ấu chúa sắp chết!...

Trong các nhà thờ nơi vương quốc, Thánh Thể được chưng bày suốt ngày đêm, và những cây bạch lạp to cũng được thắp sáng, để cầu phúc bình an cho ấu chúa.

Những con đường của hoàng cung thì trở nên buồn bã và lặng lẽ!...

Chuông nhà thờ không đổ…

Xe ngựa đi từng bước một…

Từ vòng ngoài lâu đài, người dân tò mò nhìn qua hàng rào sắt.

Những người lính gác cổng béo bụng nói chuyện với nhau trong sân, với vẻ mặt thật là nghiêm túc…

Tất cả hoàng cung đều dao động!...

Những lính thị vệ, những lính nhà bếp đang chạy lên, chạy xuống cầu thang bằng cẩm thạch.

Ngoài hành lang thì đầy dẫy những nhà quý tộc, những thị thần trong bộ y phục tơ lụa, đi từ đầu nầy đến đầu kia, để hỏi thăm tin tức bằng lời nói thỏ thẻ!...

Ở các bậc tam cấp, những bà mệnh phụ vừa chào hỏi nhau, vừa lau nước mắt với chiếc khăn thêu xinh đẹp.

Trong hậu cung, có nhiều toán y bác sĩ trong y phục chỉnh tề. Qua cửa kính người ta nhìn thấy họ thao tác cái tay áo dài đen và nghiêng nghiêng mái đầu tóc giả một cách rất là trịnh trọng.

Quan quản giáo và quan mã giám của ấu chúa đang đi qua đi lại trước cửa phòng để đợi quyết định của danh y… và trong thời gian nầy, ở đằng kia phía chuồng ngựa, người ta nghe những tiếng hí dài ảm đạm!... Đó là con Hồng Mã của ấu chúa, bị bọn nài bỏ quên, nên kêu gọi buồn bã trước cái máng ăn trống trơn.

Còn Nhà Vua!...

Hoàng Thượng đang ở đâu?...

Hoàng Thượng đang ngự lẻ loi một mình trong một gian phòng, ở tận cùng lâu đài…

Những bậc vua chúa thì không muốn người ta thấy mình khóc!...

Đối với bà Hoàng Hậu là chuyện khác.

Ngồi nơi đầu giường của ấu chúa với gương mặt xinh đẹp đẫm lệ, Hoàng Hậu khóc thật to trước mặt mọi người cũng như một cô bán hàng xén.

Trong chiếc giường phủ ren, ấu chúa còn trắng hơn cả mấy cái gối mà ấu chúa đang nhắm mắt duỗi mình nằm nghỉ. Ai cũng tưởng là ấu chúa đang ngủ, nhưng mà không phải như vậy!...

Ấu chúa không ngủ!...

Ấu chúa quay sang bà Hoàng Hậu, và thấy bà khóc, nên vội nói:

- Mẫu hậu!... Tại sao mẫu hậu lại khóc? Có phải mẫu hậu nghĩ tốt đẹp rằng con sắp chết phải không?...

Bà Hoàng Hậu muốn trả lời!...

Mà cơn khóc thì cứ ngăn cản lời nói!...

- Mẫu hậu đừng khóc nữa mà!...

Mẫu hậu quên rằng con là Thái Tử sao?..., và Thái Tử thì không thể nào chết như vậy được!...

Bà Hoàng Hậu càng khóc to hơn!, làm cho ấu chúa bắt đầu xao xuyến, nên nói tiếp:

- Ô kìa!..., con không muốn để cho Tử Thần đến đây bắt con đâu!... Con có cách để ngăn chặn y rồi!...

Người ta hãy phái đến đây lập tức, bốn mươi dũng tướng để thiết lập một vòng canh chung quanh giường của con!... Một trăm khẩu đại bác túc trực ngày đêm, mồi lửa sẵn sàng, ở bên dưới cửa sổ!... Và vô phúc cho Thần Chết nào dám bén mảng đến đây!...

Để làm vui lòng đứa con nít hoàng tộc, bà Hoàng Hậu ra hiệu… Liền tức thì, những khẩu đại bác lăn rền dưới sân!... và bốn mươi dũng tướng, gươm cầm tay, đến xếp hàng chung quanh phòng… Đó là những người lính già có râu mép…

Ấu chúa vỗ tay vui mừng khi nhìn thấy họ.

Ấu chúa nhận ra mặt một người, nên gọi:

- Lorrain!... Lorrain!...

Người lính già bước tới một bước gần giường.

Tôi thương mến ông nhiều, ông già Lorrain ạ!... Cho tôi xem cây đao to của ông đi!... Nếu Thần Chết có đến bắt tôi, thì ông phải giết y ngay đó nhé!..., phải không?

Lorrain trả lời:

- Bẩm vậng!... Thưa Thái Tử!

Có hai giọt nước mắt lăn xuống đôi má rám nắng.

Trong lúc đó, Cha Tuyên Úy đến gần ấu chúa và nói nhỏ một hồi vừa trình cây Thánh Giá. Ấu chúa nghe với vẻ ngạc nhiên lắm, rồi thình lình ngắt ngang lời:

- Tôi biết những gì ông nói, ông linh mục ạ!... Nhưng mà rốt cuộc lại, thì người bạn nhỏ của tôi là Beppo có thể chết thay cho tôi được không, nếu ta cho bạn ấy nhiều bạc?...

Vị Cha Sở lại tiếp tục nói nhỏ, và ấu chúa có vẻ càng lúc càng ngạc nhiên…

Khi Cha Sở nói xong, ấu chúa tiếp lời với tiếng thở dài:

- Những điều ông nói đó thật là đáng buồn, ông linh mục ạ!... Nhưng mà có một điều an ủi cho tôi!... Tôi biết rằng Thượng Đế tốt lành là ông cậu của tôi và sẽ không quên đối đãi với tôi theo ngôi bậc, vì ở trên cao xanh kia, nơi Thiên Đàng của các vì sao, tôi cũng vẫn là Thái Tử!...

Rồi ấu chúa day mặt qua bà mẹ nói thêm:

- Người ta hãy mang đến cho con, quần áo đẹp, cái áo ngắn da chồn trắng và đôi giàu nhung. Con muốn làm oai với các thánh thần và vào Thiên Đàng bằng y phục của một vị Thái Tử.

Lần thứ ba, vị Cha Sở nghiêng qua ấu chúa nói nhỏ rất lâu…

Giữa chừng lời nói, ấu chúa nổi giận ngắt ngang:

- Nhưng mà tại sao vậy!..., Làm Thái Tử, Làm Thái Tử, thì không phải là gì cả sao?

Và không còn muốn nghe thêm lời nói nào nữa, ấu chúa xoay mặt vào tường và khóc nức nở!...

Dịch thuật THANH CHÂU

Bài văn

TOÀN DẤU HUYỀN

Nhà bà Hồng gần nhà bà Đào. Vì trồng nhiều cà mà nhà bà Hồng dành nhiều tiền và làm nhà nhiều tầng, dần dần thành bà hoàng làng này.

Còn nhà bà Đào thì nghèo, vì chồng bà cù lần đòi trồng toàn bồ hòn, mà làng này thì cần gì bồ hòn, và bà Đào nghèo càng nghèo, nhà thì tồi tàn, toàn là lều và mùng.

Nhà bà Hồng thì giàu vì nhiều gà và bò, còn nhà bà Đào thì nghèo vì vườn toàn chuồng gà.

Chiều chiều, bà Đào thường bần thần ngồi ngoài lều nhìn bà Hồng lùa gà và bò vào chuồng mà lòng buồn buồn vì thèm thuồng. Nhìn vào chuồng nhà mình, chuồng gì mà toàn ruồi, lòng bà Đào càng rầu rầu.

Đường vào vườn nhà bà Hồng ngoằn ngoèo, hằng ngày mèo gà và bò thường lần mò tìm đường vào chuồng, nhà bà Hồng giàu thì càng giàu.

Rồi ngày kìa, bà Hồng vì thừa tiền làm nhầm nhà vào vườn cà mà thành nhà nghèo. Gà nhà bà Hồng vì mò nhầm đường mà lần vào chuồng nhà bà Đào. Bà Đào từ hồi nhiều gà, hằng ngày đều làm vài nghìn đề, dần dần dành nhiều tiền liền thành nhà giàu. Bà lừa chồng, cày vườn bồ hòn, trồng toàn dừa là dừa. Rồi vào mùa hè, dừa nhiều cùi, nhiều người thèm dừa tìm vào nhà bà, bà Đào càng ngày càng nhiều tiền.

Còn bà Hồng thì gầy mòn, ngày ngày vùi đầu trồng cà và ngồi chờ mùa cà, lòng buồn phiền vì nghèo nàn. Dù nhiều lần thèm dừa, bà đành thừ người nhìn vườn dừa nhà bà Đào, buồn buồn tình tình.

Rồi bà nhìn vào chuồng gà nhà bà Đào, thì bàng hoàng vì toàn là gà nhà mình. Bà liền đùng đùng vào vườn nhà bà Đào, làm hàng tràng: “Đồ Đào đần, mày nghèo mà hèn, làm trò mèo lùa gà nhà bà vào chuồng nhà mày mà thành giàu!”.

Bà Đào trừng trừng nhìn bà Hồng: “Mày đừng đùa? Nhà bà dù nghèo thì nghèo, thèm vào lùa gà nhà mày về, gà nhà mày toàn là gà đần, lần lần tìm đường mò vào chuồng nhà bà. Giờ nhà bà giàu rồi, cần gì gà nhà mày, mày làm gì thì làm, đừng nhiều lời!”.

Bà Hồng cần gì nhiều lời, lừ đừ lùa gà từ chuồng nhà bà Đào về chuồng nhà mình, hằng ngày bà đều trồng cà gần chuồng gà. Rồi dần dần, vườn cà vào mùa, vì thèm cà, bò và mèo hàng đàn tìm về, nhà bà Hồng giàu hoàn giàu. Còn nhà bà Đào thì vì chồng bà toàn đòi trồng bồ hòn mà vườn dừa còn vài hàng, nghèo hoàn nghèo...

Đào Minh Diệu Xuân St

BẠN TÔI XXI

hay là

VÀI ĐIỀU CẦN BIẾT VỀ MỘT CUỐN SÁCH VIẾT VỀ

NGƯỜI VIỆT MÌNH RẤT HAY ĐƯỢC XUẤT BẢN 59 NĂM TRƯỚC

VÀ ĐÃ ĐƯỢC DỊCH TỪ PHÁP VĂN SANG ANH VĂN

21 NĂM TRƯỚC VÀ NAY ĐÃ TUYỆT BẢN.

Cuốn sách tôi muốn nói tới đây là tác phẩm của hai đồng tác giả người Pháp: Cụ Maurice Durand, một Giáo sư Pháp, và cụ Pierre Huard, một Thiếu Tướng Quân Y; cả hai cụ đều là thành viên Trường Viễn Đông Bác Cổ (Ecole Francaise d’Extrême-Orient) rất nổi tiếng của Pháp. Cuốn sách mang tựa đề là “Connaissance du Vietnam” (Hiểu biết Việt Nam) được chi nhánh Trường Viễn Đông Bác Cổ in và phát hành vào năm 1954. Cuốn sách dày 358 trang, gồm 21 chương nói về văn hóa, văn chương, cũng như đủ mọi lãnh vực sinh hoạt trong đời sống cổ truyền của người Việt chúng ta. Ngoài ra sách còn có 132 hình vẽ minh họa, giúp cho người đọc được thấy tất cả các sinh hoạt chính yếu trong đời sống cổ truyền và thường nhật của chúng ta. Khi viết, hai cụ tác giả có nhắc tới nhà nghiên cứu văn hóa Nguyễn Văn Huyên (1908-1975), là một Giáo Sư Tiến Sĩ và là cựu Bộ Trưởng Bộ Giáo Dục, và tác phẩm Văn Minh Việt Nam đã được xuất bản năm 1944. Cụ Huyên là một Tiến Sĩ Văn Khoa tốt nghiệp tại Đại Học Sorbonne danh tiếng nhất nước Pháp. Hai tác giả người Pháp rất khen ngợi tác phẩm của cụ Huyên, và cho biết họ không muốn làm lại việc cụ Huyên đã làm mà, với tác phẩm của họ, họ chỉ muốn cung cấp một tư liệu cho những ai muốn biết đời sống cổ truyền của người Việt ra sao, trong khi chờ đợi các học giả Việt Nam viết ra một bộ Bách Khoa Toàn Thư về người Việt. Tuy nói vậy, nhưng hai tác giả người Pháp này đã viết rất kỹ lưỡng, rất tỉ mỉ, về tất cả các sinh hoạt của người Việt chúng ta, cũng như về tất cả mọi lãnh vực bắt đầu từ Địa dư, rồi tới Lịch sử, Văn học, Phong tục, Tôn giáo vv… Ngoài việc viết rất kỹ lưỡng, rõ ràng, họ còn có những minh họa liên quan tới mỗi lãnh vực, tổng cộng 132 minh họa cho 21 chương của cuốn sách.

Năm 20 tuổi, khi đã rất thành thạo tiếng Pháp, vì học trường Pháp từ lớp mẫu giáo, người viết đã được cụ thân sinh cho đọc cuốn sách của hai tác giả người Pháp này, và khi đưa sách cụ nói: “Con hãy đọc cuốn sách này để có những hiểu biết căn bản về người Việt mình, hai người Pháp này viết rất hay, rất rõ ràng, rất đầy đủ. Sau khi đọc hết và đọc kỹ con sẽ có một sự hiểu biết khá thấu đáo về người mình mà học đường chưa chắc có thể cho con nhiều bằng cuốn sách này”. Và quả thực là cụ đã nói đúng. Người viết sau khi đọc rất kỹ cả 21 chương của cuốn sách, và đọc đi đọc lại 3 lần trong đời, nay ở tuổi 26 lần thứ 3, người viết mới thấy là hai cụ tác giả người Pháp đã cho người viết biết nhiều điều, mà khi người viết đã có nhiều lần hỏi nhiều vị giáo sư của mình thì phần lớn là các vị ấy không biết vì không quan tâm, thí dụ như người viết đã hỏi 3 ông thầy là “Người Việt mình, giòng họ nào chiếm đa số? Họ Lê, họ Trần, hay họ Nguyễn? Thì cả ba vị đều trả lời là vì không phải là nhà dân số học nên không quan tâm! Trong khi hai cụ tác giả cho biết là Họ Nguyễn chiếm đa số với 54%. Đọc hết cuốn sách người viết chỉ tìm được một điểm hầu như duy nhất là 2 cụ tác giả đã hiểu nhầm chữ Ta trong bài thơ yết hậu Sư gạn vãi:

Chơi xuân kẻo nữa già,

Lâu nay vẫn muốn mà,

Mời vãi vào nhà hậu,

Ta :

Đúng ra thì sau chữ Ta không phải là : mà phải là

Sau khi đọc cuốn sách nhiều lần, người viết rất khoái những hình minh họa (132) và có hỏi vài vị học giả (100%) là nguồn gốc các minh họa này lấy từ đâu, thì liền bị mấy vị ấy cho biết là: “Từ bộ tranh dân gian của Henri Oger, chứ còn từ đâu nữa!”

Người viết không lạ gì bộ tranh mang tựa đề là “Kỹ Thuật của người Annam” (Technique du Peuple Annamite) này, và cũng chính vì biết rõ nên thấy chỉ có một số bức trong số 132 bức là giống của Oger thôi, phần còn lại nét vẽ khác hẳn nét vẽ quen thuộc của những nghệ nhân vẽ bộ tranh 4577 tấm của Oger. Sau đọc kỹ lại mới thấy là 2 cụ tác giả có nói trong sách là phần lớn hình ảnh lấy từ các tác phẩm của Gustave Dumoutier (1850-1904) là một tác giả Pháp viết về Việt Nam cũng không kém phần nổi tiếng, và của Ed. Nordemann trong tác phẩm nhan đề là Văn Tuyển Cổ Điển của người Annam (Chrestomathie annamite), cũng như của một tác giả Pháp thứ ba, người viết một giáo trình dạy tiếng Việt, tên là Tissot.

Mấy chục năm sau, nói chính xác hơn là 38 năm sau, vào năm 1992 cuốn sách rất hay của 2 cụ tác giả Pháp này đã được dịch không thiếu một dấu phẩy sang Anh ngữ, và thưa quý bạn đọc, người dịch lại chính là Bạn Tôi, nhân vật chính trong các truyện Vui Thời @ mang tên Bạn Tôi I tới XX. Anh tình cờ cũng lại chính là người đã dịch tác phẩm Kỹ Thuật của người Annam sang Anh ngữ dày gần 1000 trang hồi 10 năm trước.

Năm 1992, bạn tôi được một vị chuyên ngành xuất bản tới nhờ dịch từ Pháp sang Anh ngữ cuốn Hiểu Biết Việt Nam này. Anh nhận lời, và đã dịch một cách thích thú và rất cẩn trọng, lý do đơn giản là anh rất yêu tác phẩm này. Nhưng khi dịch xong anh đã rất đau lòng khi nhóm thuê dịch đã không liên hệ với Trường Viễn Đông Bác Cổ và 2 tác giả về vấn đề bản quyền. Hơn nữa tên tác phẩm là “Connaissance du Vietnam” (Hiểu biết Việt Nam) lại bị, vì lý do thương mại, đổi thành Việt Nam, Văn Minh, và Văn Hóa (Vietnam Civilization and Culture). Tuy nhiên bạn tôi đã cẩn thận ghi ngay ở dưới tựa đề dòng chữ: English version of the work entitled “Connaissance du Vietnam” có nghĩa là Bản tiếng Anh của tác phẩm nhan đề là “Connaissance du Vietnam” và rồi sau đó anh từ chối không ký tên mình vào bản dịch luôn. Nhưng rồi, thể theo lời yêu cầu của nhóm nhờ dịch anh đã ký tên con gái anh sinh sống ở Mỹ là Vũ Thiên Kim. Mỗi khi gặp bạn tôi, nhắc lại chuyện này bao giờ anh cũng nói với nét mặt hơi buồn buồn: “Ôi Tuấn biết không, mình đâu có muốn không liên hệ với các tác giả về vấn đề bản quyền, nhưng tiếc rằng việc đó lại không phải phần việc của mình mà là của nhóm xuất bản sách”. Tuy nhiên khi được hỏi về cuốn sách thì anh lại vui trở lại và cho biết là anh đã làm công việc dịch thuật một cách rất thích thú. Khi được hỏi dịch từ Pháp sang Anh có khó khăn lắm không thì nét mặt anh tươi hẳn lên khi trả lời: “Ôi thích lắm Tuấn ạ, dịch từ Pháp sang Anh sướng, và dễ hơn là từ Việt sang Anh nhiều, nhất là khi thứ tiếng Pháp của hai cụ tác giả thật trong sáng tuyệt vời nhưng không hề thiếu phần trang trọng. Mà Tuấn có biết mình thích nhất điều gì khi dịch tác phẩm này không?”. Tôi xin anh cho biết anh thích gì thì được anh trả lời như sau: “Mình thích nhất là sau mỗi chương, và sau cả 21 chương, các cụ tác giả đã để phần Thư tịch, nghĩa là phần sách tham khảo và mình đã dịch không thiếu một dấu phẩy tên gần 1200 tác phẩm các cụ đã tham khảo ra Anh ngữ là thứ tiếng thông dụng nhất ngay vào lúc này, nên cũng có một chút công để ngày đi hành hiệp kể công với Mẹ Âu Cơ yêu dấu…”.

Bản dịch tiếng Anh từ năm 1992 tới nay đã được tái bản 2 hay 3 lần thì phải, và vào năm 1992 giá bán chỉ có 75.000 đồng, sau giá này tăng dần và vào lúc này thì thật là đã tuyệt bản, và kiếm được một cuốn còn mới lúc này người mua phải trả ít nhất là 5, 6 trăm ngàn.

Theo bạn tôi, đây chính là một tác phẩm dịch thuật mà anh khá yêu thích trong số 20 tác phẩm mà anh đã dịch, và anh cho rằng đây là một cuốn sách hữu hiệu nhất để giới thiệu nước mình, dân mình với thế giới. Và anh nói: “Ước gì một ngày nào trong tương lai, nó sẽ lại được tái bản nữa, và khi ấy, tôi sẽ rất vui sướng được xem xét lại bản thảo cho thật kỹ, vì cuốn sách càng chính xác bao nhiêu càng được độc giả quý mến và trân trọng bấy nhiêu!”.

VŨ ANH TUẤN

Phụ Bản IV

NHỮNG KỶ LỤC ĐỘC ĐÁO

VỀ SÁCH TÍ HON

Đầu tiên là kỷ lục “Thư viện những cuốn sách tí hon lớn nhất thế giới” thuộc về ông Jozsef Tari, người Hungary, khi hiện nay ông đang sở hữu một thư viện kỳ lạ, chứa sơ sơ… hơn 4.500 cuốn sách thu nhỏ (miniature book)! Trong số đó, quý giá nhất là cuốn sách nhỏ nhất thế giới với kích thước chỉ vẻn vẹn 2,9x3,2mm, đặt vừa vặn vào… chiếc vỏ quả hạch! Ông Tari mê cờ vua và sách tí hon từ thuở học tiểu học, bắt đầu sưu tập sách thu nhỏ từ năm 1972 bằng cách dành nhiều thời gian và tiền bạc đi khắp nơi tìm mua loại sách này với chiều dài sách từ 76mm trở xuống. Sau này, ông tậu hẳn một máy in thương mại đặc biệt để in thêm sách tí hon, vừa kinh doanh, vừa bổ sung cho thư viện của mình. Cho đến nay, ông đã tự in và phát hành hơn 6 đầu sách thu nhỏ, với phần hình ảnh minh họa do con gái ông phụ trách. Chiếm phần lớn trong thư viện của ông là các tác phẩm văn học “mini” bằng tiếng Hungary và Anh, bên cạnh những cuốn sách tí hon đủ hình dạng, do Đông Âu, Mỹ, Canada, Mexico, Úc, Nhật, Trung Quốc, Mông Cổ, Indonesia vv… xuất bản bằng tiếng Anh và tiếng mẹ đẻ, với chủ đề khá đa dạng: chính trị, tôn giáo, văn hóa, âm nhạc, thể thao, du lịch, nấu ăn, khai thác mỏ… Cuốn sách thu nhỏ lâu đời nhất trong thư viện này là hơn 100 tuổi. Ngoài ra, ông Tari còn bỏ công sưu tầm và lưu trữ hơn 15 tờ báo thu nhỏ tại thư viện của mình, trong đó có cả tờ báo nhỏ nhất thế giới, kích thước chỉ 19x26mm.

Cũng thú vị không kém là kỷ lục “Bộ sưu tập sách tí hon lớn nhất và độc đáo nhất thế giới” thuộc về Nikunj Vagadia, sinh năm 1981, giáo viên sống tại thành phố Rajkot (bang Gujarat, Ấn Độ), với hơn 250 cuốn sách có kích thước siêu nhỏ, chỉ dao động từ 47x55mm đến 19x27mm, một phần do anh sưu tầm từ năm 1988 đến nay và một phần do sau này anh tự in ấn nhiều cuốn tí hon khác, là bản sao của những tác phẩm nổi tiếng thế giới như các trường ca Ấn độ cổ đại Ramayana, Mahabharata, Shreemad Bhagwad Geeta, tự truyện và tiểu sử của M.K.Gandhi, Adolf Hitler, Dalai Lama, Harry Potter và Hòn đá phù thủy, vv… Tuyệt vời nhất trong bộ sưu tập là tự truyện của Mahatma Gandhi được… dát vàng 24 carat trên toàn bộ số trang, lập kỷ lục “Cuốn tự truyện nhỏ nhất thế giới” (33x46mm)! Còn cuốn Shreemad Bhagwad Geeta tí hon được in từ năm 1901! Bộ sưu tập được chia thành 17 hạng mục: trường ca, kịch cổ điển, tự truyện, tiểu thuyết, truyện ngắn, chính trị, tôn giáo, văn hóa, sách thiếu nhi, vv… nhằm “truyền bá thông điệp hòa bình, tình hữu nghị, tình yêu, không bạo lực đến mọi người”, như lời Vagadia nói.

Anh có năng khiếu sáng tạo nghệ thuật từ nhỏ, 10 tuổi đã thực hành khắc biểu tượng “Hanuman Chalisa” trong Hindu giáo lên hạt gạo – một thử thách đầu đời truyền cảm hứng cho anh làm sách tí hon sau này. “Từ thời niên thiếu, tôi đã nghĩ đến việc viết hay vẽ trên một vật bé nhỏ nhưng có thể lan truyền những thông điệp cao thượng. Đầu tiên tôi miệt mài suốt vài năm tạo ra những cuốn sách viết tay tí hon, sao chép Ramayana. Kinh Thánh, kinh Phật, kinh Quran, truyện Ả Rập Nghìn lẻ một đêm, các tác phẩm của Shakespeare… và được ghi danh vào Sách kỷ lục Guinness Ấn Độ năm 2006. Nhưng vì Sách kỷ lục Guinness thế giới không xem xét tác phẩm viết tay tí hon, nên tôi đã kết hợp với một nhà xuất bản ở Rajkot để in ấn sách thu nhỏ theo công nghệ kỹ thuật số, vừa kinh doanh, vừa sưu tập”, Vagadia cho biết. kế hoạch sắp tới của chàng trai tài hoa này là in một cuốn sách tí hon về tiểu sử Nữ hoàng Anh Elizabeth II để tặng bà.

BĐ st

Mật ong

Nhiều người cho rằng mật ong là một trong nhiều chất dinh dưỡng quý giá nhất mà thiên nhiên đã nhờ những con ong cần cù sản xuất, ban tặng cho con người. Để tỏ lòng trân trọng, họ còn gọi mật ong bằng những cái tên văn vẻ như “bách hoa tinh”, “bách hoa cao”, “phong đường”, “phong mật”...

Mật ong đã là món ăn ưa thích của con người từ thuở xa xưa. Hơn bốn ngàn năm về trước, dân Ai Cập và Ấn Độ đã nuôi ong để lấy mật, nhưng phải đợi tới cả ngàn năm sau, người nuôi ong mới biết được là để có mật, ong phải hút chất ngọt từ nhụy hoa.

Mật ong là thực phẩm ngọt chính của con người cho tới thế kỷ thứ 15, khi đường trắng được tinh chế. Tuy vậy, ngày nay mật vẫn còn rất phổ thông vì nó làm tăng hương vị thực phẩm, làm dịu ngọt món ăn, nước uống và cũng để trị bệnh nữa.


Ong làm mật.

Mật ong được làm từ nước ngọt nhụy hoa với 20% nước và 80% đường glucose, fructose. Ở Bắc Mỹ, đa số mật hoa là từ cỏ ba lá (clover), berry bushes, cây dại hoa vàng (dandelion).

Ong dùng lưỡi dài như một cái ống để hút mật hoa vào bao tử riêng biệt. Ong có hai bao tử: một để chứa và tiêu hóa thực phẩm và một bao tử chỉ để chứa mật hoa. Trong bao tử này, mật hoa được các diêu tố chế biến thành mật ong.

Vào mỗi sáng sớm, một vài chú ong “trinh sát” bay lượn trong phạm vi vài cây số để kiếm hoa. Chúng sẽ hút thử một số mật nhụy mang về cho các ong khác giám định phẩm chất. Khi đã quyết định mật hoa nào tốt thì cả bầy ong sẽ kéo nhau tới hút mật hoa. Việc hút nhụy không làm hại tới hoa, mà trong khi hút lấy nhụy thì ong cũng giúp hoa thụ phấn.

Để có được một bao tử đầy mật (khoảng 70mg), ong phải hút nhụy từ vài trăm đến cả vài ngàn bông hoa. Cho nên, muốn có nửa lít mật cần tới nước ngọt của cả triệu bông hoa.

Khi về đến tổ, một nhóm ong thợ khác hút lại mật hoa này, biến chế, rồi rải rộng trong những ngăn của tổ, dùng cánh để quạt cho bay hơi nước. Sau đó mật ong được tồn trữ trong khuôn gắn kín bằng sáp, để làm lương thực suốt năm. Một năm bầy ong ăn hết từ 50 tới 100 kg mật.

Các loại mật ong.

Mật ong là một chất lỏng, hơi sền sệt, từ không mầu tới mầu hổ phách vàng nâu hoặc nâu sậm như mật mía, tùy theo loại mật hoa. Phẩm chất của mật cũng thay đổi tùy theo địa phương, loại hoa mà ong hút phấn và nhụy.

Mật ong thường được thu hoạch vào mùa Xuân và mùa Hạ, buổi sáng hoặc trưa khi ong bay đi ăn xa.

Từ tổ ong, mật được lấy ra bằng máy ly tâm, diệt trùng bằng hơi nóng và hơi lạnh, lọc vẩn cặn rồi vô chai. Để tăng thêm số lượng, người làm mật có thể pha thêm đường trắng hoặc nước ngọt của bắp vào mật trước khi tung ra thị trường.

Mật ong có thể được cất giữ ở nơi khô ráo trong nhà mà không cần để trong tủ lạnh. Để lâu, mật có thể đổi sang mầu đậm nhưng vẫn không hư vì trong mật có một loại kháng sinh thiên nhiên có thể tiêu diệt các ký sinh làm hư mật. Nhưng sau khi pha loãng với nước thì mật sẽ mau lên men và mau hư như trái cây hoặc rau đậu.

Khi giữ nơi nhiệt độ lạnh, mật có thể kết tinh. Chỉ cần để trong lò vi ba hay trong nồi nước ấm độ vài phút là mật ong lỏng trở lại.

Sữa Ong Chúa (Royal Jelly).

Đây là một chất lỏng đặc sánh, mầu trắng như sữa, do những hạch đặc biệt ở cuống họng ong thợ tiết ra.

Vì thấy rằng ong Chúa nuôi bằng mật này sống lâu hơn và cơ thể to hơn cho nên Royal Jelly đã được nhiều người ưa chuộng và giá tiền rất đắt. Nhiều người tin rằng sữa ong chúa có thể “cải lão hoàn đồng”, làm hết các vết da nhăn trên mặt, nuôi dưỡng da, thuốc bổ tăng cường sức khỏe, giúp đời sống tình dục tốt. Các nhà sản xuất còn quảng cáo là sữa ong chúa chữa được các bệnh đau gan, phong thấp khớp, thiếu máu, loét bao tử...

Phân tích cho thấy sữa ong chúa cũng chỉ có thành phần hóa chất như mật ong thường mà thôi.

Giá trị dinh dưỡng

Ngoại trừ trái cây và rau đậu, mật ong là nguồn thiên nhiên quan trọng cung cấp cho con người những chất ngọt dễ tiêu.

Trong mật ong, đường chiếm tỷ lệ 80%; còn lại 20% là nước và các chất khác. Hai thứ đường chính là glucose và fructose Ngoài đường ngọt, mật ong còn chứa khoáng chất, sinh tố B, C, các chất amino acid, một ít chất đạm, vài loại men và mấy hợp chất thơm.

Mật ong thường được ăn nguyên chất với bánh mì. Cũng có thể pha mật ong với bơ hay margarin rồi phết lên bánh mì. Mật ong có thể ăn với trái cây, khoai...

Khi nấu, một vài chất dinh dưỡng trong mật bị nhiệt tiêu hủy, nên cần giữ nhiệt độ vừa phải và chỉ cho mật ong vào nồi khi món ăn đã gần chín.

Bỏ lò, mật ong thấm với các gia vị khác vào thực phẩm nên ít bị thay đổi.

Mật ong có nhiều mùi vị khác nhau, vì đôi khi ong bay xa cả trăm cây số để hút nhụy hoa của nhiều thảo mộc khắp nơi trên trái đất. Dù mùi vị có khác nhau, mật ong không mau hư, có thể cất giữ ở ngoài tủ lạnh.

Công dụng trị bệnh

Sách tham khảo The Edinburgh New Dispensatory xuất bản năm 1811 có ghi: “Từ xưa, mật ong đã được dùng như một loại thuốc rất tốt để làm long đờm, làm mềm dịu các mụn nhọt, để rửa các vết lở loét trên da”.

Tại Úc châu và Tân Tây Lan, mật ong được phép bán như một dược phẩm để trị bệnh.

Mật ong đã và đang được dùng để chữa bệnh theo kinh nghiệm dân gian hoặc các nhà nghiên cứu trong những trường hợp sau:

- Mật ong bồi bổ, tăng cường sinh lực, rất tốt cho người bị bệnh đang hồi phục.

- Mật ong làm bớt căng thẳng, làm thư giãn thể xác và tâm hồn.

- Trước khi đi ngủ, uống mật ong khiến giấc ngủ ngon hơn. Theo một nghiên cứu của Viện Công Nghệ Massachusetts (Massachusett Institute of Technology-MIT), chất ngọt của mật làm não tiết ra nhiều serotonin mà serotonin lại làm dịu hoạt động của não, khiến ta ngủ dễ dàng.

- Mật làm sự tiêu hóa được dễ dàng nhờ chất đường dễ tiêu glucose và fructose.

- Mật ong làm giảm ho vì thông đàm, rất tốt cho người bị suyễn, viêm cuống phổi, ho gà.

- Mật có phấn hoa nên đã được dùng để làm cơ thể quen dần với phấn hoa, tránh dị ứng theo mùa, nhất là vào mùa xuân. Đấy cũng là nguyên tắc được áp dụng để làm người dị ứng với phấn hoa trở nên quen đi bằng cách tiêm một lượng rất nhỏ phấn hoa vào cơ thể.

- Mật ong rất tốt để làm bớt đau cuống họng, làm sạch răng miệng, làm mau lành lở miệng, lở mép nhờ có chất hydrogene peroxide.

- Mật ong làm mau lành các vết thương ngoài da, có tính cách khử trùng và là hàng rào tốt để cản sự xâm nhập của vi trùng vào các vết thương.

- Các nghiên cứu ở Ấn độ cho thấy bệnh nhân bị phỏng mà được bôi bằng mật thì da mau lành hơn là chữa với thuốc trị phỏng silver sulfadiazine.

Tổ chức Y Tế Thế Giới khuyên người đi du lịch mắc bệnh tiêu chẩy uống nhiều nước cam có pha mật ong, một chút muối và một chút baking soda đề bù lại số nước và khoáng chất mất đi.

E. Haffejee and A. Moosa phổ biến kết quả nghiên cứu trên British Medical Journal năm 1985 cũng đồng ý rằng mật ong có thể rút ngắn thời gian bị bệnh tiêu chẩy ở trẻ em.

- Mật ong rất tốt cho da: Thoa trên da, mật ong làm da mịn, mềm hơn vì mật giữ độ ẩm cho da. Mật làm bệnh trứng cá mau lành; bôi lên tóc, mật làm tóc bóng mượt và mềm.

- Mật ong có một lượng khá cao chất chống oxy hóa tốt tương đương như sinh tố C, nên có thể làm chậm sự lão hóa và giảm nguy cơ ung thư.

Cơ quan Kiểm Soát Bệnh Tật Hoa Kỳ lưu ý là không nên cho trẻ em dưới một tuổi dùng mật ong vì cơ thể các em chưa đủ sức chống lại loại vi khuẩn gây bệnh trúng độc thực phẩm (clostridium botulinum), đôi khi có lẫn trong mật.

Tại Việt nam Mật ong vừa có tác dụng thay thế đường, vừa là một vị thuốc quý trong tủ thuốc gia đình. Có thể bôi trực tiếp mật ong không cần bào chế, trừ khi làm thuốc đặc biệt của Đông y được dùng như sau:

- Tăng cường sức đề kháng, phòng chống nhiễm trùng. Hằng ngày nên ăn 5 thìa mật ong với bánh mỳ hoặc uống với trà, sữa tươi.

- Mật ong đánh kem với lòng đỏ trứng gà, ăn mỗi ngày một quả sẽ làm da dẻ hồng hào, cơ thể khỏe mạnh.

- Mật ong trộn với tam thất, ăn mỗi bữa một chén con sẽ giúp cơ thể hồi phục sau khi ốm dậy.

- Nếu bị cảm cúm, nên uống một cốc nước chanh nóng, pha thêm hai thìa mật ong.

- Nếu bị ho, lấy một quả chanh tươi, khía kiểu múi khế ở lớp vỏ ngoài, sau đó cho một vài thìa cà phê mật ong cho ngấm đủ toàn bộ quả trong chanh trong một cái chén. Để khoảng 1-2 tiếng rồi cắt ra ngậm.

- Khi da bị trầy xước, làm sạch vết thương rồi bôi mật ong lên, vết xước sẽ mau lành và không bị nhiễm trùng, sưng tấy.

- Để giấc ngủ đến nhanh chóng và êm dịu, hòa hai thìa mật ong vào một cốc sữa tươi nóng và uống từng ngụm nhỏ.

- Mật ong trộn với bột nghệ đen, nghệ vàng để chữa viêm loét dạ dày. Ăn liền trong 1-2 tháng sẽ có kết quả tốt.

- Mật ong tẩm vào bông có thể đánh sạch tưa lưỡi của trẻ.


Kết luận:

Những con ong nhỏ bé nhưng với khả năng tinh xảo do thiên nhiên ban cho đã tốn nhiều công sức để tạo ra món thực phẩm ngon lành, bổ dưỡng và quý giá để cho con người tận hưởng.

Nhưng dù tốt, mật ong cũng không phải là loại thực phẩm có thể thay thế cho tất cả các thực phẩm khác. Hơn nữa, nếu lạm dụng mật ong quá mức thì chắc chắn cũng sẽ có những phản ứng bất lợi cho cơ thể. Vì thế, cho dù sẵn có mật ong để dùng, chúng ta cũng nên hạn chế ở một mức độ vừa phải thì hợp lý hơn.

Bs Nguyễn Ý Đức

Bs Nguyễn Lân Đính st

NIỀM

THƯƠNG

NHỚ

Đàm Lan

- Con đã nói rồi. Con không đồng ý mẹ làm chuyện đó. Làm như vậy là… là… Mẹ thừa biết là thế nào rồi đó. Con không muốn nghe mẹ nhắc đến nữa đâu. Mẹ đừng ép con.

- Con phải hiểu rằng mẹ không còn cách nào khác cả. Nếu con… nhưng cho dù con có là người thế nào thì mẹ cũng chỉ có một mình con, gia đình, dòng họ này cũng chỉ có một mình con. Mà con thì… nên mẹ buộc phải làm, vì không thể không làm. Không những đó là yêu cầu của trách nhiệm đối với mọi người, mà còn là tương lai của chính con nữa. Con hãy nghĩ xem, mẹ có thể sống để lo cho con đến bao giờ? Và khi mẹ không còn nữa thì con sẽ ra sao? Con à. Con hãy nghĩ khác đi, mà mẹ thấy đó cũng không phải là chuyện vô lương tâm, người ta đồng ý mà, tự nguyện mà, người ta cũng nhận làm việc này có điều kiện chứ đâu phải bị ép buộc đâu.

- Nhưng con không thể…

Thiên Vũ nói như gào lên, rồi bất thần quay ra đấm thình thình xuống mặt bàn, khiến mấy chiếc ly nhảy tưng tưng. Bà Yến Nguyệt, vội ôm lấy con, vỗ vỗ vào lưng anh để xoa dịu:

- Bình tĩnh con, bình tĩnh lại nào, mẹ biết, mẹ biết rồi mà.

Âm sắc nhuốm những giọt lệ của bà mẹ đã làm cậu con trai mềm đi. Anh từ từ buông mình xuống chiếc ghế bành, hai tay ôm đầu gục xuống. Bà Yến Nguyệt cũng ngồi thừ xuống cái ghế bên cạnh. Cả hai mẹ con chìm vào một vùng thinh lặng, vùng thinh lặng như một mặt biển êm đềm nhưng đang tiềm ẩn những con sóng dữ. Nhìn cậu con trai duy nhất trong một trạng thái bất lực, bà Yến Nguyệt thấy lòng đau như cắt. Có câu nói của người xưa mà nghe ra thật là chua xót: “Người ta có năm có bảy thì tốt, mình có một vô duyên” .

Cái sự vô duyên ấy bắt đầu từ đâu? Làm sao biết được nó bắt đầu từ đâu. Khi một sáng ra, người ta vẫn mở mắt đón ánh mặt trời như mọi ngày trước đó. Nhưng sao lại là một ngày khác với mọi ngày, khác chỉ một chút thôi, một chút mà tưởng như một trò chơi “bịt mắt bắt dê” của trẻ con vậy. Cho dù cậu bé Thiên Vũ mới chỉ nhấp nhỉnh cái tuổi mười lăm, nhưng hình như cũng đã lâu rồi, cậu không còn chơi cái trò này cùng chúng bạn. Nhưng kỳ lạ chưa, chẳng có cô bạn cậu bạn nào ở bên cạnh cả, đương nhiên không thể ở bên cạnh cậu vào cái phút ấy, cái thời khắc của sự trây lười cùng hơi ấm gối chăn, vậy mà sao cậu như thấy có một cái màng chắn trước mặt, qua cái màng chắn ấy là một khoảng không gian mờ mờ. Cậu quờ tay tìm cặp kính, nó vẫn nằm ở một góc bàn, cậu gắn nó vào mắt. Vẫn chỉ có một màng chắn mờ mờ. Cậu hốt hoảng “Ba ơi! Mẹ ơi!”. Ba mẹ cậu đã vội vàng đưa cậu đến một vị bác sĩ chuyên khoa mắt, bởi cậu đã phải mang kính cận từ khi mới lên mười. Để rồi, ba cậu bàng hoàng, mẹ cậu mê sảng, khi bác sĩ kết luận cậu mắc một chứng bệnh không có khả năng chữa trị. Một chứng bệnh không có nhiều người bị, nó không trực tiếp nằm trong đôi mắt, nhưng nó lại nắm vận mệnh không chỉ đôi mắt mà rất nhiều vấn đề liên quan đến cuộc đời một con người. Đó là chứng teo giây thần kinh thị giác. Từ đó hai con mắt cậu chỉ còn là một thứ trang trí trên gương mặt, chúng tròn xoe, to đen, xinh xắn, nhưng không chút thần khí. Cậu bước vào một cuộc đời bóng tối thật dễ dàng và mau lẹ. Quá dễ dàng, quá mau lẹ đến mức ngay cả người thân yêu của cậu cũng không tin nổi. Ba cậu ngật ngưỡng những cơn say, mẹ cậu ngắn dài những giọt lệ. Câu lơ ngơ như một kẻ mất trí. Sự khủng hoảng của gia đình cậu không dừng lại đó. Cú sốc về đứa con trai duy nhất đã trở nên mù lòa vĩnh viễn, khiến ba cậu không chịu nổi và đã bỏ đi. Một lần nữa mẹ cậu suy sụp, và cả cậu cũng tìm đến một giải pháp cực đoan, khi nghĩ mình chính là nguyên nhân mọi nỗi bất hạnh trong gia đình. Hành vi cực đoan của cậu không thành lại vực được mẹ cậu thoát dần khỏi hố sâu sầu thảm. Bà không thể để mất cậu lần nữa. Hai mẹ con lần hồi cũng qua được cơn “tai biến”. Năm cậu hai mươi tuổi thì nhận được tin cha cậu mất vì một cơn bệnh nặng, ông cũng chẳng kịp có thêm một quý tử nào. Thế là cậu trở thành một niềm trông mong của dòng họ.

Tuy cậu cũng được mẹ cho đi học trường khiếm thị. Cũng có một vài khả năng thích ứng cuộc sống khả quan. Việc lo cho nhu cầu cá nhân là chuyện hoàn toàn có thể. Cậu cũng có giao tiếp với một số bạn bè, cũng tham gia một chút vào hoạt động xã hội. Nói chung cậu cũng có một đời sống tương đối dễ chịu về mọi mặt. Nhưng riêng về chuyện cá nhân, cậu không bao giờ có ý định tìm hiểu một người khác phái. Một nỗi ám ảnh sâu kín đã khống chế tâm cảm, cậu nghĩ rằng, cậu sẽ chỉ đem sự bất hạnh đến cho người khác, bằng chứng là ba mẹ cậu. Nếu cậu không bị như vậy, thì gia đình cậu đã không tan vỡ và mất mát lớn đến thế. Cậu đã có thể sống một đời sống nhẹ nhõm, bình yên, nếu mẹ cậu không nhắc đi nhắc lại chuyện lấy vợ. Cậu biết, để có một người con gái thực sự yêu cậu và chịu chăm lo cho cậu suốt đời là một điều rất khó. Nếu có, thì chỉ vì một nguyên nhân nào khác ngoài tình yêu. Dù mất đi ánh sáng của đôi mắt, nhưng sự nhận thức về bản thân và cuộc sống thì thật rõ ràng. Thực tế, mẹ cậu cũng rất hiểu cái khó của một cuộc hôn nhân không tình cảm. Hơn ai hết, bà cũng rất lo sợ nếu người phụ nữ ấy một ngày rời xa con bà khi đã đạt được một mục đích nào đó. Cuối cùng bà nghĩ đến một cách. Chỉ cần một đứa cháu, bà sẽ nuôi dạy nó cẩn thận, về sau nó sẽ là chỗ dựa cho con trai bà. Vợ có thể bỏ chồng, chứ con thì không thể bỏ cha. Thiên Vũ đã hết sức giận dữ, phản đối khi nghe mẹ đưa ra gợi ý. Cậu không thể nào chấp nhận việc mua bán thân xác một con người dù ở góc độ nào đi nữa. Đó là điều cực kỳ tệ hại, nó không đem lại một ý nghĩa đẹp đẽ nào ngoài cảm giác cậu thấy mình thực sự đáng thương đến cùng cực.Và đã không ít lần, hai mẹ con căng thẳng khi đề cập đến câu chuyện, lần nào thì cũng là mẹ cậu phải chịu thua, xuống nước. Nhưng lần này thì khác. Thiên Vũ đã ngấp nghé cái tuổi ba mươi rồi.

Hiền Ân cúi đầu bước như đếm trên vỉa hè, dưới lòng đường vẫn loang loáng người xe. Không khí ồn ào, tấp nập xung quanh như chẳng ăn nhập gì đến cô, mặc dù cô đã ở trong lòng nó đến hai mươi mấy năm rồi. Con đường trải dài phía trước đang dẫn cô đến một nơi. Bỗng trong một khoảnh khắc, cô muốn quay lại, muốn chạy vụt vào một góc tường nào đó, để trốn, để nấp, để thoát khỏi một sự truy đuổi vô hình. Nhưng cô biết, cô không đủ can đảm để làm điều đó. Những gương mặt đẫm nước mắt chập chờn trong tâm trí. Không phải là một. Những giọt nước mắt của những người mẹ. Những người mẹ đang đau khổ bế tắc bởi những đứa con trai trong ngục tù. Ngục tù nghĩa trắng hay nghĩa đen cũng như nhau cả. Phải chăng là những tình cờ móc ngoặc vào nhau? Phải chăng là sự xếp đặt của số phận như người ta vẫn nói? Cô bỗng nhếch lên một bên mép. Cái gọi là “thiên chức” của một người phụ nữ, cũng nhiều khi trở thành một thứ hàng hóa. Ừ mà xét cho cùng, chẳng phải cái gì trên thế gian này cũng đều là hàng hoá cả sao? Thì rõ ràng sự tự do cho em trai cô cũng đang là một món hàng cần trao đổi. Và cô, chính cô đang đem thứ hàng hoá của mình đi đổi cho một thứ hàng hoá khác. Liệu cuộc trao đổi này, có ai được hời không nhỉ? Hay chỉ có cô, phải nuốt nghẹn vào tận đáy lòng cái cảm giác nghẹn ngào, tan nát. Bởi vì, đâu đó ngoài kia, đang có một gương mặt ngơ ngơ ngẩn ngẩn với một câu hỏi không ai trả lời được, hay đúng hơn là không được phép trả lời.

Trời tối sẫm, những ánh đèn xe loang loáng, những ngọn đèn đường, đèn cửa hiệu nhiều màu sắc vẫn toả ngợp đủ thay cho một bóng tối đen ngòm, lạnh lẽo. Nhưng Hiền Ân đang từ từ khuất sau vùng sáng ấy, rẽ vào một con hẻm chập choạng. Bước chân cô càng lúc càng thẫn thờ. Trong một thoáng, cô như không có cảm giác, cô không biết mình đang ở đâu, đang đi về đâu? Và khi cô dừng chân trước một cánh cổng, trái tim cô như ngưng đọng, đôi mắt mở to nhìn chăm chắm vào cái nút chuông. Bàn tay cô như rất nặng, không thể nhấc lên để nhấn vào cái nút ấy. Nhưng rồi, không thể vẫn cứ là phải có thể. Khi cô nghĩ đến một nửa số tiền của giao kèo đã không có khả năng hoàn lại. Cúi đầu một giây như tự mặc niệm mình, rồi Hiền Ân ngẩng phắt lên, đưa ngón tay quả quyết vào nút chuông.

Bà Yến Nguyệt ngồi im lìm trong chiếc ghế bành, mắt để vào chiếc kim giây của cái đồng hồ trên tường. Trên mặt bàn, một ly nước cam, ly nước cam thường ngày đã không phải chờ thêm mấy phút như ly nước cam hôm nay. Con số 8 giờ đã đứng vào vạch kim. Chiếc kim giây vẫn nhích… nhích. Thêm một phút nữa đi qua. Có khi nào cô ta không đến. Phải đến chứ. Chắc chắn phải đến. Vì tờ giấy giao kèo không chỉ có một chữ ký của cô, mà còn có cả chữ ký của người sinh ra cô. Không có thứ hợp đồng nào chắc chắn hơn thứ hợp đồng này cả, mặc dù nó không được đóng một con dấu đỏ, mặc dù tính pháp lý của nó không được thừa nhận theo luật pháp hiện hành, nhưng nó đủ sức bảo đảm cho một sự hoàn tất đúng lộ trình đã giao ước, khi sợi dây liên kết của nó là một thứ huyết mạch cốt yếu của cuộc sống. Đồng tiền. Dẫu vẫn luôn có những góc nhìn, những định nghĩa, những cảm nhận khác nhau chung quanh nó, nhưng giá trị bất biến của nó thì không có gì thay đổi được. Nó là một thứ tính năng thương mại hóa tất tật mọi nhu cầu của cuộc đời này. Rất nhiều khi người ta đặt để cho nó những cụm từ thiếu thiện cảm, nhưng nào có ai chối từ được nó. Mà thật ra, nó đâu có tội tình gì. Nó luôn làm tốt nhiệm vụ tối ưu của mình. Với những khe cổng hẹp, nó là một chàng lực sĩ, với những trạng cảnh ngặt nghèo, nó là một vị cứu tinh. Nó không chỉ xuất hiện trong hình thái tờ xanh tờ đỏ, mà nó luôn biến thể trong muôn hình hài cung bậc, miễn sao nó vẫn đáp ứng tốt những yêu cầu mà nó được giao phó. Vậy thì sao lại la mắng nó? Chậc. Nhiều khi la mắng nó chỉ để khỏa lấp đi một cái gì đấy thôi mà.

Bà Yến Nguyệt giật nảy người khi nghe tiếng chuông. Bà bỗng run bắn lên. Không hiểu được vì sao bỗng nhiên mình lại mất bình tĩnh đột ngột thế. Bà nhắm mắt, hít một hơi thật sâu. Dường như tất cả đang tiến triển rất thuận lợi theo sự sắp đặt của bà. Bà mở mắt, nhìn ly nước cam và móc túi lấy ra một gói thuốc bột. Bà hòa cho tan đều trong ly nước rồi bưng vào phòng con trai. Thiên Vũ đang ngồi trước màn hình, lắng nghe những phát âm từ đó qua cặp phôn đeo tai. Anh chăm chú đến nỗi chẳng cần bỏ phôn khi bàn tay mẹ cầm một bàn tay anh lên nhét vào một ly nước. Một hơi uống cạn, anh đưa trả ly cho mẹ rồi tiếp tục công việc của mình. Bà Yến Nguyệt, lặng nhìn gương mặt con trai một chút, rồi nhè nhẹ lui bước ra ngoài. Bây giờ bà mới ra mở cổng.

Thiên Vũ bỗng ôm đầu. Sao bỗng nhiên thấy váng vất thế nhỉ? Chắc do ngồi máy hơi lâu đấy thôi. Gỡ tai phôn ra, Vũ chệnh choạng bước về phía cái giường. Một cảm giác khác lạ trỗi lên trong người, nóng, hầm hập như sốt, một sự bất an, bấn loạn, một cái gì như thôi thúc. Mình bị làm sao thế này? Vũ cởi nút áo cổ, bật quạt, vẫn nóng, khát nữa, anh cởi hẳn chiếc áo, kêu lên “Mẹ ơi”. Một bàn tay chuồi nhẹ vào tay anh một ly nước, Vũ như chộp lấy nốc ừng ực. Ly nước cũng không đủ làm dịu đi trạng thái nóng kỳ lạ trong anh. Vũ chợt cảm giác như mình không làm chủ được bản thân mình nữa, nó đang kêu đòi một cái gì đó. Một phần bản thể anh khác lạ, Vũ không biết mình đang làm những gì. Sự nhận thức cho anh cảm nhận một cơ thể khác nóng ấm luồn vào anh. Một thứ bản năng đặc biệt tự vận hành theo sự điểu khiển từ đâu đó. Sự vận hành cuồng nhiệt ấy đã khiến anh rã rời khi buông vật mình qua một bên. Anh vẫn âm u trong một trạng thái mê mị. Nhưng tận cùng tiềm thức đã ghi nhận một điều kỳ lạ mà lần đầu tiên trong đời anh biết đến. Anh thiếp dần trong cảm giác được trút xả, thoả mãn.

Hiền Ân nằm bất động một lúc sau khi người đàn ông rời khỏi thân thể cô. Cô không phân định được trạng thái trong cô lúc này là gì. Như được quẳng đi một tảng đá đã đeo đẳng cô trong suốt những ngày qua. Như nuối tiếc một thân thương vừa mất. Như ngỡ ngàng một lạ lẫm chênh chao. Rút cục thì điều đó đã xảy ra rồi. Nó xảy ra như bất kỳ một người phụ nữ trưởng thành nào cũng phải đến lúc xảy ra. Khác nhau chăng là cảm giác. Chắc chắn là cảm giác trên chiếc giường tân hôn phải khác hẳn cảm giác trong cô lúc này rồi. Và nếu như gương mặt thoả mãn bên cạnh cô là gương mặt cô từng yêu dấu thì có lẽ, đôi môi cô không khô khốc như vậy. đôi mắt cô không đờ đẫn như vậy, và đôi tay cô nữa, không dở dang đến vậy. Đồng thời, một cảm giác khác nhẹ hơn, cảm giác của một người đã thực hiện xong một nhiệm vụ khó khăn, cảm giác lương tâm đã nghiêng hẳn về phần lý nghĩa, nó không còn cái rối rắm, giằng kéo của sự ngập ngừng trốn chạy nữa. Ít ra, cô cũng đã hoàn thành một phần của lương tri. Có thể mặt này cô sai, nhưng mặt khác cô đúng. Và rõ ràng, không thể đúng cả mọi mặt trong cùng một vấn đề. Chỉ biết, đôi lúc người ta chỉ có thể làm theo một sự điều khiển cụ thể của thực tế, mà không thể quá nhiều suy nghĩ, như thế đỡ phức tạp hơn.

Qua đi một cảm trạng, Hiền Ân trở về thực tại. Cô khẽ chống tay ngồi dậy, tránh không đụng vào cơ thể bên cạnh. Định quay người bước xuống giường, cô chợt dừng lại ánh mắt trên gương mặt người đàn ông. Cô nhìn đăm đăm, chí ít thì cũng ghi nhận một dáng nét của người đàn ông đầu tiên trong đời mình là thế nào chứ? Cô không sợ đôi mắt kia sẽ mở ra bất thình lình, là bởi cô đã biết, có mở ra, thì đôi mắt ấy cũng không nhìn thấy cô được. Cũng chính vì nguồn cơn thống thiết mà người mẹ ấy đã van vỉ cô, cho cô có cảm giác là đang được làm ơn cho một cuộc đời bất hạnh. Cho cô thấy sự việc không chỉ là chuyện mua bán đơn thuần, mà chứa đựng trong nó là cả một chuỗi dài cuộc sống. Gương mặt đang thiêm thiếp kia, quả thật là một bất công của tạo hóa khi đã lấy đi nụ cười rạng rỡ dưới ánh mặt trời. Nếu không có sự mất mát ấy, thì gương mặt đủ hứa hẹn cho những cuộc tình đẹp đẽ lãng mạn. Gương mặt hiền hòa, thanh tú, vầng trán cao với đôi lông mày hơi rậm, sống mũi hơi gồ lên, đôi môi không dày không mỏng, hàng ria li ti, tất cả toát lên một khí chất nam tính đầy đặn và khoáng hoạt. Thốt nhiên cô cảm thấy hài lòng. Không còn sự tiếc nuối cho điều đã xảy ra. Và cô biết, đứa con sẽ ra đời, ắt được thừa hưởng những ưu điểm của bố nó. Ngắm nhìn người đàn ông và nghĩ đến một đứa trẻ, trong lòng Hiền Ân bỗng trỗi lên một thứ cảm xúc kỳ lạ, êm đềm và ấm áp lắm. Cô không biết rằng chính cái thứ cảm xúc bản năng đặc biệt của người phụ nữ ấy sẽ dẫn dắt cô thế nào. Cô chỉ biết trước mắt, cô linh cảm việc mình đang làm là không sai, hay ít nhất cũng không đáng chê trách. Khi những suy nghĩ này xuất hiện trong cô, thì cô cảm thấy không gian như thoáng đãng hơn nhiều. Cô bước xuống giường, mặc lại quần áo rồi đi ra ngoài.

Thiên Vũ ngồi thõng thượt. Lưng tựa vào tường, đôi chân duỗi dài như không cảm xúc, đôi tay buông bỏ ra hai bên, đôi mắt mở to ném tia vô hồn vào khoảng không. Bà Yến Nguyệt vô cùng lo sợ khi thấy con trai lâm vào một tình trạng đáng sợ thế này. Giá như Thiên Vũ đập phá quát tháo như mọi lần thì bà lại thấy yên tâm hơn. Như không đang sống, như không đang chết, như không đang tồn tại, như không đang mất đi. Anh ngồi đó mà như một ảo ảnh. Hốt nhiên, bà Yến Nguyệt chụp lấy tay cậu con trai giật giật như vụt níu lại:

- Con. Con trai của mẹ. Con nói gì đi. Nói cho mẹ biết con đang nghĩ gì, muốn gì, con nói gì cũng được, quát tháo mẹ cũng được, nhưng con đừng im lặng thế này, mẹ sợ lắm. Thiên Vũ…

Câu trả lời vẫn đóng kín giữa đôi môi. Làm sao có thể nói cho mẹ hiểu cảm giác trong anh bây giờ là thế nào. Đó là một thứ cảm giác vô cùng tồi tệ. Một sự bất lực. Một sự tuyệt vọng. Một sự bế tắc. Cuộc đời anh cứ phải nằm trong sự sắp xếp của người khác mãi sao? Cho dù đó là mẹ anh, là người tạo ra con người anh, nhưng vẫn không thể nào là người nắm giữ tất cả những gì thuộc về vận mệnh cuộc đời anh. Vậy mà anh chỉ như một cục bột trong bàn tay nhào nặn của mẹ. Trách mẹ đã dùng thủ đoạn để lừa anh ư? Cũng không thể trách được khi anh hiểu rõ bản chất của sự việc. Bà cũng là người đáng thương. Cũng chỉ vì lòng thương yêu và lo toan cho con. Nhưng cho dù là con, thì anh vẫn là một người đàn ông. Một người đàn ông có đủ các công năng và khí chất. Thế nhưng chỉ vì thiếu đi một chức năng của đôi mắt, mà anh đã rơi vào thế bị động đến cả chuyện riêng tư nhất của mình. Nói ư? Nói gì? Và nói để làm gì?

- Mẹ xin lỗi. Mẹ sai rồi. Mẹ không nên buộc con hành động như thế. Nhưng mà… con ơi… khi con có một đứa con, khi con cảm nhận được một thứ tình ruột thịt ấy, thì con sẽ không trách mẹ nữa. Con có hiểu không?

Hiểu ư? Một đứa trẻ được tạo nên giữa một công năng của đàn ông và một công năng của đàn bà. Nó sẽ có một cuộc đời như thế nào? Sao không nghĩ đến những gì mà người lớn đã gây ra bắt con trẻ phải chịu đựng và chấp nhận? Sao chỉ nghĩ đến cái được cho bản thân mình. Mẹ muốn có một con người để trao lại cái trách nhiệm phải lo toan chăm sóc cho con, sao mẹ không nghĩ đến một cuộc đời đã khập khễnh ngay từ bước dầu tiên. Mẹ nghĩ mẹ sẽ an nhàn, yên ả khi cảm thấy mình đã tròn bổn phận, sao mẹ không nghĩ đứa trẻ ấy lớn lên sẽ phải đối mặt với cuộc đời như thế nào? Và con nữa. Khi con không thể làm tròn trách nhiệm của một người cha thì con sẽ yên tâm mà hưởng thụ cái tinh cảm và bổn phận đương nhiên của một đứa con sao? Trong khi đã bao lâu nay, con đã mặc nhiên mà tận hưởng cái tình thương của mẹ, mẹ nghĩ con không chút suy tư nào sao? Còn người con gái kia nữa. Cho dù hiện tại, cô ấy vì lý do hoàn cảnh mà chấp nhận lời đề nghị của mẹ. Nhưng mẹ có chắc rằng cô ấy sẽ thanh thản mà trao đứa con cho mẹ, và coi như không có chuyện gì xảy ra sao? Và rằng cuộc đời cô ấy cứ tất nhiên mà có hạnh phúc khi mang trong lòng một vết thương tấy mủ không thể lành. Mà cũng đúng thôi. Mẹ không thể nghĩ đến những tâm trạng của những người ấy, khi mẹ chỉ đứng trên quan điểm, lập luận và yêu cầu của chính bản thân mình. Mẹ bảo con phải nói gì bây giờ chứ.

- Mẹ ra ngoài đi. Con muốn được một mình.

Câu nói nặng nề của Thiên Vũ phát ra trong một thứ thanh âm khác hẳn mọi ngày. Thứ thanh âm mà bà Yến Nguyệt cảm thấy như vừa buông tay làm vỡ một cái gì. Bà ngồi chết lặng, rồi đứng dậy bước ra khỏi phòng.

Hiền Ân khẽ trở mình nhè nhẹ cho đỡ mỏi. Cô đưa tay xoa lớp da căng tròn dưới tấm áo, cảm giác máy động của thai nhi dội lên trong cô một thứ tình cảm thôi thúc. Chỉ hơn một tháng nữa, đứa bé sẽ chào đời. Nó sẽ là một đứa bé trai kháu khỉnh, khôi ngô, liệu nó có…? Cô nhắm mắt lắc đầu xua đi một ý nghĩ, không thể đâu, cô chưa từng nghe có tính di truyền các bệnh về mắt, nhưng một khi chưa được thực chứng, thì lòng người mẹ vẫn thắc thỏm không yên. Nhưng liền đó, một ý nghĩ khác ập đến khiến cô như chết tức trong một giây. Đứa bé sẽ vuột khỏi tay cô ngay khi nó mới chào đời. Cô không có khả năng hưởng cảm giác làm mẹ dù rất ngắn ngủi, đây là một thỏa thuận cụ thể trong hợp đồng. Lúc ký vào văn bản ấy, cô nào nghĩ có một thứ cảm trạng dồn tức trong cô như bây giờ. Cô nghĩ nó thật đơn giản như khi người ta thuận mua vừa bán xong một món hàng. Nhưng từng ngày từng ngày, đứa trẻ tượng hình rồi lớn dần lên trong cơ thể cô, thì cái tình mẫu tử cũng theo đó mà xuất hiện rõ rệt hơn. Cô bỗng run lẩy bẩy khi hình dung đến cảnh người ta sẽ giằng đứa con ra khỏi tay cô. Trời ơi! Cô chợt ôm chặt bụng mình, giá như nó được ở mãi trong vòng tay cô như lúc này.

- Dạ chị. Cháu nó đang nằm trong phòng. Chị mang gì đến đấy?

- Trái cây với kẹo mè chị ạ. Còn con gà này, chị quay giúp hai cái đùi cho cháu nó ăn chị nha.

- Dạ, chị để tui. Thiệt con nhỏ này nó có phước quá, có ai được chăm sóc tận tình như nó không chớ.

- Chị cứ khách sáo quá, chỉ mong mẹ con nó khoẻ mạnh thôi. Tôi vào thăm cháu chút nha chị.

Hiền Ân xoay mặt vào tường giả vờ ngủ, trong lúc này, cô thực không muốn nói chuyện gì với người đàn bà ấy cả. Cô biết cô đang vô lý, nhưng quả thật, cô không thể đối diện bà với cảm trạng hiện thời trong cô. Từ khi cô thực sự có thai, bà Yến Nguyệt đã rất chu đáo, tận tình lo cho cô từng miếng ăn, đưa cô đi khám thai định kỳ, bốc thuốc dưỡng thai cho cô uống. Đương nhiên là bà đang chăm sóc thành quả và niềm mong đợi bức thiết của mình. Đã trong một vài lúc, cô cảm nhận bà thực sự là một bà mẹ chồng tốt nhất. Nhưng tờ giấy cam kết rõ rành kia đã làm cho cảm giác ấy tan nhanh. Cái thực tế trần trụi của vấn đề đã làm cho những hành động hết sức tận tình chu đáo ấy biến đổi sang một trạng thái đơn thuần chỉ là sự máy móc của nhu cầu. Sợi dây liên cảm nhẽ ra ngày càng phát triển thì trong chốc lát nó như bị chặt đứt một cách phũ phàng.

Bước chân khẽ khàng và một làn gió man mát là dấu hiệu cho Hiền Ân biết bà Yến Nguyệt đang đứng bên cạnh giường cô với chiếc quạt phe phẩy nhè nhẹ. Cô thở đều như đang ngủ rất say. Đó là cách tốt nhất để cô không phải đối diện với bà trong lúc này. Điều đang giằng xéo trong cô lúc này là lời hứa và tình mẫu tử. Cô biết không thể đạt được cả hai, và cũng không thể có sự lựa chọn sáng suốt. Bà Yến Nguyệt khẽ thở dài rồi nhẹ chân bước ra khỏi phòng. Tiếng thở dài của bà làm dội lên trong lòng Hiền Ân một cảm xúc khác. Cô chợt cảm nhận một cách rõ rệt nhất cái tình thương và tất cả ý nghĩa của việc bà làm cho cậu con trai độc nhất bất hạnh. Sự cảm nhận này khiến cô chùng lòng. Cũng là cái thứ tình đang hiện hữu trong cô, cái thứ tình mà những người phụ nữ khi đã bước vào một lĩnh giới đều tự nhiên mà có. Và rồi vì cái thứ tình ấy mà người ta có thể làm biết bao nhiêu việc ngoài sức tưởng tượng, cả xấu lẫn tốt. Đó có thể gọi là sợi dây đai của tạo hoá. Sợi dây ấy bền chắc và vĩnh cửu hơn bất kỳ chất liệu nào tốt nhất trên đời. Để con người có thể lên tột đỉnh thăng hoa mà cũng có thể chìm sâu đến mười tám tầng địa ngục cũng vì nó. Hai dòng nước mắt nóng hổi, lăn dài từ khoé mắt đến cái gối cho người con gái vừa bước qua ngưỡng cửa đàn bà một nỗi niềm mặn chát tâm tư.

Hiền Ân quằn quại trong cơn đau sinh nở. Cơn đau cho cô có cảm tưởng bao nhiều gân cốt trong người cô rời rụng ra cả. Cơn đau cô chưa từng trải qua trong đời làm cô suýt ngất đến mấy lần. Sự trợ giúp của các nữ hộ sinh cũng không làm cho cô thuyên giảm nỗi đau đớn. Toàn bộ sức lực trong cô bây giờ chỉ dành cho một việc. Đó là cái khối hình hài đầy đủ trong bụng cô sẽ chuồi được ra ngoài với tiếng khóc sợ hãi đầu đời khi nó bị tách khỏi sự bảo vệ mật thiết của người mẹ. Vì được chăm sóc tốt, nên thai nhi khá lớn. Thường thì người ta luôn cẩn trọng trong việc phát triển quá tốt của thai nhi là con so. Sẽ là một nguy cơ khá lớn cho cả mẹ lẫn con. Nếu được sinh trong một bệnh viện lớn với đầy đủ trang thiết bị cần thiết, với chuyên môn cao của các bác sĩ, thì không đáng ngại là mấy. Nhưng vì bà Yến Nguyệt muốn hoàn thành tốt kế hoạch của mình, nên Hiền Ân đã sinh tại một cơ sở tư nhân. Các nữ hộ sinh đã phải dùng đến một biện pháp can thiệp. Cơn đau của sản phụ như tăng lên gấp nhiều lần khi một bộ phận cơ thể cô phải chịu những nhát cắt. Khi tiếng trẻ sơ sinh vừa oé lên, thì Hiền Ân cũng ngất lịm đi trong cơn đau tột cùng. Để rồi khi cô tỉnh dậy với sắc thái của một người từ cõi chết trở về, với một cơ thể nhão nhượt như không còn cảm giác, thì cô chỉ thấy mẹ mình ngồi bên cạnh với những giọt nước mắt. Cô không một chút kêu khóc, mà cô cũng chẳng còn đủ sức, cô chỉ lặng lẽ tuôn trào đôi dòng lệ, và rồi cô lại rơi vào cơn mê. Một cơn mê dài đến mấy ngày sau.

Tiếng khóc xe xé của đứa trẻ làm Thiên Vũ như phát điên lên. Không đơn thuần là tiếng khóc của một đứa trẻ khát sữa, mà là một đứa trẻ khát mẹ. Tiếng khóc của một sự cảm nhận mơ hồ về nỗi bất hạnh đầu đời của nó. Trẻ con nhất là khi vừa mới chào đời, là lúc nó cần mẹ nhất. Bởi vì nó vừa bị đẩy ra khỏi sự bảo bọc bất dịch từ khi mới tượng hình, nó bám víu, nó quơ níu, nó kêu khóc trong nỗi hoảng loạn khi bị tước mất một vòng tay an toàn. Người vú nuôi và bà Yến Nguyệt thay nhau ôm ấp nựng nịu dỗ dành cũng không đem lại cho nó được một chút cảm giác yên ổn nào. Thiên Vũ ngồi ôm đầu cách một bức tường, anh muốn trốn chạy thật xa khỏi tiếng khóc ấy. Nhưng anh không thể nào tự giải quyết được nỗi bức ách trong tâm can mình. Không còn chịu nổi nữa, Thiên Vũ quơ gậy bước sang phòng bên cạnh, nói như quát:

- Đem trả lại cho mẹ nó ngay đi.

Bà Yến Nguyệt đang rung rung đứa trẻ trên đôi tay, nghe tiếng quát đứng sững người ra một chút, rồi bỗng bà ôm chặt đứa bé, nét mặt vừa như thất thần vừa như rắn đanh, bà bặm môi thốt ra một câu đoan quyết:

- Không, không bao giờ.

Rồi như để khẳng định thêm, bà tiếp:

- Nó là cháu của mẹ. Khó khăn lắm mẹ mới có được nó. Không bao giờ mẹ để mất nó. Rồi nó sẽ quen, nó sẽ phải quen. Con là cha nó, con cũng sẽ quen. Không lâu đâu.

Nói xong bà quay lại với đứa bé. Trong cơn phẫn uất, Thiên Vũ quờ tay, một vật thể được tung vào khoảng không với tất cả sức lực của một cánh tay nam giới. Vật thể ấy bay thẳng vào một cái tủ kính. Một chuỗi âm thanh rùng rợn nối tiếp. Không chỉ là những tấm kính mà còn cả những vật trưng bày trong nó. Âm thanh của sự đổ vỡ liên hoàn ấy đã làm chấn động những màng nhĩ mỏng manh. Nó làm tê liệt mọi sự trong phút chốc, kể cả người đã gây ra nó. Bà Yến Nguyệt sững sờ bất động, đứa bé cũng ngay lập tức câm bặt tiếng khóc. Không gian vụt rơi ẫng xuống một vực thẳm. Ít giây sau, sợi giây thần kinh nhận thức máy động, bà Yến Nguyệt lảo đảo “Tôi đã sai rồi sao?” Người vú nuôi cũng vụt bừng tinh, vội đỡ lấy đứa bé đang liêu xiêu trước khi bà Yến Nguyệt ngã phịch xuống đất. Đứa bé được đưa lên tầng lầu thứ ba, ít nhất nó cũng được lánh khỏi đi một nơi đáng sợ với nó. Trên nét mặt nó, nét mặt của một trẻ thơ chưa biết biểu cảm, nhưng vẫn có thể cảm nhận được một chuyển biến kinh hoàng trong tâm thức nó. Sự chuyển biến kinh hoàng ấy không chỉ can thiệp vào nó trong một lúc một thời đoạn, mà…

Đứa bé đã không khóc, ánh mắt nó không chuyển động về phía phát ra tiếng gọi, nó chỉ nhìn cái lục lạc lắc lắc khi giơ ngay trước mặt nó, không có vẻ gì trên gương mặt ngoài sự ngây ngô ngờ nghệch. Bà Yến Nguyệt vô cùng đau khổ khi nhìn một nguy cơ, bà thắp hương cầu nguyện hằng đêm cho nguy cơ ấy không phải là sự thật. Một tháng, hai tháng rồi ba tháng, sự trông chờ của bà là vô vọng, bà mới đem đứa trẻ đến bác sĩ, tại đây, nó được kết luận đã mất chức năng hoạt động của giây thần kinh thẩm thanh. Đã con mù, giờ lại cháu điếc, bà Yến Nguyệt suy sụp không gì cứu vãn được. Rồi bà buộc phải nghĩ đến một điều, bà hy vọng may ra… Nhưng niềm hy vọng ấy cũng tắt ngấm, khi bà không thể tìm được Hiền Ân với một thông tin, sau khi em trai cô ấy thoát án, cả nhà đã chuyển đi nơi khác. Thiên Vũ vô cùng đau đớn và ân hận khi hiểu rõ rằng vì hành động bột phát của anh trong lúc mất kiểm soát bản thân, đã dẫn đến hậu quả nghiêm trọng cho con mình. Ôm đứa con tội nghiệp trong tay, Thiên Vũ cảm nhận một cách rõ rệt một thứ tình cảm, thứ tình cảm ấy đã đốc thúc anh phải làm một điều gì đó để bù đắp. Và đó cũng là mục đích sống có ý nghĩa duy nhất của đời anh.

Hiền Ân đang cầm những ngón tay của một cháu bé và nắn nót những nét chữ bằng một cây bút chì. Đứa bé bặm môi nhíu mắt cố viết cho đúng đường nét mà cô giáo đã chỉ dẫn. Có tiếng loé xoé ngoài cửa:

- Hiền Ân ơi! sắp đến giờ cho các cháu ăn rồi đấy.

- Vâng, em xong ngay đây. Con viết nốt hai chữ này rồi cô cho con nghỉ nhé.

Đứa bé như chỉ chờ có vậy, nó gật mạnh mấy cái rồi đưa những ngón tay nhanh hơn theo nét chì. Hiền Ân đi nhanh ra cửa phụ đẩy vào phòng một chiếc xe như xe nôi của em bé. Trên đó là những tô đĩa, nồi chảo đang bốc lên những làn khói mỏng. Rồi cô lấy những cái khay ăn nho nhỏ lấy đủ các thứ cơm canh, những đứa trẻ đã tụ tập bên một chiếc bàn. Một vài đứa tự đi đến, một vài đứa khác thì phải dắt tay. Rồi mỗi đứa một chiếc khay. Hiền Ân và một cô bảo mẫu nữa chăm sóc cho từng đứa, khi rơi vãi, hay thúc giục những cái miệng cử động nhai nuốt nhanh hơn. Bỗng một tiếng xoảng kèm theo những tiếng kêu ré. Một đứa bé trai độ 6,7 tuổi, hất tung khay cơm xuống đất rồi túm tóc một đứa trẻ bên cạnh ghì xuống. Hai cô bảo mẫu xô vào gỡ những ngón tay của nó ra. Những tiếng khóc sợ hãi của những đứa khác rồ lên. Đứa bé trai kia khi đã rời tay khỏi mái tóc của bạn, được đưa sang một phòng khác. Nó được sự ôm ấp, vuốt ve, thủ thỉ của cô bảo mẫu, mặc dù nó vẫn ra sức vung vẫy. Nó không khóc, không kêu, chỉ vùng vẫy, nét mặt nó thì như một hung thần đâu đó nhập vào chứ không phải là vẻ mặt ngơ ngơ lầm lỳ thường ngày. Một lúc sau, nó xịu dần, rồi ngả vào lòng cô bảo mẫu ngủ. Trong khi đó, Hiên Ân dỗ dành những đứa trẻ còn lại, với một điệu nhạc thiếu nhi vui vẻ. Tất cả dần trở lại chỗ ngồi, vài dứa ăn tiếp, vài đứa kia không ăn nữa. Một lát sau, mỗi đứa đã thở đều trên những chiếc nệm nhỏ. Bây giờ các cô bảo mẫu mới dọn dẹp những thứ chúng đã bày bừa trong phòng. Hiền Ân quệt mồ hôi khi đã tạm xong việc, cô ngồi dựa lưng vào tường nhìn những đứa trẻ thiêm thiếp. Một áng mây màu qua mắt cô, ánh mắt như trôi về một khoảng trời xa xôi, một thoáng viền mi hoe đỏ.

Bà mẹ không biết làm gì hơn là ôm đứa con gái đang khóc rưng rức mà khóc theo. Hai mẹ con không biết đã bao lần cùng khóc như thế. Trong cơn nghẹn ngào đầy nước mắt, bà mẹ nói:

- Con ơi! Cứ khóc mãi thế này thì con chết mất, mà mẹ cũng không sống nổi đâu. Con lấy chồng đi, lấy ai cũng được. Rồi con sẽ có những đứa con khác, cũng xinh xắn đẹp đẽ như thế. Rồi con sẽ bớt nhớ đến nó, cũng để nó sống yên lành hơn con ạ. Mẹ và con có một sợi dây liên cảm vô hình kết nối. Con cứ đau đớn mãi thế này thì con con nó cũng không khoẻ mạnh được. Con nghe mẹ đi con, lấy chồng đi, đừng kén chọn gì cả, mà cũng còn gì để được kén chọn nữa đâu con.

Nghe mẹ nói, Hiền Ân càng khóc tức tưởi hơn nữa. Sau khi sinh, cô nằm liệt đến cả tháng mới ngóc ngách dậy được. Rồi bao công việc bộn bề kế tiếp, nào là lo cho em trai, nào là chuyển nhà, cũng không làm cô nguôi ngoai nỗi nhớ con thơ. Cứ bất chợt một khoảnh khắc nhắc nhớ, cô nghe đau nhói trong lòng. Nỗi đau cứ như ai cầm dao cắt vào thịt cô vậy. Hơn một năm rồi kể từ ngày ấy. Con cô bây giờ chắc cũng đã biết đi, biết o e ngọng ngịu. Nó trông thế nào nhỉ? Có ăn ngủ tốt không? Có tăng cân đều đều không? Có hay khóc không? và… có nhớ mẹ nó không? Làm sao nó đã biết nhớ nhỉ. Nó còn quá nhỏ để không biết mình đã phải xa mẹ ngay khi mới lọt lòng. Đã những lần cô muốn lao về ngôi nhà ấy mà giằng lại đứa con. Nhưng dòng chữ quái ác trên cái hợp đồng quái ác “Nếu bên B có bất kỳ hành vi nào để lộ cho đứa trẻ nhận ra mẹ, thì số tiền đã thỏa thuận sẽ bị đền bù gấp ba”. Cô không thể trách họ, bởi cô đã chấp nhận thỏa thuận ấy một cách nhanh chóng, bởi cô cho rằng cũng dễ thôi khi thực hiện xong một yêu cầu chính đáng cho cả đôi bên, thì có gì đâu mà gút mắc nữa. Cô không ngờ rằng có một thứ yêu cầu không hề được thoả thuận, nhưng lại hiện hữu đến quay quắt. Hiện hữu trong từng bữa ăn đến giấc ngủ. Đã rất nhiều đêm cô mơ thấy mình bỗng ẵm ru con, cho con bú, thay tã cho con, và cả những hình ảnh đứa bé bị giằng khỏi tay khóc ngất lên. Những cơn mơ như thế đã làm cô rệu rã hình hài. Tinh thần bất định, nhiều khi cô không nhận biết được mình đang ở đâu? Đang dịnh làm gì? Cô cứ ngồi ngây như một pho tượng đang tạc dở. Những lúc ấy, mẹ cô lặng lẽ đến bên cô, ôm cô vào lòng, hoặc nói đôi câu hoặc không, nhưng dù nói hay không nói, thì những dòng lệ mặn chát vẫn tuôn trên hai gương mặt xanh xao trĩu nặng. Cô hiểu những lời mẹ cô nói là cách duy nhất để giao chuyển cuộc đời của cô. Mối tình đầu đời của cô vẫn đây kia những lời nhắn nhủ. Nhưng cô không thể hồi đáp khi biết mình không còn xứng đáng với trái tim người. Nhưng liệu rồi một lần nhắm mắt nữa sẽ còn đưa đẩy đôi chân cô đến bến bờ nào? Liệu rằng cô có đủ dũng khí để sống một đời với một người đàn ông xa lạ nào đó không? Cô đã thấm thía lắm rồi. Nhưng nếu không thế thì biết phải làm sao? Thôi thì…

“Đã trót chân đưa mà mắt nhắm

Cũng đành khâm liệm khúc lòng tan”

Trước khi dấn thân vào một chặng trình nhiều dấu hỏi. Hiền Ân trở lại ngôi nhà ấy với một ước muốn duy nhất. Được nhìn thấy con cô dù chỉ một lần. Nhưng cô quẩn quanh nơi ấy đến mấy ngày cũng không nhìn thấy một dấu hiệu nào báo sự tồn tại của một đứa trẻ. Không dây phơi những tấm quần áo be bé. Không một quả bóng lăn ra đường. Không một bóng dáng ẵm bế dù là thấp thoáng trong ô cửa. Ngôi nhà im ỉm, chỉ mở cửa khi có một người đàn bà thấp bé đi ra rồi trở về với những túi thực phẩm. Dập tắt niềm hy vọng của cô là ý nghĩ “Họ đã chuyển đi rồi”. Cũng phải thôi, khi đó là sự bảo mật tuyệt đối về nguồn gốc của một con người. Cô chỉ còn nắm níu vào một cảm giác mơ hồ, rằng mai kia, rằng đâu đó, biết đâu cô sẽ nhận ra con mình nhờ một dun dủi ngẫu nhiên nào.

Nhưng:

“Cơn cớ cợt đùa thân liễu rủ

Cho lòng thương hận đến thiên thu”

Một lần nữa, cô đắng đót nỗi đau cào xé của phận đàn bà, khi kết luận của bác sĩ sản khoa rằng cô không thể sinh con được nữa, vì sự can thiệp quá sâu của các dụng cụ y tế trong lần sinh đầu tiên ấy. Người chồng, hẳn nhiên rồi, khi không phải tình yêu là động lực, cộng với một vết chàm quá khứ và một dấu chấm hết ở tương lai, thì một lời ngắn gọn “Ly hôn” đã là quá nhẹ. Một ý nghĩ ngày càng hiện rõ trong tâm trí cô. Không chỉ trong cô mà trong cả những người thân của cô. Mẹ cô đã không thể tự tha thứ cho mình khi nghĩ chính mình là nguyên nhân nỗi bất hạnh của cuộc đời con gái. Em trai cô cũng vô cùng dằn vặt bởi sai phạm tuổi trẻ không chỉ gieo tác hại cho bản thân mình. Không biết rồi gia đình cô sẽ đi đến một thảm cảnh thế nào nếu cô không gặp một người.

Người phụ nữ trung niên ấy hết sức năng động, mạnh mẽ, cứng cáp trong các công tác xã hội, dù cuộc đời cô cũng không ít những vết trầm thương tích. Đã chỉ cho Hiền Ân biết cô nên đi tiếp con đường của mình bằng cách nào. Không quá khó, rằng chỉ cần cô học được cách yêu con của người như con của mình. Những đứa trẻ mà xét ra chưa chắc ai đã bất hạnh hơn ai. Rằng cái chết không có gì đáng sợ, mà cái đáng sợ là con người tự ném mình vào cái chết một cách vô ích. Rằng cuộc đời này không hiếm những nỗi đau, chỉ cần ta nhìn xuống một tí thôi là sẽ thấy. Và rằng cũng không hiếm những con người đứng được lên một cách đầy ngạo nghễ thách thức từ những nỗi đau ấy. Và cô được nghe câu chuyện kể về một con lừa rơi xuống giếng. Và rằng nó đã trèo lên được trên miệng giếng bằng chính những hòn đá gạch ném xuống với dụng ý làm mồ chôn nó. Một câu chuyện ẩn dụ hết sức minh triết. Và rồi cô cũng đã trèo được lên khỏi miệng hố của mình. Cô theo học một khóa đào tạo đặc biệt để chăm sóc trẻ khuyết tật. Cô chọn khoa tự kỷ. Đây là một khoa khó. Bởi trẻ em bị bệnh này trông không khác gì trẻ bình thường. Chúng không khiếm khuyết các chức năng cơ thể, mà chúng khiếm khuyết về mặt tâm lý. Nhìn như không có bệnh nhưng lại rất bệnh. Những biểu hiện về bệnh cũng không giống nhau, một số trường hợp thì luôn hiếu động, không ngừng nghỉ ngoại trừ khi ngủ, một số khác thì hay gây gỗ, hay nổi nóng kỳ quặc, một số khác nữa thì lặng lẽ, không nói không cười, lầm lỳ có khi đột ngột nổi chứng quậy phá. Những trẻ bị bệnh này nếu được phối hợp tốt cả về liệu pháp tâm lý lẫn hoạt động thể chất, cả về tình cảm gia đình lẫn giao tiếp xã hội, chúng sẽ được khắc phục tốt và trở thành những đứa trẻ phát triển bình thường. Một số khác, nếu bệnh đã bị kéo dài quá lâu, cộng với những thiếu sót về nhiều mặt, nhất là thiếu sự kiên trì chăm sóc và thương yêu cha mẹ, thì chúng gần như sẽ mang theo chứng bệnh ấy vĩnh viễn. Lớn lên rất dễ trở thành người trầm cảm hoặc dễ mất kiểm soát hành vi.

Hiền Ân coi công việc này không chỉ là một nguồn sống về vật chất, mà rõ ràng nó đã đem lại cho cô sự cân bằng tinh thần. Cô tìm thấy ít nhiều niềm vui và sự an ủi qua những gương mặt trẻ thơ mỗi khi chúng có tiến triển khả quan, dù rất vất vả. Nhiều hôm thấy cô trở về nhà trong một trạng thái rất tệ. Mẹ cô lại than vãn, lại tự trách mình đã làm khổ con, cô mỉm cười bảo mẹ:

- Mẹ à. Đừng than thở với những gì không thể làm lại được, nó đã không giải quyết được gì, mà chỉ làm cho ta thêm đau buồn. Mỗi người một số phận. Không phải tại mẹ, không phải tại em, mà tại cái số con nó thế. Sự dẫn dắt của số phận không tuỳ thuộc vào bất kỳ ai trong chúng ta, nên tốt hơn hết hãy cố gắng tìm một lý do vui để sống mẹ ạ. Thôi thì còn làm được gì cho cuộc sống này con cứ làm với hết sức của mình, dù sao vẫn tốt hơn là ngồi mà khóc lóc. Biết đâu rồi sẽ có ngày…

Niềm hy vọng ấy dẫu có mỏng manh thì nó vẫn luôn tồn tại, vẫn luôn là một sự tiếp sức mỗi khi cô mệt mỏi hay tâm trạng.

- Hiên Ân ơi ! Em nhận cháu này.

Lại một trẻ nữa được đưa đến. Đó là một trẻ trai khoảng sáu, bảy tuổi. Khuôn mặt cậu bé vuông vức, trắng trẻo với những cọng tóc xoăn tự nhiên trông thật xinh xắn dễ thương. Đó là cảm nhận thoáng qua, nhưng chỉ cần hơi chú ý một chút, thì sẽ thấy ngay một vẻ gì đó như không có thật trên gương mặt cậu. Một vẻ gì đó như dài dại, như mông mênh xa vắng. Ngắm qua đứa trẻ, Hiền Ân không kềm nổi tiếng thở dài. Sao hóa công lại nghiệt ngã thế, chả nhẽ sự cho cái này và lấy đi cái khác luôn là điều kiện khi ông ném xuống trần gian này một kiếp người sao? Cô đưa tay cầm tập hồ sơ của người quản lý. Lật ra, vỏn vẻn chỉ có vài dòng chữ “Trần Thiên Phúc. Sinh năm… Giới tính Nam… Người bảo trợ…” Không còn thêm một dòng chữ nào. Một sự phẫn nộ dội lên trong cô. Đây là một trong những tập hồ sơ gọi là “Hồ sơ trắng”. Đứa trẻ cứ như một cây con mọc từ dưới đất lên vậy. Những người làm cha mẹ chúng đã gián tiếp chối bỏ sự liên quan huyết thống. Cứ như đó là một sự tồi tệ nhất cuộc đời họ vậy. Đó là điều bất nhẫn nhất trong cuộc sống này. Chỉ vì tính sĩ diện, sự hãnh tiến, mà người ta có thể đang tâm chối bỏ chính con đẻ của mình. Những đứa trẻ ấy chỉ có thể giữ mối liên hệ với cha mẹ chúng qua một trung gian, gọi là người bảo trợ. Trong khi với những đứa trẻ bị căn bệnh đặc biệt này, thì tình cảm lại là một liệu pháp tốt nhất. Vậy mà… Họ sinh con ra để làm gì? Con khoẻ mạnh đẹp đẽ thì nuôi, còn dị tật đau yếu thì ném cho xã hội? Thật là những người làm cha mẹ đã hết sức vô trách nhiệm, và cả vô lương tâm nữa. Cô quản lý nói thêm:

- Cháu bé này ngoài bệnh tự kỷ, cháu còn bị câm điếc nữa. Nghe đâu là bẩm sinh.

Thảo nào mà nhìn cháu như vô thức vậy. Đây đúng là một ca bệnh khó. Vì điếc câm, là mất khả năng giao tiếp, là khó có sự tiếp nhận thông tin và biểu cảm trong quá trình điều trị. Trời ơi! Cha con là ai? Mẹ con là ai mà con lại khổ đến thế này hở con?

Từ nỗi cám cảnh ban đầu, cộng với vẻ xinh xắn đến tội nghiệp của bé Phúc, đã làm cho Hiền Ân rất mau chóng quyến luyến bé. Và như một sự tương tác tự nhiên, một thời gian sau, trong ánh mắt của bé đã dường như có một chút gì máy động. Biểu hiện khả quan này khiến cô rất vui mừng, càng dành nhiều thời gian chăm sóc cho bé Phúc hơn. Bệnh của bé Phúc tương đối lành tính hơn những đứa trẻ khác. Bé thường ngồi im một chỗ, mắt cứ nhìn đâu đâu, đột ngột có những lúc bé tỏ ra cực kỳ sợ hãi, hai tay ôm đầu và chúi vào bất kỳ một góc xó nào. Có khi nhãng đi không thấy bé ở đâu cả, lại túa ra đi tìm. Có đôi lúc các cô bảo mẫu tìm được bé trong tư thế ngồi ngủ co ro. Người bảo trợ cho bé Phúc là một người phụ nữ thâm thấp, chị ta rất ít nói, và cũng rất ít tiếp xúc với bé Phúc. Thi thoảng đến thăm, chị ta đứng nhìn bé Phúc từ xa, nghe những điều cần thiết từ người quản lý, rồi ra về. Dáng người thâm thấp ấy gợi cho Hiền Ân một cảm giác quen quen, cứ như cô đã gặp người này ở đâu đó rồi, nhưng không thể nào nhớ ra được. Chắc có lẽ trong hàng vạn người đi qua đi qua, một chút va chạm nào đó đã phết lại một nét mờ trong tâm trí cô vậy.

Bé Phúc ốm hơn tuần nay rồi. Nhưng không thể thông tin gì cho người nhà của bé. Số điện thoại của người bảo trợ thì không liên lạc được. Địa chỉ thì không có. Lòng Hiền Ân như lửa đốt. Tuy cơ sở cũng có một nguồn quỹ cho các bé, nhưng việc báo cho người nhà để hỗ trợ điều trị cũng như phần trách nhiệm thì dứt khoát không thể không làm. Thông thường người bảo trợ của bé một tuần đến một lần vào thứ bảy. Nhưng tuần trước đã không thấy, tuần này cũng vắng tanh. Bé Phúc cứ mê man trong cơn sốt li bì. Bé được chẩn đoán bị nhiễm vi rút cúm. Bé được cách ly khỏi những bé khác, và hầu như chỉ có một mình Hiền Ân lo lắng chăm sóc bé. Thỉnh thoảng trong cơn mê sảng, bé ú ớ một âm thanh gì không rõ. Những âm thanh ú ớ đó lại báo hiệu một sự phát triển khả quan khác. Nhưng trước mắt, bé phải khỏi bệnh đã. Càng trông ngóng, Hiền Ân càng thầm nguyền rủa những người cha mẹ vô tâm của bé “Các người đứt cả dây thần kinh liên hệ huyết thống rồi sao? Bé Phúc mà có mệnh hệ gì thì người làm cha mẹ như các người cũng đừng nên sống trên cõi đời này nữa.” Qua đến ngày thứ mười thì bé Phúc đã giảm dần những cơn sốt. Hiền Ân mừng như chính bản thân mình khỏi bệnh. Sự sống đang trở lại trên khuôn mặt xinh xắn của bé, kèm theo là những tiếng ú ớ càng nhiều hơn. Giữa lúc đó, Hiền Ân được thông báo là người nhà của bé đến. Vừa mừng vừa giận, cô định bụng sẽ mắng họ một trận cho hả.

Lờ mờ qua khung cửa sổ phòng quản lý, Hiền Ân thấy vóc dáng một người đàn ông. Có lẽ đây là cha đứa bé. Cô bước vào phòng trong tư thế sẵn sàng cất tiếng.

- Đây, cô Hiền Ân đây rồi. Giới thiệu với anh đây là cô bảo mẫu chính đã hết sức chăm sóc ngày đêm cho bé Phúc trong thời gian qua. Còn đây là anh Vũ, cha của bé Phúc đấy cô Ân ạ

- Dạ, xin hết lòng cảm ơn cô.

Gương mặt người đàn ông hướng về Hiền Ân phát ra một giọng nói. Gương mặt như ngẩng cao hơn người bình thường khi đôi mắt được giấu sau cặp kính râm màu nâu. Gương mặt ấy đã làm Hiền Ân bủn rủn cả chân tay. Cô túm vội cái tay ghế. Đột ngột hình ảnh người đàn bà thâm thấp vẫn liên hệ với tư cách là người bảo trợ hiện ra một cách rõ ràng. Hiền Ân chới với. Cô há miệng nhưng không thốt lên nổi một tiếng nào.Cô quản lý vội kêu lên:

- Cô Ân… cô Hiền Ân… cô làm sao thế ?

Gương mặt người đàn ông ngơ ngác, anh không hiểu có gì đang xảy ra. Cơn xúc cảm khiến Hiền Ân run lẩy bẩy, cô không thể chế ngự được cảm xúc của mình. Một thứ cảm xúc lẫn lộn rất nhiều tên gọi. Cô buông vật mình xuống cái ghế và cái khối chất chứa đang cuộn trào lên trong cô chợt bùng vỡ thành một tiếng kêu đau đớn “Ôi! Con tôi”. Những người có mặt cứ ngớ ra nhìn cô. Bất chợt Hiền Ân gượng chống tay đứng dậy, rồi cô lảo đảo lảo đảo đi như chạy về phòng bé Phúc. Cô nhào lên giường ôm chặt bé, khóc ngất, tiếng cô ngắt quãng trong cơn nức nở “Con ơi… mẹ đây… mẹ của con đây… trời ơi mẹ đâu ngờ con mẹ ra nông nỗi này… con ơi… cơn ơi…”. Cô quản lý chạy theo, khi đã chứng kiến cô chợt hiểu ra, cô vội vã quay lại phòng nơi có người đàn ông đeo đôi kính râm đang cố hình dung xem chuyện gì đang xảy ra.

- Cho phép tôi hỏi anh câu này, có thể hơi tế nhị một chút, nhưng nó rất liên quan đến cháu bé. Hy vọng anh…

Cô quản lý ngập ngừng, người đàn ông nhóng người lên cao một chút, vẻ lo lắng hồi hộp:

- Vâng, cô cứ hỏi đi ạ.

- Tôi muốn hỏi mẹ của cháu đâu ạ ?

Không ngoài dự đoán của cô, người đàn ông bất chừng chùng thấp người xuống, có gì như một tảng đá đè lên lưng anh. Những giây im lặng, cô quản lý kiên nhẫn chờ. Rồi biết rằng không thể không nói, người đàn ông run run giọng :

- Mẹ cháu… mẹ cháu đã đi xa từ khi cháu mới chào đời… nhưng…

Anh đột ngột im, hai bàn tay níu lấy chiếc gậy như níu vào một cái phao, cô quản lý vẫn im lặng chờ, cô dự cảm cô đã đi gần đến đích…

- …nhưng không phải lỗi của cô ấy.

Một hơi thở như phì ra sau cuối câu nói. Cô quản lý hít một hơi thật sâu rồi bảo:

- Tôi nghĩ anh nên về đi đã, có chuyện trao đổi tôi sẽ liên hệ với anh sau. Hiện bé Phúc đang phục hồi sức khỏe tốt, anh có thể yên tâm. À, nhưng anh phải để số điện thoại lại nhé. Lâu nay chúng tôi chỉ liên hệ qua người bảo trợ, đôi khi rất bất tiện.

- Vâng, cô ghi lại hộ tôi.

Người đàn ông đọc số điện thoại rồi đứng dậy ra về, trên gương mặt anh đọng rất nhiều dấu hỏi. Bất chợt, chiếc gậy dò đường của anh khua nhanh hơn.

Bà Yến Nguyệt ngồi thinh lặng, dõi mắt theo bóng nắng qua cửa sổ. Một nỗi buồn cứ ủ ê cứ trào mãi lên trong lòng bà. Nỗi buồn ấy đã như một thứ bệnh kinh niên kể từ ngày bà bị liệt nửa thân dưới sau một cú ngã cầu thang khá nặng. Mọi việc trong nhà gần như trông cả vào người vú nuôi, kiêm quản gia. Bà ngồi đấy, nhìn và nghĩ, nghĩ và buồn, buồn và khóc. Những giọt lệ cứ lặng lẽ tuôn dài trên má. Từ ngày đưa bé Phúc đi trung tâm điều trị, bà càng thấy nỗi buồn thăm thẳm hơn. Trong cái thăm thẳm ấy không chỉ có buồn mà còn hối tiếc, còn day dứt, còn những điều tự vấn đến sâu cay. Cũng còn may mà Thiên Vũ đã gượng dậy khá nhanh sau cú sốc ngày ấy, khi anh nhận thức được vai trò làm cha của mình. Miệt mài theo đuổi một lĩnh vực, Thiên Vũ cũng đã tìm được cho mình một chút thành quả và cũng là điều kiện phù hợp để anh lo cho đứa con bé nhỏ của mình. Ban đầu, anh cũng như mẹ anh, nghĩ rằng bé Phúc chỉ tổn thương phần nghe, nhưng rồi khả năng nói cũng ảnh hưởng theo, rồi những biểu hiện không bình thường như những trẻ nhỏ khác đã khiến anh mơ hồ biết con mình mắc một chứng bệnh gì đó. Một phần không có kiến thức nào về bệnh tự kỷ, một phần không muốn để lộ câu chuyện buồn của gia đình mình ra ngoài, cho dù đứa trẻ được công khai hóa trên danh nghĩa con nuôi. Một ngày có một người bạn đến nhà chơi, thế là bé Phúc được đưa đi chẩn đoán. Một thời gian dài lúng túng trong việc điều trị cho bé, bởi không phải là bệnh viện, cũng không phải là trường học, rồi anh nghe mách có một trung tâm cho các trẻ khuyết tật, trong đó có khoa tự kỷ. Để thuận tiện cho việc liên hệ, giao dịch, người quản gia trở thành người bảo trợ cho bé. Những ngày gần đây, bà ấy có việc ở quê nhà, về lâu hơn dự kiến, và thế là anh phải tìm đến thăm con. Tuy không thể nhìn thấy những gì đã diễn ra trong gian phòng ấy với cô bảo mẫu của bé Phúc, nhưng bằng vào một linh tính đặc biệt, Thiên Vũ lờ mờ đoán hiểu có gì đó đặc biệt nghiêm trọng đang xảy ra với con anh. Cô bảo mẫu ấy tên là Hiền Ân. Chẳng hiểu sao anh lại nhớ ngay tên cô ấy như vậy, chắc có lẽ khi nghe giới thiệu là người chăm sóc con anh tận tình thì anh có cảm tình ngay chăng? Và nữa, câu kêu thốt lên của cô “Ôi con tôi”...

- Mẹ. Mẹ nói cho con biết. Mẹ của bé Phúc tên là gì?

Bà Yến Nguyệt giật mình khi thấy con trai xộc vào và hỏi ngay.

- Có việc gì mà bỗng nhiên…

- Mẹ cứ nói ngay cho con nghe đi đã.

- Hiền Ân.

- Hiền Ân.

Thiên Vũ nhắc lại rồi rủn cả người, chiếc gậy trong tay anh rơi đánh cộp xuống nền nhà. Anh với với tay tìm một cái gì để bám. Bà Yến Nguyệt vội lăn xe đến bên cạnh đỡ lấy anh và hốt hoảng:

- Sao vậy con? Con gặp cô ấy à? ở đâu?

Thiên Vũ thấy khô khốc cả cổ họng, giây lâu anh mới phập phà :

- Cô ấy là cô bảo mẫu của bé Phúc gần hai năm trời nay rồi.

- Trời ơi!

Đến lượt bà Yến Nguyệt thất thần. Bà không thể tin được điều Thiên Vũ vừa nói là sự thật. Làm sao? làm sao lại có thể…

- Nó có biết không?

- Hình như cô ấy chỉ mới biết sáng nay, khi nhận ra con.

Đột ngột bà Yến Nguyệt chắp hai tay lên vái trời:

- Ơn trời. Ơn trời dun rủi cho mẹ con nó gặp nhau, tốt quá rồi, tốt quá rồi…

Thiên Vũ cũng nhắm nghiền hai mắt lại, trong lòng anh có một cái gì đó đang giãn ra giãn ra.

“Lần ngược vạn ngọn leo, vách đá chênh vênh con tìm mẹ

Ruổi ngàn cơn thác lũ, chơ vơ thuyền mỏng mẹ tìm con”

Hiền Ân bíu chặt bé Phúc không rời kể từ lúc cô nhận ra con mình, cứ như cô sợ lại một lần nữa ai giằng bé khỏi tay cô vậy. Cả đêm cô nằm ôm riết lấy con và khóc, khóc mãi. Gần sáng, cô quyết định một việc. Bây giờ thì chẳng còn cái thứ hợp đồng nào ngăn cản cô được nữa. Sau một ngày ngồi xe, cô phăm phăm đi đến ngôi nhà ấy. Trời đã về chiều, một chút nắng hoe hoe đang mờ dần sau ô cửa. Ngôi nhà hôm nay như cũng mang vẻ phập phồng một trạng thái. Hai mẹ con Thiên Vũ ngồi ở phòng khách suốt từ chiều. Họ biết. Không biết làm sao được. Cho dù Hiền Ân không một lời nói trước. Khi tiếng chuông cửa vang lên thì gần như cả hai cùng nhổm người. Thiên Vũ nhanh hơn. Cửa mở. Anh nói luôn mà không cần hỏi người đến là ai.

- Chào Hiền Ân. Chúng tôi đang chờ cô.

Hơi ngạc nhiên một chút, nhưng Hiền Ân cũng chào lại rồi bước vào nhà. Cô thật sự ngạc nhiên khi thấy bà Yến Nguyệt ngồi trên xe lăn, lăn đến nắm lấy tay cô, bà không nói gì chỉ hai hàng nước mắt trào ra. Hiền Ân không hề chuẩn bị tâm lý cho cuộc diện này. Thay cho tâm trạng phẫn nộ với bao lập luận để đòi lại con, thì cô như buông thõng mình trước tình cảnh. Bây giờ thì không phải là cô nói. Mà là Thiên Vũ. Anh rót nước mời cô khi cô đã ngồi xuống ghế.

- Có lẽ chúng ta không nên để mất thêm một chút thời gian nào nữa. Bởi bé Phúc đã mất quá nhiều thời gian rồi. Nếu Hiền Ân muốn…

- Tôi thành thật xin lỗi cô, tôi cũng không thể ngờ cớ sự lại thế này. Nếu…

- Thôi mẹ, đừng nếu nữa. Nói thật với Hiền Ân, tôi đã muốn trả ngay bé cho cô khi nó mới được mang về đây. Nhưng tôi không thể chủ động được việc đó, về sau chúng tôi có đi tìm cô nhưng cô đã không còn ở chỗ cũ. Nên không thể nào liên hệ được. Bây giờ, như cô đã biết, bé Phúc rất cần có mẹ. Cho dù tôi có là cha nó, thì mọi việc về nó cũng xin tùy cô định liệu. Cô có thể yêu cầu bất cứ điều gì cô muốn.

Hiền Ân im lặng, cô hết nhìn Thiên Vũ lại nhìn bà Yến Nguyệt, tâm tư cô muôn vàn xáo động. Cô chưa cất lên một tiếng nào, bởi những gì cô dự định nói thì đã không cần phải nói nữa rồi. Diễn biến của sự việc xảy ra ngoài dự kiến của cô đã làm cô trong phút chốc không biết nên xử trí ra sao? Tất nhiên là cô hiểu rõ, không chỉ cuộc đời bé Phúc, con cô thuộc về cô, mà cả những người có liên quan mật thiết với con cô cũng như đang chờ sự phán xử của cô. Còn cô, bản thân cô đang muốn gì? Xét về một khía cạnh nào đó, cô cũng có hơn gì họ trong chuyện này đâu. Sự mất mát. Đó đang là hệ quả chung cho tất cả. Mọi oán trách giờ không có chút nghĩa lý gì nữa, khi ngọn nguồn câu chuyện nó đã được bắt đầu từ tận đẩu đâu rồi, mỗi người bây giờ chỉ mang nhiệm vụ viết tiếp nó thôi, vậy nên viết tiếp nó thế nào bây giờ?

Bà Yến Nguyệt là người nhận ra bóng tối đã bao trùm căn phòng. Bà lăn xe đến công tắc đèn, ánh sáng chói loà như vụt đánh thức những mảnh hồn đang liêu phiêu. Bà nói đúng với vai vị một chủ nhà:

- Chuyện gì thì chuyện. Ra sao thì ra. Ăn nghỉ thì vẫn phải ăn nghỉ chứ nhỉ.

Chiếc xe lăn lọc cọc xuống bếp. Từ đó vang ra tiếng va của các vật dụng nhà bếp. Hiền Ân cũng chợt nhớ ra thực trạng của mình. Cô đang đói, và mệt nữa, sau một chuyến đi dài, và Thiên Vũ cũng kịp nhớ ra điều đó. Anh nói :

- Cô đi tắm rửa cho khoẻ đã. Cả ngày đường chắc cô đã mệt rồi.

- Vâng, có lẽ thế.

Vừa nói, Hiền Ân vừa đứng dậy cầm chiếc túi xách ra nhà sau. Chiếc bàn ăn ba người. Hiền Ân thoáng cay mắt khi chứng kiến cảnh người mẹ ngồi xe lăn, cố nhổm người để gắp thức ăn vào bát cho con trai. Nghĩ đến bé Phúc, cô nhói lòng. Trời ạ. Vì đâu mà thành ra thế này? Chẳng lẽ ông trời hết vui hóa giận, khoanh tròn những số phận bươu đầu mẻ trán này vào nhau. Lý do của ông là gì? Khi mỗi một người ra đời, đã có sẵn những mắt xích kết nối, và lại tiếp tục thêm vào đời những mắt xích khác từ mình. Không dễ gì tìm ra một nguyên nhân khúc triết về sự có mặt của mình trong đời sống và những mối tương quan. Việc chủ động có thể là tạo được sự thiện ích tốt nhất giữa những mối tương quan ấy. Sau bữa cơm, phụ dọn rửa và vài câu chuyện thăm hỏi, Hiền Ân lấy cớ mệt xin phép đi nghỉ trước. Cô cần một không gian yên tĩnh cho những suy xét cân nhắc và quyết định. Một đêm gần như thức trắng với cả ba người. Sáng ra, ba gương mặt có ba nét biểu cảm khác nhau. Bà Yến Nguyệt thì không giấu hết được vẻ bồn chồn chờ đợi, Thiên Vũ thì bình thản, nhưng đôi lông mày rậm của anh thỉnh thoảng khẽ cau lại, nét mặt của Hiền Ân thì nhẹ hơn hôm qua rất nhiều. Một bữa sáng gọn nhẹ hầu như chỉ cạn thức uống là chính. Và rồi, không thể trì hoãn hơn cái giờ phút phải đến. Hiền Ân phát ra một thanh âm chuẩn bị, hai luồng thính giác hướng vào cô.

- Thưa bác và thưa anh Vũ. Những chuyện đã qua không cần phải nhắc lại hay đổ tại bất kỳ ai làm gì. Lúc này chúng ta chỉ nên nghĩ đến một điều, đó là cuộc sống của bé Phúc cũng như mỗi người trong chúng ta đây phải làm thế nào để có thể sống được một cách dễ chịu nhất. Phải không ạ? (Ánh mắt bà Yến Nguyệt như le lói một niềm hy vọng) Và cho dù có thế nào, thì bé Phúc vẫn cần có đủ cả cha lẫn mẹ…

Hiền Ân hơi ngập ngừng, Thiên Vũ nắm chặt mép bàn, sự căng thẳng lộ rõ trên gương mặt anh. Bà Yến Nguyệt khấp khởi:

- Ý con là…

- Dạ, nếu…

- Không phải nếu gì cả, ta thật lòng mang ơn con, nếu con coi đây là ngôi nhà thật sự của con. Đây quả là điều ta không dám mong đợi, nhưng nếu con đã không chê...

- Không, con không dám chê… chỉ là…

Cái danh xưng thân mật đột ngột ấy làm biến chuyển cả một vùng không gian ảm đạm trước đó. Nhưng cánh cửa vẫn còn vướng chiếc then cài, chiếc then cài ấy đang nằm trong tay người đàn ông kia. Những xúc cảm ập đến xáo trộn khiến Thiên Vũ như bất động trong một tư thế. Giây lâu, anh nhận ra quanh anh đang có một sự im lặng, sự im lặng như chờ đợi, như thúc giục, như van vỉ, và anh lắp bắp…

- Hiền Ân…liệu tôi có…có thể…

- Anh có thể, hoàn toàn có thể, suy cho cùng, trong mỗi chúng ta đều có những bất bằng mặc nhận. Vậy thì tại sao không, khi ta có thể giúp nhau đi trên quãng đường phía trước một cách thuận hợp, và cũng là cách tốt nhất cho con chúng ta chiến thắng được bệnh tật mà lẽ ra nó đã không phải gánh chịu. Trước mắt, chúng ta hãy sống vì bé Phúc đã.

Thiên Vũ quờ hai tay về phía Hiền Ân, cô đón lấy bàn tay anh, anh nắm chặt, nắm thật chặt, giọng anh bổi hổi: “Cảm ơn em” Bà Yến Nguyệt lã chã hai dòng lệ, trái tim người mẹ như một lần nữa được hồi sinh.

Sau những năm... Vào buổi tối sinh nhật lần thứ mười lăm của cậu bé Trần Thiên Phúc. Trên chiếc bàn được trang trí thật đẹp có bánh có hoa có nến, có cả những gói quà. Thiên Phúc được mặc một bộ quần áo thật đẹp theo kiểu công tước hoàng gia Pháp, chiếc nơ đỏ thắt ngay cổ áo khiến cho gương mặt trắng trẻo tròn trịa dưới những lọn tóc xoăn như thêm khí sắc. Trông cậu hôm nay có gì đó khác hơn mọi ngày, chắc là cậu hiểu được cái ngày vui của cậu. Không chỉ có thần sắc của cậu bé sáng láng, mà trên những gương mặt người thân của cậu đều hoan hỉ niềm vui. Không hoan hỉ làm sao được khi bao kỳ công qua các liệu pháp, với sự phối hợp chặt chẽ của tất cả mọi người, tình trạng cậu bé tiến triển rõ rệt từng ngày. Đến lúc này, cậu không còn cách một đứa trẻ bình thường là mấy nữa. Cậu cười khi mẹ cậu bật nhạc và cả ba cậu, bà nội, bà ngoại cậu cùng vỗ tay hát to bài hát Chúc mừng sinh nhật. Cậu cười, nét cười thật tươi, thật rỡ ràng. Rồi cậu kéo tay mẹ cậu, đưa cho mẹ mẩu giấy, Hiền Ân mở ra “Con muốn tặng quà cho hai bà, và ba mẹ”. Nét chữ tuy có hơi liêu xiêu một chút, nhưng đủ làm Hiền Ân mở to mắt ngạc nhiên xen lẫn vui mừng. Đây là câu đầu tiên, cậu viết mà không cần mẹ viết mẫu. Hiền Ân đọc to lên, bà ngoại bà nội cậu và Thiên Vũ cũng hết sức vui mừng.

- Ôi Thiên Phúc của bà, sinh nhật cháu mọi người phải tặng quà cho cháu chứ. Sao cháu lại muốn tặng quà cho mọi người?

- Con muốn tặng gì cho hai bà và ba mẹ nè?

Thiên Vũ hồ hởi hướng về phía con trai hỏi. Cậy bé gật gật, rồi đưa ngón tay lên môi ra dấu im lặng. Mọi người nín thở chờ. Môi cậu bé run run, rồi mấp máy mấp máy:

- Bà nội. Bà ngại. Ba. Mẹ.

Giọng nói hơi đơn đớt, thực sự là chưa được chuẩn âm, nhưng nó phát ra thật chậm, chắc và thật rõ ràng. Sự im lặng đến nín thở ấy đột ngột bùng vỡ, và cậu bé Thiên Phúc bị cuốn vào hết vòng tay người nọ đến người kia. Họ cười. Họ khóc. Họ khóc. Họ cười. Khóc khóc cười cười. Cười cười khóc khóc. Trời ơi là trời !!!

Đàm Lan

 
|  51 |
 52 |
 53 |
 54 |
 55 |
 56 |
 57 |
 58 |
 59 |
 60 |
 61 |
 62 |
 63 |
 64 |
 65 |
|  66 |
 67 |
 68 |
 69 |
 70 |
 71 |
 72 |
 73 |
 74 |
 75 |
 76 |
 77 |
 78 |
 79 |
 80 |
|  81 |
 82 |
 83 |
 84 |
 85 |
 86 |
 87 |
 88 |
 89 |
 90 |
 91 |
 92 |
 93 |
 94 |
 95 |
|  96 |
 97 |
 98 |
 99 |
 100 |
 
|  51 |
 52 |
 53 |
 54 |
 55 |
|  56 |
 57 |
 58 |
 59 |
 60 |
|  61 |
 62 |
 63 |
 64 |
 65 |
|  66 |
 67 |
 68 |
 69 |
 70 |
|  71 |
 72 |
 73 |
 74 |
 75 |
|  76 |
 77 |
 78 |
 79 |
 80 |
|  81 |
 82 |
 83 |
 84 |
 85 |
|  86 |
 87 |
 88 |
 89 |
 90 |
|  91 |
 92 |
 93 |
 94 |
 95 |
|  96 |
 97 |
 98 |
 99 |
 100 |
 
Netadong.com thiết kế