Hiện có 6 người xem / 2333065 lần xem
         info@sachvatranh.com       84 (0) 1 222 929 703        

VÀI CHI TIẾT VỀ KỲ HỌP NGÀY 12/7/2014

CỦA CÂU LẠC BỘ SÁCH XƯA & NAY

Mở đầu phiên họp, như thường lệ, Dịch giả Vũ Anh Tuấn đã giới thiệu với các thành viên mấy cuốn kim thư, cổ thư mà ông mới có. Hôm nay, cuốn sách đầu tiên mà Dịch giả Vũ Anh Tuấn giới thiệu với các thành viên là cuốn Thơ Mây Bạc đã được in xong. Cuốn thơ in khá đẹp, nhưng mọi người không hoàn toàn hài lòng vì một vài lỗi nhỏ trên bìa sách, và nhất là vì giá thành cuốn thơ hơi bị cao, và điều đáng buồn nhất là mọi người đã không được báo giá trước (vì nếu thấy giá quá cao thì chắc đã không chấp nhận in), tuy nhiên đây cũng là một bài học nhắc nhở mọi thành viên là dù họ có ở tuổi cổ lai hy đi nữa thì vẫn tiếp tục phải học… các kinh nghiệm của cuộc sống. Sau phần giới thiệu cuốn thơ, mọi người đã được thông báo số tiền phải trả theo số trang thơ của mỗi người trong cuốn thơ, và số cuốn thơ nhận được cũng theo số trang nhiều ít và số tiền phải trả.

Cuốn sách thứ nhì mà Dịch giả Vũ Anh Tuấn không phải giới thiệu, mà chỉ cho các thành viên xem là Tập Kỷ Yếu của Hội Các Người Sử dụng Tiếng Pháp ở trong có bài về “Trẻ Em Béo Phì” của một thành viên có mặt tại buổi họp là Bs. Nguyễn Lân-Đính, đồng thời cũng có một trang hình Bác Sĩ Đính trông rất bảnh lão. Sau khi cho mọi người xem cuốn sách và hình Bs. Đính, Dịch giả Vũ Anh Tuấn đã trao tặng tại chỗ cuốn sách cho Bs. Đính. Cuốn sách thứ ba mà Dịch giả Vũ Anh Tuấn giới thiệu với các thành viên là một cuốn sách nhỏ được in năm 1961 (53 năm trước) bởi nhà xuất bản thời danh Khai Trí của một người bạn đã quá cố là ông Khai Trí Nguyễn Hùng Trương. Cuốn sách mang tựa đề là “Luận Đề về Đông Dương Tạp Chí” và là một cuốn sách nhỏ nhưng chứa đựng những thông tin, những tài liệu rất hấp dẫn về các cụ Nguyễn Văn Vĩnh, Phan Kế Bính, và Nguyễn Đỗ Mục, cả ba cụ đều là những cây đa cây đề thứ thiệt trong Văn Học nước nhà. Dịch giả Vũ Anh Tuấn đã phải chi 120 đô mít cho cuốn sách nhỏ téo vì ông rất quý trọng cả ba cụ Vĩnh, Bính và Mục, đồng thời cũng biết rất rõ là hai tác giả Nguyễn Duy Diễn và Bằng Phong là những tác giả đáng tin cậy viết lách rất cẩn trọng. Cuốn sách thứ tư mà Dịch giả Vũ Anh Tuấn giới thiệu là một cuốn sách bằng Anh ngữ mới được in năm 1997, mang tựa đề là “Merriam Webster’s READERS’ HANDBOOK” (Cuốn Sổ Tay của Người Độc Giả). Cuốn sách dày 597 trang này là một cuốn sách chứa đựng và giải thích rành rẽ tất cả mọi từ và cụm từ về Văn Học, và sách được sắp xếp theo mẫu tự A.B.C… như một cuốn Tự Điển. Đây là một cuốn sách thật quý giá cho tất cả những ai yêu thích Văn Học, Văn Chương và cho người đọc biết về thật nhiều tác phẩm văn học, thật nhiều tác giả văn học, thật nhiều cơ quan, tổ chức văn học trên toàn thế giới. Giới thiệu cuốn sách xong, Dịch giả Vũ Anh Tuấn cho biết, cuốn sách này sẽ ở với ông cho tới ngày ông… đi hành hiệp, và mời tất cả các thành viên ai cần tra cứu thì xin cứ vô tư ghé nhà ông mà tra cứu.

Tiếp lời Dịch giả Vũ Anh Tuấn, anh Phạm Vũ đã lên nói về Cúp Bóng Đá Thế Giới và bài viết của anh trong Bản Tin.

Sau khi anh Vũ nói xong, anh Hữu đã lên giới thiệu một tác phẩm gần như là một vở Kịch mà nhân vật chính tên là Thủy Tiên, một dạng tự truyện trong đó nhân vật Thủy Tiên và mẹ nàng đi tìm người chồng, người cha bị mất tích. Sau đó anh ngâm tặng các thành viên một bài thơ.

Tiếp lời anh Hữu, anh Nhựt Thanh lên nói về cuốn “Đồng Âm Tự Vị” của tác giả Nguyễn Văn Mai xuất bản năm 1919.

Sau anh Nhựt Thanh, Bs. Nguyễn Lân-Đính lên khoe cuốn “Phở Việt” của Hội Ẩm Thực của Ts. Nguyễn Nhã đã tặng anh. Cuốn này Dịch giả Vũ Anh Tuấn cũng được tặng, và ông đã mang món Phở ngon này mời một Mẫu Hậu của ông dùng rồi thì phải!

Cuối cùng Lm. Triết đã công bố số tiền mỗi thành viên có thơ trong tập Mây Bạc phải trả theo số trang có trong sách, và để các thành viên có thơ ra nhận phần sách của mình và ẵm về. Buổi họp kết thúc lúc 11 giờ 15 cùng ngày.

Vũ Thư Hữu


MỘT ĐỜI VỚI SÁCH

LẦN ĐẦU GẶP SÁCH

Trên 70 năm đã trôi qua mà tôi vẫn không thể nào quên được một buổi sáng thật đặc biệt trong đời tôi. Buổi sáng hôm đó, khi vừa ăn sáng xong và sửa soạn đến trường, thì cha tôi gọi tôi lại và trao cho tôi một cuốn sách: Cuốn Lên Tám của Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu. Đó là một cuốn sách viết bằng thơ ngũ ngôn, và được minh họa bởi danh họa Mạnh Quỳnh. Sách có vài chục bài thơ ngũ ngôn viết cho một em nhỏ lên tám, để chỉ dẫn cho em cách thức sống ngoan, sống đẹp, và cách sống hiền hòa, lễ độ với anh em, cha mẹ, ông bà, cũng như với bạn bè, xóm giềng vv… Đọc những bài thơ dễ hiểu, dễ nhớ, và được xem những hình minh họa cực đẹp, tôi bị cuốn sách thu hút thật mãnh liệt, và bắt đầu biết yêu sách…

NHỮNG NGÀY ĐẦU CHƠI SÁCH

Tôi bắt đầu biết xin tiền cha tôi để mua sách, và cụ cho tôi một cách dễ dàng và dồi dào để tôi bắt đầu biết ghé thăm các tiệm sách một cách thích thú. Tôi thích cuốn Lên Tám và thấy quảng cáo là trước cuốn Lên Tám, còn có cuốn Lên Sáu, nên tôi tìm mua ngay và cũng thích cuốn Lên Sáu không kém gì cuốn Lên Tám. Và tôi bắt đầu chú ý tới các báo cho thanh thiếu niên có nhiều tranh ảnh đẹp tuyệt vời như Cậu Ấm Cô Chiêu, Học Sinh, Sách Hoa Mai, Sách Hồng, và nhất là báo Truyền Bá với những truyện vô cùng hấp dẫn, mà chỉ dạy cho những thiếu niên như tôi sống đẹp, sống hùng, không thèm láu tôm láu cá gian manh, chỉ phù suy, không thèm phù thịnh, biết thương người nghèo khổ yếu thế cô đơn, biết ghét bọn lưu manh, bọn cường hào ác bá… Ôi thật tuyệt vời, không hiểu sao sách hồi đó tuyệt vời thế!

Chỉ một thời gian ngắn, mới gần một năm, tôi đã có khá nhiều sách báo và đã biết cất chúng rất kỹ lưỡng trong một cái rương loại Cướp biển mà bà cô ruột tôi cho tôi. Tôi đã biết sắp thứ nào vào thứ ấy, số nhỏ, số đầu nằm dưới, số mới nằm trên, cực kỳ có thứ tự. Về sách thì tôi rất thích sách của các tác giả như Lê Văn Trương, Ngọc Giao, Tô Hoài, Vũ Bằng, Lan Khai, Nguyễn Công Hoan vv…

Khoảng hai năm sau, khi tôi lên mười, cái rương đã đầy ắp và cha tôi đã mua cho tôi một cái tủ để riêng trong căn phòng nho nhỏ xinh xinh của tôi, trong khi ba tôi và chú tôi thì có hai tủ sách to đùng để ngay nơi phòng khách cũng to đùng của họ. Hai tủ này một tủ đựng toàn sách bằng tiếng Pháp, loại sách dùng làm phần thưởng, bìa cứng, cạnh mạ vàng cực đẹp. Còn tủ thứ nhì thì toàn sách báo tiếng Việt, nhưng cha và chú tôi chưa cho tôi đọc và bảo phải chờ vài năm nữa mới được đọc.

Vì tôi được học trường tây (Henri Rivière, cạnh Bưu Điện Hải Phòng) từ lớp enfantin (tương đương với lớp mẫu giáo) rồi sau lại được học Trường Thày Dòng nên 14 tuổi tôi đã biết chút ít tiếng tây, và đã biết tìm đến các loại báo ảnh tuyệt vời của Pháp như Tarzan, Zorro, Vaillant, Intrépide vv…

Năm 16, tôi đã có thể đọc được các loại sách cho thanh thiếu niên của Pháp như Biliothèque Verte, Livre Rose, Aventure vv…

Và rồi cha tôi đã cho phép tôi được đọc các sách trong hai tủ của cha và chú tôi. Kể từ lúc đó tôi thật sự bơi lội, nhào lộn, vùng vẫy trong bể sách của nhân loại.

ĐẾN VỚI SÁCH CỔ

Tôi bắt đầu để ý tới cổ thư kỳ thư và bắt đầu tìm hiểu về các sách đó rồi bắt đầu tìm mua chúng, bắt đầu lục lọi các tiệm sách cũ. Tôi còn tra cứu các sách Pháp như cuốn Quid (cuốn đầu tiên ra năm 1957) để biết về giá trị đích thực của cổ thư Pháp, ví dụ như loại sách do các danh họa minh họa (Livres modernes de peintres), mỗi cuốn được bán đấu giá cả chục ngàn Euros, rồi những cuốn sách Pháp của các thế kỷ 19, 18, 17, 16, càng cổ càng quý, rồi tới loại sách của thế kỷ 15 của những năm 1400 khi Ngành In mới được phát minh bởi Gutenberg, với cuốn Kinh Thánh 42 dòng in năm 1455. Tóm lại tất cả những sách của những năm thuộc thế kỷ thứ 15, vào thời kỳ nghề in mới được phát minh, đều là cực quý, cực hiếm, cực mắc. Sau khi tìm hiểu tôi được biết là có tất cả khoảng 40.000 lần xuất bản, mỗi lần trung bình 500 bản, tổng cộng khoảng 20 triệu cuốn mà 45% là sách đạo (tôn giáo), 10% sách khoa học, 10% sách luật, 30% sách văn học, và 77% các cuốn sách này bằng tiếng La Tinh, chỉ có độ 4,5% bằng tiếng Pháp. Sau 6 thế kỷ, tìm được vài cuốn trong số 20 triệu cuốn đó cũng đã là một điều cực khó, phải có cơ duyên mới gặp được chúng. Cả đời chơi sách của tôi chỉ sưu tập được có khoảng 500 cuốn của thế kỷ thứ 19 và tiền bán thế kỷ thứ 20, cộng với vài cuốn của thế kỷ 17 và 16, mà trong những lúc hơi bị túng thiếu, tôi đã đành phải chia tay với chúng. Ngay lúc này 500 cuốn sách của tôi đã không CÒN DÍNH DẤP GÌ TỚI CÔNG ƯỚC BERNE VỀ BẢN QUYỀN, AI CÓ TRONG TAY CHỈ VIỆC KHAI THÁC CHẲNG PHẢI XIN PHÉP XIN PHIẾC GÌ NỮA…

Về sách tiếng Việt thì tôi đã có được một sưu tập kiếm hiệp gần 80 chục bộ, nhưng sau bị ông bạn thân là ông Khai Trí Nguyễn Hùng Trương xin mua lại, và vào những năm 80, do phân vân giữa đi và ở, tôi đã nhường cho ông ấy, sau khi đã đọc coi như chẳng để lọt cuốn nào, và còn nhớ như in mấy bộ lớn nhất và hay nhất như Bồng Lai Hiệp Khách, Giao Trì Hiệp Nữ, Âm Thanh Kiếm, Côn Lôn Tiểu Khách, Hoàng Giang Nữ Hiệp, Không Thanh Sư Tổ, Xich Huyết Kiếm, Long Hình Quái Khách vv… Hiện nay thì tôi còn một vài cuốn in bằng giấy bổi, có chữ ký và thủ bút của các tác giả và khoảng 200 cuốn sách trước và sau Giải Phóng mà tôi được các tác giả đề tặng, và một sưu tập Kiều đựng đầy một cái tủ cỡ 1.40 x 1.60… Nếu muốn kể các chuyến đi gần, đi xa của tôi để … tầm quý thư thì phải mất cả trăm trang giấy mới hết, và nếu muốn kể về những trường hợp buồn vui qua đó các quý thư, các Nàng Sách như tôi thường gọi các sách đó, đã đến với tôi như thế nào thì cũng phải mất cả trăm trang giấy khác (Tôi cũng đang trên đường hoàn tất Hồi Ký 60 năm Chơi Sách, và tôi tự nhủ sẽ hoàn tất cho bằng được trước ngày… đi hành hiệp!) Tóm lại sau 60 năm tôi vẫn yêu sách y như ngày đầu khi gặp cuốn Lên Tám cha tôi cho, và vì nhờ yêu sách, tôi đã đi vào một lãnh vực khác liên quan tới sách, giúp tôi có chút công để sau này kể với Mẹ Âu Cơ của tôi mà tôi yêu không kém Mẹ tôi.

ĐẾN VỚI VIỆC DỊCH SÁCH VĂN HỌC

Từ năm 1975 tới 1992, tôi không đi dậy học như các bạn tôi mà sinh sống bằng nghề dịch tài liệu ra ngoại ngữ (chủ yếu là tiếng Anh, chỉ năm chừng mười họa mới dịch tiếng Pháp). Nhờ dịch khá tốt nên tôi sống thoải mái không phải ngửa tay xin tiền “mấy đứa Mỹ bất đắc dĩ” con của ba bà xã của tôi đều đã di tản qua Mỹ, và bà Đệ Nhất và Đệ Tam đã về… Bển, chỉ còn bà Đệ Nhị là còn tại thế. Năm 1992, tôi được hai vị bạn rất thân và tốt là Quý Ông Lê Ngộ Châu, Chủ nhiệm tờ Bách Khoa nổi tiếng và Nhà Văn Dịch Giả Trần Phong Giao khuyên tôi nên bỏ việc dịch các tài liệu, hợp đồng vv… (vì các thứ này chỉ một thời gian sau là đi sọt rác) và quay sang dịch sách Văn Học để để lại những dứa con tinh thần cho đời và để sau này có công kể với Mẹ Âu Cơ. Tôi nghe lời khuyên của hai vị và bắt đầu bằng việc dịch một cuốn sách thuộc dạng nghiên cứu của hai cụ Huard và Durand là cuốn “Hiểu Biết Việt Nam” (Connaissance du Vietnam) bằng Pháp văn sang Anh văn. Tôi làm xong cuốn sách trong vòng ba tháng vì, đơn giản là dịch từ Pháp sang Anh vô cùng dễ, nhất là với văn phong trong sáng của hai vị thành viên Trường Viễn Đông Bác Cổ, mà tôi đã nêu tên ở trên. Cuốn sách đã được in và tái bản hai lần, nhưng đến nay cũng đã tuyệt bản, và khi mới xuất bản và được phổ biến lần thứ nhất vào năm 1992, giá sách chỉ là 75.000 đồng, nhưng nay muốn kiếm được một cuốn người mua phải chi từ 5 tới 6 trăm ngàn, và ở nước ngoài giá cuốn này đã lên tới trên 100 Mỹ kim. Sau khi dịch xong cuốn sách nói trên, tôi được nhiều người biết đến và kết quả là từ năm 1992 tới nay tôi đã dịch được tổng cộng 20 cuốn trong đó có một bộ 5 cuốn sắp được in, và 16 tác phẩm đã được in và phổ biến trong đó có tập thơ Bốn Mùa của nhà thơ Trần Nhuận Minh dày tới trên 8 trăm trang… Một điều đáng nói là tất cả các tác phẩm dịch thuật của tôi đều “Thuần Việt”, không hề có hơi hướm anh tây chị mẽo nào, và cũng không hề có ai hiệu đính hiệu điếc gì cả. Còn về mặt viết lách thì tôi chỉ có một tác phẩm duy nhất, một truyện tình mang tựa đề là “Hảo Mộng” do nhà xuất bản Văn Nghệ ấn hành năm 2009. Vì không phải là người tham lam, nên nay khi đã mới “hết hai mươi tuổi có lần thứ tư”, tôi cảm thấy mình đã đóng góp quá đủ và đã có chút công để kể với Mẹ Âu Cơ, nên đã quyết định giã từ việc dịch sách, để dành những năm tháng còn lại cho thú vui đọc những cuốn sách tôi yêu thích mà chưa có thì giờ đọc.

LO TÌM NGƯỜI KẾ NGHIỆP

Tôi có một số con và cháu là “Mỹ bất đắc dĩ” nên họ đều ở Mỹ, và không có một ai trong số họ chú tâm tới chơi sách, yêu sách, và khi tôi ngỏ ý muốn để lại sách cho họ thì tất cả đều từ chối, và cho biết là cần sách gì họ chỉ cần lấy từ trên mạng xuống…

Thế là tôi cũng đang lâm vào hoàn cảnh của rất nhiều người chơi sách, yêu sách mà không có người nối nghiệp. Tôi đã chứng kiến tận mắt ngày tàn của biết bao tủ sách của những người yêu sách, chơi sách. Tôi đã thỉnh thoảng lại mua được ở các tiệm sách cũ những cuốn sách có chữ ký của ông cụ Vương Hồng Sển, và nhiều cuốn sách có dấu triện son của người chơi.

Khác với họ, tôi không giữ sách cho tới lúc ra đi rồi phó thác vận mệnh của sách cho may rủi. May thì được gặp người biết trân quý sách, không may thì gặp anh trọc phú chỉ biết nhốt vào tủ để trưng, đâu có khác chi thân phận cung nữ bị nhốt ở lãnh cung. Và có một điều chắc như bắp là các tủ sách không người nối nghiệp đều bị phân chia tứ tán, khiến cho những cuốn sách đã từng ở bên nhau cả vài thập kỷ nay đành chịu cảnh chia ly cách biệt!

Những sách tôi đã mua đều là những cuốn tôi cảm thấy ưa thích, không phải bạ sách chi cũng mua. Tôi đã từng mua cả tủ sách của người này người nọ, nhưng những trường hợp đó tôi cũng chỉ lựa ra tất cả những cuốn tôi yêu thích và bán tống bán tháo những cuốn không được chọn lựa.

Hiện nay tôi đang lo tìm người thích hợp (không nhất thiết phải là người thật giàu có) nghĩa là người biết trân quý, yêu sách, sử dụng sách như tôi để nhường lại một sưu tập Kiều để đầy một cái tủ 1m40 x 1m60 chiều cao, gồm khoảng 100 cuốn Kiều trong đó có 30 cuốn thời chế độ cũ và thời tiền chiến, gần 300 cuốn và bộ sách thuộc đủ lãnh vực có chứa đựng tài liệu về Kiều và Cụ Nguyễn Du, và khoảng 1000 thứ báo kim cổ (phần lớn là kim) có chứa đựng các bài viết, hình ảnh về Kiều.

Tôi cũng đang lo tìm người hoặc tổ chức nào biết khai thác 500 cuốn sách cổ hồi thế kỷ 19 và tiền bán thế kỷ 20 (tất cả đã thành của chung, không còn dinh dấp gì tới Công Ước Berne về bản quyền, ai có trong tay cứ việc toàn quyền khai thác).

Tôi đã có được những sách đó bằng đồng tiền mồ hôi nước mắt, đã vui sống với những sách đó trong 6 thập kỷ, bây giờ trước lúc đi hành hiệp (mặc dù cũng còn khá lâu theo ý muốn của các Mẫu Hậu của tôi), tôi cảm thấy cần phải nghĩ tới việc lo cho những cuốn sách thân yêu của tôi một tương lai ấm áp an toàn, ít ra cũng phải bằng những ngày chúng đã cùng tôi chung sống trong quá khứ…

Trích Hồi Ký 60 năm chơi sách, chương VI

Vũ Anh Tuấn

VÀI CHUYỆN VUI VUI

QUANH QUYỂN THƠ MÂY BẠC

Cuối cùng, sau bao nhiêu ngày tháng chờ đợi thì quyển Thơ MÂY BẠC của các thành viên CLB Những Người Yêu Sách Xưa & Nay cũng đã có mặt kịp thời vào kỳ họp thứ 98. Có một vài chi tiết vui vui xin được ghi lại.

Số là nhờ vào sự tận tình giúp đỡ của Linh Mục cố vấn CLB nên các thành viên không cần phải chạy đi chạy lại ký hợp đồng hay tiếp xúc với nhà in. Giá cả cũng không được biết, mà chỉ biết yêu cầu cho tập thơ in sao cho đẹp. Mỗi tác giả phải có một ảnh màu, thêm vào đó là mấy bức tranh tuyệt đẹp của Họa Sĩ Nguyễn Thị Tâm cho hấp dẫn. Vì thế, nên khi được thông báo là quyển Thơ đã in xong thì cũng đồng thời mới được báo giá. Trước lúc họp, mỗi người được phát 1 quyển để ngắm qua mặt mũi đứa con tinh thần của mình.

Ai cũng biết mấy nhà thơ thì quanh năm suốt tháng chỉ đùa với mấy con chữ. Ghét nhất là những con số khô khốc. Họ chỉ quen nói chuyện với trăng sao, với mây bay, lá rụng, hoa vàng, hoa tím. Vai em thon, dáng em gầy vv... và vân vân. Đâu có ưa nói tới chuyện tiền bạc, cơm áo… là chuyện tầm thường thế tục! Vì vậy mà Nhà thơ Nguyễn Bính, con gái chưa kịp chào đời đã phải gởi thơ dặn trước, sợ mai kia nó lỡ dại rước phải một anh nhà thơ mà khổ cả đời:

“Nhất kiêng đừng lấy chồng thi sĩ.

Nghèo lắm con ơi, khổ lắm con”

Bao nhiêu đó đủ hiểu rồi.

Chính vì lơ lửng trên mây, nên khi nghe nói giá của 1 quyển là 78.000đ, mỗi trang bình quân 186.000đ thì các Nhà Thơ như đang từ trên cung trăng hạ cánh cái bịch xuống cõi hồng trần mà không có bộ phận giảm sốc! Họ nhốn nháo hẳn lên. Mặt ông nào bà nấy xanh lét. Huyết áp tụt đâu mất. Họ nhao nhao hỏi xem ai còn nhớ mấy phép tính nhân chia trừ cộng để tính giùm xem mỗi người phải chi độ bao nhiêu, vì lỡ đưa vô khá nhiều bài thơ được cho là “đắc ý”. Lúc này có hối hận, muốn rút bớt cũng không còn kịp nữa rồi!

Nhà Thơ Hải Đăng Trần Văn Hữu cười mà miệng méo xệch, sau khi nghe báo là ông phải chi số tiền gần 4 triệu cho 20 trang Thơ. Ông nghĩ rằng chỉ 1 quyển thơ mà phải chi đến gần 4 triệu, nên cầm quyển Thơ lật tới lật lui, nói là mình từng dạy Toán mà tính không ra. Ông cầu viện Giáo Sư Tiến Sĩ Vũ Đình Huy cũng đang có mặt. May mắn Giáo Sư Huy một nửa là Nhà Thơ còn một nửa là nhà Khoa Học và không có thơ in chung trong đó, nằm “ngoài vùng phủ sóng”, nên chỉ “trong vòng một nốt nhạc” ông đã báo với Nhà Thơ Hải Đăng con số chính xác. Nhà Thơ Hải Đăng chưa kịp hoàn hồn thì cũng vừa đúng lúc Lm. Triết mang lại kết quả chi tiết cho từng tác giả, trong đó ghi rõ số trang nhân với giá đã báo, tương ưng với số Quyển Thơ được nhận. Có nghĩa là ai đóng nhiều tiền là sẽ nhận được nhiều quyển Thơ. Nghe vậy Nhà Thơ Hải Đăng mới tươi tỉnh lại. Ông nói phải chi từ ban đầu được thông báo đó thì ông đâu có hồn phi phách tán đến như vậy!

Vụ in Thơ thì bản thân tôi cũng đã từng kinh nghiệm. Vài năm trước, có lần Ô. Chủ nhiệm, Nhà Thơ Ngàn Phương và tôi định in chung 1 tập thơ. Sau khi hỏi giá xong bèn… lập tức bỏ ngay ý định, chỉ còn giữ lại mấy câu thơ để làm kỷ niệm:

Nghe giá in thơ bỗng hết hồn

“Thi hào thế kỷ”* mặt xanh dờn !

Tâm Nguyện hứng tràn, đâm cụt hứng !

Ngàn Phương còn có… Bốn trăm Phương !

Ấy vậy mà cũng chưa tởn. Nghe anh em bàn nhau in Thơ lại xông vô! Cũng may mà giá cả được báo sau khi “gạo đã thành cơm”. Nếu báo trước không biết ra sao. Không chừng các nhà thơ bỏ chạy mất dép, Mây Bạc không có dịp hội tụ!

Nói chung là Quyển Thơ nhìn cũng trang nhã, dù có một số chi tiết ở trang bìa không được hài lòng vì những chữ đáng ra cần in Hoa thì lại in thường. Đa phần những bài thơ trong đó đều thường thường bậc trung. Điểm son duy nhất là quyển Thơ có chứa một bí mật quan trọng chưa từng được tiết lộ. Là “Đỉnh cao của Thơ, trăm năm trước chưa có ai làm. Trăm năm sau chắc cũng không có ai dám bắt chước”, cam đoan sẽ còn ám ảnh những người đọc thơ dài dài, sẵn dịp, xin bật mí luôn.

Đó là Thơ của Chủ Nhiệm với trường phái Thiên Cữu độc đáo mà ông luôn tự hào, dù khiêm tốn đăng ở sau cuối. Tôi chắc rằng mọi người, cũng như tôi, khi đọc Thơ của ông sẽ thấy có một số bài tìm vần mãi mà không thấy, hoặc vần nọ xọ vần kia. Mang thắc mắc hỏi ông. Trước hết vì sao có tên là Trường Phái Thiên Cữu thì thay vì trả lời, ông ngâm cho tôi nghe 2 câu thơ rất ư là Thiên Cữu của Ông:

“Quốc Cữu là cậu anh vua

Thiên Cữu là cậu Ông Trời xanh xanh!”

Ai muốn hiểu sao thì hiểu. Thắc mắc về cách gieo vần của trường phái này thì được ông nghiêm mặt giải thích: “Tại bà không biết, thời này cái gì cũng có nguy cơ bị... “Đạo”. Hết đạo Văn, đạo Nhạc, đạo cả Luận án Tiến Sĩ, vì thế tôi phải cẩn thận phòng xa. Vần của bài này, tôi bỏ vào bài khác. Có bài thơ đã đăng, nhưng vần thì lại còn nằm ở… thì tương lai, trong một bài thơ khác, bí mật, không thể tiết lộ! Đó là cái bẫy của tôi. Do đó những kẻ dại mà đi đạo Thơ của tôi thì chỉ có nước chết chắc!”. Té ra là vậy. Nghe quá hợp lý, tôi chỉ còn biết tâm phục khẩu phục!

Ngay tại buổi họp là một màn các Nhà Thơ đi xin chữ ký lẫn nhau. Từ nào đến giờ các vị chỉ có ký trong Học Bạ cho con, hay ký vào mấy sổ đóng tiền ủng hộ của Tổ Dân Phố, nên lần đầu tiên được xin chữ ký với tư cách Nhà Thơ, mặt vị nào cũng tươi hẳn lên, rút viết ký tên một cách rất là hân hoan, bù lại phần nào những phút căng thẳng vừa qua. Kết thúc cuộc họp, mỗi Nhà Thơ mạnh ai nấy vác tác phẩm của mình về. Ông nào in nhiều bài, được chia nhiều quá thì vác đến muốn cụp xương sống. Cái này ai không tin cứ gọi điện hỏi Chủ Nhiệm thì rõ. Sau đó, nếu ai chịu khó theo dõi sẽ thấy… cảnh mang sản phẩm đi phân phối, vì Thơ vốn là “tình cho không biếu không”, ai lại đi nỡ bán tim óc của mình bao giờ! (xin lỗi, nói cho đỡ quê, chớ bán chưa chắc có ai mua!).

Chưa hết, cạnh đó là một tai nạn của Thơ! Đâu chỉ mấy Nhà Thơ mới lơ mơ. Lm. Triết chỉ tham gia đề tựa bằng 1 bài thơ Lục Bát chỉ có 8 câu cũng bị ảnh hưởng nên khi tính giúp cho các tác giả đã bị nhầm. Tổng kết lại bị thiếu gần 3 triệu!

Ông bà ta nói “Sai một con toán, bán một con trâu”. Lm. Triết thì không có trâu để bán nên định bỏ tiền túi ra đền, vì “bút sa, gà chết”! Nhà Thơ Hải Đăng có đến 20 trang, bị tính chưa tới 4 triệu mà còn khiếu nại, lẽ nào Lm. Triết chỉ có 1 bài Lục Bát ngắn ngủn mà phải trả giá đến gần 3 triệu đồng! Hóa ra thơ của Ngài cao giá nhất sao? Đâu có được. Vụ này chắc mấy Nhà Thơ sẽ họp bàn để đòi quyền bình đẳng thôi.

Tóm lại, quyển Thơ vừa in xong là đã thấy “hot” rồi, vì ai nấy đang như lửa đốt trong lòng, không biết về nhà sẽ vay nóng vợ như thế nào để trả tiền in đây! Rồi thì nếu ai tinh ý sẽ nhận ra là sau đó không khí của thành phố bỗng dưng trong lành hẳn ra. Chả là vì trước đây để tìm thi hứng, các nhà thơ đã hút thuốc, nhả khỏi liên tục như đầu toa xe lửa thời chạy bằng than đang gồng mình lên dốc. Vợ có khuyên cũng đâu thèm nghe. Vì có hút thuốc mới có hứng. Nhưng kể từ khi quyển thơ được in ra thì có lẽ nhiều nhà thơ phải nhịn hút thuốc ít ra là cũng vài năm. Nhưng thay vì theo lời ông bà “nhịn thuốc mua trâu” thì dùng đó để trả tiền đã ứng trước để In Thơ! Các phu nhân thì càng mừng hơn, vì bỗng dưng chồng ngoan hẳn ra, “cai thuốc tự nguyện”. Rồi thì có thèm “Phở” mấy cũng đành ăn trong tưởng tượng, vì tiền còn đâu mà mua! Các bà lại thêm an tâm. Hạnh phúc gia đình càng được nhân lên. Chính vì vậy mà tôi nẩy ra sáng kiến: Thay vì cấm hút thuốc thì xã hội nên mở trường đào tạo các nhà thơ, và khuyến khích làm thơ, in thơ càng nhiều càng tốt. Đó cũng là một biện pháp làm trong sạch hóa, lành mạnh hóa môi trường, bảo vệ hạnh phúc gia đình một cách rất hữu hiệu, đầy tính văn hóa mà ít tốn công, tốn sức nhất. Một mũi tên mà bắn đến mấy con chim. Quá lời!

Bỗng dưng thấy mình thông minh đột xuất, tôi tự nghĩ không biết có nên đăng ký tranh giải “sáng kiến hay nhất trong năm” không? Và tôi tin sáng kiến này có thể áp dụng về lâu về dài, không bao giờ bị lạc hậu, vì thời nào mà chẳng có những người thích làm thơ. Không tin cứ vô CLB Những người Yêu Sách Xưa & Nay mà xem. Trong đó 10 thành viên thì hết 9 là nhà thơ rồi đó. Mà toàn là NHÀ THƠ LỚN (tuổi) mới ghê chứ !

Tâm Nguyện

(Tháng 7/2014)

(*) Tước vị tự phong của Chủ Nhiệm

DESCARTES

NHÀ KHOA HỌC BỊ LÃNG QUÊN

Ra đời cách đây 400 năm, René Descartes đã có ảnh hưởng lớn lao trong lãnh vực triết học, nhưng những công trình khoa học của ông hầu như đã bị quên lãng. Tuy nhiên, ông đã có nhiều trực giác thiên tài và có những dự cảm về vũ trụ của thuyết tương đối.

Tại trường dòng La Flèche ở Sarthe (Pháp), nơi ông học từ năm 1607 đến năm 1615, René Descartes “thích nhất môn toán”. Đến tháng 11/1619, Descartes đã có một giấc mơ kỳ lạ: ông thấy mình bị nhốt trong một gian phòng bị nung nóng, và ông đang háo hức khám phá ra những điều cơ bản của môn toán.

Đến năm 1620, ông đề ra định luật quang học trứ danh. Định luật này hiện nay vẫn là đề tài tranh cãi chung quanh Descartes, mà nhiều người coi là kẻ “lừa dối đáng xấu hổ” và “có lòng kiêu ngạo thái quá”. Nếu tìm trong bộ Bách khoa toàn thư của Anh (Encyclopedia Britannica), chúng ta sẽ thấy rằng định luật khúc xạ ánh sáng có tên là “định luật Snell”, dựa theo tên của nhà toán học và nhà thiên văn Hà Lan Willebrord Snell (1581-1626). Định luật này cũng không được nhắc đến trong mục nói về Descartes và học thuyết của ông. Thế mà trong tự điển Bách khoa Larousse, người ta tìm được định luật đó trong danh mục Descartes, mà chẳng hề thấy tên của Willebrord Snell. Và cũng trong Bách khoa toàn thư của Anh, người ta sẽ tìm thấy một tên tuổi: Thomas Harriot (1560-1621), nhà thiên văn và nhà toán học Anh đã từng nêu ra định luật khúc xạ ánh sáng trước Snell. Có trời mới hiểu được vì sao!

Một trong những đóng góp khoa học quan trọng nhất của Descartes là hình học giải tích, tức là phương pháp mô tả các dạng hình học bằng những công thức toán học và ngược lại. Ông cũng muốn triển khai tính đúng đắn của toán học cho toàn thể mọi tri thức và lập nên một ngành toán học phổ quát, nhưng cuối cùng ông nản chí. Thế giới vật lý của ông quá phức tạp nên khó dung nạp một cách biểu hiện bằng toán học.

Năm 1628, ông bắt đầu soạn thảo quyển “Khảo luận về thế giới”, trong đó ông đồng ý với lý thuyết nhật tâm của Copernic và Galilée. Khi chuẩn bị ấn hành cuốn sách này, ông được tin Galilée vừa bị Tòa án Giáo hội kết tội và bắt buộc phải “nguyền rủa và khinh ghét chuyển động của trái đất”. Trong một bức thư gởi cho tu viện trưởng Marin Mersenne, một nhà khoa học Pháp (1588-1648), Descartes tỏ ý ngạc nhiên rằng một cố gắng nhằm nêu lên chuyển động của trái đất lại bị Tòa án Giáo hội lên án(*). Ông nói thêm rằng nếu quan niệm đó sai lầm, toàn bộ nền móng trong triết học của ông cũng sai nốt. Vì vậy ông từ bỏ ý định in quyển “Khảo luận về thế giới”.

Quả thật vào thời đó, người ta không thể xem thường Tòa án Giáo hội. Năm 1600, nhà triết học Ý Giordano Bruno đã bị đưa lên giàn hỏa vì dám khẳng định rằng trái đất quay xung quanh mặt trời, và có nhiều mặt trời khác cũng như những hành tinh khác có sự sống. Năm 1616, Tòa án Giáo hội lại lên án một quyển khảo luận của tu sĩ Ý Foscarini vì ông muốn kết hợp thuyết nhất tâm với các giáo điều trong Kinh thánh. Năm 1619, Giulio Cesare Vanini lại bị thiêu sống tại Toulouse vì trong quyển “Những bí mật của thiên nhiên”, vị tu sĩ triết gia này đã khẳng định rằng con người là một sinh học có suy nghĩ.

Phải chăng Descartes đã nghĩ ra một thế giới kỳ lạ (đối với nhiều người đó là dự cảm về vũ trụ theo thuyết tương đối ngày nay) để điều chỉnh lý thuyết của ông cho phù hợp với quan điểm của Giáo hội? Theo ông, vũ trụ vật lý hoàn toàn được cấu tạo bởi vật chất, không có khoảng trống. Bản thân vật chất là bất động. Chính Thượng đế đã ban cho vật chất sự chuyển động, và lượng chuyển động đó là giống nhau theo thời gian. Nguyên nhân duy nhất của các hiện tượng vật lý là sự va chạm dẫn truyền chuyển động từ vật thể này sang vật thể khác.

Vũ trụ của Descartes bao gồm các hành tinh bị kéo vào trong dòng xoáy vật chất mà mặt trời là trọng tâm. Chính những hành tinh đó cũng là tâm của các dòng xoáy kéo theo những vệ tinh của chúng. Ông viết: “Tất cả những hành tinh luôn lơ lửng giữa những phần giống nhau của vật chất”. Thế là xong: trái đất vẫn bất động. “Người ta sẽ không tìm thấy trên trái đất hay các hành tinh khác một chuyển động nào theo nghĩa chính xác của từ ngữ đó bởi vì chúng không bị lôi kéo vào gần các phần vũ trụ tiếp xúc nhau, một khi chúng ta xem những phần này như đang đứng yên”. Đây là một trò ảo thuật hay trực giác về một nguyên lý tương đối? Hiện nay người ta vẫn còn tranh cãi về vấn đề này. Dù sao hệ thống thế giới đó của Descartes đã không còn trái ngược với giáo điều trái đất đứng yên của Giáo hội nữa.

Dù có khuynh hướng xóa bỏ những thành tựu của những người đi trước, nhưng Descartes vẫn có một nhãn quan canh tân và táo bạo. Ông xuất phát từ một công thức nổi tiếng: “Tôi giả sử rằng cơ thể chỉ là một pho tượng hay một cỗ máy bằng đất”. Là tác phẩm của Thượng đế, cỗ máy đó, dù là người hay loài vật, cũng giống như mọi vật trong thiên nhiên, hoạt động bằng cách chuyển hóa chuyển động mà Thượng đế đã ban cho đến lúc chết, giống như một người máy bị mất lò xo. Ông mô tả sự tiêu hóa bằng những thuật ngữ cơ học và hóa học. Trong vấn đề tuần hoàn, theo Descartes, máu lưu chuyển bởi vì tim là một trung tâm đun nóng máu không ngừng, một trung tâm với lửa không phát sáng, giống như “lửa” của nho đang lên men. Ông cho rằng máu mang theo nhiều “vi thể” nhẹ, lên đến não rồi chạy khắp các dây thần kinh và biến đổi hình dạng của những cơ bắp. Khái niệm này giống như khái niệm về các chất dẫn truyền luồng thần kinh và hormone thần kinh hiện nay. Descartes đưa ra khái niệm lưỡng cấp trong thiên nhiên nghĩa là sự phân biệt giữa các sinh vật chỉ là cỗ máy với các sinh vật có tâm hồn như loài vật và con người. Tinh thần không phải là sản phẩm của cơ thể, nó là một thực thể tồn tại độc lập với cơ thể.

Ông cũng có nhiều ý tưởng hiện đại, nhất là về việc chuyển đạt và nhận thức hình ảnh thị giác, và sự phối hợp giữa các giác quan. Ông phân tích tỉ mỉ thị giác dưới góc độ giải phẫu học và sinh lý học. Ông mô tả hiện tượng khúc xạ ánh sáng trong thủy tinh thể, sự điều tiết của thủy tinh thể tùy theo khoảng cách của vật quan sát và sự khép mở của đồng tử tùy theo độ sáng. Người ta cũng thấy ở Descartes khái niệm, mà ngày nay đã trở nên rõ ràng, về sự giao thoa của các xung điện thần kinh: chẳng hạn như một yếu tố kích thích thị giác quá mạnh có thể giao thoa với một yếu tố kích thích khứu giác.

Trí nhớ, khả năng cho phép tái hiện lại trong tuyến tùng những sự vật đã từng trông thấy trước đây, cũng được giải thích theo cơ học. Descartes so sánh tuyến tùng với một tấm màn bị nhiều cây kim đâm thủng để cho phép những “vi thể” đi qua. Khi rút kim ra, các lỗ thủng vẫn còn đó; và dù có che đi, chúng cũng dễ dàng mở ra trở lại.

Descartes đã gần như xác định được trọng tâm của vấn đề khi chọn tuyến tùng như trung tâm của sự liên lạc giữa thể xác và tâm hồn. Ngày nay, người ta biết rằng trung tâm này nằm hơi chệch về phía dưới, trong tuyến yên, và được coi là cơ quan thu nhận các hormone thần kinh do tuyến dưới đồi tiết ra.

Như vậy, câu hỏi đặt ra là: khoa học của Descartes còn lại gì? Ngoài các công trình về quang học và hình học giải tích, khoa học hiện đại chỉ còn giữ lại một vài luận điểm khoa học của ông. Tuy nhiên, vào năm 1971, triết gia Georges Canguilhem đã nhấn mạnh đến dấu ấn của Descartes trong các quan niệm cơ học về sự sống trong quyển “Kiến thức về sự sống”. Vào thời điểm đó, người ta còn chưa nói đến công nghệ di truyền hay giải mã hệ gène của con người, nhưng hiện nay dự án “đặt con người vào công thức” đó đang tiến những bước vĩ đại. Có lẽ Descartes sẽ rất thích thú, nhưng đồng thời cũng sẽ rất bực mình vì ông không phải là người sáng chế ra trò lắp ráp đó về sự sống.

MINH LUÂN

(Theo Science & Vie 04/1996)

ĐỖ THIÊN THƯ st

(*) Vào thế kỷ 17, Giáo hội chỉ công nhận thuyết địa tâm (thuyết cho rằng trái đất là trung tâm) của nhà thiên văn Ptolémée nên Tòa án Giáo hội được lập ra để xét xử những kẻ theo tà thuyết đã lên án tất cả những nhà khoa học theo thuyết nhật tâm (thuyết cho rằng mặt trời là trung tâm) của Nicolas Copernic (trong số này đáng chú ý nhất là Galilée và G. Bruno).


NGƯỜI BẠN

Ở BUỒNG KỀ BÊN

(Tình bạn của Puskin thuở học trường Lixei Hoàng Thôn)

Thúy Toàn

Thi hào Nga Alecxandr Sergeevich Puskin sinh vào cuối thế kỷ XVIII ngay trước thềm của thế kỷ mới – thế kỷ XIX, vào ngày 6 tháng sáu năm 1799, tại Moscova.

Năm tháng tuổi thơ cậu bé Alecxandr Puskin, được gọi thân mật là Xasa, sống bên cha mẹ, được dậy dỗ, học hành tại nhà. Theo nếp sống trong nhiều gia đình quý tộc Nga thuở ấy, giao tiếp trong nhà họ đều dùng tiếng Pháp, bảo mẫu, gia sư được thuê mướn phần lớn là người nước ngoài… Mãi đến năm 1811 khi Xasa Puskin đã ở tuổi 12, bố mẹ cậu mới nghĩ đến chuyện đưa cậu vào học ở một trường nào đó. Vừa hay lúc đó Sa Hoàng Alecxandr Đệ nhất có ý định mở trường Lexei, một cơ sở giáo dục đặc biệt dành đào tạo con em Quý tộc để trở thành các “trụ cột” tương lai của nhà nước Nga sau này. Đó không phải là một trường trung học kiểu Pháp, cũng không phải là trường cao đẳng hay đại học thông thường. Đó là một dạng trường như nơi đã dậy dỗ thanh thiếu niên ở Lixei (hay Likei) gần Aphin thời Hy Lạp cổ đại. Học theo một chương trình riêng, theo một cách tổ chức riêng, cũng như phương pháp dậy và học cũng đặc biệt. Học trò là con em quý tộc có năng khiếu, người chuyển từ trường trung học nội trú trực thuộc Đại học Tổng hợp quốc gia Moscova về, có trò từ trường trung học Xanh-Peterburg sang, số nữa từ một số trường trung học tư thục, còn lại như Alecxandr Puskin, chưa qua trường sở nào, đến thẳng từ gia đình. Thầy dậy cũng được lựa chọn từ các giáo sư, học giả có tiếng, thậm chí từ Đại học tổng quốc gia Nga.

Sinh sống ở Moscova nên cha mẹ Alecxandr Puskin đã nhờ ông anh Vaxili Lvovich, bác ruột của A.Puskin, một người sính thơ đương thời, giao du rộng trong giới trí thức quý tộc thượng lưu Nga, sống ở Peterburg, nhận đưa cháu trai về ở tạm và xin cho vào học trường Lixei.

Ngay trong buổi đầu tiên đến trường mở ở Hoàng Thôn, không bao xa ngoại ô Peterburg để xin học, cậu bé Xasa Puskin đã gặp được một người bạn cùng trang lứa có cái họ ná ná giống họ của mình: cậu Ivan Ivanovich Pusin, từ đó hai người trở thành đôi bạn thân thiết suốt đời. Ivan Pusin cùng cậu em họ theo người ông nội Pietr Ivanovich Pusin, một lão ông tuổi trên tám mươi, nguyên là thủy sư đô đốc danh tiếng, có huân chương cao quý Andreevsky, dẫn hai cháu đến.

Về sau này trong hồi ký của mình Ivan Pusin đã nhớ lại buổi đầu đôi bạn gặp trong bữa ấy: “Mắt tôi hoa lên: hình như tôi đâu có thuộc loại trẻ nhút nhát, vậy mà bữa ấy ở đấy không hiểu sao tôi thật sự bối rối, nhìn mọi người mà chẳng thấy một ai”.

Một quan chức tay cầm tờ giấy bước vào và lên tiếng điểm danh: Tôi nghe thấy tiếng gọi: Alecxandr Puskin. Một cậu bé lanh lẹn, tóc xoăn, đôi mắt sáng linh hoạt, cũng có vẻ đôi chút ngượng ngùng bước ra. Phải chăng do là hai cái họ chúng tôi na ná giống nhau, nên tôi đã để ý ngay đến anh. Tôi không nhớ rõ ai, nhưng hình như là ngài Vaxili Lvovich Puskin giới thiệu tôi làm quen với cháu ngài. Tôi được Alecxandr cho biết rằng anh đang ở nhà ông bác trên phố Moika, gần nhà chúng tôi. Thế là chúng tôi thỏa thuận với nhau sẽ mau chóng gặp lại. Về phần mình, A.Puskin giới thiệu tôi làm quen với hai người bạn mới của mình là Lomonoxov và anh Guxiev... ”

Trong hai anh em con chú con bác Pusin, vì lý do nào đó, chỉ một mình Ivan Pusin nhận được vào trường và Ivan Pusin ghi tiếp: “Như vậy là, tôi trở thành bạn học của Puskin. Tôi được biết anh cũng đã trúng tuyển trong lần chúng tôi gặp lại nhau đầu tiên ở nhà thầy hiệu trưởng Vaxili Fedorovich Malinovsky, nơi chúng tôi được triệu tập đến, thoạt đầu cho số đo, sau đó để thử trang phục, bốt, giầy ủng, mũ và các vật dụng khác…”

Bây giờ mới là chớm thu, ngày khai trường ấn định vào hạ tuần tháng mười năm 1811… Trong những ngày chưa nhập học, ai ở nhà người ấy, tranh thủ ôn luyện thêm các môn học theo chương trình riêng và bắt đầu nhộn nhịp đi lại làm quen nhau.

Các bạn mới của Puskin nhận ra ngay ở anh một người bạn xuất sắc. Sau này trong hồi ký của mình Ivan Pusin viết: “Tất cả chúng tôi đã nhận thấy ngay Puskin hơn hẳn mọi người chúng tôi. Anh đã đọc nhiều, nhiều điều thậm chí chúng tôi còn chưa từng được nghe nói đến, mọi điều anh đọc, anh đều nhớ cả. Nhưng điều đáng nói hơn cả là anh không hề tỏ vẻ ta đây chút nào…”

Sau ngày khai trường, 19 tháng mười năm 1811, học sinh khóa đầu của trường Lexei Hoàng Thôn đều vào ở nội trú, mỗi người một căn buồng riêng trên tầng 4 của một cánh lâu đài trong chuỗi lâu đài ở Hoàng Thôn. Theo qui chế nhà trường, từ đây cho đến cuối khóa học, trong suốt sáu năm trời, học sinh không được rời trường về thăm nhà, mà chỉ có người thân được đến thăm họ tại trường, dưới sự giám sát của ban phụ trách. Alecxandr Puskin được vào ở căn buồng 14, một bên là tường gạch, còn bên kia là vách ngăn với buồng số 13, buồng của Ivan Pusin.

Cuộc sống “tù” nhưng hàm súc và yên bình của trường Lixei đã gắn bó 30 đứa trẻ thành một gia đình, đồng chí, trong gia đình này lại hình thành các nhóm, trong các nhóm bắt đầu bộc lộ tính cách của từng người.

Nói chung, Alecxandr Puskin là người kiệm lời, trả lời bạn bè thường vắn tắt, ngắn gọn. Anh yêu thích chuyện trò xoay quanh đề tài các tác giả văn chương, nên anh gần gũi hơn với các bạn cũng yêu thích văn chương như Delvig, Illitsevsky, Kuukhebeker… mà sau này cũng trở thành các cây bút có tên tuổi trên văn đàn Nga thế kỷ XIX. Còn trong số bạn tâm tình, thân thiết của Puskin phải kể trước hết là Ivan Pusin, người bạn ở căn buồng số 13, kề sát bên cạnh.

Ngay từ những ngày đầu sống ở trường Lexei Hoàng Thôn A. Puskin đã để lại ấn tượng sâu cho bạn bè. Ivan Pusin viết: “Đang ở tuổi 12, Alecxandr Puskin không những đã thuộc lòng tất cả các sáng tác xuất sắc của thơ ca Pháp, mà còn tự mình sáng tác thành công bằng chính thứ tiếng Pháp chính cống. Bạn bè thậm chí còn đặt cho anh biệt danh là “Gã trai người Pháp”. Những bài luyện tập ngôn ngữ Pháp ngôn ngữ Nga bao giờ cũng là những môn luyện tập yêu thích của Puskin và trong lĩnh vực này anh luôn thành công hơn mọi người. Ngoài ra Puskin còn rất ham thích các môn khoa học lịch sử… Tuy nhiên chính bản thân Puskin lại không đánh giá cao sự đọc rộng, kiến thức tuyệt vời về ngôn ngữ và văn chương Pháp của mình, mà anh tự hào hơn về sự lanh lợi, kỹ năng nhảy cao, ném bóng giỏi của mình. Anh lấy làm thích thú một biệt danh khác các bạn gắn cho: “Con khỉ và ông ba mươi”.

Tuy nhiên từ bé tình khí đã thất thường, nên thực ra Alecxandr Puskin không dễ hòa hợp với chúng bạn. Tính khí anh hay thay đổi. Sau này nhớ lại chính bản thân Puskin cũng phải thừa nhận mình mỗi lúc một khác.

Chị gái Puskin là Olaga Xergeevna sau này mang họ chồng là Pavlitseva, từng ghi lại trong hồi ký: “Trước tuổi lên sáu Alecxandr Xergeevich không biểu lộ có gì đặc biệt xuất sắc, ngược lại, do vụng về bởi thân thể phục phịch, thái độ lại lặng lẽ, đôi khi làm mẹ chúng tôi phải thất vọng. Bà gần như phải bắt ép dẫn cậu ấy đi dạo chơi và bắt chạy nhảy, vì thế cậu ấy sẵn sàng ở lại nhà với bà ngoại Maria Alecxeevna, leo vào ngồi trong thúng đồ khâu vá của bà, xem bà khâu, đan… Một lần phải theo mẹ chúng tôi đi dạo, đến giữa phố cậu ta dừng lại, ngồi phệt xuống đường. Để ý thấy có một bà nhà bên đường phố ngó qua cửa sổ nhìn thấy cậu ta như thế, bật cười, thế là cậu ta nhổm dậy nói chõ lên: “Thế nào, có gì mà nhe răng ra vậy, hả?”.

Nhưng khi lớn lên hơn bẩy tuổi, Alecxandr Puskin bỗng trở nên linh hoạt, năng động, thậm chí nghịch ngợm. Hay thay đổi. Hay nổi nóng. Thích châm chọc. Nhưng lại phản ứng tiêu cực đối với những giễu cợt của người khác. Với những tính cách ấy vào trường Puskin đã không làm quan hệ của mình với các bạn mới dễ dàng bình thường được.

Sống kề bên cạnh buồng nhau Ivan Pusin và Alecxandr Puskin, tối tối theo thời gian biểu của trường đi nằm nào lúc 9 giờ khuya, nhưng không ngủ ngay mà thường thầm thì to nhỏ chuyện trò hồi lâu qua vách ngăn. Nhiều lần bị các giám thị phải lên tiếng cảnh cáo. Đôi bạn tâm sự đủ mọi điều, trong đó thường nhắc đi nhắc lại chuyện trong ngày. Puskin thường băn khoăn, ân hận về những cư xử hoặc câu nói thất thố của mình và Ivan Puskin an ủi bạn, bầy vẽ cách sửa chữa bằng những lời khuyên. Trong hồi ký sau này Ivan Pusin nhớ lại: “Puskin từ buổi đầu đã dễ bị kích động hơn những người khác, vì thế không gây được những thiện cảm chung. Đó là số phận của kẻ khác đời giữa mọi người. Không phải anh diễn một vai gì đó hay bằng những cử chỉ kỳ cục gây sự chú ý, như có kẻ cố tình xử sự thế, nhưng anh làm mọi người ngạc nhiên bởi những câu bông đùa không đúng chỗ, bằng những lời châm chọc vụng về, tự đặt mình vào thế khó xử, sau đó không biết gỡ ra thế nào. Điều đó dẫn anh đến những thất thố khác. Những vết không thể xóa đi được trong quan hệ học đường. Là một người hàng xóm (phía bên kia buồng anh là bức tường kín), khi mọi người đã ngủ thiếp đi rồi, tôi thường thì thầm qua vách ngăn bàn luận với anh về một trường hợp nhảm nhí nào đó trong ngày qua, tôi nhận ngay ra rõ ràng rằng, theo bản năng tế nhị của mình, anh thường gán cho mọi chuyện đều có tầm hệ trọng và điều đó làm anh băn khoăn day dứt. Hai chúng tôi bằng mọi cách khắc phục trục trặc, mặc dù không phải bao giờ cũng thành công. Trong anh có một sự pha trộn giữa tính cách quá mạnh bạo với sự dụt dè e ngại, cả điểm này lẫn điểm kia đều không đúng chỗ, do đó mà chính nó làm hại anh. Có đôi khi chúng tôi cũng sơ suất, tự tôi tôi khắc phục được, còn anh không biết gỡ ra thế nào cho ổn thỏa được”.

Vào ngày khai trường, 19 tháng 10 năm 1811, A. Puskin đã ghi vào album của Ivan Pusin mấy câu thơ làm kỷ niệm:

Một ngày nào đó nhìn lại trang giấy bí mật này

Mà một lần tôi đã ghi để lại

Bằng mộng tưởng toàn năng, ngọt ngào êm ái

Trong thoáng giây anh bay về lại Lisei xưa

Anh sẽ hồi tưởng về những ngày đầu

                               giây phút thoáng qua

Cuộc sống “Cầm tù” bình yên, 6 năm gắn bó,

Những buồn, vui, những ước mơ

                              của tâm hồn anh khi đó,

Những bất hòa trong tình bằng hữu

                              và niềm hoan lạc giải hòa.

Và 6 năm ăn học sống bên nhau vụt trôi qua. Ra trường mỗi người đi một ngả. Puskin được bổ đi phục vụ tại bộ ngoại giao còn Pusin trở thành một sĩ quan trong trung đoàn pháo quân kỵ.

Lúc này Alecxandr Puskin thực sự đã trở thành một nhà thơ danh tiếng. Thơ Puskin đã được in trên báo khắp cả nước, nhiều sáng tác của ông được chép tay lưu truyền, đặc biệt trong giới thanh niên tri thức trẻ tân tiến. Nhiều bài thơ thể hiện tâm trạng yêu nước, yêu tự do, đòi hỏi giải phóng, mong muốn xóa bỏ chế độ quân chủ hà khắc và chế độ nông nô tối tăm. Còn Ivan Pusin, tuy là một sĩ quan trong quân đội Sa Hoàng, giác ngộ lý tưởng tự do, giải phóng, cũng sớm tham gia tổ chức bí mật chống lại chế độ quân chủ chuyên chế, chế độ nông nô lạc hậu bất công.

Cùng một chí hướng, tuy nhiên, bản thân tham gia phong trào, đứng trong tổ chức bí mật mà Ivan Pusin vẫn giữ kín không cho Puskin cùng biết. Sau khi ra trường mỗi người một phận khác nhau, nhưng thỉnh thoảng những người bạn học cũ vẫn gặp nhau. Yêu quí tài năng của A.Puskin, Ivan Pusin không muốn lôi kéo bạn vào vòng mạo hiểm. Ấy vậy mà chính A.Puskin lại mắc vào vòng lao lý sớm hơn. Với việc sáng tác thơ mang những tư tưởng yêu tự do, đòi hỏi giải phóng nông nô, chống chế độ quân chủ chuyên chế, được giới thanh niên tiên tiến hâm mộ, truyền bá đã làm cho Nga Hoàng Alecxandr Đệ nhất nổi giận, quyết ra tay trừng trị nhà thơ trẻ tài năng. A.Puskin bị đe dọa phải đầy tới Xibiri. Chỉ nhờ có nhiều người có thế lực ở ngay chính giới quí tộc thượng lưu, hiểu và đánh giá cao tài năng của A.Puskin, bênh vực nên nhà thơ mới được giảm án thay bằng việc phát vãng xuống miền Nam nước Nga, dưới danh nghĩa thuyên chuyển chỗ phục vụ. Ít lâu sau một lần nữa lại bị thuyên chuyển trở về phương Bắc, an trí tại trang ấp Mihhailovskoe của gia đình nằm ở vùng quê hoang sơ, dưới sự giám sát cùng một lúc của cảnh sát và nhà thờ.

Trong những năm tháng bị đầy ải cô đơn, Puskin thực sự có được một lần hạnh phúc lớn lao, đó là sau năm năm xa cách, một người bạn cố tri thân thiết trước đây ở cùng trường Lixei Hoàng Thôn bỗng bất chấp nguy hiểm cho bản thân mình, lại đột ngột tìm đến đến thăm. Đó chính là Ivan Pusin ngày nào.

Trong hồi ký của mình Ivan Pusin đã kể lại: “Từ giây phút tôi biết được tin Puskin bị đi đầy, trong tôi liền nẩy ra ý nghĩ nhất thiết phải đến thăm anh. Tôi thu xếp vào dịp lễ giáng sinh sẽ về Peterburg thăm người nhà, sau đó sẽ về Pskov thăm bà chị gái… từ đấy thì chỉ với tay là tới được Mikhalovskoie.

Trước chuyến đi, tại dạ hội ở nhà công tước Golưtxun tôi gặp A.I.Tunghenev, cách đây ít lâu mới về thăm Moscova. Tôi đến ngồi cạnh anh và hỏi anh có ủy thác gì cần chuyển đến cho Puskin không, bởi vì sang tháng giêng tôi sẽ đến chỗ anh ấy. “Sao! Anh định đến thăm anh ấy ư? Không lẽ anh không biết anh ấy đang bị hai lần giám sát – của cả cảnh sát lẫn nhà thờ?”. “Tôi biết tất cả. Nhưng tôi còn biết, không thể không đến thăm người bạn xa cách với năm năm trời và lại đang trong tình cảnh hiện thời của anh ấy..”

Và Ivan Pusin kể tiếp: “Những con ngựa kéo xe trượt lao đi qua các đống tuyết, không sợ nguy hiểm, không bị trệch đường, đâu đâu cũng rừng cây và tuyết, tuyết ngập đến bụng ngựa, không cần phải điều khiển chúng. Xe chúng tôi lại trượt lên dốc đồi theo một lối mòn khúc khuỷu. Chợt đột ngột ngoặt và lao thẳng vào hai cánh cổng gỗ khép hờ, tiếng nhạc ngựa rung lên rền vang. Không đủ sức ngựa bên bằng hiên, xe trượt ngang qua bên cạnh và ngập trong tuyết trên sân chưa được dọn dẹp.

Tôi ngoái lại nhìn thì thấy: Puskin đang đứng dưới mái hiên, chân trần, mặc mỗi chiếc áo cánh, hai tay giơ cao chới với; không cần phải nói, điều gì đã xảy ra lúc ấy trong tôi. Tôi nhẩy ra khỏi xe trượt, lao đến ôm chầm lấy anh xốc lên đưa vào trong phòng. Ngoài trời giá lạnh khủng khiếp, nhưng vào những phút giây như thế này con người không dễ bị cảm lạnh. Chúng tôi nhìn nhau, ôm hôn nhau, im lặng! Anh không để ý phải lấy gì đó che thân thể trần trụi của mình, còn tôi cũng chẳng nghĩ đến mình đang mặc áo lông và mũ lông bám đầy băng tuyết.

Bấy giờ khoảng gần tám giờ sáng. Không biết phải làm gì. Một bà cụ chạy đến bắt gặp chúng tôi đang ôm nhau, trong tư thế hai người vừa lao vào nhau, một gần như trần trụi, còn người kia băng tuyết đầy người. Cuối cùng thì nước mắt trào ra ràn rụa (ngay giờ đây, qua ba mươi ba năm rồi, nước mắt còn nhòa kính, không viết nổi nữa), chúng tôi tỉnh ra, thật lấy làm xấu hổ trước người đàn bà này, nhưng kể ra thì bà đã hiểu ra mọi chuyện. Chẳng cần biết tôi là ai, chỉ có điều cũng chẳng hỏi han gì, bà cụ lao đến ôm chầm tôi. Tôi lập tức đoán ra bà là mẹ nuôi hiền hậu của anh, bao lần anh đã ca ngợi trong thơ của mình. Tôi ôm chặt bà cụ chừng như đến nghẹt thở…”

Đôi bạn hàn huyên suốt một ngày, kéo dài mãi đến tận nửa đêm. Trước khi chia tay, họ còn uống cạn tới chai rượu thứ ba. Sự kiện này được ghi trong mấy dòng thơ ở bài thơ 19 tháng mười năm 1825, kỷ niệm lần thứ 14 ngày khai trường Lixei Hoàng Thôn,

Ngôi Nhà thất sủng của thi nhân

Ôi Pusin, được anh là người đầu tiên ghé đến

Đem niềm vui cho ngày buồn tù túng

Biến nó thành ngày hội của Lixei.

Nhưng rồi chỉ ít lâu sau, tháng chạp ngay năm 1825, xẩy ra sự kiện cuộc khởi nghĩa bất thành của lực lượng binh lính và sĩ quan nổ ra ở Peterburg. Những người tham gia vào cuộc khởi nghĩa, sau này quen được gọi là “Cuộc khởi nghĩa tháng Chạp”, đều bị trừng trị, trong đó có cả Ivan Pusin.

Năm lãnh tụ của cuộc khởi nghĩa bị treo cổ. Ivan Pusin thực ra có cơ hội trốn thoát ra nước ngoài, nhưng với trách nhiệm lương tâm của một người có phần trọng trách tổ chức, đã tự nộp mình cho tòa án. Ngày 9 tháng Giêng năm 1828 Ivan Pusin đã bị giải từ Slixxelburg đi Tsita, miền viễn đông, nơi từ nay chung số phận với các đồng chí của mình bị giải đến đây từ trước đó.

Từ lâu Ivan Pusin bặt tin tức về Puskin, nhưng Puskin lại đón bạn mình bằng những câu thơ xúc động ngay hôm Ivan Pusin bị giải tới nơi lưu đầy. Pusin vào trại, thì bà A.G. Muravierna, vợ một chiến sĩ tháng Chạp tình nguyện theo chồng đến nơi này, đã gọi Pusin ra bên hàng rào và trao cho một tờ giấy có chữ viết của một người không quen biết. Thì ra đó là bài thơ của Puskin nhờ người chuyển cho bạn.

Ơi người bạn ngọc, bạn vàng!

Cám ơn số phận đưa chàng tới đây,

Cô đơn sân tuyết phủ đầy,

Nhạc xa đâu bỗng vang bay khắp nhà.

Nguyện cầu ở chốn trời xa

Thơ tôi mang đến chút quà mừng vui,

Sẽ làm rạng chốn tù đầy

Sáng tươi tình bạn những ngày học sinh

Nhận được bài thơ của Puskin gửi cho mình, Pusin tràn đầy niềm xúc động và như được tiếp thêm nghị lực để sống, vượt qua năm tháng khổ ải. Pusin chỉ tiếc rằng mình không thể ôm hôn bạn, như Puskin đã ôm hôn mình khi ấy, khi ông là người đầu tiên đến thăm nhà thơ ở nơi đầy ải.

Ở nơi tù đầy của mình Ivan Pusin chăm chú, với một lòng yêu mến sâu đậm luôn theo dõi những thành công mới trong sự nghiệp sáng tạo thơ ca của Puskin. Nhưng cũng thật đau đớn đến sững sờ được tin về cái chết đột ngột của bạn: tin Puskin đã qua đời sau khi bị tử thương trong cuộc đấu súng với tên Đaltes, sĩ quan Pháp chạy trốn cách mạng Pháp sang nương náu ở triều đình Nga Hoàng bấy nay, nhanh chóng lan truyền khắp cả nước Nga rộng lớn. Pusin cảm nhận như bị “sấm sét giáng xuống đầu mình giữa lúc trời quang mây tạnh” (1) .

Gần ba chục năm tù tội, mãi đến năm 1856, sau lệnh ân xá của triều đình, cùng bạn bè chiến hữu bị đầy ải tận miền Xibisi băng giá khắc nghiệt bấy lâu, Ivan Pusin được trở về sống ở phần tây đất nước. Gần sáu mươi tuổi Ivan Pusin về qua Peterburg rồi đến một địa phương ổn định cuộc sống những năm tháng này. Ông đã giành thời gian và sức lực những năm cuối đời cho người bạn thân thiết thời Lixei của mình: ngồi viết những trang hồi ký về Puskin. Hồi ký của Pusin, một người không phải cây bút văn chương chuyên nghiệp, nhưng thực sự vô cùng quí giá đối với lịch sử văn học Nga, đối với di sản văn hóa Nga nói chung, mãi mãi được đời sau ghi nhớ.

Kỷ niệm 215 năm sinh của

Đại thi hào Nga A-X.Puskin (1799 - 2014)

Liễu Giai – 2014

(1) Những dòng hồi ký của Ivan Pusin để trong dấu ngoặc kép do tác giả bài viết tự dịch theo sách của I.Pusin, nguyên bản tiếng Nga “Ghi chép về Puskin”, Nxb Văn học thiếu nhi, Moscơva, 1969.


Phụ Bản I

Bài thơ Việt

- DIỄN VĂN GETTYSBURG

& Giải thưởng National Book Awards 2012

1/- Nữ văn sĩ Việt

với giải thưởng National Book Awards 2012:

Đây là một trong những giải lâu đời và uy tín của Mỹ.

LẠI THANH HÀ (1965 -)

Lại Thanh Hà đạt giải thưởng trên với quyển sách đầu tay dành cho trẻ em mang tên "Inside Out & Back Again" tạm dịch: "Đi rồi cũng quay về". Chính văn sĩ cũng cho biết chị hết sức bất ngờ khi quyển sách của mình được chọn và đây là quyển sách viết về cuộc đời chị.

Thanh Hà khởi đầu sự nghiệp văn chương của mình khá chật vật. Năm 1975, Thanh Hà rời Việt Nam sang Mỹ nhưng vốn không giỏi ngoại ngữ, chị phải đánh vật với tiếng Anh từng ngày. Tự giận mình vì cảm thấy lạc lõng, chị quyết định ôm quyển từ điển Anh – Việt để mày mò cho bằng được những gì mình không hiểu. Ép mình đọc và phải hiểu những quyển sách nhỏ Anh ngữ là thứ khiến chị thay đổi dần dần.

"Tôi thấy mình rất cực nhọc để học được, hiểu được một ngôn ngữ khác, nên tôi quyết phải làm một cái gì đó với thứ ngôn ngữ đang làm khổ mình", chị hài hước kể lại trong ngày nhận giải thưởng.

Cuối cùng, sự kiên nhẫn của Lại Thanh Hà đã có kết quả. Chị tốt nghiệp đại học ngành Văn chương Anh ngữ và sau đó bắt đầu sáng tác. Để có tiền sinh sống, Thanh Hà nhận một chân phóng viên báo chí trong 18 tháng. Cũng nhờ công việc phải viết bài hối hả cho kịp xuất bản báo đã khiến kỹ năng viết văn tiếng Anh của chị thay đổi rõ rệt.

Khi cảm thấy thời gian không đủ cho việc sáng tác, chị nghỉ việc và bắt đầu nhận những việc nhỏ, ít thời gian hơn để dành thời gian sáng tác quyển sách đầu tay, "Inside Out & Back Again" cho trẻ em, sau 15 năm.

Trong "Inside Out & Back Again", Lại Thanh Hà kể câu chuyện của một bé gái 10 tuổi rời gia đình, quê hương đến nước Mỹ. Dù bước vào một thế giới mới tại bang Alabama, nội tâm của cô gái phương Đông bí mật quay về thế giới của mình bằng những ký ức mơ hồ nhưng đầy ám ảnh.

Ban đầu, mọi thứ cũng chẳng dễ dàng gì đối với một phụ nữ nhập cư tập tành viết văn. Bản thảo đầu tiên đã bị hơn chục nhà xuất bản từ chối, cho đến khi Harper Collins quyết định nhận ấn hành. Giờ thì Lại Thanh Hà là một cái tên khá thu hút trong giới viết văn với nhiều độc giả đang chờ đón tác phẩm mới của chị.

Hiện nữ văn sĩ gốc Việt đang viết quyển sách thứ hai, cũng là một câu chuyện về Việt Nam.

2/-Nữ thi sĩ Việt đầu tiên

vào sách giáo khoa trung học Mỹ:

TRẦN MỘNG TÚ (1943 -)

Tên thật cũng là bút hiệu, là một nữ thi sĩ Việt Nam đang định cư ở tiểu bang Washington (WA), bờ tây Hoa Kỳ (khác với thủ đô Washington D.C. nằm ở bờ đông)

Trần Mộng Tú sinh năm 1943 tại tỉnh Hà Đông (nay là Hà Nội), di cư vào Nam năm 1954. Sang Mỹ tháng tư năm 1975 (thư ký cho hãng Thông Tấn The Associated Press Sài Gòn 1968-1975).

Thường xuyên cộng tác với các tạp chí văn học ở Mỹ và các nước khác.

* Viết truyện nhi đồng cho báo Los Angeles Times từ năm 2000.

* Có thơ Anh Ngữ trong sách giáo khoa Mỹ cho chương trình trung học (American Literature - Glencoe - 1999) .

* Đoạt giải về bình luận (Commentary) của The New California Media (NCM) “Ethnic Pulitzers” năm 2003.

* Chủ Bút cho Nguyệt San Phụ Nữ Gia Đình Người Việt ở California (Oct.2002 - Oct.2005).

Thi sĩ Trần Mộng Tú còn là nhà văn và có nhiều thi phẩm được phổ nhạc. Trong số đó có Gọi Anh Mùa Xuân với nhạc sĩ Anh Bằng, bài Kiếp SauChia Tay với nhạc sĩ Nhật Ngân, Quán Lạ với nhạc sĩ, thi sĩ Hoàng Quốc Bảo.

Nữ thi sĩ Việt đầu tiên vào sách giáo khoa trung học Mỹ.

Nếu quý vị mở cuốn sách giáo khoa dậy văn chương “Glencoe Literature” do nhà xuất bản McGraw Hill ấn hành, quý vị sẽ thấy một bài thơ của một thi sĩ Việt Nam dịch sang tiếng Anh đi song song với bài diễn văn nổi tiếng của Tổng thống Abraham Lincoln trong thời Nội chiến Mỹ, tại bãi chiến trường Gettysburg. Đó là bài thơ của Trần Mộng Tú, “The Gift in Wartime”, nhan đề tiếng Việt là “Quà Tặng Trong Chiến Tranh.”

Hai tác phẩm trên được đem ra để dậy học sinh môn văn chương Hoa Kỳ. Trong phần thứ ba của cuốn sách giáo khoa, viết về văn chương thời kỳ nội chiến Nam Bắc ở Mỹ và sau cuộc nội chiến, các nhà soạn sách giáo khoa của công ty Glencoe - McGraw Hill, rất thông dụng trong các trường trung học ở Mỹ đã có sáng kiến đem bài thơ Trần Mộng Tú, qua bản dịch Anh ngữ cho học sinh nghiên cứu song song với bài diễn văn trầm hùng của Abraham Lincoln, so sánh cách dùng chữ, cách chọn hình ảnh, những ý tưởng trong mỗi bài của hai tác giả. Đây là một kinh nghiệm văn chương quý báu mà các học sinh Mỹ được hưởng khi tiếp xúc với một thi sĩ ngoại quốc để thấy hậu quả của chiến tranh trên tâm hồn một phụ nữ Việt Nam cũng mang những tính chất nhân bản và sâu sắc không khác gì vị tổng thống mà tất cả mọi người Mỹ đều quen thuộc. Có lẽ sau này học sinh Việt Nam khi học về văn chương thời nội chiến Nam Bắc ở thế kỷ 20 cũng sẽ có cơ hội nghiên cứu bài thơ của Trần Mộng Tú.

Trần Mộng Tú đã cộng tác với Nhật báo Người Việt từ lâu, nhưng chỉ tham gia trực tiếp và liên lạc thường xuyên với tòa soạn khi chấp nhận làm chủ bút Phụ Nữ Gia Đình Người Việt, xuất bản như một tuần báo từ cuối năm 2002. Vì thiết tha bảo vệ phẩm chất của tờ báo, Trần Mộng Tú đã đề nghị mỗi tháng chỉ nên làm một số, do đó Phụ Nữ Gia Đình Người Việt đã trở thành một nguyệt san. Bản chất là một nhà thơ chứ không phải nhà báo, nhưng Trần Mộng Tú đã thích ứng nhanh chóng với nhiệm vụ chủ bút tờ Phụ Nữ Gia Đình trong lúc cư ngụ tại Seattle, tiểu bang Washington vùng Tây Bắc Hoa kỳ, mà tòa soạn đặt tại Westminster, miền Nam California. Trong bài Sớ Táo Bà, đăng trong Phụ Nữ Gia Đình Người Việt số Tết Giáp Thân, Trần Mộng Tú đã đùa cợt với tình trạng phải bay đi, bay về giữa hai tiểu bang Washington và California trong công việc làm báo.

Bài thơ “Quà Tặng Trong Chiến Tranh” được viết ở Việt Nam, khi thi sĩ còn rất trẻ, từ những xúc động trước cái chết của một chiến sĩ quân lực Việt Nam Cộng Hòa, người yêu đầu của cô, sau đó đã được đăng trên các tạp chí khắp nơi ở hải ngoại.

Lần đầu tiên hai bài thơ về chiến tranh của Trần Mộng Tú xuất hiện trong thế giới văn chương quốc tế vào năm 1990, đăng trong “Vision of War, Dream of Peace,” (Viễn ảnh chiến tranh: Giấc mơ Hòa bình.) Đó là “The Gift in Wartime”(Quà Tặng Trong Chiến Tranh) và “ Dream of Peace” (Giấc Mơ Hòa Bình) cả hai được dịch sang Anh Ngữ do Vann Phan, một ký giả cũng cộng tác với Nhật báo Người Việt.

“Vision of War, Dream of Peace” là một tuyển tập Thơ của các Nữ Quân nhân và Y Tá phục vụ trong quân đội Mỹ vào thời kỳ chiến tranh Nam-Bắc Việt Nam. Cuốn sách ra mắt tại Washington DC vào ngày Cựu Chiến Binh, Veteran’s 11 tháng 11 năm 1990

Bản dịch bài thơ The Gift in Wartime được in vào American Literature textbook do nhà xuất bản sách giáo khoa lớn nhất ở Mỹ, Glencoe/Mc.Graw-Hill phát hành năm 1999, trong các chương về văn học Mỹ trong thời Nội Chiến Nam Bắc Mỹ. Thơ Trần Mộng Tú được giới thiệu cho các học sinh so sánh với bài diễn văn nổi tiếng The Gettysburg Address của Tổng Thống Abraham Lincoln.

Bài diễn văn do Tổng thống Lincoln đọc ngày 19 tháng 11 năm 1863 trong dịp khánh thành một nghĩa trang cho các tử sĩ tại chiến trường Gettysburg, tiểu bang Pennsylvania. Trước ông, một chính trị gia và nhà hùng biện nổi tiếng đã nói suốt 2 giờ; đến lượt Lincoln ông chỉ nói trong vòng 2 phút. Sau buổi lễ, các nhà báo tường thuật không ai nhắc đến những lời Lincoln nói, nhưng dần dần dân tộc Mỹ đã nhận ra đó là một tác phẩm văn chương bất hủ, xuất phát từ tấm lòng của một nhà lãnh đạo vốn rất ghét chiến tranh nhưng phải dẫn đầu nước Mỹ trong một cuộc chiến bất đắc dĩ và đã thành công trong việc bảo vệ một quốc gia thống nhất với những lý tưởng tự do, bình đẳng. Câu nói được cả thế giới ngày nay nhắc lại nhiều lần kết thúc bài diễn văn ca ngợi các chiến sĩ đã hy sinh để một “chính phủ của dân, do dân, và vì dân sẽ không bị hủy diệt trên trái đất.”

Cuốn sách giáo khoa tiếp theo đã giới thiệu thi sĩ Trần Mộng Tú, người phụ nữ có kinh nghiệm chính mình sống với những hậu quả của cuộc chiến tranh trong đó hai triệu người Việt Nam thiệt mạng cũng như 57,000 người Mỹ. Sau khi đọc bài thơ Trần Mộng Tú, học sinh được hướng dẫn với những câu hỏi để khám phá những cảm xúc mà tác giả gợi cho người đọc cũng như tìm hiểu nội dung bài thơ. Cuốn sách giáo khoa cũng gợi ý cho học sinh tìm hiểu về kỹ thuật, học sinh tự hỏi tại sao thi sĩ đã dùng các điệp ngữ và nhắc lại các hình ảnh để gây ấn tượng nơi người đọc. Sau đó, các học sinh được mời so sánh hai áng văn chương cùng viết trong thời nội chiến ở hai quốc gia, hai thế kỷ khác nhau. Abraham Lincoln đọc bài diễn văn của ông trước một đám đông, và ông nhắm vào công chúng. Còn Trần Mộng Tú viết một mình, cho mình. Nhưng học sinh có thể tìm thấy những mục đích và cảm xúc giống nhau trong hai tác phẩm ngắn này. Học sinh cũng được dịp tìm hiểu khai phá sự khác biệt giữa hai nền văn hóa của hai tác giả, và thử hỏi một người Mỹ thời nay nếu viết về chiến tranh thì sẽ viết giống tác phẩm nào.

Để quý vị thông cảm với tác giả Trần Mộng Tú, chúng ta đọc lại nguyên văn bài thơ của thi sĩ bằng tiếng Việt dưới đây: “Quà Tặng Trong Chiến Tranh” (Trong American Literature textbook) và bài “diễn văn Gettysburg” của Tổng thống xóa bỏ nô lệ Lincoln.

Quà Tặng Trong Chiến Tranh – Thi sĩ Trần Mộng Tú

Em tặng anh hoa hồng
Chôn trong lòng huyệt mới
Em tặng anh áo cưới
Phủ trên nấm mồ xanh

Anh tặng em bội tinh
Kèm với ngôi sao bạc
Chiếc hoa mai mầu vàng
Chưa đeo còn sáng bóng

Em tặng anh tuổi ngọc
Của những ngày yêu nhau
Đã chết ngay từ lúc
Em nhận được tin sầu

Anh tặng em mùi máu
Trên áo trận sa trường
Máu anh và máu địch
Xin em cùng xót thương

Em tặng anh mây vương
Mắt em ngày tháng hạ
Em tặng anh đông giá
Giữa tuổi xuân cuộc đời

Anh tặng môi không cười
Anh tặng tay không nắm
Anh tặng mắt không nhìn
Một hình hài bất động


Anh muôn vàn tạ lỗi
Xin hẹn em kiếp sau
Mảnh đạn này em giữ
Làm di vật tìm nhau.

                          (Tháng 7/ 1969)

Diễn văn Gettysburg của Tổng thống Abraham Lincoln

Lincoln đọc bài diễn văn với giọng Kentucky trong quãng thời gian từ hai đến ba phút. Ông tóm tắt cuộc chiến trong mười câu và 272 từ, tái cung hiến đất nước cho cuộc đấu tranh và cho lý tưởng biểu thị rằng không chiến binh nào tử trận ở Gettysburg đã chết vô ích.

Qua đó, bài diễn văn lịch sử này cũng nêu lên tầm quan trọng của đại thắng Gettysburg vừa qua. Các học giả đương đại bất đồng với nhau về ngôn từ chính xác của bài diễn văn, cũng như các bản sao chép được ấn hành bởi báo chí, ngay cả những bản viết tay của Lincoln cũng khác nhau về ngôn từ, phân đoạn và cấu trúc. Trong các phiên bản này, văn bản của Bliss được xem là bản chuẩn. Đó là bản duy nhất có chữ ký của Lincoln:

“Tám mươi bảy năm trước, ông cha ta đã tạo dựng trên lục địa này một quốc gia mới, được thai nghén trong Tự do, được cung hiến cho niềm xác tín rằng mọi người sinh ra đều bình đẳng.

Ngày nay, chúng ta đang tiến hành một cuộc nội chiến vĩ đại nhằm thử thách quốc gia này, hoặc bất kỳ quốc gia nào khác, xem có đủ quyết tâm theo đuổi lý tưởng mà đất nước ấy đã được thai nghén và cung hiến cho. Chúng ta gặp nhau ở đây, trên bãi chiến trường này. Chúng ta đến đây để cung hiến một phần của mảnh đất, nơi yên nghỉ cuối cùng của những người đã hiến dâng mạng sống mình để tổ quốc được sống. Đó là điều chúng ta cần phải làm.

Song, trong một ý nghĩa lớn lao hơn, chúng ta không thể cung hiến, cũng không thể thánh hóa mảnh đất này. Những con người dũng cảm, đang sống hay đã chết, là những người từng chiến đấu ở đây, đã cung hiến nó, họ đã làm điều mà những con người yếu đuối như chúng ta không thể làm gì thêm hơn nữa. Thế giới sẽ không quan tâm, cũng chẳng nhớ đến những gì chúng ta đang nói ở đây, nhưng thế giới sẽ không bao giờ quên những gì họ đã làm tại đây.

Ấy là cho chúng ta, những người còn sống, cần cống hiến mình cho chính nghĩa vẫn chưa hoàn tất, mà những người từng chiến đấu ở đây đã cống hiến đời mình để sự thành công của chính nghĩa ấy mau đến.

Ấy là cho chúng ta, những người đang hiện diện ở đây, tiếp nhận trọng trách đang đặt trước mặt chúng ta – chúng ta tiếp nhận từ những người đã khuất hiện đang được vinh danh lòng tận tụy với chính nghĩa mà họ đã cống hiến bằng chính sinh mạng mình – ngay tại đây, chúng ta quyết tâm không để họ chết vô ích – đất nước này, dưới sự quan phòng của Thiên Chúa , sẽ sản sinh một nền tự do mới – và chính quyền này của dân, do dân, vì dân sẽ không lụi tàn khỏi mặt đất”.

Abraham Lincoln

Diễn văn Gettysburg

L à diễn từ nổi tiếng nhất của Tổng thống Hoa Kỳ Abraham Lincoln , và là một trong những bài diễn văn được trích dẫn nhiều nhất trong lịch sử Hoa Kỳ. Được đọc tại Lễ Cung hiến Nghĩa trang Chiến sĩ Quốc gia ở Gettysburg, tiểu bang Pennsylvania ngày 19 tháng 11 năm 1863 , trong thời Nội chiến Mỹ , bốn tháng rưỡi sau khi xảy ra mặt trận Gettysburg đẫm máu trong đó quân đội Liên bang giành chiến thắng vẻ vang.

Bức ảnh duy nhất của Abraham Lincoln tại Gettysburg (ngồi giữa), chụp vào giữa trưa, ba giờ trước khi ông đọc diễn văn. ( toàn cảnh )

Bài diễn văn được viết cách công phu của Lincoln, lúc ấy chỉ được xem là phần phụ trong buổi lễ, nhưng cuối cùng đã được nhìn nhận là một trong những bài diễn văn vĩ đại nhất trong lịch sử Mỹ . Trong bài diễn văn chưa tới 300 từ và dài từ hai đến ba phút này, Lincoln đã viện dẫn những nguyên tắc về bình đẳng được tuyên cáo bởi bản Tuyên ngôn Độc lập Hoa Kỳ , và khẳng định rằng cuộc Nội chiến là một sự đấu tranh không chỉ cho Liên bang mà để “sản sinh một nền tự do mới”, sẽ mang đến cho mọi công dân một sự bình đẳng thật.

Bài diễn văn này trở nên một trong những văn kiện hay nhất bằng tiếng Anh trong suốt bề dày lịch sử nhân loại . Bắt đầu với câu nói nay đã trở thành khuôn mẫu “Four score and seven years ago,” (Tám mươi bảy năm trước), Lincoln đề cập đến những diễn biến trong cuộc Cách mạng Mỹ , và miêu tả buổi lễ tại Gettysburg là một cơ hội không chỉ để cung hiến nghĩa trang, nhưng cũng để hiến dâng mạng sống cho cuộc đấu tranh nhằm bảo đảm rằng “chính quyền của dân, cho dân, vì dân sẽ không lụi tàn khỏi mặt đất.” (Tuyên ngôn độc lập Việt Nam ngày 2-9-1945 có ghi câu nói này của Lincoln)

TÓM TẮT

Nói gọn, thơ “Quà tặng trong chiến tranh” của Trần Mộng Tú được giới thiệu cho các học sinh trung học Mỹ nhằm để so sánh với bài diễn văn nổi tiếng “The Gettysburg Address” của Tổng thống Abraham Lincoln và Lại Thanh Hà đoạt được giải thưởng National Book Awards 2012, một trong những giải lâu đời và uy tín của Mỹ.

Đây là niềm hãnh diện cho nền Văn học đất nước chúng ta vậy.

PHẠM VŨ

(Tham khảo: Tài liệu trongSách báo & Internet)


QUẦN THỂ DANH THẮNG

TRÀNG AN (NINH BÌNH)

(Di sản hỗn hợp Văn hóa – Thiên nhiên thế giới)

Lễ Hội đền Trần 18/3 Âm Lịch

Quần thể danh thắng Tràng An là một địa danh du lịch tổng hợp gồm các di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới đã được UNESCO công nhận ở Ninh Bình. Nhiều di tích danh thắng nơi đây đã được Chính phủ Việt Nam xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt quan trọng như Khu du lịch sinh thái Tràng An, khu du lịch Tam Cốc – Bích Động, chùa Bái Đính, cố đô Hoa Lư… Liên kết giữa các khu du lịch này là khu rừng đặc dụng Hoa Lư trên núi đá vôi và hệ thống sông, hồ, đầm với diện tích 12.252 ha.

Ngày 23/6/2014, tại Doha, với sự đồng thuận tuyệt đối của Ủy ban Di sản thế giới, Quần thể danh thắng Tràng An chính thức trở thành di sản thế giới hỗn hợp đầu tiên của UNESCO ở Việt Nam khi đáp ứng cả hai yếu tố nổi bật về văn hóa và thiên nhiên. Trong quy hoạch phát triển du lịch tại Việt Nam, Tràng An cũng là địa danh được đầu tư để trở thành một khu du lịch tầm cỡ quốc tế.

Quần thể danh thắng Tràng An nằm ở khu vực ranh giới giữa huyện Hoa Lư với các huyện Gia Viễn, Nho Quan, thị xã Tam Điệp và thành phố Ninh Bình. Về mặt hành chính, Tràng An nằm trên 12 xã: Trường Yên, Ninh Hải, Ninh Hòa, Ninh Xuân, Ninh Vân (Hoa Lư); Ninh Nhất, phường Tân Thành (Tp Ninh Bình); Gia Sinh (Gia Viễn); Yên Bình, Yên Sơn (Tam Điệp) và Sơn Hà, Sơn Lai, (Nho Quan) nhưng Tràng An không bao trùm hoàn toàn lên một xã nào.

Vùng lõi Tràng An có diện tích hơn 6.172 ha, là vùng bảo vệ đặc biệt của danh thắng. Vùng bảo vệ đặc biệt này nằm trọn trong quy hoạch khu du lịch Tràng An với diện tích 12.252 ha. Quần thể danh thắng Tràng An nằm gần các quốc lộ 1A, QL38B, QL12B và trong tứ giác nước được giới hạn bởi các sông: sông Hoàng Long ở phía Bắc; sông Chanh ở phía Đông; sông Hệ ở phía Nam và sông Bến Đang ở phía Tây.

Trong quần thể di sản Tràng An có các khu du lịch chính:

· Khu du lịch sinh thái Tràng An với trung tâm du khách nằm ở xã Trường Yên, cách cố đô Hoa Lư 3km theo hướng nam, cách thành phố Ninh Bình 7km theo hướng tây dọc đại lộ Tràng An, cách thị xã Tam Điệp 16km theo hướng bắc qua Tam Cốc, cách Hà Nội 96km theo hướng nam.

· Khu du lịch Tam Cốc với bến thuyền trung tâm nằm ở xã Ninh Hải, cách thành phố Ninh Bình 7km.

· Khu di tích lịch sử văn hóa Cố đô Hoa Lư nằm ở xã Trường Yên, cách thành phố Ninh Bình 11km.

· Khu du lịch văn hóa chùa Bái Đính nằm ở xã Gia Sinh, cách thành phố Ninh Bình 15km.

Di sản thiên nhiên thế giới

Quần thể danh thắng Tràng An có giá trị nổi bật toàn cầu với 2 tiêu chí VII và VIII của một di sản thiên nhiên thế giới.

Khu rừng văn hóa lịch sử môi trường Hoa Lư điển hình là một vùng cát-tơ đá vôi trồi lên giữa vùng đồng bằng ven biển tương đối bằng phẳng của Miền Bắc Việt Nam. Vùng đá vôi nổi lên này nằm xen kẽ với hàng loạt các khe suối có nước thường xuyên và các thung lũng ngập nước theo mùa. Độ cao tuyệt đối của vùng từ 10 đến 281m. Thảm thực vật tự nhiên ở Hoa Lư là rừng trên núi đá vôi và rừng thường xanh trên đất thấp ở các thung lũng đan xen giữa các vùng đá vôi. Có khá nhiều hang động ở khu vực trong đó có Tràng An, Tam Cốc, Bích Động, động Thiên Hà… là những tuyến du lịch nổi tiếng. Có những con sông chảy qua vùng Tam Cốc và Tràng An để du khách có thể đi thăm khu vực này bằng thuyền. Sự đa dạng địa chất địa mạo hiện diện tại Quần thể danh thắng Tràng An là kết quả từ các hoạt động địa chất liên tục qua hàng trăm triệu năm từ kỷ Trias đến Đệ Tứ. Trong suốt chính thời gian này, sự sụp đổ địa mạo và phân chia cao các khối núi Karst đá vôi trầm tích khổng lồ đã xảy ra ở đây. Chính những sự kiện địa chất này đã tạo ra những vùng núi hoang sơ và quyến rũ, các thung lũng trầm tích và các hố sụt mà cùng nhau đã có được kết quả trong sự đa dạng biểu mẫu, địa chất địa mạo, hang động và các hệ thống nước của Quần thể danh thắng Tràng An.

Di sản văn hóa thế giới

Quần thể danh thắng Tràng An có giá trị nổi bật toàn cầu với tiêu chí V của một di sản văn hóa thế giới.

Trên 30 di tích khảo cổ học thời tiền sử đã được phát hiện trong Quần thể danh thắng Tràng An. Kết quả nghiên cứu cho thấy cách người tiền sử thích nghi với biến cố lớn về môi trường, cảnh quan. Ít nhất là từ khoảng 23.000 năm đến nay, một số nền văn hóa tiền sử đã tiến hóa liên tục ở khu vực này, từ thời đồ đá cũ qua thời đại Đá mới đến thời đại đồ Sắt và đồ Đồng. Trong khoảng thời gian đó, khu vực này cũng đã trải qua một số lần dao động mực nước biển đáng kể. Trong điều kiện tự nhiên đặc biệt, hầu như chỉ có đá vôi là chất liệu đá duy nhất, người Tràng An đã biết sử dụng nó làm công cụ lao động ít nhất cho đến cách ngày nay khoảng 3.000 năm, trong quá trình đó đã nhận biết được rằng đá vôi đô-lô-mít thuộc loại chất liệu tốt nhất có thể có. Đồng thời với giai đoạn biển tiến lớn nhất cuối cùng (khoảng 7.000 - 4.000 năm trước) người tiền sử Tràng An đã biết tới nghệ thuật làm đồ gốm. Những chứng cứ sớm nhất được cho là tương đương với gốm Đa Bút (6.000 năm trước), nhưng thực tế đã được làm ra ở đây sớm hơn nhiều (khoảng 9.000 năm trước) và tiến hóa liên tục qua thời đại Kim khí đến tận sau này. Việc sử dụng đồ gốm từ sớm và liên tục ở Tràng An chứng tỏ rằng một trung tâm gốm sứ rất khác biệt so với nhiều trung tâm gốm sứ khác ở Việt Nam đã từng tồn tại ở đây. TS. Masanari Nishimura (Nhật Bản) qua nghiên cứu khảo cổ học tiền sử Quần thể danh thắng Tràng An đã khẳng định: Cách đây 5.000 - 6.000 năm trước, có một trận động đất lớn ở Tràng An và người Việt cổ ở Tràng An đã trải qua nhiều sự biến đổi của thiên nhiên để thích ứng và phát triển cho đến ngày nay, tạo nên một giá trị về một nền văn hóa Tràng An.

Đến thế kỷ X ở thung lũng mở Hoa Lư, cư dân Tràng An đã không ngừng phát triển bản sắc văn hóa của họ trong sự hòa hợp, chặt chẽ với cảnh quan thiên nhiên, xây dựng Kinh đô Hoa Lư, đắp thành, khép kín thung lũng đá vôi để phục hưng văn hóa lập nên ba triều đại đầu tiên của nền phong kiến độc lập của Việt Nam, làm tiền đề hun đúc nên nền văn minh Đại Việt nở rộ ở Thăng Long – Hà Nội. Và đến thế kỷ XIII vua tôi nhà Trần lại chọn nơi đây xây dựng hành cung Vũ Lâm để củng cố lực lượng góp phần chiến thắng quân Nguyên – Mông. Khu rừng môi trường Hoa Lư ngày nay có hàng loạt các giá trị lịch sử, văn hoá và du lịch. Dưới triều đại nhà Đinh vào thế kỷ X, Hoa Lư đã được chọn là kinh đô của Việt Nam, khu vực này sau đó vẫn tiếp tục là kinh đô dưới thời Tiền Lê và khởi đầu thời Lý. Cố đô Hoa Lư hiện nay có rất nhiều đình, đền, chùa, phủ như: đền Vua Đinh Tiên Hoàng, đền Vua Lê Đại Hành, đền thờ Công chúa Phất Kim, chùa Nhất Trụ, phủ Vườn Thiên, chùa Kim Ngân, chùa Duyên Ninh, phủ Chợ, động Am Tiên, đình Yên Trạch, chùa Bà Ngô, động Liên Hoa, đền Trần, phủ Khống, phủ Đột, chùa Bái Đính, động Thiên Tôn, động Hoa Lư, đền thờ Đinh Bộ Lĩnh…

Di sản thế giới hỗn hợp cả văn hóa và tự nhiên đầu tiên ở Việt Nam

Tiêu chí nổi bật toàn cầu

Quần thể di sản Thế giới Tràng An đáp ứng hai tiêu chí 7 và 8 của di sản thiên nhiên thế giới; đồng thời, khu Tràng An cũng đáp ứng tiêu chí 5 của một di sản văn hóa thế giới:

1) Tiêu chí 7 về thẩm mỹ: "Di sản chứa đựng các hiện tượng thiên nhiên siêu việt hay khu vực có vẻ đẹp thiên nhiên khác thường và tầm quan trọng thẩm mỹ". Cảnh quan ngoạn mục của Quần thể danh thắng Tràng An là kết quả của các quá trình địa chất địa mạo, thay đổi khí hậu và các môi trường phát triển liên tục qua hàng trăm triệu năm.

2) Tiêu chí 8 về địa chất – địa mạo: "Di sản là những ví dụ nổi bật đại diện cho những giai đoạn quan trọng của lịch sử trái đất, bao gồm cả việc ghi chép lại cuộc sống, các quá trình địa chất lớn đang tiếp diễn trong sự phát triển của các địa mạo, hay những đặc điểm địa chấn và địa hình lớn". Sự đa dạng địa chất địa mạo hiện diện tại Quần thể danh thắng Tràng An là kết quả từ các hoạt động địa chất liên tục qua hàng trăm triệu năm từ kỷ Trias đến Đệ Tứ. Trong suốt chính thời gian này, sự sụp đổ địa mạo và phân chia cao các khối núi Karst đá vôi trầm tích khổng lồ đã xảy ra ở đây. Chính những sự kiện địa chất này đã tạo ra những vùng núi quyến rũ, các thung lũng trầm tích và các hố sụt mà cùng nhau đã có được kết quả trong sự đa dạng biểu mẫu, địa chất địa mạo, hang động và các hệ thống nước của Quần thể danh thắng Tràng An

3) Tiêu chí 5 về văn hóa: "Di sản là một ví dụ nổi bật về một kiểu định cư truyền thống của con người hoặc một phương pháp sử dụng đất truyền thống, đại diện cho một nền văn hoá (hoặc các nền văn hoá), nhất là khi nó trở nên dễ bị tổn thương dưới tác động của những biến động không thể đảo ngược được". Tràng An là một địa điểm mang ý nghĩa quốc tế cho việc trình bày và hiểu biết về cách thức rằng những người cổ đã có sự liên kết với cảnh quan thiên nhiên và áp dụng cho những thay đổi chính trong môi trường, qua hàng ngàn năm của kỷ Holocen giữa 23.000 năm đến các thời kỳ cận đại, và trong sự đặc trưng trong suốt thời kỳ tăng lên các mực nước biển rộng khắp thế giới hậu Pleistocen như một sự ấm lên toàn cầu và tan chảy băng liên tục, ngập lụt nhiều khu vực ven biển và đất thấp được biết đến là Sự xâm thực Flandrian.

Như vậy, khu danh thắng Tràng An hiện là di sản thế giới hỗn hợp cả văn hóa và tự nhiên đầu tiên ở Việt Nam, di sản thiên nhiên thế giới thứ 3 của Việt Nam sau vịnh Hạ Long và vườn quốc gia Phong Nha đồng thời cũng là di sản văn hóa thế giới thứ 6 ở Việt Nam. Tức Tràng An đồng thời là một di sản văn hóa – thiên nhiên thế giới.

Sơ đồ tổng quan khu vực Tràng An

Quần thể danh thắng Tràng An ngoài vẻ đẹp ngoại hạng còn là khu vực bảo vệ đặc biệt của Cố đô Hoa Lư, gắn liền với các giá trị lịch sử văn hóa của vùng đất Cố đô Hoa Lư nên được đầu tư mở rộng để trở thành khu du lịch lớn. Chính phủ Việt Nam đã cho phép tỉnh Ninh Bình tiến hành khai quật, nạo hút bùn đất tạo đường giao thông thủy bộ và làm sáng tỏ các giá trị văn hóa, du lịch của danh thắng này. Danh thắng Tràng An gồm nhiều khu du lịch với tổng hợp các sản phẩm như du lịch lịch sử, văn hóa, tâm linh, lễ hội, khám phá cũng như nghỉ dưỡng, nghiên cứu khoa học... Đây là khu du lịch tầm cỡ và quy mô ở Việt Nam với tổng diện tích được quy hoạch lên tới 12.000 ha.

Quần thể danh thắng Tràng An thuộc phạm vi quy hoạch mở rộng thành phố Ninh Bình, hướng tới trở thành một thành phố du lịch trọng điểm của Việt Nam.

Đường bộ

Quần thể danh thắng Tràng An được bao bọc bởi một hệ thống các tuyến đường quốc lộ liên vùng, khoảng cách từ một vị trí bất kỳ trong danh thắng đến quốc lộ gần nhất chỉ khoảng 7km theo đường chim bay.

· Quốc lộ 38B chạy sát rìa phía bắc của khu vực bảo tồn Tràng An, qua cố đô Hoa Lư, chùa Bái Đính.

· Quốc lộ 12B chạy gần rìa phía tây của di sản, song song với sông Bến Đang.

· Quốc lộ 1A và tuyến đường tránh thành phố Ninh Bình đi gần rìa đông và nam vùng đệm di sản.

· Đại lộ Tràng An nối từ thành phố Ninh Bình đi chùa Bái Đính, Cúc Phương xuyên qua vùng đệm di sản.

· Đường nội bộ : chủ yếu là các tuyến đường thuộc khu vực Tam Cốc và cố đô Hoa Lư.

Đường thủy

Hệ thống sông ngòi ở Tràng An có nhiệm vụ điều hòa nước cho khu vực và là những tuyến du lịch đường sông của Ninh Bình.

· Sông Sào Khê : chảy dọc trong lòng di sản, thông thủy với hệ thống các hồ đầm. Đây là tuyến đường du lịch chính của khu du lịch sinh thái Tràng An. Sông Sào Khê nối sông Hoàng Long với sông Vạc, là những phụ lưu của sông Đáy.

· Sông Ngô Đồng : chạy nội vùng phía nam di sản, thuộc tuyến du lịch Tam Cốc. Sông rút nước từ các cánh đồng đổ vào sông Vạc.

· Sông Bến Đang : là biên giới phía tây của danh thắng Tràng An, trên sông có tuyến du lịch động Thiên Hà, hang Bụt,...

· Sông Tràng An : là tuyến du lịch đường sông nối di sản Tràng An với trung tâm thành phố Ninh Bình.

· Sông Đền Vối : là tuyến du lịch Thung Nắng, Thung Nham, vườn Chim.

· Sông Hệ Dưỡng : là biên giới phía nam của di sản.

· Sông Hoàng Long : là con sông lớn nhất sau sông Đáy, nằm ở phía bắc của di sản Tràng An.

· Sông Chim nằm ở biên giới phía tây bắc của di sản, gần với quốc lộ 38B.

· Sông Chanh là đường biên giới phía đông của di sản, sát với tuyến đường tránh thành phố Ninh Bình.

Các khu du lịch

Khu du lịch sinh thái Tràng An

Khu du lịch sinh thái Tràng An có trung tâm bến thuyền nằm trên đại lộ Tràng An, cách thành phố Ninh Bình 7km. Nơi đây gồm hệ thống các hang động, thung nước, rừng cây trên núi đá vôi và các di tích lịch sử gắn với kinh thành xưa của cố đô Hoa Lư. Nơi đây đã được xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt quan trọng của Việt Nam.

Khu du lịch Tam Cốc - Bích Động

Khu du lịch Tam Cốc – Bích Động có trung tâm đón tiếp nằm cách quốc lộ 1A 2km, cách thành phố Ninh Bình 7km, cách thị xã Tam Điệp 9km. Khu du lịch Tam Cốc - Bích Động gồm nhiều tuyến tham quan du thuyền, đi xe đạp và đi bộ nối khoảng gần 20 điểm du lịch. Các tuyến chính của khu du lịch: Các tuyến du thuyền gồm: Tuyến bến Văn Lâm – sông Ngô Đồng - Tam Cốc; Tuyến Xuyên thủy động (xuyên dưới Bích Động); Các điểm du lịch đi bộ, xe đạp và leo núi: Núi và chùa Bích Động; động Tiên; hang Múa; khu nhà cổ Cố Viên Lầu; đền Thái Vi - động Thiên Hương...

Khu di tích lịch sử Cố đô Hoa Lư

Khu di tích lịch sử văn hoá Cố đô Hoa Lư với hệ thống núi non là bộ phận không thể tách rời của di sản thế giới kép Tràng An, được công nhận là di tích quốc gia đặc biệt quan trọng với 47 di tích trong đó nổi bật là: Đền Vua Đinh Tiên Hoàng, lăng mộ Vua Đinh, đền thờ và lăng mộ Vua Lê Đại Hành, nhà bia tưởng niệm Vua Lý Thái Tổ, đền thờ Công chúa Phất Kim, đền thờ thần Quý Minh, phủ Khống, phủ Đột, động Hoa Lư, núi Mã Yên, bia Câu Dền, sông Sào Khê, phủ Đông Vương, phủ Vườn Thiên, hệ thống chùa cổ Hoa Lư...

Khu văn hóa tâm linh chùa Bái Đính

Chùa Bái Đính là một công trình kiến trúc Phật giáo nổi tiếng nằm ở xã Gia Sinh, Gia Viễn, Ninh Bình. Khu văn hóa tâm linh núi chùa Bái Đính với chùa Bái Đính cổ (có đền thánh Nguyễn Minh Không, các hang động thờ Mẫu, thờ Phật, thờ Thần Cao Sơn…) và khu chùa Bái Đính lớn nhất Đông Nam Á với 5 toà lớn hội tụ nhiều kỷ lục châu Á và Việt Nam dọc theo sườn núi.

Khu du lịch sinh thái Thung Nham - Vườn chim

Khu du lịch sinh thái Thung Nham - Vườn chim trước đây là một tuyến du ngoạn sinh thái bằng thuyền thuộc khu du lịch Tam Cốc – Bích Động. Linh Cốc – Hải Nham là tuyến du lịch mới hơn so với Tam Cốc. Nằm tại thôn Hải Nham, xã Ninh Hải, huyện Hoa Lư, cách chùa Bích Động khoảng 1.000m về phía Tây.

Vườn chim thuộc thôn Đam Khê, xã Ninh Hải, cách chùa Bích Động khoảng 2km đường bộ. Trên những chiếc thuyền nan, du khách sẽ được hoà mình vào thiên nhiên, sông nước, tận hưởng vẻ đẹp hoang sơ của hang Chùa, động Vái Giời rồi du thuyền vào Vườn chim ngắm thế giới của các loài chim lạ.

Điểm dừng chân đầu tiên trong tuyến du lịch Vườn chim - Thung Nham là động Vái Giời. Từ dưới chân núi du khách đi lên 439 bậc đá sẽ tới cửa Động. Động Vái Giời rộng khoảng 5.000m2, được chia làm 3 tầng riêng biệt: tầng Địa Ngục, tầng Trần Gian và tầng Thiên Đường. Xuống tầng Địa Ngục xem những nhũ đá với nhiều hình thù kỳ dị khác nhau tùy theo trí tưởng tượng của mỗi người, các khối nhũ đá được ánh sáng từ cửa hang chiếu vào lấp lánh. Tầng Trần Gian bằng phẳng hơn được nối với Tầng Thiên Đường bằng những bậc thang nhân tạo. Tầng Thiên Đường nằm trên cao nhất, nhìn ra một không gian rộng mở của Ninh Bình như bầu trời, cánh đồng lúa và những ngọn núi phía xa xa.

Vượt qua các hang thuyền sẽ đưa du khách đi đến Vườn chim. Trước mắt du khách là một vùng trời mây non nước trùng điệp, với những hàng cây mọc thẳng hàng ở trên mặt nước, và hàng ngàn, hàng vạn con chim ríu rít bay về đậu trên những cành cây trắng xoá. Một điều thú vị nữa là du khách sẽ được thăm một quả đồi với rất nhiều hoa trái, mùa nào thức nấy hương thơm ngây ngất và còn một điều độc đáo hơn đó là cây Duối nghìn năm tuổi. Nơi đây chắc chắn sẽ làm hài lòng du khách.

Khu du lịch Thung Nắng

Khu du lịch Thung Nắng thuộc địa phận xã Ninh Hải. Từ bến thuyền Tam Cốc, du khách đi khoảng hơn 500 mét đường bộ là đến bến thuyền Thạch Bích để đi Thung Nắng. Vượt qua một quãng đường thủy với hai bên là đồng lúa rì rào, núi non trùng điệp, qua đền Vối. Tiếp tục hành trình, du khách thăm Thung Nắng với một vùng trời mây, non nước bao bọc xung quanh. Với khoảng 3km đường thủy đi bằng thuyền du khách sẽ đến với nhiều huyền thoại như núi Ba Dọi, núi Cóc, núi Măng, núi Vàng… Thuyền đưa du khách qua hang Thung Nắng dài khoảng 100m là đền Thung Nắng. Đền được xây dựng trong một không gian tĩnh lặng, lưng Đền dựa vào thế núi linh thiêng là nơi thờ Chúa thượng ngàn. Sau khi thăm Thung Nắng xong trên đường quay ra tới bến Cây Gạo du khách tới thăm đền Vối. Đền Vối có cách đây hàng trăm năm, được xây dựng bằng đá, với các đồ thờ bằng đá được chạm khắc công phu, tỉ mỉ. Đền Vối có từ thời nhà Lê thờ ông Lý Đông Hải là quan chấn trạch sơn lâm.

Thung Nắng thuộc thôn Đam Khê, xã Ninh Hải, huyện Hoa Lư. Đường vào Thung Nắng phải đi bằng thuyền khoảng 3km. Hai bên đường đi có nhiều cỏ lác, lau sậy. Bên dưới làn nước mát trong veo là hệ động vật phong phú, sinh động. Môi trường sinh thái ở Thung Nắng vẫn giữ được nét hoang sơ. Khách du lịch thực sự được nghỉ ngơi thư giãn và có cảm giác thoải mái giữa một không gian yên tĩnh, dễ chịu.

Khi thuyền đưa vào hang, Du khách sẽ cảm thấy mát lạnh vì trần hang rất thấp, các nhũ đá rủ xuống với muôn hình muôn vẻ khác nhau. Trước cửa hang là những bụi cây lau sậy um tùm. Tại đây du khách có thể neo đậu thuyền để nghỉ ngơi, chụp ảnh và ngắm nhìn cảnh đẹp. Cả một vùng chiêm trũng rộng lớn vẫn giữ được nét nguyên sơ mà thiên nhiên đã hình thành. Vào thời gian buổi chiều, những đàn cò trắng bay về đậu kín cả vùng đất ngập nước tạo nên một nét hấp dẫn đặc trưng của Thung Nắng. Thung Nắng được kết nối theo tuyến du lịch: Thạch Bích - Thung Nắng - Đền Vối - Hang Thung Nắng - Đền Thung Nắng - Thung Nắng trong - Thung Nham - Rừng nguyên sinh - Hang Bụt - Vườn chim - Hang Ghé - Hang Chùa.

Khu du lịch Động Thiên Hà.

Động Thiên Hà nằm trong dải núi Tướng với độ cao gần 200m là một phần của bức tường thành thiên nhiên vững chắc bao bọc, bảo vệ phía tây nam kinh đô Hoa Lư thế kỷ thứ X, gắn liền với những địa danh lịch sử, văn hoá như Bến thuyền Nhà Lê, Núi Phật Đầu Sơn, Thửa Ruộng Đấu Lính...

Từ bản Mường Thổ Hà, xã Sơn Hà, Nho Quan, du khách xuống thuyền trên dòng kênh nhỏ có chiều dài chừng 1km xen giữa cánh đồng quê. Du khách tiếp tục bộ hành trên con đường đá dài 500m ven chân núi Tướng để tới cửa động. Động có chiều dài 700m bao gồm động khô dài 200m và động nước dài 500m. Những hình dáng do đá núi tạo ra được gọi tên như: đây là chú Cáo Lỗ đang chén mồi, kia là Voi phục, Hổ rình mồi, Khỉ leo cây… cao hơn có khám thờ với hình ảnh Đức Phật, thầy Đường Tăng đang tụng kinh cầu an cho các đồ đệ... tất cả đều gợi trí tò mò, khám phá của du khách.

Khu du lịch sinh thái Hang Bụt.

Hang Bụt tọa lạc giữa lòng núi Tướng cách thành phố Ninh Bình 18km, trong khu rừng đặc dụng Hoa Lư thuộc thôn Đồng Tâm, xã Sơn Hà, Nho Quan. Hang Bụt hiện dài gần 500m, lòng hang rất rộng và có nhiều nhũ đá với hình thù kỳ lạ. Nằm chính giữa hang là một tấm nhũ đá cao 1,5m rộng 2m có hình thù giống như một ông bụt hiện ra. Đến với Hang Bụt, du khách được đi thuyền chèo tay, ngoạn cảnh thiên nhiên hoang sơ, kỳ bí của núi rừng sông nước. Trong lòng hang nhiều vòm xoáy lạ mắt kích thích trí tưởng tượng du khách.

Du lịch hang Bụt hiện ở Sơn Hà, du khách còn được di chuyển bằng xe đạp qua những con đường làng rợp bóng tre tìm hiểu về văn hóa phong tục của nông dân vùng lúa nước, thử làm mục đồng chăn trâu, tát cá, bắt cua, xay lúa giã gạo, hay thưởng thức những món ăn dân dã do chính mình làm ra, bắt được như cá rô nướng, canh cua ăn với cà muối…

Khu du lịch Hang Múa.

Thuộc địa phận thôn Khê Hạ, xã Ninh Xuân. Đây là khu du lịch nhân tạo với các dịch vụ như leo núi, nghỉ ngơi cuối tuần và hội nghị. Hang Múa đã được kết nối với Tam Cốc theo tuyến du lịch tham quan: Bến Cây Đa - Bến Thánh - Hang Cả - Hang Múa - Hang Hai - Hang Ba - Suối Tiên - Khu Du lịch Hang động Tràng An. Tương truyền, hang Múa là nơi biểu diễn văn nghệ, múa hát của các cung nữ thời nhà Trần trước đây.

Hang Múa nằm dưới chân núi Múa. Núi có hình như một quả chuông, rộng khoảng 800m2. Đường lên đỉnh núi được xây dựng mô phỏng theo kiến trúc của Vạn Lý Trường Thành với 486 bậc đá. Đến hang Múa du khách được chiêm ngưỡng phong cảnh của núi non hùng vĩ.

Các di tích quốc gia ở Tràng An

Trước khi các di tích thuộc Quần thể di tích Cố đô Hoa Lư, Danh thắng Tràng An - Tam Cốc - Bích Động được xếp hạng là di tích quốc gia đặc biệt thì khu vực Tràng An đã có rất nhiều di tích được xếp hạng.

Dưới đây là danh sách các di tích được xếp hạng cấp quốc gia thuộc phạm vi quần thể danh thắng Tràng An:

1. Hệ thống hang động Tràng An ở Nho Quan, Hoa Lư, Gia Viễn

2. Khu vực núi đá Trường Yên và đền Đinh - Lê

3. Hang Muối - xã Trường Yên - huyện Hoa Lư

4. Hang Quàn - xã Trường Yên - huyện Hoa Lư

5. Núi Chùa Am - xã Trường Yên - huyện Hoa Lư

6. Tam Cốc - xã Ninh Hải - huyện Hoa Lư

7. Đền Thái Vi - xã Ninh Hải - Hoa Lư

8. Động và chùa Bích Động - Ninh Hải - Hoa Lư

9. Đền Kê Thượng, Kê Hạ, Miếu Sơn - Ninh Vân - Hoa Lư

10. Chùa và động Bàn Long - Ninh Xuân - huyện Hoa Lư

11. Chùa và động Hoa Sơn - Ninh Hoà - Hoa Lư

12. Đình Ngô Khê Hạ - xã Ninh Hoà - huyện Hoa Lư

13. Chùa Nhất Trụ - xã Trường Yên - huyện Hoa Lư

14. Động Am Tiên - xã Trường Yên - huyện Hoa Lư

15. Đình Yên Trạch - xã Trường Yên - huyện Hoa Lư

16. Chùa Kim Ngân - xã Trường Yên – huyện Hoa Lư

17. Phủ Đông Vương - xã Trường Yên - huyện Hoa Lư

18. Phủ Vườn Thiên - xã Trường Yên - huyện Hoa Lư

19. Đền thờ Công chúa Phất Kim - Trường Yên - Hoa Lư

20. Bia Cửa Đông - Trường Yên - huyện Hoa Lư

21. Lăng vua Đinh và lăng vua Lê - Trường Yên - Hoa Lư

22. Đình Ngô Khê Hạ - xã Ninh Hoà - huyện Hoa Lư

23. Động Thiên Tôn - Thiên Tôn - Hoa Lư

24. Núi chùa Bái Đính - xã Gia Sinh - huyện Gia Viễn

25. Những địa điểm của khu căn cứ cách mạng Quỳnh Lưu

26. Khu Trũng, Đồng Báng - xã Sơn Lai - huyện Nho Quan

27. Đền Sầy - xã Sơn Thành - huyện Nho Quan

28. Đình Ác - xã Sơn Thành - huyện Nho Quan

Trong khu vực Tràng An còn có một số di tích cấp tỉnh sau đây:

· Chùa Duyên Ninh - xã Trường Yên - huyện Hoa Lư

· Đền thờ Quý Minh Đại Vương và hang Đền - xã Ninh Nhất, Thành phố Ninh Bình.

· Nhà thờ Nguyễn Tử Tương- thôn Đề Lộc, xã Ninh Nhất, Thành phố Ninh Bình.

· Đình Các - xã Ninh Hải, huyện Hoa Lư.

· Đình làng Yên Thành - xã Trường Yên, huyện Hoa Lư.

· Đình Sen thôn Hành Cung - xã Ninh Thắng, huyện Hoa Lư.

· Đình và chùa làng Chàng- xã Sơn Lai, Nho Quan.

· Đền Thượng, đền Hạ thôn Thái Sơn- xã Sơn Lai, Nho Quan.

· Đình Quang Hiển, phường Tân Bình, Tam Điệp…

(Theo UNESCO)

BÙI ĐẸP


CON MẮT

DƯỚI GÓC NHÌN Y HỌC

Bác sĩ VŨ ĐỊNH (Hà Nội)

MẮT VÀ VẺ ĐẸP

Ca dao, tục ngữ dân tộc ta có nhiều câu nói về mắt. Nhận xét tính cách con người qua đôi mắt: “Voi chéo ngà, đàn bà chéo (ché) mắt”, “Mắt trắng dã, môi thâm sì, da thiết bì”. Hoặc cụ thể hơn:

“Lợn kia trắng mắt thì nuôi

Người kia trắng mắt là người bất nhân”

“Những người ti hí mắt lươn

Trai thì trộm cướp, gái buôn chồng người”

và:

“Người khôn con mắt đen sì

Người dại con mắt nửa chì, nửa thau”

Nhưng chủ yếu nói nhiều về mắt, vì nó có vai trò quan trọng trong vẻ đẹp khuôn mặt:

“Những người con mắt lá răm

Lông mày là liễu đáng trăm quan tiền”

Người xưa thường ví đôi mắt đẹp sáng trong như nước mùa thu gợn sóng, lông mày (mi) như vẻ núi mùa xuân – “Nhãn như thu thủy, mi tự xuân sơn”. Khi tả đôi mắt đẹp nàng Kiều, thi hào Nguyễn Du cũng viết:

“Làn thu thủy, nét xuân sơn

Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh”.

Các nhà văn, nhà thơ hiện đại cũng tốn nhiều giấy mực vì mắt: “Sao Hôm như mắt em ngày ấy” (Đêm sao sáng – Nguyễn Bính). “Mắt đen tròn, thương thương quá đi thôi” (Quê hương – Giang Nam). Và:

“Mắt đen cô gái long lanh

Yêu ai yêu trọn tâm tình thủy chung”

(Quê hương Việt Nam – Nguyễn Đình Thi)

CỬA SỔ CỦA TÂM HỒN

Sách xưa Quảng giám tập có câu “Nhãn vi tâm chi ngoại bộ. Quan kỳ vật ngoại tri kỳ nội” (Mắt là cửa ngoài của tâm hồn. Nhìn bề ngoài mà biết rõ bên trong của người ta).

Theo Thông chí, khi vui người ta thường nhìn thẳng, lòng đen nằm chính giữa nên mắt xanh; khi giận người ta nhìn nghiêng, lòng trắng lộ ra nhiều hơn cho nên mắt trắng ra. Do vậy “mắt xanh” trỏ sự hài lòng vừa ý.

Lại theo Tấn thư, Nguyễn Tịch, người đời Tấn, khi tiếp khách vừa ý với ai thì con mắt bèn xanh, ghét ai thì con mắt lộ toàn lòng trắng.

Nguyễn Du đã dùng những điển tích trên để cho nhân vật Từ Hải hỏi Thúy Kiều:

“Bấy lâu nghe tiếng má đào

Mắt xanh chẳng để ai vào có không?”

Còn dân gian (ca dao) nước ta thì nôm na:

“Trời sinh con mắt là gương

Người ghét ngó ít, người thương ngó hoài”

Mạnh Tử khi bàn về con mắt cũng nói: “Lòng ngay thẳng thì mắt sáng sủa, lòng tà vạy thì mắt mờ, vì mắt không che giấu được thiện, ác của tâm hồn”.

Người phương Tây cũng có những nhận xét na ná phương Đông và thường nói: “Con mắt là cửa sổ của tâm hồn”, “Mắt là nơi thu phát tín hiệu của trái tim”… Ngày nay người ta hay nói đến “tiếng sét ái tình” - phải thông qua bốn mắt nhìn nhau mới có thứ tình yêu ấy, chứ không thể chỉ thấy lưng nhau mà có được!

VÀ PHẢN ÁNH BỆNH TẬT

Y học phương Đông có nói về nhìn mắt, đoán bệnh. Tỷ như bệnh ở gan: hai tròng mắt đỏ, gân cổ thô… Bệnh cổ trướng: mắt sâu, mũi đứt (đoạn), mặt đen vàng, có lúc mặt biến trắng… Bệnh đàm nhiều: mắt lồi, tròng vàng thêm sắc trắng. Thận tủy suy: dưới mắt âm, dương đều ám đen (Thái âm, thái dương), mắt sâu, hắc ám thận càng khô. Ra mồ hôi trộm: mắt trắng, môi xanh, tóc vàng lợt… Âm phận hư: mặt khi xanh khi đen, da khô cằn, môi thâm, mắt suy ám… Liệt dương: khắp mặt nám đen như khói che, mắt không sáng tươi…

Ngày nay nhiều nhà khoa học cũng ví con mắt là “nhật ký”, hoặc “bị vong lục” của cơ thể, chẳng những nó có thể nói rõ hiện trạng mà còn chứng minh quá khứ. Các chuyên gia y học có kinh nghiệm, qua quan sát đôi mắt, phát hiện được nhiều bệnh. Chẳng hạn những người nhiễm độc rượu mãn tính (nghiện) hai mắt thường đỏ như mắt cá chày. Sụp mi mắt là liệt dây thần kinh số III (do liệt cơ nâng mi trên). Hay mỏi mắt lúc nào cũng muốn nhắm như buồn ngủ, đọc sách chóng nhức mắt là thiếu các vitamin nhóm B. Đồng tử giãn to thường gặp ở người bệnh mạch máu não, viêm não, viêm màng não có mủ, hoặc chấn thương sọ não có máu tụ chèn ép. Đồng tử thu nhỏ thường gặp ở người bị trúng độc rượu, thuốc ngủ, có khối u ở não và xuất huyết não ở người già. Người bệnh Basedow thì lồi mắt cả hai bên và kèm theo một số triệu chứng khác (gầy nhanh, nhịp tim nhanh, run nhẹ ở đầu ngón tay, bàn tay, tuyến giáp trạng to…). Người thiếu máu thì niêm mạc mắt xanh xao nhợt nhạt. Một số bệnh gan mật thì màng tiếp hợp nhãn cầu bị vàng… Những người nhiều ưu tư và hay mất ngủ thì xung quanh mắt xuất hiện quầng thâm. Nhãn trường mắt bị hẹp, có khi mất hẳn ở cung ngoài phía thái dương – đó là hội chứng cường thùy trước tuyến yên (triệu chứng khối u não). Trẻ em thấy ánh sáng sợ chói nhắm mắt lại, màng tiếp hợp nhãn cầu khô mất vẻ sáng bóng, nổi lên những nếp nhăn, giác mạc mất trong sáng, đục lờ, không thấm nước mắt là trong người nó đang thiếu vitamin A trường diễn…

Đặc biệt, ở Sở y dược Quảng Tây, Trung quốc có một bác sĩ tên là Hoàng Lão Ngũ đã dành nhiều năm đi sâu nghiên cứu quan sát đôi mắt những bệnh nhân đã từng khám chữa bệnh ở các bệnh viện lớn. Ông ta ghi chép tỉ mỉ về những thay đổi của mắt họ, đúc kết lại và đã phát hiện ra: những người mắc những bệnh khác nhau thì có sự khác nhau về mạng lưới mạch máu trong mắt, màu sắc đậm nhạt, độ trơn bóng của lòng trắng mắt và độ lồi lõm v.v. Cuối cùng vị bác sĩ này đã tìm ra quy luật của các căn bệnh bên trong cơ thể được phản ánh ra hai mắt. Hoàng Lão Ngũ chỉ cần quan sát kỹ hai mắt (có dùng kính lúp và đèn pin…) có thể chẩn đoán bệnh bên trong cơ thể người rất chính xác.

HOÀNG KIM THƯ st

Tác giả: Dương Lêh

Cả tháng nay, hầu như tối nào chúng tôi cũng thủ sẵn một món gì đó để ăn trong khi xem trận bóng đá đầu tiên trong đêm. Nói đúng theo lịch thi đấu thì đó là trận 23 giờ, và nếu gọi cho đúng theo thời gian 24 giờ trong ngày thì đây là trận cuối ngày và còn kéo dài qua tới sáng sớm ngày hôm sau.

Tối nay, theo lệ thường, bà xã tôi có lớp dạy ở cơ sở 2 của trường gần khu Dakao, tôi phải canh đúng 9g kém 15 phải có mặt để đón bà về. Đặc biệt là bà xã tôi không biết lái xe cho nên từ khi đám cưới tôi đã phải ký một thỏa ước ngầm là kiêm thêm nghề lái xe ôm cho cô giáo này đến suốt đời. Có người nói nhờ vậy mà từ trước đến giờ tôi không phải lo đến cái việc bà xã tôi tự do đi đâu đó một mình.

Cùng dạy chung tại cơ sở Dakao này còn có một bà cô, tôi thêm chữ “bà” trước chữ “cô” này để mọi người biết là bà cũng suýt soát bẩy mươi. Bà cũng giống với cô giáo nhà tôi là không biết lái xe máy, nhưng bà không có xa phu riêng cho mình mà phải đi bằng xe buýt. Mỗi ngày bà phải làm hai chuyến xe buýt để đến trường và hai chuyến để về nhà tận quận 7. Bà ở chung với một người con gái, nhưng cô con gái này cũng phải đi làm ở công ty và bận bịu chồng con nên không thể đưa rước bà được. Ông chồng ở vào tuổi hưu từ lâu rồi, một mình ở nhà tận Vũng Tàu trông giữ cái biệt thự nho nhỏ xinh xắn, có hàng rào bao bọc một vạt đất trên đó trồng mấy cây mãng cầu thường mang đầy trái trĩu nặng khi vào mùa.

Tôi thường chạy xe vào chợ Ve chai ghé vào hàng bún thịt nướng theo yêu cầu của pilot ngồi phía sau. Quán hôm nay có phần khá đông. Mùi thịt nướng thơm lừng như kích thích cơn thèm của thực khách. Mấy cô phục vụ tay chân nhanh nhẹn, cô này bốc thịt nướng từ những ghim tre cho vào hộp rồi chuyền cho cô bên cạnh bốc thêm chả giò và nem nướng, cô sau cùng cho rau giá rồi đóng hộp bỏ vào túi nylon cùng với bao nước mắm. Mấy cô này làm việc giống như đang theo một dây chuyền sản xuất công nghiệp. Bên cạnh là một quán bánh xèo, lò chiên để sát cửa quán bún thịt nướng. Phụ trách chiên bánh là một người đàn ông trung niên vừa chiên vừa kéo vạt áo lau mồ hôi trên mặt. Anh ta làm việc rất thuần thục chắc không thua cái bà nào đó được “đóng thùng” xuất khẩu, giới thiệu cái món bánh xèo của Việt Nam ra nước ngoài. Nghe nói ở Saigon này bà có một cửa hàng bánh xèo mang tên của bà và đã tạo thành một thương hiệu nổi tiếng với giá cả chót vót trên trời cao. Bây giờ có phong trào đặt ra cái thương hiệu để bán với giá dành riêng cho những người giàu có. Thật ra, cái bánh xèo của bà gì đó có khác gì cái bánh xèo của anh chàng đang chiên ở trong đường hẻm này? Nhưng giá đây chỉ bằng một phần ba hay một phần tư giá cái bánh xèo có thương hiệu rần rần kia.

Thời nay, nhiều người quan niệm một món ăn càng ngon giá tiền càng cao. Bởi vậy mới có bà Việt kiều, vợ của một nhân vật nổi tiếng hồi xưa về Saigon một tiệm phở bán với giá thật cao gấp bốn năm lần giá một tô phở bình thường. Ngày khai trương nổi đình nổi đám, đông đảo những nghệ sĩ, những doanh nhân, những người “tai-mắt-mũi-họng”, những người giàu có đến thưởng thức. Có những người gia cảnh xoàng xoàng bậc trung cũng bước vô ăn để về khoe với bạn bè: “Tôi đã vào ăn rồi đấy!”. Có người bị bạn bè hỏi lại:

- Có ngon không vậy?

- Được lắm.

Tiếng “được lắm” không được mạnh mẽ cho thấy tô phở không mấy ngon nhưng lỡ bỏ “nửa ngày lương” giúp bà Việt kiều này làm giàu, không lẽ đi chê tô phở dở, bạn bè sẽ cho ông này “thiếu i-ốt” mới vào ăn ở tiệm phở đó. Nhưng rồi không biết có phải vì quá dở hay không mà sau đó vài tháng tiệm phở đóng cửa. Giống hệt như một câu trong bài thơ “Vịnh cái pháo” của Nguyễn hữu Chỉnh ngày xưa: “Kêu lắm lại càng tan tác lắm”.

Liên quan đến văn hóa ẩm thực, phải nói đến phong trào ăn “búp-phê” cũng đang rất thịnh hành. Từ cách ăn uống này sản sinh ra nhiều chuyện cười ra nước mắt. Nhiều thực khách “con mắt lớn hơn cái bụng” và một phần cũng vì lòng tham muốn được “lời” trong cách ăn này, nên lấy thật nhiều thức ăn và cố nuốt đến nỗi con mắt đã trợn lên trắng dã mà thức ăn vẫn còn, đành phải bỏ lại trước những cặp mắt khinh bỉ của người phục vụ. Mới đây một cái video trên mạng chiếu lại cảnh người Việt Nam qua Thái Lan đi ăn “búp-phê” bốc hốt, chụp giựt trên khay người phục vụ đang bưng đến chưa kịp để xuống bàn. Thấy kiểu cách người Việt Nam ăn uống không giống ai, nhà hàng Thái Lan bèn ra thông báo to đùng bằng Việt Ngữ nội dung sẽ phạt người Việt Nam nào bỏ lại thức ăn thừa. Nhưng những “thượng đế” không biết xấu hổ đâu vì với trình độ văn hóa cỡ “bốc hốt, chụp giựt” đó họ không hề đụng đến cái máy vi tính hay đọc báo mỗi ngày.

Khi về đến nhà, tôi và bà xã chuẩn bị chương trình thưởng thức bóng đá world cup. Tôi mở tủ lạnh lấy chai bia đổ vào ly đá có sẵn ống hút, món nhắm đưa cay rất đơn giản, đó là miếng cơm sấy to bằng cái đĩa ăn lớn, trên mặt có rắc thịt chà bông và một thứ nước sốt gì đó màu đỏ như tương ớt. Thực sự có trời mới biết đó là thứ nước sốt gì, nhưng ăn nhiều lần rồi thấy bụng dạ vẫn an toàn, không có gì đau đớn nên cứ tiếp tục mua ăn. Trong khi đó bà xã tôi chuẩn bị cái món bún thịt nướng vừa mua lúc nãy. Bà vẫn thường đổi món, có hôm bún bò, có hôm hủ tíu Nam Vang, có hôm thì ăn “bèo-nậm-lọc-ít”. Đây là bốn món ăn chơi đặc trưng của Huế gồm bánh bèo, bánh nậm, bánh bột lọc và bánh ít, rất tốt cho những người ăn kiêng. Thực ra, giờ này chính là buổi ăn tối thật sự của bà xã tôi. Buổi chiều trước khi lên trường bà xã tôi làm nhè nhẹ chừng hơn một chén cơm để “cầm hơi” cho đến gần 9g trở về nhà tiếp tục bữa ăn tối. Mấy hôm nay bữa ăn tối lại chính là thời điểm chờ đợi trận đấu bóng đá bắt đầu. Tôi vừa uống bia vừa xem chương bình luận giữa ông bình luận viên với một ông nhà báo. Phần bình luận này rất thú vị, người nghe có thể nhận biết hai người có kiến thức rất sâu rộng về lãnh vực bóng đá trên toàn thế giới. Mỗi khi bình luận đến thông tin nào hai người đều cho biết xuất xứ của thông tin đó: “Cái này do đài, do báo, từ trong nước hay ngoài nước.vv...”.

Mới đây trên một tờ báo ở Saigon có đăng bài của một độc giả phê bình mấy ông bình luận viên trận đấu đang diễn ra của đài VTV là khoe khoang kiến thức. Mấy ông này cố gắng nói thao thao bất tuyệt, nói mà không cấn biết có ai muốn nghe không. Ông đem khoe đời công, đời tư của các cầu thủ nước ngoài, kể lể dài dòng trong khi trái bóng đang lăn vào chân ai hay có người bị chèn ngã ông không thèm nói. Sự quan sát của ông cũng rất kém. Một cầu thủ ngã té vì bị đối phương đạp vào chân rõ ràng, và trọng tài thổi phạt đền, ông bình luận viên này lại cho là cầu thủ kia giả vờ té ngã. Trong lúc hai đội đá luân lưu 11m, một cầu thủ đá trúng ngay cột dọc trong lúc thủ môn cũng bay về hướng đó. Bình luận viên lại nói rằng: “vì sợ thủ môn bay đúng hướng nên anh cầu thủ cố “bẻ cổ chân” để đá bóng ra sát góc ai ngờ lại chạm vào cái cột quái ác này”. Bình luận viên mà biết được cầu thủ bẻ cổ chân như thế nào để đá quả bóng thì khán giả xem đài xin chào thua.

Có ông binh luận viện viên rất khoái nói cầu thủ nào đó đá bằng chân phải hay chân trái, không ngờ ở một trận đấu, có một cầu thủ làm bàn bằng cách dùng phần dưới bụng, giữa hai chân, hất bóng vào lưới. Bình luận viên bí liền, không nói được cầu thủ đó đá bằng chân nào nên nói bừa anh cầu thù đó đưa bóng vào lưới rồi la lên một tiếng “vàoooooooooooo!” một cách hết sức vô duyên. Không lẽ anh ta nói cầu thủ đó đưa bóng vào lưới bằng “chân thứ… ba” ngay dưới bụng. Hình như các ông bình luận viên đó được chỉ đạo là phải nói không nghỉ, nói liên tục, nói không kịp thở, không được để thời gian chết trên màn hình. Trong khi đó khán giả truyền hình và nhất là những người có cá độ đang ủng hộ một đội bóng, và đội này đang gặp nguy khốn, những khán giả cuồng nhiệt này đang “nóng” lên, miệng cứ lẩm bẩm “ráng lên con, ráng lên!!” mắt thì dán chặt vào đôi chân đang “guồng” của các cầu thủ yêu mến, mà bình luận viên thì cứ léo nhéo bên tai quả là bực bội không tả xiết. Có người bực quá tắt âm thanh làm cho ông bình luận viên bị buộc phải câm miệng, để bà con được xem trong yên lặng nhưng thoải mái.

Vợ chồng già như chúng tôi mê bóng đá mỗi người một tính cách. Bà xã tôi mê đội Đức từ khi anh chàng cầu thủ trẻ tuổi đẹp trai Klinsmann xuất hiện trong đội bóng. Bà cắt tấm hình rất đẹp, khổ lớn của anh chàng cầu thủ này từ một tạp chí dán ngoài bìa cuốn vở ghi chép riêng, để thận trọng trong túi xách đi đâu cũng mang theo. Có lần, một cô giáo dạy chung nhìn thấy bà xã có vẻ quý trọng tấm hình, tự nhiên hỏi:

- Cô không sợ thầy ở nhà ghen sao?

Bà xã tôi ngạc nhiên nhìn cô giáo nọ, và hỏi lại:

- Tại sao ghen?

Cô giáo nọ không trả lời.

Tôi cũng ngạc nhiên khi nghe bà xã kể lại và không thể nghĩ rằng chuyện ái mộ cẩu thủ như thế này cũng có thể là một nguyên nhân cho vấn đề ghen tương trong gia đình. Sau này dù Klinsmann không còn ở trong đội tuyển bà vẫn giữ cảm tỉnh với đội tuyển Đức như ngày xưa.

World cup lần này bà xã tôi kết thêm đội Mỹ chỉ vì có Klinsmann làm huấn luyện viên. Tôi thì chẳng có cảm tình với đội tuyển Đức nhất là từ khi anh chàng Schumacher, thủ môn của đội này, đạp gẫy chân cầu thủ Batiston của Pháp trong một kỳ world cup cách đây trên hai chục năm. Trong trận Đức và Ghana, tôi âm thầm ủng hộ đội Châu Phi trong khi bên mép bàn bên kia bà xã tôi đang dán mắt vào những cầu thủ áo trắng. Khi Cờ-lô-zơ (đọc theo cách của ông bình luận viên) của Đức xuống banh gần tới khung thành, bà xã tôi rất phấn kích: “Sút vào, sút vào!”, Tôi “van vái” thầm trong bụng: “Bắn chim nè, bắn chim nè”. Quả thật trái đó Cờ-lô-zơ sút bóng vọt xà ngang lên trời. Bà xã tôi hụt hẫng trong giây phút. Kết quả trận đó mỗi đội bị thủng lưới hai lần.

Cảm tình của tôi không dành cho một đội bóng nào cả. Trong mỗi trận đấu tôi thường mong cho đội yếu làm chuyện bất ngờ và theo dõi xem đội đó có vào được sâu hay không. Nếu như đội đó thua, tôi hơi xao xuyến trong lòng một tí rồi tự an ủi: “Em này vô vòng trong cũng chết ngắt”, rồi kiếm đội yếu khác để ủng hộ.

Ngày hội bóng đá lần này được tổ chức ở xứ sở cà phê mà mấy ông già xưa (giờ này chắc là chết hết rồi) thường gọi là “Ba-Tây”. Đây là cái tên bằng tiếng Việt dịch lại từ tiếng Tàu, họ phiên âm bằng chữ Tàu để đọc lên nghe gần giống với từ ngữ Brazil thành ra “Pá xí”, rồi người Việt Nam dịch cái từ Pá xí này ra tiếng Việt thành Ba Tây. Tương tự như Tây Ban Nha, Ý đại lợi vv… Nước đăng cai lần này tổ chức world cup vô cùng hoành tráng với ý đồ tôn vinh đội nhà chắc chắn sẽ dành ngôi vôi địch. Mọi dự đoán trên báo chí trên thế giới đều có khuynh hướng thiên về đội chủ nhà. Ngay cả mấy ông trọng tài là những người cầm cân nẩy mực trên sân cỏ cũng bị nghi ngờ là thiên vị cho đội này. Nhưng rồi sự đời éo le, vô tới vòng bán kết, đội chủ nhà đã thua thê thảm. Cầu thủ khóc. Khán giả khóc. Mà khóc thiệt tình, khóc bù lu bù loa chứ không phải chỉ “tuôn đôi dòng lệ thảm”. Có cầu thủ quỳ xuống cầu kinh như tạ lỗi vì bị cõi trên trừng phạt. Rồi dân chúng xuống đường quậy. Xé cờ, đốt áo, phóng hỏa bãi giữ xe, đốt xe buýt. Hết biết! Khó có thể hình dung một xứ sở đã bị môn bóng đá mê hoặc như một thứ ma túy.

Có rất nhiều người cho rằng xem bóng đá mà không hò reo, la ó theo thật không có gì là thú vị, cho nên các ông thường tập trung năm bảy người bạn thân thích đến nhà một người nào đó trong nhóm, bày tiệc nhậu nhè nhẹ, cùng nhau theo dõi và la cho sướng. Nhưng world cup kỳ này toàn được trực tiếp vào những giờ giấc tréo ngoe. Đất nước Brazil nằm trên múi giờ đặc biệt cho nên Việt Nam phải xem vào lúc khuya lắc khuya lơ. Giờ giấc mà những người đàn ông không được ra khỏi nhà. Có đi khỏi nhà cũng không ai chứa để cho xem bóng đá. Quán sá đóng cửa. Bà xã chắc không tin ông đi xem bóng đá hay là đi đến nơi nào khác. Thôi thì đành phải ở nhà xem trong yên lặng. Tôi vừa nhâm nhi ly bia vừa gậm miếng xương gà thỉnh thoảng phải cắn chặt để khỏi bật thành tiếng la khi một cầu thủ đá bằng “má ngoài”, chiếc bóng đi vọt xà ngang. Từ ngữ “má ngoài, má trong” cũng do mấy ông bình luận viên này chế ra, trong khi khán giả chỉ cần biết cầu thủ đó đá trái banh bay lên khán đài là đủ rồi.

World cup càng về cuối càng hấp dẫn. Những tín đồ bóng đá căng mắt thức để theo dõi từng trận đấu. Có người mệt quá, than thở:

- Trời ơi, thức “trắng dờ” con mắt rồi ông ơi.

- Ai hành ông dữ vậy. Mệt thì ngủ, sáng coi kết quả. Bị cá độ chứ gì?

- Nói như ông thì còn gì cái đam mê khi xem bóng đá? May mà chưa cá độ chứ nếu nhào vô cái vụ đỏ đen đó thì đã “chết” từ khuya rồi.

Ông này nói đúng! Buổi sáng sau trận chung kết, rất nhiều bình luận gia nghiệp dư đã tới những quán cà phê trên đường phố cung cấp những thông tin sôi nổi về trận bóng đá sau cùng này. Ba Taxi tiết lộ:

- Rồi. Cha chủ Khách Sạn bên Tân Định hôm qua ôm kèo trên bắt Đức chấp nửa trái. Dính chấu.

- Bắt bao nhiêu?

- Nghe nói hai trăm chai(1).

- Chưa phải lớn. Hôm qua có cha nào đó ở khu bán xe gắn máy thua cả tỉ đồng.

- Nghe nói mùa này mấy tiệm cầm đồ làm ăn khấm khá.

- Khỏi nói rồi. Có tiệm phải để bảng không nhận nữa vì trong nhà không còn chỗ chứa xe cộ, đồ đạc người ta đem đến cầm.

- Vậy là sau cái mùa này sẽ có bao nhiêu em gia nhập hàng ngũ cái bang…

…..

Thời gian cứ mãi trôi cũng như quả bóng cứ lăn hoài hết world cup rồi tới Euro. Tuổi già cứ bình tĩnh sống thoải mái, trông chờ từ cái Euro này đến cái world cup nọ để tâm hồn được nở hoa mỗi khi nhìn trái bóng được mang một cái tên mới, lần này là Brazuca, lăn trên sân cỏ. Khi ngày hội bóng đá kết thúc là cảm thấy vui mừng vì đã vui sống an lành qua được một chu kỳ world cup.

(1) Triệu đồng

Phụ Bản II

CẢM XÚC SÂN CỎ

WORLD CUP

Khi hồi còi trọng tài chính ré lên

Cả cầu trường sục sôi nhập cuộc

Những anh hào - đến từ năm Châu lục

22 chàng si tình săn đuổi một mình em.

Những chàng trai

Da vàng

Da trắng

Da đen…

Chàng mũi tẹt

Chàng rậm râu sâu mắt

Chàng lực lưỡng, vai u thịt bắp

Chàng hào hoa, lịch lãm, bảnh bao…

Tất cả cùng mãnh liệt một tình yêu

Với em, cô gái thất thường mưa nắng:

Khi lạnh lùng, đỏng đảnh

Khi ngúng nguẩy giận hờn

Khi dữ dội cuồng phong

Khi nhẹ nhàng, thanh thoát…

Chàng lăn xả theo em

Mặc hiểm nguy rình rập

Chấp nhận đau thương, tay gãy chân què

Ôi, máu - mồ hôi - nước mắt người tình si

Đã bao lần hòa nhau chát đắng

Để một nửa cầu trường nghẹn ngào chết lặng

Một nửa cầu trường nhảy nhót cuồng điên

Những người tình chung thủy của em!...

***

Vậy mà…

Những người-tình-thủy-chung

bỗng-biến-thành-bạc-bẽo của em!

Khi sân khấu cỏ khép màn, vãn kịch

Chàng hả hê nâng cúp vàng vô địch

Trong ánh đèn flash rực trời đêm

Trong tiếng hoan hô cuồng nhiệt vang rền…

Thì lúc ấy

Em đâu rồi?

Sao em vắng mặt?

Sao mất hút em

Trong rượu

Trong hoa

Trong yến tiệc?

Gian khổ trường chinh, em cùng chàng gắn kết

Lúc vinh quang, chàng quên mất em rồi!

Em đang làm gì?

Khóc nghẹn hay cười vui?

***

Nhưng em hiểu:

Khi hào quang chiến thắng lắng xuống rồi

Chàng sẽ quay lại tìm em

Nguyên vẹn tình yêu đắm đuối

Để bắt đầu một chinh phục mới

Vì làm sao chàng có thể xa em?

Cho đến ngày mỏi gối chồn chân

Tóc bạc trắng, mắt mờ dần theo năm tháng

Trái tim chàng vẫn nồng nàn tình yêu say đắm

Dành cho em, cô gái mưa nắng thất thường:

Lúc bay bổng

Lúc ru hồn

Lúc bão táp cuồng phong

Lúc bướng bỉnh làm mình làm mẩy

Lúc dỗi hờn ngúng nguẩy

Đỏng đảnh đến hồn nhiên: đốt cháy lưới nhà!

MAI Q. DŨNG

TRĂNG THU ẢO ẢNH

Trăng sáng pha màu hoa biếng ru
Gió thu se lạnh nhả sương mù
Một thành tháp cổ soi dòng nước
Dăm bóng dân Hời nuối tiếc thu

Quê xưa em hỡi sắp về đông
Khuất nẻo trăng thu lờ lững giòng
Tiếng gọi Hải Âu sầu phi xứ
Tìm về ảo ảnh gọi trên không

Nhờn nhợt trăng thu vội úa vàng
Heo may rắc bạc phủ không gian
Âm thầm đùn đẩy qua màu sậm
Gió lạnh bên sông buồn kéo sang

Bến xưa thuyền vắng nước vơi đầy
Lơ lửng trăng vàng lơ lửng mây
Mấy đóa phù dung sương vướng đọng
Cành buồn trút lá bỏ trơ cây

HẢI ĐĂNG: TRẦN VĂN HỮU

16.3.2014

Những lời tâm sự của hai mẹ con

Mẹ: (Nói khẽ)

(ngâm)

Nầy Thủy Tiên con ôi

Mẹ đã ra vào, tìm khắp quận ba

Tìm trai xồn xồn thì quá tệ

Còn tìm mấy lão già, thì liệt gân

Thủy Tiên: (hỏi)

Còn bác văn Hữu thì sao hả mẹ?

Nói: con ôi!?

Lằng nhằng là thằng văn Hữu

Tính nó dở dở, mà lại ba gai

Em kia nó chẳng khứng

Thì: Chị nầy làm sao vô

Nói:

(ngâm)

Ồ!...

Ớ nầy Thủy Tiên con ôi

Thôi thì để mẹ bỏ cái quận ba

Mẹ dò đường, lần bước, tầm xa

Mẹ qua thăm người bạn ở quận tám.

Tình cờ gặp được “Bác Sỹ” thật là tuyệt chiêu

Con ơi… Bây giờ mẹ phải lòng yêu

Thủy Tiên nói:

Con rất vui mừng

Và chúc mừng mẹ trăm năm hạnh phúc

Mà bác ấy tên gì hở mẹ

Mẹ: “này con”

Bác ấy tên là “Long Đĩnh” đó con ạ

Thủy Tiên: (cười)

Tên đẹp quá mẹ nhỉ,

Vậy bác ấy có được bao nhiêu thành công lực

còn nội công bác có thâm hậu không… vậy mẹ?

Mẹ: (e lệ… thỏ thẻ đáp)

(ngâm)

Xích lại đây mẹ nói nhỏ cho con nghe

Thật lòng mẹ nói cho con nghe

Tây chân mẹ đây, ông đã… đả thông kinh mạch

Còn cái bụng giạ nầy… ông lại càng tuyệt chiêu

Con ơi: bây giờ mẹ đã biết yêu

HẢI ĐĂNG: TRẦN VĂN HỮU

02.5.2014

Trích yếu: Tâm địa, lòng dạ

(tên Thủy Tiên: tác giả hư cấu)

*

HUỶ DIỆT LƯƠNG TÂM

Thế mới hay, sự ghét ghen, đố kỵ

Lì lợm bám theo tiềm thức con người

Mầm bệnh ủ, theo năm tháng dần trôi

Chờ cơ hội là đâm chồi nảy lộc

Đổi thay chăng chỉ bề ngoài vỏ bọc

Cái xấu biến màu xảo quyệt tinh vi

Trong sâu thẳm chúng ẩn mình ai biết

Ngầm ngấm muôn đời hủy diệt lương tâm

LÊ MINH CHỬ

CHIỀU THU

Chiều thu, trên đường viễn du gặp người yêu cũ

Người yêu, trong nắng chiều lòng ủ rũ

Hết rồi những ngày ngây thơ

Hết rồi những ngày mộng mơ

Em đi một mình mà tình những bơ vơ

Bóng ai xa rồi, cứ ngỡ trong mơ

Nhớ lại kỷ niệm lên thơ

Phố lặng, mình tôi mãi ngẩn ngơ

Em ơi!

Anh chẳng giận em đâu

Hãy xóa đi nỗi sầu

Hãy xóa đi buồn rầu

Cho lòng anh vui

Em ơi!

Anh chẳng giận em

Mà chỉ giận anh thôi

Tình yêu đã qua lâu rồi

Tôi nhớ người yêu cũ

Tôi chỉ giận mình

Tôi chỉ giận mình

Vì không

Quên được em thôi

LÊ MINH CHỬ

KHÔNG CÓ NGƯỜI

Không có người nắng sao vàng đến thế
Hoa biếng cười và gió cũng thôi reo
Cả lá nữa cũng không còn xanh thẳm
Và cuối chiều mây trắng sẽ về đâu ?

Không có người đêm không tròn như giấc
Mắt không nồng môi chẳng biếc như xuân
Ngày thăm thẳm bên triền thu héo hắt
Ánh trăng mờ u uẩn một hồn hoang

Không có người sương cũng biết lang thang
Buông trễ nải dật dờ bên bóng núi
Phiến lá khô trầm mình theo con suối
Tiếng chim khàn âm cuối vọng tìm nhau

Không có người không có cả xưa sau
Không có bóng không có hình để nhớ
Không có mưa cũng không còn nắng nữa
Và tấc lòng không biết gửi cho ai

ĐÀM LAN

TÂM TÌNH NHÀ THƠ

Quẩy đống thơ đi để tặng người

Chút buồn, chút tủi, chút chơi vơi !

Năm năm, vắt óc, tìm câu, cú

Tháng tháng, moi tim, kiếm ý, lời !

Đãi chữ, lọc, sàng, đà hết sức !

Chạy tiền, in, ấn, lại mòn hơi !

Làm xong, đem biếu cho thiên hạ

Được một tri âm, đủ sướng đời!

Tâm Nguyện

MỘNG BÌNH THƯỜNG

Anh vẫn thầm mơ cảnh thái bình

Nếp nhà be bé, chút vườn xinh.

Hàng hiên lơ lửng chùm thiên lý.

Ao nước đong đưa cụm lục bình.

Gió tạt vào hiên, trêu lũ trẻ.

Trăng chui qua cửa, ghẹo đôi mình !

Tình yêu chắp cánh, thành ân sủng

Ban thưởng cho ta trọn cuộc tình.

Tâm Nguyện

CHIẾC ÁO DÀI

Cơn gió lung linh vũ lưỡng tà

Dịu dàng gọn ghẽ dáng kiêu sa

Rạt rào dưới biển toan đùa sóng

Rực rỡ trên đường tợ nở hoa

Kích cỡ phô trương xinh nét ngực

Ni lai ẩn khuất đẹp thân ngà

Áo dài dân tộc từng kiêu hãnh

Nam Bắc Trung làn điệu thướt tha ...

Thanh Châu

C Ờ B Ạ C

Một nút mà hên cũng thắng bù

Vào sòng đánh bạc được chữ ngu

Men theo quỷ lực tâm điên đảo

Đứng trước lòng tham mắt tối hù

Của cải tiêu tan cười hí hí

Gia tài khánh tận khóc hu hu

Trắng tay một chốc lòng chưa tởn

Bệnh hoạn trầm kha khó bỏ cù...

Thanh Châu

TRĂNG CỐ ĐÔ

Vầng trăng e ấp – gió lênh đênh
Thuyền lướt Hương giang – sóng bập bềnh
Lòng chạnh mơ về đêm đại nội
Dừng bến cửa phủ nhớ mông mênh

Đường xưa giờ khoác áo rêu phong
Thao thức đâu đây những bóng hồng
Để lại dấu hài trên lối cũ
Ven hồ hoa sứ rụng chờ mong

Khúc nhạc Nam ai trỗi dịu dàng
Những cô công chúa mắt mơ màng
Tơ chùng phím vỡ – hoàng cung lạnh
Một thoáng hương bay chợt ngỡ ngàng

Vần thơ tha thiết tạ lòng nhau
Mấy thuở vàng son đã nhạt màu
Nhung gấm tàn phai thành kỷ niệm
Cố đô hiu hắt chạnh niềm đau

NGÀN PHƯƠNG

ĐỌC SÁCH

Chữ lên, chữ xuống, chữ qua hàng,

Chữ xếp hình em nổi rỡ ràng

Anh đọc những gì không nhớ nữa,

Hằng giờ vẫn chẳng lật sang trang.

15.02.1999

VŨ ĐÌNH HUY

BOOK READING

Some letters are up, some are down, and some are on the lines

The set types showing your image appeared so clearly.

I don’t remember what I’ve read

For hours, I didn’t turn any page.

15.02.1999

VŨ ĐÌNH HUY

Translated by VŨ ANH TUẤN

LỞN VỞN KHÓI BOM

Khói bom

           cuồn cuộn

                    cuống cuồng

Cuốn anh

            trút bụi

                  chất chồng đời em!

Nhang trầm

          em thắp

                 đêm đêm

Giật mình

          nghe

               động cánh rèm

                                gió lay!...

28.8.1999

VŨ ĐÌNH HUY

BOMB SMOKE LOITERING ABOUT

Bomb smoke

          curling

                    perplexed

Sweeping me

            pouring dust

                  piling in heaps on your life!

Eagle-incense

           you lighted

                  night and night

Startled

         I heard

             the door curtain budging

                      and shaken by the wind!...

28.8.1999

VŨ ĐÌNH HUY

Translated by VŨ ANH TUẤN

CHUYỆN CHÚ DIỀU

Có mấy vần thơ nói về cuộc đời có ai xem không nhỉ?

Định viết ra cả tỉ lần mà sợ chẳng có người coi…

Chiều nay, trời vừa mưa, vừa nắng, tóm lại là oi oi

Bèn phóng bút coi hơi mình dài bao nhiêu ki lô mét.

*

Thật ra, đời ta có chi đâu, ngay cả dăm ba tấc đất

Để ngủ vùi, chẳng biết có hay không:

Bởi vì ta, ôi ta chẳng cố quan tâm

Đến những điều sẽ làm nhiều những tháng ngày tư lự.

*

Bạn biết chăng, bạn vẫn trên hành trình lữ thứ

Với hơn thua, mà chẳng bao giờ là chúa tể của điều gì;

Hoặc của ai – dù kẻ ấy nhường nhịn đến… lâm ly!

Và bạn vẫn muôn đời phải theo sau bất cứ ai điều chi chi đó!

*

Cũng có lúc bạn nổi lên như cánh diều cưỡi gió

Lội tung tăng trên lớp lớp tơ trời

Cười cuộc đời “Sao ở dưới chân tôi!”

Mà không nghĩ đến sự tồn tại của chính mình

                            chỉ nhờ vào sợi dây mỏng mảnh!

*

Có ai nghĩ chú bé con là chủ của anh diều đỏng đảnh

Chú ốm nhom, chẳng nghĩ đến, chưa nghĩ đến trần đời

Chú phiêu du bằng giấc ngủ chơi vơi giữa trưa hè:

Tay lả lơi giữ niềm vui của anh diều đẹp mã!

*

Ô! Thế đấy! Vận mệnh con người thật là xa lạ;

Ta có bao giờ tự điều chuyển được bản thân:

Ta làm chi cũng bởi những mông lung;

Và ý tưởng có khi cũng lại là của ai đó!

*

Ta làm được chi, là hành trình của hàng triệu năm lịch sử,

Của văn minh, của tiến hoá, của tất tật mọi điều;

Ta mắc nợ, luôn mắc nợ dù chỉ thể hiện tình yêu

bằng nụ hôn, vì nụ hôn đã được chép lại từ hằng bao thế kỷ.

*

Ta làm được chi, ngay cả điều kỳ vĩ

Là nhờ vào chú bé nắm trong tay

Sợi dây đơn sơ mà mộng ước ắp đầy.

Ta bay mãi. Phải rồi, mơ mà không ngủ gật.

*

Ta phải làm chi đây khi biết mình không là Tiên Phật?

Một chút thôi: Làm gạch nối giữa lòng đời

Thêm chút keo để gắn bó tình người,

Chút băng dính nối vòng quay lịch sử.

*

Dẫu tầm thường, chớ khiến mình vô sự

Người vô sự chỉ là kẻ vô tích sự mà thôi,

Chẳng liên quan chi đến vở diễn cuộc đời.

Và như thế, dễ lắm:

               chỉ cần leo lên lưng chú diều vô cảm.

LAM TRẦN

THIÊN ĐƯỜNG TÌM ĐÂU

Thượng Đế ơi! Thiên Đường nơi nao!

Sao lòng ngun ngút mối u sầu

Thiên Đường có thật hay hư ảo

Ngẩn ngơ tìm kiếm khoảng trời cao.

*

Tìm đâu thấy nấc thang thứ nhất

Người bơ vơ trái đất hao mòn

Đời chật hẹp tình sầu ngăn cách

Nỗi cô đơn chất ngất nào vơi.

*

Thiên Đường gần gũi hay xa xôi

Làm sao trú ẩn nỗi đơn côi

Những chiều chầm chậm - Hoàng hôn tới

Vơ vẩn nhìn mây bay cuối trời.

*

Tìm đâu - Bóng Dáng - Thiên Đường ơi!

Lạc loài vô định, nắng tàn phai

Rưng rưng tê tái, lòng u uẩn

Còn gì không - Tháng năm dần vơi!...

Phạm Thị Minh-Hưng.

PHƯỢNG BUỒN THÁNG 7

Phượng vĩ rực hồng sân trường cũ,

Tháng 7 bơ vơ bước chân người,

Kỷ niệm mịt mù, ngày quên lãng,

Giảng đường vắng bóng - Chiều đơn côi.

*

Ghế đá hững hờ, sầu hoen mắt,

Ngấn từng giọt đắng, trót hư hao,

Tìm đâu hoa trắng cài lên tóc,

Hoa tàn phai, sợi nhớ úa nhàu...

*

Tháng 7 mưa nhạt nhòa ghế đá,

Nhớ hàng cây, phố cũ, đã già,

Phượng vô tình, rụng rơi đầy lối,

Cánh phượng tàn, phai nhạt, cách xa.

*

Hồn chới với, mưa buồn tháng 7,

Gió lả lơi, khô giọt tái tê,

Trường vắng lặng, ơ thờ, lạ lẫm,

Tình lỡ, tình sầu, lạc bến mê.

Phạm Thị Minh-Hưng

Ngon - Bổ - Rẻ

Thỉnh thoảng có vài người nhờ người quen và tin cậy giới thiệu đến, nhờ tôi dịch giúp một số văn bản sang tiếng Anh. Nhưng ngay sau lần tiếp xúc đầu tiên, và sau khi biết mức thù lao dịch Việt Anh, quý vị ấy nói để xem lại và lặng lẽ rút lui. Tôi hiểu và thông cảm với họ.

Sáng hôm nay, 25/6/2014, một dịch giả thân thiết cũng giới thiệu đến tôi một người như thế, nhờ tôi dịch một văn bản nghiên cứu khoa học gì đó sang tiếng Anh. Và ông “thân chủ” ấy, sau khi hỏi mức thù lao, cũng nói… để coi lại. Tôi c ũ ng hiểu và thông cảm.

Dễ chừng chỉ có các văn thi sĩ muốn chuyển tải được càng nhiều càng tốt nội dung và cảm xúc trong tác phẩm của mình đến với độc giả nói tiếng Anh thì mới cần có một bản dịch mang tính văn học và chính xác. Những người khác không có nhu cầu đó thì so đo ngon-bổ-rẻ.

Tâm lý chung ai cũng muốn tác phẩm của mình dù sáng tác hay nghiên cứu được chuyển tải bằng thứ tiếng Anh văn học thì vẫn tốt hơn. Nhưng đòi hỏi một bản dịch văn học… phải như một món ăn vỉa hè vửa ngon vừa bổ lại vừa rẻ thì hơi kỳ cục.

Có lần một nhà thơ lão thành đáng kính ở Thành phố nói với tôi: Ở Sài Gòn có ba ngàn dịch giả, và người ta chỉ tính thù lao vài chục ngàn đồng một trang dịch thôi.

Nhà thơ nói không sai. Tôi lấy thù lao dịch Việt Anh cao hơn nhiều dịch giả khác. Nhà thơ đã nhờ một trong “ba ngàn dịch giả” đó dịch tờ brochure quảng cáo cho một cuộc triển lãm thư pháp của ông, trong đó có đoạn văn như thế này:

"Nếu hiểu thư pháp Việt Nam như là viết đẹp chữ H án và chữ Nôm, thì thư pháp Việt Nam đã có mặt từ ngàn năm rồi.

Nhưng nếu hiểu thư pháp Việt Nam là công trình, là nghệ thuật viết đẹp loại chữ Việt La tinh - viết đẹp đến trình độ "nên tranh", "có thần" thì cái gọi là thư pháp Việt Nam có lẽ chỉ mới xuất hiện từ khoảng 50 năm nay , bắt đầu từ những bức “tranh chữ thơ " , “tranh chữ câu đối” của hai nhà thơ Vũ Hoàng Chương và Đông Hồ.

Như vậy tuổi của loại “Thư Pháp Việt Nam này là rất trẻ.

Trong số những người tiếp nối có nhà thơ XYZ. Ông đi vào thư pháp với động cơ là khao khát muốn thể hiện lần thứ hai những bài thơ do mình sáng tác, đồng thời những bài thơ của các tác giả khác mà ông yêu thích. Niềm say mê này rất mãnh liệt. Bài thơ sau này nói lên điều đó:

Ba mươi tuổi vào thư pháp

Bảy mươi tuổi còn bản nháp

Suốt một đời

Bản nháp dồn cơn thác

Và đoạn văn đó được dịch tiếng ra Anh như vầy:

"If we had understood Vietnamese Penmanship as writing Han Script and ancient Vietnamese script well. Vietnamese Penmanship would have already presented for many years.

But if understanding Vietnamese Penmanship is a construction, an artist of writing Latin script well. Write well to standard "picture" and "Sp i ritual". So, what is called as Vie t namese Penmanship, perhaps has just appeared for approxiate (sic) fifty years. Starting with “Poem words pictures " , “parallel sentence pictures”of two poets: Vu Hoang Chuong and Dong Ho.

So the age of this “Vietnamese Penmanship” kind is very young.

Among of followed persons, we have XYZ poet. He joins penmanship from a motivation which is a aspirgion (sic) to express himself poems and other poems writers. The following poems showed that thing:

Thirty ages joined penmanship

Seventy ages have rough copies left

During life

Rough copies accummulated to fall

Giá như nhà thơ lão thành ấy biết tiếng Anh h ẳ n ông đã hiểu rằng dù trả thù lao cho dịch giả đó bao nhiêu, thậm chí không trả đồng nào, thì cũng là quá đắt. Có lẽ khó mà định giá một “thảm nạn” như thế này. Nhưng ông không đọc (được) bản dịch đó để biết nó tương xứng với thù lao: Tiền nào của ấy!

Khi viết bài nhận định “Dịch và giới thiệu văn học cổ Việt Nam: Những điều bất cập” ( http://www.art2all.net/tho/tho_tk/dichvagioithieuvanhocvn.html ) tôi đã nhận thấy một số dịch giả đã nhắm đến độc giả của mình là… người Việt Nam. Họ dịch cho người Việt biết tiếng Anh đọc. Cho nên ngay cả các nhà văn dịch giả người Anh, Mỹ được các nhà xuất bản của ta thuê biên tập trước khi xuất bản, cũng đã không muốn đọc và họ thực sự đã không hề đọc các bản dịch ấy – dù dưới mỗi bài thơ dịch họ có ghi tên mình biên tập! Những bản dịch mà người ta không muốn đọc thì dù trả thù lao với giá nào cũng là đắt quá.

Dù sao, không phải ai cũng quen biết với “ba ngàn dịch giả ở Sài Gòn” như nhà thơ lão thành nổi tiếng nói trên, cho nên cho đến nay các tác giả đã nhờ tôi dịch và tác phẩm đã xuất bản, không những đã không hề nhíu mày khi nghe nói mức thù lao, mà hầu hết đã ứng ngay một lần vào tài khoản của tôi, thậm chí có người (như nhà thơ Đinh Tấn Phước mới đây) dù được báo cho biết số advance ấy đã đủ cho tất cả thù lao của tập thơ rồi, nhưng vẫn gởi bù thêm cho “thật sự đủ”!

Chính những người đó biết rõ giá trị của bản dịch. Không một người nào trong số đó so đo giữa thù lao và hiệu quả bản dịch của tôi.

Còn các thứ tư liệu hay nghiên cứu khác thì có thể “phiên phiến” một chút, tác giả nhờ một trong “ba ngàn dịch giả ở Sài Gòn” dịch với giá vài chục ngàn đồng một trang là được rồi, người đọc hiểu được 60% trở lên, hoặc thậm chí 50/50 cũng… chẳng chết thằng Tàu nào; tìm đến một dịch giả chuyên nghiệp, hoa hòe hoa sói làm chi cho đắt đỏ nhỉ? Miễn là bản dịch đừng quá ngây ngô “bi đát” như trên kia, hoặc đừng quá sai, đến nỗi thư xin người ta tài trợ cho mình mà người ta đọc xong lại hiểu ngược lại rằng mình muốn tài trợ cho người ta, như đã xẩy ra một trường hợp như thế.

Được vừa ngon vừa bổ lại vừa rẻ thì ai không muốn! Nhưng đắt hay rẻ đều tương xứng với mức độ ngon và bổ chớ. Có điều, khi người ta không biết giá trị của vật mình muốn mua thì giá nào cũng cho là đắt.

Thiếu Khanh

TỰ GIỚI THIỆU

về THƠ HAI-CƯ

trong tập “Đời thơ với tuổi Thất thập cổ lai hy”

NHỰT THANH

Trong tập “Cuộc thi sáng tác thơ HAIKU NHẬT – VIỆT lần thứ 3” có ghi: “Thơ Haiku là thể thơ ngắn độc đáo của Nhật Bản gồm 17 âm tiết 5 – 7 – 5, ngắt nhịp thành 3 câu có lịch sử hơn 400 năm. Thơ Haiku ghi lại sự vật / sự việc một cách hiện thực, đơn giản nhưng truyền tải cảm nhận sâu sắc cho người đọc. Đề tài của thơ Haiku thường là thiên nhiên và các mùa trong năm vì thế thơ Haiku có luật cơ bản là phải có từ chỉ mùa, tiếng Nhật gọi là Kigo dấu hiệu cho biết bài thơ đang miêu tả mùa nào”.

Tuy nhiên khi đọc các bài được giải thưởng:

Giải nhứt:

Quả mướp dài → 3 âm tiết

Con ong vụt đến → 4 âm tiết

Đâu người tình xưa → 4 âm tiết

tác giả: Tôn Thất Thọ

Giải nhì:

Đỉnh non cao → 3 âm tiết

Chiến vỏ ốc thời tiền sử → 4 âm tiết

Còn nghe vẳng ba đào → 4 âm tiết

tác giả: Lê Tiến Đạt

Đọc, tôi khó cảm nhận sâu sắc dù trong sách có giải thích. Có lẽ vì khả năng của tôi hạn chế. Nhưng về luật thơ thì thế nào? Với số âm tiết của mỗi câu nêu trên, tôi cho rằng đây là biến thể của thơ Hai-cư mà thôi.

Nhựt Thanh tôi cũng có sáng tác thơ Hai-cư và in trong sách “Đời Thơ với tuổi Thất thập cổ lai hy” của Nhựt Thanh. Tôi xin tự giới thiệu vài bài thơ Hai-cư của mình.

1. Thơ Hai-cư đúng luật âm tiết : 5 – 7 – 5

Con trâu (trang 129 Đời Thơ…)

Trâu giúp người cày đất…

Chưn trâu lại dẫm nát bờ đê

Trâu nằm vũng tư bề

Nhựt Thanh

Trâu giúp người bao nhiêu công việc: cày, bừa, cộ mạ, lúa, rơm… nhưng chưn trâu cũng vô tình dẫm nát bờ đê, lại cũng có tật nằm vũng chỗ nầy chỗ nọ. Nông dân phải mất công đắp bờ, lấp các vũng trâu nằm để cấy lúa. Bài thơ đã nói được gì?

Làm lợi nhiều nhưng cũng gây hại. Cái lợi, cái hại cứ diễn biến. Từ dùng không rườm rà, vừa đủ diễn trọn ý. Về âm điệu bài thơ thì tôi đã ưng ý rồi.

Con lật đật (trang 130 Đời Thơ…)

Thẳng lưng lật đật ngồi

Tôi đặt cho nằm, bật dậy thôi

Hay nhỉ, vô thế rồi

Nhựt Thanh

Con lật đật, con vật đồ chơi của trẻ con, nó có một vị thế là ngồi. Dù ta đặt nằm, đặt nghiêng… nó cũng trở lại thế ngồi cũ. Kết thúc bài thơ là: “Hay nhỉ, vô thế rồi”. Câu nói nghe thấm thía. Nó đã ngồi thì không sửa được. Nếu có khi nào ta cãi lý một vấn đề, dù ta vận dụng bao nhiêu lý lẽ nhưng gặp người nghe có quan niệm bảo thủ thì họ vẫn giải quyết một cách máy móc. Lúc đó ta mới thấm thía với bài nầy:

Con rùa lật ngửa (trang 130 Đời Thơ…)

Một con rùa lật ngửa

Bốn chưn dốc sức cố mà bơi

Nó nằm nguyên một chỗ

Nhựt Thanh

Cái hình ảnh trông tức cười, bốn chưn cố sức quạt trong chỗ trống không thì đương nhiên không di chuyển được. Nhưng tôi cũng bỗng cảm thấy tức cười: Con rùa dốc hết sức lao động mà không có một chút kết quả gì.

Bài thơ toát lên ý nghĩa lao động phải có kỹ thuật mới có kết quả. Ý nghĩa cũng hay lắm

2. Thơ Hai-cư biến thể theo thể thơ lục bát :

Quán ăn (trang 130 Đời Thơ…)

Quán ăn nào có chi ngon

Khách vào đông thế hẳn giòn hơn thôi

Chẳng khen thiên hạ họ cười

Nhựt Thanh

Thói đời là thế, thấy người khen thì cũng hùa vào khen thôi, hay quá!

Nàng dâu (trang 131 Đời Thơ…)

Nàng dâu khóc với mẹ chồng

Dâu con hỗn láo nào mong trọn nghì

“Giống con xưa, giống quá đi!”

Nhựt Thanh

Cảnh đời vay trả trả vay. Khi làm dâu thì ngổ ngáo với mẹ chồng mà không thấy như vậy là sai. Nay bị dâu đối xử không tốt lại, phải có bà mẹ chồng nhắc lại may ra mới thấy mình sai!!!

Ưu tiên (trang 132 Đời Thơ…)

Xe tang, xe cưới, một đời…

Ưu tiên ai cũng tranh lời dằng dai

Kẹt xe dừng đó cả hai!

Nhựt Thanh

Cứ vin vào mê tín dị đoan, xe tang, xe cưới thì phải đi thẳng tới nơi chớ không được lùi lại hay quay lại. Nhưng không ai nhường ai thì xe kẹt cứ nằm ì đó thì không ổn rồi.

Nguyễn Trãi (trang 131 Đời Thơ…)

Bao năm đấu trí hung đồ

Nhơn tâm an vững, cõi bờ mở mang

Tru di mây thảm lệ tràn

Nhựt Thanh

Chuyện Nguyễn Trãi với bài thơ nầy tôi thấy thấm thía quá. Kẻ vì dân vì nước, đương đầu với gian nguy coi mạng sống như không nhưng khi nước nhà bình yên, vững mạnh thì bị giết đến ba họ. Buồn thay!

3. Thơ Hai-cư biến thể theo thể thơ song thất lục bát :

Cha con (trang 133 Đời Thơ…)

Cha đi chơi, cha là người lớn

Con đi chơi… cà chớn bị đòn

Lạ lùng một việc cha con

Nhựt Thanh

Lời thơ tự nhiên nêu một thói đời. Việc đi chơi dù người lớn hay trẻ nhỏ, nếu bê tha lêu lỏng thì đều không tốt cả. Nhưng “cả vú lấp miệng em”, cha, người lớn luôn cho mình là đúng, là được làm như thế. Đời vẫn có cái bất công.

4. Thơ Hai-cư biến thể thành thơ Tự do :

Tắm (trang 135 Đời Thơ…)

Tôi tắm, nàng cũng tắm

Ta với nàng chỉ cách tấc gang

Bức tường lại đứng chắn ngang lạnh lùng

Nhựt Thanh

Bài thơ lại chuyển sang giọng hài hước. Đọc, tôi bỗng phì cười thoải mái về ông già Nhựt Thanh tôi, ở tuổi thất thập cổ lai hy nầy.

Với các bài thơ Hai-cư nêu trên, Nhựt Thanh tôi cho rằng với từ dùng thông thường, tự nhiên, không rườm rà mà đủ diễn tả được sự việc, mỗi bài đều có ý nghĩa sâu sắc nhưng phần khả xúc của mỗi bài có hay không thì do độc giả cảm nhận; Nhựt Thanh tôi cho rằng tôi đã Việt Nam hóa thơ Hai-cư; tôi sáng tác theo phong cách Việt Nam để mở rộng hình thức sáng tác cho thơ Việt Nam vậy.

Xin trân trọng giới thiệu cùng đọc giả.

Ngày 12.4.2014

NHỰT THANH

(PHẠM HIẾU NGHĨA)(1)

(1) Tôi ghi luôn tên thật vì nghe đâu có một nhà thơ Nhựt Thanh khác nữa.

Phụ Bản III

TIỂU PHẨM HÀI

CÒ CƯA… ĐẤT!

HUỲNH THIÊN KIM BỘI

KỊCH BẢN

Nhân vật:

Bà Hai 50 tuổi mẹ của Vũ, Vân

Vũ 18 tuổi con bà Hai

Vân 17 tuổi con bà Hai

Ông khách 40 tuổi cò đất

Anh thanh niên 30 tuổi cò đất

Nhà nông thôn ba gian rộng rãi. Hàng hiên để kệ bán hàng tạp hóa bánh kẹo.

Bà Hai:

(đứng ở hàng hiên) Vân ơi! Vân, làm gì ở trong buồng vậy, ra đây má biểu chút coi.

Vân:

(đi ra) Dạ, má biểu gì con làm ngay.

Bà Hai:

Nghỉ hè ở nhà, con phải lo buôn bán phụ với má. Ở đây coi hàng nghe.

Vân:

Má tính đi đâu vậy.

Bà Hai:

Không đi đâu cả, chỉ ra ruộng xem lúa má, rau cải… nhờ người ta làm giúp cũng phải để ý dòm ngó chớ.

Vân:

Anh Vũ vẫn ra ruộng cùng làm với mấy anh kia mà má.

Bà Hai:

Bữa nay không có làm gì cả, không biết cũng nói càn. Ủa thằng Vũ đi đâu rồi, từ sáng đến giờ chẳng thấy tăm hơi.

Vân:

Anh Vũ đi học vi tính ở Huyện.

Bà Hai:

Vi tính… có phải cái máy vuông dài màu trắng, lúc này xem tivi tao thấy hoài. Học tính toán gì trên cái máy đó vậy hả?

Vân:

(cười khúc khích) A! má cũng biết cái máy vi tính. Anh Vũ bảo học vi tính thú vị, mê lắm!

Ông khách:

(đi vào, ngập ngừng) Chào bà.

Bà Hai:

Ông mua gì? Đường sữa hay mì gói?

Ông khách:

Tôi không mua hàng, cần gặp bà có chút chuyện.

Bà Hai:

(ngạc nhiên) Ông là ai? Gặp tôi có chuyện gì? Có chuyện gì liên quan đến con tôi à?

Ông khách:

(xua tay) Không, không có chuyện gì với con bà đâu. Tôi gặp vì chuyện khác…

Bà Hai:

(thở phào) Tự dưng ông vào nhà nói có chuyện, tuỏng đâu đến mắng vốn hai đứa nhỏ.

Ông khách:

Xin phép được ngồi. Tôi xin trình bày rõ câu chuyện thưa bà.

Bà Hai:

Được, mời ông ngồi (ngồi xuống cái ghế đẩu)

Ông khách:

(ngồi xuống ghế) Tôi mạo muội đến đây gặp bà, hỏi ý bà về việc đất đai.

Bà Hai:

Đất đai… đất nhà tôi ở ổn định lâu đời, giấy tờ sổ bộ đàng hoàng, chẳng có việc gì đâu.

Ông khách:

Tôi biết. Tôi xin vào thẳng vấn đề bà nhé. Chuyện là vầy, tôi muốn mua một mảnh đất ở khu vực này, mặt tiền con đường này. Tìm hiểu biết nhà bà đất rộng rãi, bà có thể nhường lại cho tôi vài trăm mét… Được không bà?

Bà Hai:

(giọng cương quyết) Tôi không có ý định bán đất.

Vân:

(chen vào) Ngộ thiệt! tự dưng đến hỏi mua đất. Ông quen với ai ở đây mà chỉ cho ông vậy?

Ông khách:

Không ai cả. Tôi đi loanh quanh khu vực này, thấy con đường mới tráng nhựa, nhiều nhà gạch mới xây, người dân làm ăn coi bộ nhộn nhịp…

Bà Hai:

Ông cũng định mua đất cất nhà, sinh sống luôn tại đây à?

Ông khách:

Vâng tôi sống ở thành phố, nhà ở trong khu quy hoạch bị giải tỏa. Tôi tìm mua đất, tìm chỗ nào có thể làm ăn kinh doanh được thì mua.

Vân:

(hỏi dồn) Thế ông thấy đất nhà cháu có thể kinh doanh việc gì?

Ông khách:

Khu vực này gần chợ, nếu có tiền mở quán ăn đặc sản hay cà phê sân vườn đều được.

Bà Hai:

(đứng lên) Xin lỗi ông, tôi không bán đất. Mời ông về cho.

Ông khách:

(giơ tay) Ấy, ấy bà ngồi xuống nghe tôi nói hết câu chuyện đã.

Bà Hai:

Khỏi, nói gì nói lẹ lên…

Ông khách:

Bà đồng ý bán tôi trả giá cao hơn thị trường… 1 cây vàng 9999 một mét vuông đất. Giá hời đó bà.

Vân:

(kêu lên) 1 cây vàng, 1 mét vuông. 100 mét vuông, 100 cây vàng. Ôi! chu choa “tấc đất tấc vàng”. Thế ông định mua chỗ đất nào vậy?

Ông khách:

(đứng lên, chỉ tay ra ngoài) Mua hết mảnh đất mặt tiền này, nếu bán căn nhà cũng mua luôn.

Bà Hai:

(chỉ tay) Đi, mời ông ra khỏi nhà tôi ngay.

Ông khách:

Được tôi đi ngay, bà suy nghĩ lời đề nghị của tôi, ngày mai tôi lại tới… (nháy mắt với Vân) vàng bốn số chín 9999 đó cháu gái (đi ra).

Vân:

(đến bên bà Hai) Má, con không ngờ đất nhà mình có giá cao như vậy. Má có muốn bán hay không?

Bà Hai:

(nạt) Im ngay, nghe vàng là sáng mắt. Đất của ông bà, đất để làm ruộng biết chưa…

Vân:

Má, nhà mình nghèo chỉ có nhiều đất, ba chết rồi ruộng chết theo ba, hu hu. Híc híc…

Bà Hai:

(nắm tay Vân) Nín đi con, nhắc đến ba là khóc hu hu quen cái tật nhõng nhẽo.

Anh TN :

(đi vào) Chào bà Hai.

Bà Hai:

Tôi đây. Ủa anh là ai?

Anh TN :

Cháu đến gặp bà Hai có chút chuyện.

Bà Hai:

Ngày hôm nay là ngày tam tai hay sao, tự dưng hết người nọ đến người kia vào nhà bảo có chuyện.

Anh TN :

Dạ, có chuyện thiệt mà… chuyện đất đai nhà bà Hai, cháu không nói sai.

Bà Hai:

(la lên) Lại chuyện đất đai, tao không nghe đi đi…

Anh TN :

(năn nỉ) Bà Hai nghe cháu nói đã, thần tài vàng bạc đến với nhà bà, đừng bỏ qua dịp may… cháu trả giá 1 cây 2 chỉ 9999 một mét vuông…

Vân:

Anh muốn mua đất ruộng 1 cây 2 chỉ…

Anh TN :

Đất mặt lộ mới có giá đó, đất ruộng giá bèo hơn em gái ơi.

Bà Hai:

Này, tao bảo không bán, đi ra khỏi nhà tao. Thật là lì lợm…

Anh TN :

Vâng cháu sẽ đi, nói cho bà Hai biết, đừng tin lời người đàn ông lúc nãy. Cháu biết rõ ông ta, một tay cò nhà đất cỡ bự.

Bà Hai:

(cười) Còn mày cò con hay cò cưa… Mày tưởng bà già này dễ tin lời mấy người bá vơ như mày sao.

Anh TN :

Không tin thì kệ bà… đúng ngày hôm nay tam tai, gặp phải bà già… oải quá! (đi ra)

Vũ:

(đi vào, ngó theo anh thanh niên) Ai ở trong nhà mình đi ra vậy Vân? Mặt mày lấm la lấm lét.

Vân:

Cò mua đất. Trả giá bằng vàng ròng, ăn nói lòng vòng…

Bà Hai:

Vũ, con ngồi xuống đây nói chuyện. má bực mình bực mẩy từ sáng đến giờ. (ngồi xuống ghế)

Vũ:

Dạ. (ngồi xuống ghế)

Bà Hai:

Tự dưng một người đàn ông đến trả giá 1 cây, vừa ra khỏi nhà anh thanh niên vào trả 1 cây 2 chỉ. Lạ quá, nhà mình không rao bán đất, tại sao họ dò đến.

Vũ:

Con hiểu rồi. Xã nhà mình được quy hoạch là khu đô thị, dân cư ổn định, sắp tới Nhà nước sẽ xây dựng nhiều công trình như chung cư để cho các ông nhân ở các khu công nghiệp, xây trung tâm văn hóa… Bởi thế, số cò nhốn nháo đi tìm mua đất đầu cơ kiếm lời.

Vân:

Anh Vũ giỏi quá, chuyện gì cũng biết.

Vũ:

Chuyện liên quan đến cuộc sống của mình, phải theo dõi tình hình để biết rõ ràng, không biết gặp phải mấy người cò, mắc bẫy họ như chơi.

Bà Hai:

Má không mắc bẫy bọn cò, má nói không bán.

Vân:

(cười) Má đuổi họ như đuổi tà, miệng la bài hãi… đi đi ngay khỏi nhà tao.

Vũ:

Vậy thì yên ổn, khỏi mắc công lằng nhằng với họ.

Vân:

Họ nói sẽ trở lại nữa đó anh. Mà giá đất cao thật hả anh Vũ?

Vũ:

Tăng thì có tăng do cơn sốt đất đai, nhiều nông dân ham lợi bán đất, không biết tính toán, chuyển nghề để sinh sống, khi xài hết tiền không còn đất để canh tác, trắng tay… phải vay nợ quỹ “xóa đói giảm nghèo” báo chí viết về vấn đề này hoài em có biết không?

Bà Hai:

Má cũng biết, nhiều gia đình nông dân lâm vào cảnh thất tha thất thểu, bởi bán đất đổi vàng.

Vũ:

Má à, sẵn đây con có chuyện thưa với má. Con sẽ không thi đại học.

Bà Hai:

Không thi đại học. Má vẫn có thể lo cho con đi học được mà. Lý do gì nói má nghe.

Vũ:

Dạ, từ khi ba mất, ruộng đất nhà mình không ai lo. Con muốn thay ba làm ruộng, giữ gìn đất đai ông bà để lại.

Bà Hai:

Con tính bỏ học, vậy đi học vi tính vi toán làm chi?

Vũ:

(cười ngó Vân) Con Vân thót mét với má hả? Con không thi đại học, nhưng sẽ xuống thành phố học một khóa vi tính chừng 6 tháng. Trở về con sẽ mở một cửa hàng vi tính…

Vân:

Anh mở cửa hàng vi tính, cho má nghỉ bán chạp phô luôn.

Bà Hai:

Giỏi, giỏi… hai anh em tụi bây coi bà già này không ra gì. Tao bán chạp phô lai rai cũng đủ tiền đi chợ mỗi ngày, mắc mớ gì đến vi tính mà bảo tao nghỉ bán. Tính làm gì không hỏi ý của tao hả?

Vũ:

Thì con đang hỏi ý của má nè. Mở cửa hàng vi tính, nói theo người thành phố là kinh doanh in tờ nét. Mình có máy vi tính có thể dạy cho các em học sinh, cho mướn máy chơi game, nhận đánh máy…

Vân:

Anh Vũ có thể ngồi tại nhà liên hệ với các chủ hàng ở thành phố. Má ngồi một chỗ thu tiền khỏe re khỏe ru.

Bà Hai:

Cha mày, làm gì có chuyện ngồi một chỗ thu tiền thiên hạ khỏe re khỏe ru. Nói dóc!

Vũ:

(cười) Má nói đúng, trước khi ngồi thu tiền bỏ vào túi, má cho con tiền đi học và mua máy vi tính.

Bà Hai:

Tính xin bao nhiêu đây?

Vũ:

Dạ, cho con hai mươi triệu.

Bà Hai:

Mèn đéc ơi! Bán tờ nét phải chi ra hai mươi triệu, dẹp… dẹp… để tao bán chạp phô. Lấy hàng bán trước trả sau, không chi triệu nào.

Vũ:

Con đi học đại học, má phải chi nhiều hơn thế. Con tính toán như vậy là có cơ sở kinh doanh, vừa làm ruộng rẫy. Năm sau em Vân tốt nghiệp sẽ học đại học.

Vân:

Con đảm bảo với má, cửa hàng in tờ nét sẽ đông khách, thu tiền vốn lại mấy hồi.

Bà Hai:

(thở dài) Thôi được rồi, chi ra hai mươi triệu là tiền để dành lo cưới vợ gả chồng cho hai đứa, đem te te tét tét bán tờ nét…

Anh TN :

(đi vào) Bà Hai chịu bán đất hả, định bán bao nhiêu mét đây?

Bà Hai:

Trở lại làm chi đây anh cò.

Anh TN :

Đứng ngoài cửa nghe bà Hai nói chịu bán mấy mét, cháu trả lên 1 cây 3 chỉ. Giá đó không ai trả cao hơn đâu.

Bà Hai:

Không chi, không chỉ gì… đi… đi.

Anh TN :

Bà Hai ơi! Bà Hai à! Bán đất đổi vàng, xài sang cho sướng tấm thân già.

Bà Hai:

Sướng tấm thân già! Hay là tao lấy chổi chà quét mày ra khỏi đây? Đi ra.

Vũ:

Anh kia, mời anh về ngay, đừng đến quấy rầy nhà tôi nghe chưa. Má tôi nổi giận dám lấy chổi đập anh một trận đó.

Anh TN :

(đi thụt lùi ra cửa) 1 cây 5 chỉ, chịu bán không bà già, không bán à. Ngu ơi là ngu! (đi ra luôn)

Bà Hai:

Cái thứ cò cưa… bực ơi là bực!

Vân:

(cười khanh khách) Đất ơi đất! nhà mình giàu đất “tấc đất tấc vàng” phải không anh Vũ?

Vũ:

Với anh là đất đen. Anh quyết tâm bám đất bám làng. Không chỉ lướt trên ruộng đồng cày sâu cuốc bẫm làm ra hạt gạo, anh sẽ lướt trên treng Web đưa in tơ nét vào ruộng lúa.

Bà Hai:

Ừ, má cho con rước cái vi tính về làng bán tờ nét.

Vân:

(cười hí hí) Má nói theo con nè (chu miệng) in tờ nét.

Bà Hai:

(vỗ vào mông Vân một cái bộp) Nét… đét… đét cho chừa cái tật xí xọn. Con gái gì chưa nói đã cười.

(Vũ Vân cười khúc khích, nói một lượt)

In tờ nét… In tờ nét… web… web…

Bà Hai:

Con Vân đi quét nhà mau lên.

Tháng 7.2005

HUỲNH THIÊN KIM BỘI

228A Bến Chương Dương

Phường Cô Giang. Quận 1


CON SỐ 3

& CON SỐ KỴ…

XUÂN PHONG

Triết lý của Ấn Độ; thần Neptune; nhà hiền triết Hy Lạp Pythagore, đều nói đến con số 3.

Sưu tầm chuyện lạ năm châu nhứt là về các câu ca dao, tục ngữ, ta mới thấy là thuở xa xưa, các dân tộc trên thế giới đều rất gần nhau, giống nhau. Chẳng hạn như khi Việt Nam ta có câu tục ngữ: “Tắt đèn nhà ngói như nhà tranh” (ý nói khi chăn gối người đàn bà nào cũng thế) thì người Anh lại có câu: “Khi đèn tắt hết các ngọn đèn cầy, con mèo nào cũng xám”.

Nhứt hóa tam

Lại cũng như câu nói lề “nhứt hóa tam”, người Tây Phương cũng có nói: “Lần thứ ba là may mắn”. Nói như thế không phải chỉ là khuyến khích suông rằng “nếu thất bại lần đầu, đừng bỏ cuộc, cứ ráng đi, ráng mãi thế nào cũng được ở lần thứ ba”.

Thật ra, con số ba có một ý nghĩa thiêng liêng được mọi sắc dân tin tưởng từ Âu đến Á.

Ngay hồi thế kỷ thứ sáu trước Thiên Chúa Giáng Sinh, nhà hiền triết Hy Lạp Pythagore đã gọi số 3 là “con số hoàn hảo”. Đó là dấu hiệu của sự hoàn tất và sanh sản.

Trong nhiều ngôn ngữ, con số 3 và chữ cây (tree) lại có chung một nguồn gốc về ngôn từ, có nghĩa là sức mạnh sanh sản.

Trong ngôn ngữ của phái Arian (một phái của Cơ Đốc giáo hồi thế kỷ thứ 4) bắt đầu có 3 mới là tính thành số nhiều (chớ không phải là 2 như Âu Mỹ) và hễ nhơn là cứ nhơn cho 3.

Con số 3 là con số đã ăn sâu trong ý nghĩ của con người, đã có nhiều minh chứng trong các chuyện thần thoại như trong tâm lý hiện nay.

Trong lý luận, người ta thường căn cứ theo ba yếu tố: đề, phản đề và tổng hợp. Trong tôn giáo, các Thánh có ba ngôi; nhà đại văn hào Shakespearcũng nói là các con số lẻ đều nhứt là số 3.

Trong các toa thuốc của bình dân ba thứ chất căn bản thường là đủ để trị một bịnh.

Triết lý Ấn Độ thường nói đến ba thế giới: Thiên đàng, trời và đất. Ngay đến chúng ta cũng nói đến ba phần của con người: cơ thể, trí óc và linh hồn.

Trong chuyện thần thoại cổ xưa, thần Neptune xuất hiện với cây chỉa ba, và Jupiter với cơn sét có 3 nhánh.

Theo Thánh kinh, nhơn loại cũng bắt nguồn từ ba gia đình Ham, Shem và Japhet.

Đến con số không hên

Khắp thế giới đều kiêng kỵ con số 13, được xem như là con số không hên. Ngay như hồi năm trước đây, chương trình Hoàng Thi Thơ trình diễn trên Vô tuyến truyền hình băng tầng số 9 đến số đó là họ Hoàng chỉ gọi là số 12 bis rồi nhảy sang qua số 14 luôn.

Tại Pháp, bạn sẽ không đời nào được ở một ngôi nhà có số 13, vì lẽ là nó không có. Hết số nhà 12 là 12,1/2 rồi số 14.

Tại Ý, xổ số cũng không hề dùng đến số đó bao giờ.

Ngay tại Mỹ là người ta quen sống thực tế nhứt, mà cũng có nhiều nhà chọc trời bỏ không gọi từng thứ 13. Nhiều hãng hàng không lờ đi số ghế này trên phi cơ của mình.

Tại nhiều nhà hàng ở Pháp, các bữa tiệc chỉ có 13 người cũng bị họ tính tiền là 14 phần và dọn đủ 14 phần, vì họ không biết đến số 13. Nhiều thủy thủ đã không chịu xuống tàu rời bến nếu tàu nhổ neo vào ngày 13 tây.

Con số 13 rất xui và nhứt là lúc ngồi vào bàn tiệc là một sự tin dị đoan bắt nguồn từ trước kỷ nguyên Tây lịch.

Sự sợ sệt con số 13 bắt nguồn từ chuyện thần thoại Na-uy, trong một bữa tiệc ở Valhalla trong đó có 11 vị thần được mời. Nhưng cuối cùng lại có Ác Thần là Loki nhập bọn, biến thành con số 13 và kết quả là Thần Balder, tốt nhứt trong đám bị chết.

Tại bữa ăn tối cuối cùng của đấng Christ ngoài Chúa Jesus ra, còn có 12 môn đồ tham dự, tổng cộng là 13 người.

Bữa ăn nầy là lần cuối cùng trước khi Chúa bị đóng đinh trên cây thập tự giá, do đó nó tượng trưng và là điềm xấu cho sự rủi ro và chết chóc.

Nhưng có một sự kiện ít vẻ đị đoan hơn cho biết rằng: theo các thống kê của các công ty bảo hiểm, là hễ có nhóm nào đến bảo kê mà thấy có 13 người, thì trong vòng một năm bảo hiểm đó, thế nào cũng có một người từ giã cõi đời.

ĐÀO MINH DIỆU XUÂN st


CHUYỆN KA RAO KÊ

Mấy hôm nay, ông hết sức bực mình vì mấy cái loa nhà hàng xóm cứ ra rả ca rao kê. Nhức cả tai! Mà đâu chỉ là ca mà thôi, dường như người hát còn léo nhéo cái gì như là chửi ai đó. Mà cái bà này lâu nay làm sao ấy! Bả chả còn cười nói với vợ ông như mọi khi.

Hai nhà chỉ cách nhau vài mét, nhà này trông qua nhà kia. Thỉnh thoảng có việc vui, vợ chồng ông Ka Rao Kê hay hê vợ chồng ông Nô Ca Cẩm qua chơi cho vui. Bà KRK hay rủ bà NCC đi ăn bún bò, hay mấy cái bánh xèo nóng hổi. Bà NCC ngược lại cũng khi thì chạy qua rước bà bạn mình đi tìm mua cái vải áo dài, hay giới thiệu chỗ này chỗ kia may đẹp lắm.

Có khi họ cao hứng, còn rủ nhau đi ra quán cho thêm phần xôm tụ, thêm cái tình làng nghĩa xóm. Các ông cụng nhau ly bia nói chuyện trên trời, các bà tí tủm bàn chuyện dưới đất, nghĩa là vui, vui lắm. Bà KRK chẳng ngại ngần gì mà không kể lể chuyện trời trăng mây nước, chuyện trong nhà ngoài ngõ cho bà kia nghe. Bà kia lại kể cho chồng về những câu chuyện bù khú ấy. Hai ông bà NCC rất ngại nghe chuyện hàng xóm, vì có ngày điếc tai. Nhưng người kể cứ thậm thụt kiếm người nghe mà tỉ tê, dĩ nhiên vẫn thỉnh thoảng kèm theo tiết mục ăn tô canh bún buổi chiều, hay xé con khô mực cho đậm đà câu chuyện ngày một sâu và xa.

Rồi có hôm, cô nàng Khi Khổng Khi Không, gọi tắt là KKKK kêu bà NCC ra kể chuyện, cổ kể mấy cái chuyện nội bộ của bà KRK cho bà NCC nghe. Bà này giật mình. À! Thì ra bà bạn mình không hề e ngại khi kể chuyện nhà cho không chỉ một người. Đúng là dại dột, vì những chuyện đàm tiếu ấy có gì mà hay ho, có chi mà chia với sẻ.

Những cái chuyện trời ơi ấy, vẫn đan xen với những tô bún riêu, những đĩa bánh cuốn, đan luôn cả những cú ca rao ke từ hai cái loa khổng lồ. Phải nói bả hát khá hay, nếu đi thi chơi chơi, dám có chút giải thưởng mang về treo cũng được. Cái xóm kỳ khôi. Ồn ào là thế mà chả ai nói. Nhà thì dệt vải ầm ầm, nhà lại hát hò long óc mà chả ai ý kiến ý mối gì cả. Có lẽ mọi người muốn giữ cái tình lối xóm. Có lẽ, những kẻ ồn ào luôn viện cớ rằng nhà kia ồn không kém, có ai nói đâu mà tui phải điều chỉnh âm thanh cho vừa đủ nghe

Rồi tự nhiên bà KRK không sang nhà bà kia chơi nữa. Bà NCC chẳng hiểu tại sao, chỉ thầm chép miệng, sao mà đồng bóng quá vậy ta, rồi kệ. Chứ làm sao bây giờ. Thôi thì ai chơi thì mình chơi, ai không chơi thì mình cũng không chơi vậy. Chỉ thầm thắc mắc, sao vậy mà chả dám hỏi ai chi cho lộn lạo. Vợ chồng bà NCC thử ngồi tự kiểm điểm xem mình có làm chi cho nhà kia mích lòng. Không hề! Vợ chồng ông không hề là thứ ngồi lê đôi mách, cũng chẳng là hóng hớt chuyện nọ kia. Lỡ có bị nghe thì á khẩu cho khỏi lôi thôi sau này.

Mà kìa! Giàn ca rao kê của nhà kia dạo này tăng công suất lên quá mạng. Bây giờ không còn hát mà là gào. Gào chán lại lèo nhèo như nhắn gửi ai đó với âm thanh chẳng hề êm ả trên 2 cái loa bự chảng.

Ông NCC ngửi thấy mùi nhà nọ chửi nhà mình, nhưng ông thậm chí chẳng nói với vợ về điều ông nhận xét, vì ông rất ngại cãi nhau như hàng tôm hàng cá. Lúc nào loa la to quá, ông đành đóng bớt cửa để hy vọng âm thanh dịu đi đôi chút. Nhưng không! Chả dịu đi mà còn ầm ĩ hơn, vì không chỉ có cái ồn ào từ phía ngoài mà còn cái khó chịu từ trong lòng khi bị hàng xóm đối xử như thế.

Một hôm, bà KRK đang hăng say hát, thì công an gõ cửa nhà bà. Bên này, ông NCC chợt giật mình vì cuộc thăm viếng ấy khéo lại lôi ông bà vào chuyện mông lung. Giàn máy im lặng hồi lâu. Rồi bùng nổ dữ dội. Bây giờ chẳng có ca rao kê nào nữa, mà là rủa xả không tiếc lời. Chỉ trừ tên cha tên mẹ của ông bà NCC mà bên kia không biết, còn thì la, hét, thả ga. Lúc này, bà NCC mới rõ rành rành rằng bà kia bấy lâu nay xỏ xiên mình. Chồng bà giải thích chắc có ai ra méc ngoài phường về cái vụ ồn ào của bà nọ, nên người ta mới cử người đến đây nói chuyện; và chắc cái bà ồn ào đó tưởng vợ chồng mình chủ mưu!

Và hai bà lao vào định choảng nhau. Ông NCC can gián một hồi mới tạm xong trận cuồng phong. Hàng xóm chẳng hiểu mô tê gì, cứ dáo dác trong kẹt cửa nhìn ra. Họ biết nhà ông NCC này xưa nay đâu có gây chuyện với ai, mà sao… Kỳ vậy!

Vâng, chỉ có thể nói là sao kỳ vậy thôi.

Nhưng có thôi đâu, vì bà nọ lại lôi micro ra và ố là là, từ 10g sáng đến tận 1g rưỡi trưa, bà mới chịu cho cái máy nghỉ ngơi. Có lẽ bà mệt rồi. Chả biết bà có uống nước dưỡng giọng không nữa. Có lẽ bà cũng khó chịu khi thằng cha bên kia chẳng nói một lời. Chả cứ ngồi trước cửa nhà chả, trên tay xoay xoay cái ly nước, thỉnh thoảng chả chiêu 1 ngụm rồi ngó trời ngó đất, ngó người qua lại, thỉnh thoảng chả mỉm cười với ai đó đi ngang, thắc mắc chỉ ngón tay vào nhà bà, mắt nhướng nhướng ra vẻ hỏi, chuyện gì vậy ông?

Mà lạ thay! Ông thấy vui trong lòng quá xá! Lần đầu tiên trong đời ông thấy mình thực sự tự do, ông muốn cười thật to cho sảng khoái tâm hồn, nhưng ông kịp nén lại, vì ông nghĩ chẳng khéo con mụ bên kia lại lên cơn nữa thì tội cho cái xóm này. Ông chiêu thêm ngụm nước, từ tốn nuốt vào cổ họng. Ông cảm thấy lòng mình lâng lâng vui sướng, vì ông nghĩ rằng, dù có thế nào đi chăng nữa, ông vẫn làm chủ tình hình. Chính cái mụ lên đồng kia mới là người đang lộn tiết ra ngoài khi chắc là nhìn lén, thấy ông bình chân như vại, biết đâu mụ ta còn nghĩ mình khoái chí khi chọc được con mẹ lắm điều la làng cho phí sức. Ông lại mỉm cười sung sướng.

Nhưng vợ ông không nghĩ vậy, bà với ông cứ lằng nhằng với nhau về vụ phải làm cái gì cho con mẹ ấy trả giá cho cái miệng tào lao, cho cái đầu thiếu não. Bà tức giận, bàn với chồng đủ thứ cách thức để tru diệt cái kẻ đã làm bà quê độ giữa hàng xóm, giữa ban ngày ban mặt. Dịu dàng lắm, và mất thời gian lắm, bà mới chịu nhận ra rằng, thật ra vợ chồng bà đâu có bằng vai phải lứa với cái bọn (nói ra bậy lắm). Nhưng bà vẫn ấm ức, hàng ngày bà cứ nổ con mắt về phía con mẹ lắm mồm, mà lạ thay, mụ ấy dường như không còn dám nhìn thẳng bà như ngày xưa nữa.

Đừng nghĩ ông không tức. Nhưng ông nghĩ rằng, chuyện mình trả thù thì đừng để ai biết, vì biết thì mệt lắm. Mà làm cho nó đau mà nó không biết kẻ gây ra cái đau ấy thì trả thù là thế nào. Ông băn khoăn cả tuần, rồi ông quyết định chẳng làm gì, vì như ông nói với vợ, nếu ta cư xử như chúng nó thì ta có khác gì chúng nó. Ngay cả khi ông biết người gần nhà, có bà mẹ già dưỡng bịnh trong nhà, chính là kẻ đã mời chính quyền địa phương tới nhà con mụ hàm hồ ấy, ông cũng chả buồn cải chính với tất cả mọi người, vì ông chán cái xóm này quá rồi.

Từ ấy, ông bà NCC ít đến nhà hàng xóm chơi. Họ đoán chính cô KKKK nọ đã rót mắm thêm muối vào câu chuyện làm quà với bà KRK mà sinh chuyện. Họ quyết định chẳng nói gì với ai, mặc ai nghĩ ngợi gì cũng được. Họ ngẩng đầu cao khi đi qua trước cửa mọi nhà, chỉ khi đi ngang nhà kia, thì gia đình họ, ai nấy đều tránh sang phía bên kia đường, như tránh dịch hạch vậy.

Dù chuyện lây nhây ấy đã hết từ lâu, nhưng ông vẫn luôn cảm thấy thật vui vì đã có lần, ông “chả thèm” nói lại nửa lời nào dù con mụ chết tiệt ấy gào khan cả giọng và rách cả loa. Vợ ông thì ngộ ra rằng, ừ thì đỡ phải chơi với cái thứ người như lên đồng ấy.

Còn bên kia, thỉnh thoảng họ vẫn ca rao kê, nhưng âm thanh nhỏ hẳn. Có khi, cả mấy tháng trời cũng chẳng nghe vợ chồng họ hát gì sất cả…

LAM TRẦN 04.7.2013

***

Rùa và Thỏ Tổng hợp –

Trí tuệ thắng Sức mạnh

Bạn đã từng nghe chuyện thỏ và rùa chạy thi rồi chứ?

Thỏ ta ỷ mình chạy nhanh và hay chê rùa chậm chạp. Một ngày nọ thỏ ta đề nghị chạy đua để giễu cợt rùa. Rùa miễn cưỡng nhận lời và chấp nhận cuộc thi.

Sáng hôm sau, dưới sự cổ vũ của rất nhiều thú rừng tại nơi xuất phát. Phe này bên vực cho chàng Thỏ phe kia bênh vực cho chàng Rùa. Xem ra phe bênh vực cho chàng Rùa có vẻ ít ỏi vì ai cũng cho rằng Rùa làm sao mà thắng được Thỏ cơ chứ? Chỉ có thầy giáo Cú già tủm tỉm cười và đứng về phe gia đình Rùa mà thôi.

Sau khi bác Gấu phất cờ lệnh, Thỏ ta như tên bắn vọt đi còn chàng Rùa thì đủng đỉnh như trước đến giờ rời mức xuất phát.

- Thỏ, thỏ, thỏ, chiến thắng…

Phe Thỏ càng gào to bao nhiêu thì tội nghiệp cho phe Rùa bấy nhiêu, chỉ như tiếng muỗi vo ve so với đám đông cổ vũ cho Thỏ.

- Cố lên, cố lên, cố lên…

Đường đua là một vòng rừng rộng lớn đám khán giả chờ lâu bèn ngồi “tám”. Nhóm này “cá độ” cho cuộc thi; người bắt Rùa người bắt Thỏ, Rùa cho cửa dưới và Thỏ cho cửa trên. Nhóm kia bàn về thời tiết. Nhóm khác nói về thu hoạch thời vụ. Nhóm teen thì bàn về thời trang… Riêng thầy giáo Cú vẫn tranh thủ dạy cho các thú “nhí” cách phân biệt các loại nấm độc, cách tránh các loại bẫy của những người xấu, cách chạy trốn trước các loại thú dữ…

Ông mặt trời đã chuyển về trưa và mọi thú rừng bắt đầu hướng về mức đến:

- Ủa mình có hoa mắt không ta?

Chàng Rùa đang lững thững đi về và không giấu được được vẻ hân hoan ra mặt:

- Mức đến kia rồi.

Lúc này Thỏ ta mới giật mình thức giấc. À thì ra phóng được một lúc Thỏ ta nghĩ rằng còn dư thì giờ chán, nhân dịp mọi người đang ở khu vực thi, Thỏ ta tạt vào khu vườn cà rốt làm đỡ vài củ cho no cái bụng đã. Và kìa những bông hoa trong cánh rừng kia đẹp làm sao? Mình phải hái một ít tặng cho nàng của mình chứ nhỉ? Ôi! Nụ cười của nàng ấy xinh đẹp, dễ thương lạ. Nhất là hai cái răng thỏ dài dài đẹp làm sao? Chà, vẫn còn sớm chán, thằng rùa bây giờ mới nửa đường là cùng ăn nhằm gì, nghỉ đã. Gió hiu hiu thổi cộng thêm cái bụng no Thỏ ta say giấc nồng và mơ thấy mình đang tung tăng bên người yêu dấu… Một con ong vo ve bên tai làm cho Thỏ ta dứt cơn mộng đẹp. Thôi chết rồi, nhưng không sao, còn kịp chán. Vèo, vèo, vèo. Kìa có một cái mai Rùa thấp thoáng đàng trước. Thỏ ta cười thầm:

- 30 giây thôi!

Đúng thật, 30 giây sau chân Thỏ vừa chạm vạch đích thì cái mai Rùa kia đã cán đích.Và thế là bạn ơi, Thỏ ta vẫn thua vì cái đầu Rùa đã vươn lên trước qua vạch vôi rồi - giống như các vận động viên khi về đích cố vươn cái đầu tại mức đến.

Mọi thú rừng quay ra cỗ võ cho chàng Rùa:

- Rùa chiến thắng, Rùa chiến thắng…

Thầy giáo Cú già cười toét ra như thầm nói:

- Học trò ta, ta biết chứ.

Kết Luận : Kiên nhẫn sẽ thành công

hay “cần cù bù thông minh”

Bí quyết của thành công của chàng Rùa là không bỏ cuộc.

Phải có mục đích và luôn nhằm vào mục đích, không lan man qua các việc khác như chàng Thỏ. Người chạy nhanh phóng nhanh sẽ tới đích nhanh. Còn Rùa? Rùa chậm chạp hơn nhưng chăm chỉ rồi cũng đến đích.

Đua lần 2

Thỏ ta được một bài học nhớ đời sau cuộc đua nhưng mỗi ngày nhìn thấy Rùa, Thỏ càng căm hận quyết phải lấy lại những gì đã mất. Một thời gian sau, Thỏ lại đề nghị Rùa đua lại, cũng vòng rừng rộng lớn đó. Rùa van xin:

- Thôi mà anh Thỏ, nhạo tôi hoài, anh là con của thần gió là vua tốc độ, tôi đâu có xứng để thi với anh

- Không được phải cho mọi người thấy thì ta mới hài lòng. Dứt khoát ngày mai phải thi.

Gia đình Rùa lo lắng lắm vì phe của Thỏ rất đông và luôn ủng hộ ý kiến của Thỏ.

Sau một đêm thức trắng bàn bạc họ nhà Rùa nhất trí phải thi thôi.

Sáng sớm hôm sau tất cả cùng ra đầu rừng để tụ họp cùng mọi thú vật khác.

Cuộc đua bắt đầu phe Thỏ vẫn được đa số ủng hộ, còn phe Rùa vốn dĩ rất ư là khiêm nhường cả về số lượng lẫn tiếng ồn.

Cờ lệnh của bác Gấu vừa phất xuống là Thỏ ta vùn vụt lao đi. Rút kinh nghiệm kỳ trước, Thỏ ta không dám nhìn ngang nhìn ngửa cho dù hôm nay bầu trời trong xanh, rau củ quả mơn mởn chào đón, hoa hai bên đường đua nhau nở rộ, lâu lâu trong tâm trí nàng Thỏ xinh xinh lại hiện lên cười duyên… Mặc kệ, chạy đã! Nhưng cứ đến một cột mốc thì lại có một cái đầu ló ra:

- Giờ này bác mới tới sao?

Nghe vậy, Thỏ ta lại cắm cúi phóng bạt mạng chẳng thèm để ý gì ráo trọi và tại mức đến… Rùa đã có mặt từ hồi nào rồi:

- Anh Thỏ ơi, anh thua rồi

Bạn biết tại sao không?

Con Rùa đầu tiên là con đứng ra thi, khi con Thỏ vượt qua nó đi tắt về đích chờ sẵn.

Còn mấy con Rùa bạn thì đứng sẵn ở những khúc cua, ló cái đầu ra chọc ghẹo Thỏ thôi.

Thỏ ta chạy bạt mạng đâu có để ý - vì Rùa nào cũng giống Rùa nấy - cho đến khi về đích thấy rõ mình thua rồi trước sự đắc ý của đối phương.

Kết luận:

Thành công lần này của Rùa là có sự trợ giúp của tập thể. Ông bà ta có câu: “Khỏe dùng sức, yếu dùng chước”.

Đua lần 3

Sau khi biết được mưu mô của Rùa, Thỏ ta tập họp các thú rừng để khỏi gian lận trong cuộc thi. Cuộc đua kỳ này không chạy quanh rừng nữa, mà: “Ai về nhà mình trước là thắng!”

Bác Gấu lại được phất cờ lệnh.

Rùa ta chỉ chờ có thế co chân rụt đầu và hô to:

- Về nhà rồi! Chiến thắng…

Trước sự ngỡ ngàng của Thỏ, thầy giáo Cú dõng dạc tuyên bố:

- Rùa chiến thắng.

Mọi người công kênh lật ngửa chàng Rùa lên nhưng chàng Rùa năn nỉ bỏ xuống.

Từ từ tiến đến bên Thỏ, Rùa nói:

- Anh mới là người chạy nhanh nhất.

Thỏ ta ôm Rùa và thốt lên:

- Không, bạn mới là người dẫn đầu, bạn là người kiên nhẫn, bạn mới là người khôn ngoan.

- Không, chúng ta cùng chung nhau dưới một mái trường, chung một thầy dạy, chẳng qua là chăm chỉ bù chậm chạp, tôi dựa vào tập thể anh chị em và chính vì thượng đế biết tôi chậm chạp dễ bị các loại thú khác ăn hiếp nên đã cho tôi căn nhà di động để bảo đảm an toàn cho sự sống và tôi đã tận dụng nó. Cũng như thượng đế ban cho anh đôi tai dài để nghe những bước chân của sói và đôi chân cơ bắp sẵn sàng trốn chạy khi bị săn đuổi.

Thỏ ta tự nhủ:

- À thì ra thế, điểm bất lợi của người này chẳng qua là do ta cho là như thế thôi.

KẾT LUẬN:

Kiến Thức thì ai cũng có thể học.

Điểm khác biệt là không phải ai cũng học được sự khôn ngoan và nhất là biết tận dụng những gì mình sở hữu qua việc học để áp dụng vào cuộc sống.

Hà Mạnh Đoàn


Phụ Bản IV

101 CÁCH ĐỂ XẢ STRESS

1. Dậy sớm hơn 15 phút mỗi ngày

2. Chuẩn bị từ đêm hôm trước

những kế hoạch của ngày hôm sau

3. Tránh mặc những quần áo quá chật.

4. Tránh phụ thuộc vào các hoá chất làm đẹp

5. Sắp xếp công việc trước

6. Đừng cố ghi nhớ, hãy ghi vào một tờ giấy

7. Áp dụng phương pháp:

“phòng bệnh hơn chữa bệnh”

8. Hãy làm hai chìa khóa để dự phòng

9. Nói “không” nhiều hơn.

10. Đôi khi bạn cũng cần được ưu tiên

11. Tránh gặp những người tiêu cực

12. Sử dụng thời gian một cách thông minh

13. Đơn giản hoá các bữa ăn

14. Luôn sao các giấy tờ quan trọng

thành ít nhất 2 bản

15. Biết được nhu cầu của bản thân

16. Sửa chữa bất kỳ thứ gì

khi chúng không hoạt động bình thường

17. Hãy yêu cầu được giúp đỡ

nếu bạn không thích một công việc

18. Chia nhỏ công việc và làm từng phần

19. Coi những rắc rối

là những thử thách phải vượt qua

20. Hãy nhìn những thử thách

bằng những con mắt khác nhau.

21. Sắp đặt cuộc sống theo cách của riêng bạn

22. Smile: Luôn mỉm cười

23. Sẵn sàng khi trời mưa.

24. Chơi đùa với một đứa trẻ

25. Nuôi vật nuôi trong nhà

26. Không cần biết tất cả các câu trả lời

27. Trong cái rủi vẫn có cái may

28. Khen mọi người

29. Dạy một đứa trẻ cách thả diều

30. Đi bộ trong mưa

31. Có kế hoạch đi chơi hàng ngày

32. Đi tắm

33. Hãy cẩn thận khi quyết định

34. Tin tưởng vào bản thân

35. Không nên nói những điều bi quan về bản thân

36. Hãy tưởng tượng bạn đang chiến thắng

37. Phát triển khả năng hài hước

38. Đừng nghĩ rằng ngày mai là một ngày mới

39. Đặt ra những mục đích trong cuộc sống

40. Nhún nhảy theo điệu nhạc

41. Nói “hello” với người lạ

42. Ôm một người bạn

43. Nhìn lên các vì sao

44. Tập thở từ từ

45. Học cách huýt sáo

46. Đọc một bài thơ

47. Lắng nghe một bản giao hưởng

48. Xem một buổi biểu diễn ba lê

49. Nằm trên giường đọc truyện

50. Làm một điều gì mới hoàn toàn

51. Ngừng những thói quen xấu

52. Mua hoa cho chính mình

53. Dành thời gian cắm hoa

54. Tìm kiếm sự ủng hộ từ người khác

55. Tìm một người bạn để tâm sự một cách tự do

56. Đừng để mọi việc đến ngày mai

57. Làm việc vui vẻ và nhiệt tình

58. An toàn là trên hết

59. Làm mọi việc một cách điều độ

60. Hãy chú ý đến bề ngoài của bạn

61. Mọi thứ không cần phải hoàn hảo

62. Từng bước đạt được mục tiêu của mình

63. Ngắm các tác phẩm nghệ thuật

64. Ngâm nga các bài hát yêu thích

65. Giữ trọng lượng của cơ thể

66. Trồng cây

67. Phóng thích một con chim

68. Tập chịu đựng áp lực

69. Đứng dậy và vươn vai

70. Luôn có kế hoạch 2

71. Vẽ những nét vẽ nguệch ngoạc

72. Ghi nhớ một câu chuyện hài

73. Kiểm soát được những suy nghĩ

74. Học cách đáp ứng nhu cầu của bản thân

75. Trở thành người biết lắng nghe

76. Biết những hạn chế của bản thân

và để mọi người cùng biết

77. Chúc mọi người có một ngày làm việc vui vẻ

78. Gấp máy bay bằng giấy

79. Thể dục hàng ngày

80. Học lời một bài hát

81. Đi làm sớm

82. Dọn căn buồng của bạn

83. Chơi với một đứa trẻ mới biết đi

84. Đi dã ngoại

85. Đi làm theo một con đường khác

86. Xin phép về sớm hơn thường lệ

87. Để điều hoà không khí trong xe hơi

88. Xem phim và ăn bỏng ngô

89. Viết thư cho bạn bè ở xa

90. Đi chơi bóng

91. Nấu ăn và tự thưởng thức dưới ánh nến

92. Nhận ra tầm quan trọng của tình yêu vô điều kiện

93. Stress là một phần trong cuộc sống

94. Viết nhật ký

95. Tập những điệu cười khác nhau

96. Nhớ rằng bạn luôn có sự chọn lựa

97. Tụ tập bạn bè

98. Đừng bắt người khác làm theo ý mình

99. Ngủ đầy đủ hàng ngày

100. Nói ít và lắng nghe nhiều hơn

101. Hãy cầu nguyện cho người khác

Bs. Nguyễn Lân-Đính st

NĂM TUẦN LỄ

TRÊN KHINH KHÍ CẦU

(Cinq Semaines En Ballon)

của Jules Verne

CON VOI

Đã được quyết định giữa ba người bạn, rằng họ phải tiếp đất ở một nơi nào đó thuận lợi đầu tiên. Người ta cần phải dừng chân, để kiểm tra lại khinh khí cầu một cách kỹ lưỡng...

Ngọn lửa của đèn khò được tiết giảm.

Mỏ neo được quăng ra khỏi tàu và lướt ngay trên ngọn cỏ cao hơn ba thước...

Con tàu Khải Hoàn bay lượn trên đồng cỏ như một con bướm khổng lồ. Chưa có thấy một chướng ngại nào để bám neo. Đó là một biển cỏ xanh mướt, mà chưa có một mô đá nào nhô lên.

Thợ săn Kennedy nói:

- Chúng ta chạy mãi như thế nầy sao? Tôi không thấy một bụi cây nào để tiếp cận; thế là cuộc săn bắn kể như đã hỏng rồi!...

- Đợi đã bạn, Chúng ta không thể nào đi săn trong đám cỏ cao như thế nầy được. Chúng ta nên chọn một nơi thuận lợi nào khác.

Thật ra đó là một cuộc dạo mát tuyệt vời, một cuộc du thuyền thật sự trên biển cỏ xanh, mà gió đã làm gợn sóng... Từng đàn chim màu sắc rực rỡ bay vụt lên với những tiếng kêu vui vẻ. Cái giàn neo chìm sâu vào ao cỏ bông mà kéo một con đường dài như tàu rẽ sóng.

Thình lình, con tàu bị chấn động mạnh và khựng lại!... Có lẽ neo đã vướng mắc vào một hóc đá nào đó, ở dưới bãi cỏ khổng lồ.

- Neo đã bám rồi!

- Vậy thì thả thang xuống!

Lời nói chưa dứt, thì một tiếng kêu chói tai, vang lên trong không khí. Các nhà du hành đồng thốt lên lời ngạc nhiên:

- Cái gì vậy?

- Tiếng kêu kỳ lạ quá!...

- Coi chừng, chúng ta đang di chuyển!...

- Mỏ neo đã tróc rồi!

Joe vừa nói vừa kéo sợi dây:

- À không, nó còn mắc cứng mà.

- Đó là khối đá biết đi!

Một sự giao động rộng lớn trong cỏ, và liền đó, một hình dáng dài uốn éo vươn lên... Joe bảo:

- Một con rắn!...

Kennedy cũng la lên, và nạp đạn súng:

- Một con rắn!...

Bác sĩ liền bảo:

- Ê đừng!, đó là vòi của con voi.

Kennedy vừa nói vừa kê súng lên vai:

- Con voi sao?

- Khoan đã Dick, nếu tôi không lầm thì con thú sẽ lôi chúng ta về một phương hướng tốt.

- Về hướng tốt à!...

Con voi chạy với tốc độ khá nhanh. Chẳng bao lâu, nó đến chỗ thưa cỏ, nơi mà người ta nhìn thấy nó toàn diện, với cái thân khổng lồ. Bác sĩ nhận xét, đó là con voi đực của một giống tốt. Nó mang cặp ngà với một độ cong đặc biệt dài gần ba thước. Cái mỏ neo đã cài dính vào đó. Con thú cố gắng lấy vòi tháo gỡ dây neo mà không được!... Joe vui vẻ reo lên:

- Hãy dũng cảm tiến lên!... Đây là một phương tiện du lịch mới mẻ. Thay vì đi ngựa, thì đi voi. Vui lên đi các bạn ơi!

Còn gã thợ săn thì nóng nảy với cây súng trong tay:

- Nhưng mà nó đưa chúng ta đi đâu?

- Nó đưa chúng ta đến nơi cần đến, bạn Dick ạ! Hãy kiên nhẫn một chút đi mà!

Bạn Joe luôn luôn la hét vui vẻ:

- Wig a more! Wig a more!... Dân Ecosse thường nói như vậy. Tiến lên! Tiến lên!...

Con thú lên nước sải rất nhanh. Nó quăng cái vòi qua phải, qua trái, và trong những cú nhảy nó làm chấn động đến vỏ tàu. Ông bác sĩ cầm cây búa trong tay, sẵn sàng chặt dây neo, lúc cần!

Cuộc dun dủi nầy, theo sau con voi khoảng chừng một tiếng rưỡi đồng hồ. Con vật không tỏ ra một chút mệt mỏi nào! Bạn Joe nói:

- Đây là một con cá mập mà chúng ta vừa câu được. Chúng ta phải hành động đúng theo thể thức câu cá mập.

Nhưng mà có một sự thay đổi địa thế, nên bác sĩ phải thay đổi kế hoạch di chuyển.

Một cánh rừng rậm hiện ra ở trước mặt, cách năm cây số. Vậy điều cần thiết là phải tách con tàu ra khỏi đầu kéo...

Tay thợ săn được giao nhiệm vụ, là chặn dừng con voi lại... Gã đưa súng lên vai, nhưng cái vị thế không được thuận lợi... Viên đạn đầu tiên nhằm vào đầu, mà nó tẹt đi như đụng vào khối sắt! Con vật không có vẻ gì bối rối. Tiếng súng còn làm cho nó sải nhanh hơn, như con ngựa phi nước đại!

Joe bảo:

- Cái đầu nó cứng quá!

Dick vừa nói vừa nạp đạn rồi bắn:

- Chúng ta dùng đạn nhọn mà bắn vào vai nó xem.

Con vật rống lên một tiếng chói tai, và tiếp tục chạy như điên!

Joe nạp đạn súng và nói:

- Xem đã... Để tôi giúp một tay, bạn Dick ạ... Không thôi, việc nầy chưa dễ xong đâu!

Hai viên đạn bay, ghim vào hông con thú. Con voi dừng lại, vươn cái vòi lên, và tiếp tục chạy tốc độ vào rừng. Con vật lắc lư cái đầu, và máu chảy ra nhiều ở vết thương.

- Chúng ta tiếp tục khai hỏa đi, Dick!

Bác sĩ lên tiếng

- Và khai hỏa liên tục. Chúng ta còn cách rừng không bao xa nữa!

Mười phát súng vang lên... Con voi nhảy dựng lên một cách kinh hoàng. Cái giỏ tàu khinh khí cầu bị chấn động mạnh, dường như muốn gãy bể tất cả. Cú sốc làm văng cây búa khỏi tay bác sĩ, và rơi xuống đất.

Tình hình bây giờ trở nên trầm trọng, bởi vì dây cáp neo đã bị cột chặt, không thể nào mở bằng tay, hoặc cắt bằng dao được, mà khinh khí cầu đã đến gần bìa rừng lắm rồi.

Khi mà con vật ngẩng đầu lên, thì nó nhận ngay một viên đạn vào mắt. Nó đứng khựng lại, ngập ngừng, rồi quỵ xuống, làm lộ cái hông ra cho thợ săn.

Gã thợ săn vừa nói, vừa nhả viên đạn cuối cùng:

- Một viên đạn vào tim!

Con voi rống lên một tiếng tuyệt vọng. Nó chồm lên, vừa quơ quào cái vòi, rồi ngã nguyên khối đè lên cái ngà, làm gãy lìa!

Nó đã chết!

Gã thợ săn vội la lên:

- Cái ngà của nó gãy rồi! Ngà nầy bán được tiền ở Anh quốc.

Joe vừa nói vừa tuột theo dây neo xuống đất

- Ừ, đắt giá lắm đó!

Bác sĩ Fergusson trả lời:

- Bạn tiếc làm gì Dick, chúng ta đâu phải là nhà buôn ngà voi, đến đây để làm giàu.

Joe đi thăm cái mỏ neo, còn đang bám vào cái ngà voi chưa gãy.

Bác sĩ Samuel và Dick cũng xuống đất, trong khi cái khinh khí cầu đang treo lơ lửng trên mình con thú.

Kennedy reo lên:

- Con vật đẹp làm sao! Nó nằm một đống. Tôi chưa từng thấy một con voi to như thế nầy!

- Có gì lạ đâu bạn Dick, voi ở Phi Châu đều đẹp như vậy cả.

Bạn Joe gợi ý:

- Trong khi chờ đợi tôi làm bếp với thịt voi nầy! Tôi bảo đảm là quý vị sẽ thưởng thức một bữa tiệc ngon lành! Bạn Dick có thể đi săn trong hai tiếng đồng hồ, Và bác sĩ thì đi kiểm tra lại thiết bị máy móc của con tàu đi!...

Dịch thuật: Thanh Châu

CÂU CHUYỆN  GIÀU NGHÈO

Đây là một câu chuyện không bao giờ có hồi kết, nó kéo dài từ thế kỷ này sang thế kỷ khác, từ thế hệ này sang thế hệ khác, nói một cách tóm gọn: Nó luôn song hành trong cuộc sống loài người. Còn con người còn cuộc sống là còn chuyện giàu nghèo. Có quá nhiều góc độ để soi chiếu đề tài này. Bởi đó là sự sống còn, là yếu tố mật thiết chi phối kiểm soát điều vận đời sống con người. Hay dở nên hư được mất hệ lụy thăng trầm tồn vong đều phụ thuộc vào nó. Khi con người luôn phụ thuộc vào các điều kiện phương tiện hỗ trợ, và luôn mang một tham vọng không ngừng về sự cải tiến nâng cấp những phương tiện ấy, thì cái đích cho những nhu cầu là không giới hạn. Không chỉ có nhu cầu nâng cấp vật chất, mà thông qua vật chất, người ta nâng cấp giá trị con người. Và không chỉ giá trị về mặt danh giá vị thế mà còn là quyền lực. Cái thứ quyền lực này có thể thao túng nhiều thứ quyền lực khác. Và người ta có thể đạt nhiều hơn những gì người ta muốn. Chính vì vậy mục đích giàu có hầu như không chừa một ai. Tuy nhiên, trong quá trình chinh phục đỉnh cao của đồng tiền, con người ta đã gặp không biết bao là trắc trở đớn đau, để rồi những cái giá phải trả là không hề nhỏ. Và cuộc sống đã đang và sẽ mãi xảy ra những bi thương thảm khốc từ bao câu chuyện giàu nghèo. Mặc dù vậy, không ai bảo ai, giàu vẫn luôn là một khát vọng không ngừng nghỉ. Thế giới người vẫn cứ xoay quanh cái khổ của sự nghèo giàu.

Hãy thử xem cái khổ của nghèo.

Đầu tiên, ai cũng thấy và ai cũng biết, nghèo là một sự thiệt thòi, bấp bênh, vất vả, lam lũ, khổ sở, bệnh tật, đói kém. Tất tật những gánh nặng cuộc sống đè lên đôi vai người nghèo là sự túng thiếu. Không có tiền hầu như mọi thứ đều là ngõ cụt. Có thể hình tượng một chút rằng, tất cả những yếu tố trên như một búi bùng nhùng quấn quíu vào nhau mà khó tìm thấy nút gỡ. Nghèo là căn nguyên, nghèo là sự tiên quyết trong mọi cung bậc thăng giáng của cuộc đời đôi khi không chỉ của một người mà cả những người liên quan. Và nghèo trở thành nỗi ám ảnh khi người ta phải đối mặt với bất kỳ một nguy cơ. Điều này rất ảnh hưởng đến tâm lý sống, có một cảm giác thường trực là “Sợ”. Người nghèo sợ rất nhiều chuyện, bởi với bất cứ chuyện lớn nhỏ xảy ra là phải đụng đến tiền. Không có đồng tiền trong tay, không thể nói mạnh trong mọi tình huống, và luôn có xu hướng né tránh những câu chuyện có thể gây thiệt hại cho mình, hoặc thường có sự lựa chọn mang tính thu mình, cam chịu và nhẫn nhục. Chính vì thế mà có cặp từ “nghèo hèn”. Người ta bỗng nhiên nhút nhát, e dè, ngần ngại, thậm chí cả lo sợ khi chạm vào một hình thức sang trọng bề thế. Người nghèo bước chân vào một ngôi nhà sang trọng, cho dù là được mời, cho dù nhà chủ rất vồn vã, nhưng cũng vẫn lúng túng thấp thỏm, ngồi vào chỗ nào cũng thấy không ổn, chạm vào cái gì cũng lo đổ vỡ hư hỏng, cái nhìn thì chẳng khác nào ngồi bên vệ hè mà ngóc cổ, ngơ ngác trầm trồ ao ước khao khát nhưng chạnh lòng tủi thân. Người ta sợ cả những điều mà đáng ra không nên sợ, không phải sợ. Cái sợ ấy ăn vào tâm thức như một quán tính vậy. Chính cái tâm lý ấy mà người nghèo thường có cảm giác có lỗi trong một số trường hợp mà lẽ ra không phải vậy, và tâm thức mặc nhiên chịu sự đè ép, bất công. Có khi biết mình không sai, nhưng tình thế có lợi thuộc về người giàu có sang cả thì cũng chép miệng thôi chịu thiệt cho xong.

Một cái khổ nữa là sự tự ti mặc cảm. Lúc nào cũng có một cảm giác thường trực là người ta xem thường mình, khinh mình vì mình nghèo. Trên thực tế tất nhiên cũng có những lúc gặp phải những người như thế, những người nông nổi hời hợt luôn đánh giá người khác qua những hình hài vật chất, và cứ nghiễm nhiên cho rằng nghèo là sự thấp kém. Nhưng không phải lúc nào và với ai cũng như thế. Có rất nhiều cảnh huống, lời nói vô tình hay mang một nghĩa khác, nhưng người nghèo với tâm lý mặc cảm sẵn có, luôn hiểu khác đi và tự định nghĩa theo cách nghĩ của mình. Điều này thật là tệ hại, nó khiến cho các mối quan hệ lẽ ra rất tự nhiên rất tốt lành lại thành méo mó khiên cưỡng và ngờ vực. Và cũng vì thế mà một số người nghèo có những hành xử tự vệ một cách thái quá, trở thành gây gỗ, xa lánh thậm chí thù hằn. Để cải thiện được tâm lý này thật khó, khó lắm.

Nghèo cũng có nhiều lý do để nghèo.

Nghèo vì lười biếng.

Có kha khá người không muốn làm việc nhiều, đụng vào đâu cũng thấy khó thấy khổ, làm cái gì cũng nửa chừng nửa đoạn, chỉ thích ăn chơi, ham hưởng thụ, có tư tưởng dở ông dở thằng, trong khi bản thân thì chẳng có lấy một chút tài cán khả năng gì đáng kể, nhưng lại thích ăn trên ngồi chốc, thích ra vẻ ta đây là người giỏi giang sang trọng, thích sai phái chỉ bảo người khác, nhưng nếu bị sai phái chỉ bảo (dù rất chính đáng) là khó chịu, là cảm thấy bị xúc phạm bị coi thường, là nổi tự ái vặt giở giọng ngang chướng. Người kiểu này lúc nhỏ thì bám vào cha mẹ, khi lớn thì bám vào bạn đời, về già thì bám vào con cái, tuy thế nhưng luôn tỏ ra kiêu căng phách lối, hay quát nạt tỏ ra quyền thế, kỳ thực cốt yếu là che giấu sự kém cỏi và tự ti của bản thân. Đa phần trong số này sẽ trở thành kẻ mồm mép điêu ngoa, giỏi mánh khoé lừa lọc, sẵn sàng làm việc xấu chỉ cần đáp ứng nhu cầu vật chất trong chốc lát. Và nếu có rủng rỉnh được ít nào thì cũng chỉ rất ngắn, bởi cái sự rủng rỉnh ấy sẽ phải mau chóng phục vụ cho nhu cầu sĩ diện và cấp tốc hưởng thụ. Cái nghèo này là cái nghèo bám chặt không tha.

Nghèo vì bệnh tật.

Đây là cái nghèo mà có cố gắng mấy cũng không khắc phục được bởi sự hạn chế của sức khoẻ. Sức khoẻ là vàng. Sức khoẻ là cuộc sống. Nên thiếu sức khoẻ là thiếu rất nhiều. Đã bệnh tật đã không có nhiều khả năng cơ hội để làm ra của cải, thì lại phải tốn phí nhiều thời gian và tiền bạc cho việc chữa trị. Nhất là bệnh nan y. Rất nhiều người ban đầu không đến nỗi khó khăn lắm, nhưng rồi một ngày phát hiện ra bệnh thì của trong nhà đội nón đi ra vùn vụt. Nếu là loại bệnh dai dẳng thì tình trạng cũng không khả quan hơn là mấy. Mà con người ta không ai là không có bệnh, vấn đề là bệnh gì và lúc nào mà thôi. Vì vậy nguy cơ nghèo vì bệnh luôn lẩn khuất trong mỗi người.

Nghèo vì số phận.

Đây không phải là cách nói duy tâm hay mặc nhận. Không ít người cũng rất chịu khó bôn ba. Cái gì cũng làm, cũng luôn đem hết công sức mình ra thực hiện nguyện vọng làm giàu. Và cũng không phải là loại bất tài. Nhưng tài và vận nhiều khi không đi đôi với nhau. Thấy người khác làm ngon lành, mình sờ tay vào thì thất bại. Người ta thì tính đâu trúng đó, mình thì tính cũng hay lắm, nhưng cứ không như ý, tưởng như nắm được vào tay rồi lại tuột mất. Hoặc cũng đạt được chút thành quả nhưng lại gặp chuyện không may làm hao hụt đi. Cũng nhiều khi luôn gặp sự cản trở từ những đối địch. Suốt đời lận đận long đong, cái đích giàu có vẫn mãi xa tầm với. Nên “Rằng hay thì thật là hay. Rốt đời thì vẫn lòng tay trắng trời.”

Nghèo vì thiên tai, biến cố.

Đây là một chuyện không một người nào đủ tài ba để lường trước được. Đang phông phênh phơi phới, cứ ngỡ cuộc đời phía trước luôn mở rộng lối, cứ ngỡ những gì đang có và sẽ có là chuyện đương nhiên đã nắm trong tay, cứ ngỡ những viên gạch cứ nghiễm nhiên mà chất lên thành những tầng cao. Nhưng rồi bất chợt, một cơn hỏa hoạn, một cơn bão lũ, một ca tai nạn, một chuyện thất bát khủng hoảng trong công chuyện làm ăn… Nói chung là bất kỳ một biến cố nghiêm trọng nào đó ập đến, thế là tan tành cả cơ nghiệp, đang đùng đùng nhà ba tầng lăn ra lều bạt, đang ngời ngợi những sắc màu lộng lẫy thành ra nhem nhuốc lấm lem. Một sự sụp đổ không dễ gì vực lại, một cơn tai biến không dễ gì hồi phục, và thế là con người ta bỗng nhiên… nghèo.

Tâm thế người nghèo tuy có những băn bó lo toan, mỏi mong khao khát, nhưng cái sự hiểm nguy không phải thường xuyên rình rập. Họ có thể tùng tiệm liệu cơm gắp mắm, và đáp ứng được tương đối nhu cầu trong một thời đoạn, đủ để họ cảm thấy yên tâm. Một số tự biết khả năng điều kiện của mình không thể đi quá xa với quá tay, họ có thể tạm an hòa tâm thân. Đành rằng những mộng ước vẫn còn nóng hổi thôi thúc, nhưng dẫu sao thì hãy cứ trầm tĩnh để đi qua thực tại, trầm tĩnh để chuẩn bị cho mình những khả năng và điều kiện, trầm tĩnh để tìm đúng thời cơ phù hợp nhất mà phát triển. Và họ vẫn luôn tìm được những giây phút bằng an và thoải mái với sự trầm tĩnh ấy. Nghèo cũng có những hạnh phúc đáng quý của cái nghèo. Rõ ràng một điều, nghèo mà cẩn mực mà căn bản nhân cách thì không có nhiều nguy cơ cho con người băng hoại đạo đức, đó là nói về những con người những gia đình có tâm thế sống tạm bình ổn và có một nền giáo dục tốt về mặt nhân cách. Mặt khác, cũng có những loại tội phạm phát xuất từ cái nghèo, “đói ăn vụng túng làm liều”, nhưng thành phần liều này cũng không có nhiều điều kiện thuận lợi để gây tác hại lớn cho cộng đồng, họ cùng lắm chỉ trộm cắp, lừa gạt trong phạm vi nhỏ, chỉ cần có tinh thần cảnh giác thì vẫn tránh được. Tuy nhiên, đây là thành phần rất dễ bị lợi dụng lôi kéo cho những mưu đồ bất chính. Họ tự nhiên biến mình thành công cụ cho một số quyền thế, tự nhiên đánh đổi cả nhân cách lương tri thậm chí cả tính mạng chỉ để đem về một chút lợi lộc cho bản thân cho gia đình. Với những người này, quả thật đáng thương hơn đáng trách, họ không đủ điều kiện trình độ khả năng nhận thức việc làm của mình có tác hại thế nào cho chính mình và cho nhiều người, một số thì biết, biết rõ, nhưng cũng liều nhắm mắt đưa chân, cốt cho qua cái thời đoạn khó khăn, nhưng khi sa chân vào vũng lầy rồi thì không thể rút ra được nữa, mà chỉ ngày càng lún sâu.

Người nghèo cũng có những thú vui của người nghèo. Phần lớn những món ăn dân dã là từ những làng quê nghèo, phần lớn những trò chơi điền viên vận động cũng từ những làng quê nghèo, phần lớn những văn thơ nhạc họa cũng lấy cảm hứng từ những làng quê nghèo. Những làn điệu dân ca dân vũ cũng từ những làng quê nghèo. Và người nghèo, phần lớn có những thú vui lành mạnh, những thú vui mang tính cộng đồng. Bên cạnh đó, phần lớn những sáng tạo cũng từ người nghèo, bởi cái khó ló cái khôn. Ngoài ra, nghèo còn là một động lực tích cực và thiết thực. Tất nhiên, nghèo không phải là điều mà người ta muốn chọn lựa. Nó có những cái khổ thực tại đôi khi quẫn cùng, nhưng nó vẫn luôn có một con đường đi lên, chỉ là người ta tìm ra nó bằng cách nào. Nhưng một cuộc sống nghèo vẫn có thể đem lại cho người ta nhiều ý nghĩa. Người ta có cơ hội để thấm đẫm tình đời, để hiểu nhiều hơn những người chung quanh mình, để thấy rõ hơn những diễn cảnh cuộc sống nhiều mặt, và người ta học được rất nhiều kiến thức cũng như kỹ năng từ cuộc sống nghèo. Dẫu sao, thì chẳng ai từ chối cơ hội thoát nghèo, chẳng ai không muốn trở nên giàu có sung sướng nhàn hạ. Nhưng liệu rồi khi giàu có thật sung sướng và nhàn hạ không?

Và đây là cái khổ của người giàu.

"Giàu tham việc” đó là cái khổ đầu tiên. Muốn giàu thì phải làm nhiều, sáng chưa mở mắt đã nghĩ đến việc, tối leo lên giường vẫn còn việc nọ việc kia, việc tay chân việc đầu óc, việc trong nhà việc ngoài xưởng, công việc cứ như cuộc dây thừng bện rịt vào tay, lúc nào cũng hối hối hả hả tất tất tả tả, có ai níu lại thăm hỏi vài câu thì xin lỗi nhé đang bận quá. Có dứt ra đi đâu việc hiếu hỉ thì cũng ba chân bốn gót bởi ở nhà bao công việc đang chờ. Hầu như rất ít giây phút thảnh thơi nhàn tản, cho dù con số tài khoản có dài bao nhiêu thì vẫn cứ cung cúc mà nối cho nó dài thêm thêm mãi. Ăn một bữa cũng không yên chỗ nọ kêu chỗ kia réo, nhai nuốt trếu tráo cho xong còn đâm bổ đi làm việc. Ốm đau cũng chẳng dám nghỉ, đến mức nặng lắm mới phải nằm, mà nằm cũng có yên đâu, còn bận chỉ bảo cắt đặt, lo toan chuyện chiều chuyện sớm, hơi ngóc ngách là thôi ráng dậy mà làm chứ không thì việc chất thành núi rồi. Bên ngoài thấy cái nhà to cái xe xịn bộ đồ sang thì trầm trồ, có biết đâu là tướp mồ hôi sôi gan cháy ruột vì việc trùm đầu lấp cổ. Thế mà nhiều người chẳng hiểu cho còn choàng cái tiếng “Ôi giời A, B ấy à, giờ chỉ biết có tiền chứ biết đến ai nữa”. Có buổi ăn bữa nhậu nào thì cũng chân thấp chân cao đến rồi lại vội vã chân thấp chân cao về. Biết chung quanh to nhỏ xầm xì cũng đành chịu. Người ta chỉ biết trách móc chứ có ai làm hộ mình cái gì đâu, thôi kệ mình cứ lo việc mình đã ai nói gì nói. Lâu dần cũng thưa vắng bè bạn, thấy bận rộn quá người ta cũng ngại cù rủ.

Khổ vì giữ của.

Có của nhìn đâu cũng thấy trộm. Cất đâu cũng thấy không yên tâm. Không những trộm mà cướp mà kẻ lừa đảo cũng nhăm nhăm nhòm vào. Có cơ hội là ra tay, cho dù có đề phòng kỹ lưỡng cẩn mật đến đâu đi nữa. Thấy người lạ đến hỏi han là thần kinh căng lên cảnh giác nhưng mà kẻ lừa đảo thì nó lắm mưu mô lắm, càng ngày càng có những chiêu lừa tuyệt kỹ mà cho dù người có khôn ngoan lắm lắm cũng không thể tránh mãi được. Đã thế đâu chỉ người lạ lừa, người lạ thì giỏi lắm cũng chỉ lừa được ít ít thôi, bị mất mát nặng nề là ở những người quen kia, đã quen rồi, thậm chí là quá quen nên quên mất thận trọng. Hầu hết những người bị lừa là bởi người quen, bài học thì nhiều lắm, nhưng mỗi cách lừa mỗi khác, nên kiểu gì thì cũng có ngày sập bẫy. Nhà thì kiên cố cổng cửa vài ba lớp, nhưng vẫn cứ nơm nớp kẻ gian lọt vào, nhiều khi đã mất của lại còn thiệt thân. Không chỉ mất mát vì bị lừa đảo trộm cướp, mà còn mất vì cho vay. Người nọ người kia đến kêu khó kêu khổ, không cho vay thì chửa rủa là độc là ác, giàu có thế mà không biết giúp đỡ người khác, mà cho vay thì kha khá trong số đó khó đòi lắm nha. Không phải ai cũng có “kỹ năng” đòi nợ, khi vay thì xem chừng mềm mỏng tội nghiệp lắm, nhưng khi đi đòi thì không hiếm chủ nợ bị biến thành kẻ có lỗi, kẻ đi xin, nhiều khi còn bị con nợ giở trò trâng tráo thách thức. Để rồi, lắm cái tặc lưỡi “thôi coi như xui, bị móc túi, bị đánh rơi cho xong”.

Cái khổ bị moi khéo.

Đây là tình trạng bị kêu gọi làm từ thiện. Vốn dĩ, từ thiện là chuyện tự nguyện, tùy tâm. Nhưng không hiếm những tổ chức những cá nhân lạm dụng vào cái gọi là “nhiễu điều…”, tiếng là kêu gọi vận động quyên góp, nhưng hầu như ý là buộc ngầm. Gần như chẳng một doanh thương doanh nghiệp nào tránh khỏi cái nạn này, mỗi khi có sự cố thiên tai ở vùng miền nào đó thì y như rằng, hết đoàn thể nọ đến tập thể kia rều rễu lui tới, rồi không nhiều thì ít, kiểu gì thì cũng phải “thuế không biên lai” cho xong, mà nào đã yên, con số mà khiêm tốn quá cũng cũng bị lườm ngang nguýt dọc, con số cho dễ coi một tí thì năm mười lần như thế sẽ là bao nhiêu. Rồi lại nay nhà thờ này mai nhà chùa nọ, nay trẻ em khuyết tật mai người già neo đơn, không móc túi thì mang tai mang tiếng, mà móc túi thì biết mình bị mất cắp công khai, vì không phải đồng tiền nào cũng đến đúng nơi nó cần đến, lắm lắm điềm nhiên mà tờ tiền rẽ ngang. Mình làm ăn xầy vẩy xoay đầu nọ bấu đầu kia mới gọi là dư dả tí chút. Đầy rẫy cái mác giàu mà nợ hàng tỷ, mở mắt ra là đã ngay ngáy một đống tiền lời, ai biết đấy là đâu, chỉ biết bâu xấu không được thì ong ve. Họ hàng bè bạn, có gì khó khăn là chạy ngay đến nhờ vả. Đâu phải việc gì cũng có thể lo liệu được, chuyện gì cũng ra tay hỗ trợ được, và đâu phải ai hỏi là mình cũng phải có bổn phận đáp ứng. Nếu buộc phải từ chối vì bất kỳ lý do gì thì thôi rồi, khi người đó quay lưng là đã biết một cái mác kiệt sỷ ích kỷ vô lương tâm dán ngay lên trán mình. Cả cái chuyện “tiếng dữ đồn ba ngày đường” là điều hẳn nhiên. Không chỉ có thế, câu chuyện còn được sáng tác thêm nhiều chi tiết đắt đỏ để rồi lỡ đâu đó có ai quen hoặc không quen mà tỏ thái độ dè bỉu hoặc lạnh nhạt thì cũng chẳng lạ. Còn nếu để tránh được cái mác ấy, hoặc rộng lòng một chút để mình cũng là người biết tương quan thì có tiền núi bạc rừng đâu cho xuể.

Cái khổ bị ghen ghét đố kỵ thù hằn.

Nhiều khi chả chọc ghẹo gì ai cả, nhưng cứ tự nhiên mà bị ghét, có cái nhà đẹp thì trẻ con đi qua ném đá, người lớn đi lại dè bỉu, có bộ quần áo sang trọng thì kẻ nọ liếc xéo, người kia bĩu môi, lời ăn tiếng nói cũng phải cẩn thận dè chừng kẻo người ta bảo mình là hống hách. Một câu đơn giản đôi khi cũng bị suy diễn tệ hại, một vài va chạm thông thường trong sinh hoạt đời sống cũng bị choàng vào cái tiếng “ỷ giàu”. Trong việc làm ăn rất dễ nảy sinh hằn thù hiểm họa, luôn luôn có những mưu kế hòng ăn được của mình, họ ăn được thì họ vừa hể hả vừa cười mình ngu, họ không ăn được thì họ cay cú bầm gan tím ruột tính kế trả thù. Hơi một tí cái gì không vừa ý là đem chuyện giàu ra mà nhiếc móc, cứ như mình giàu là có lỗi lớn với bàn dân thiên hạ vậy.

Cái khổ cô đơn.

Cô đơn là vì người ta luôn phải hoài nghi, luôn phải đề phòng, cảm giác chung quanh họ không có ai là thật lòng, cảm giác ai lân la đến với họ luôn có ý đồ lợi dụng. Bạn bè, với những người bạn thật thì ít nhất cũng phải vào tầm ngang cơ, kém hơn dù ít nhiều cũng ngại giao du e bị xem thường e bị hiểu lầm. Họ hàng anh em cũng vậy, thấy giàu có quá cũng ngại lui tới vì sĩ diện cũng có mà vì tính cách không hợp cũng có. Bởi vô hình chung mà rằng, cách sống xử của người có tiền vẫn khác, nhiều khi là thói quen hào phóng chi tiêu, cũng dễ bị động chạm, “nó ỷ nhiều tiền, mình làm sao bì với nó”. Nhưng cũng không ít người giàu cũng tỏ ra ta đây kiêu kỳ sang trọng, thiếu hòa đồng, nên tạo ra một lằn ranh tất yếu. Bên cạnh đó là sự cạnh tranh trong chuyện làm ăn, những mưu mô hiểm họa đối địch luôn rập rình, nên sự thân tình chân thật với họ thường không dễ có. Vì vậy mà nếu cần một ai gan ruột để chia sẻ than thở hay nhờ cậy mà không dính dáng gì đến yếu tố lợi lộc là rất khó. Một số người hầu như cả đời không có được một người bạn thật tình. Ngay cả người thân trong gia đình cũng nhiều khi sống với nhau bằng những chiếc mặt nạ. Nếu nghe một người rất giàu có nhưng lại thốt lên một lời “Tôi cô đơn quá, tôi không hề tìm thấy hạnh phúc thật sự”. Thì hãy tin đó là lời nói thật của họ.

Nhưng dù sao giàu vẫn tốt hơn nhiều lần nghèo. Giàu nắm bắt được nhiều cơ hội phát triển thành đạt. Giàu thì đương nhiên có điều kiện cuộc sống sung sướng tươi đẹp đủ đầy thoải mái dễ chịu. Giàu mà có tâm có đức thì giúp được cho đời sống chung của cộng đồng nâng cao. Giàu mà có thế lực có tầm nhìn xa có chiến lược hợp lý lại càng là cột trụ cho cả xã hội cả dân tộc vươn cao vươn xa. Không thể phủ nhận sức ảnh hưởng và sự trợ giúp hữu hiệu nhiều mặt đời sống của người giàu với xã hội. Và đương nhiên, tính hai mặt vẫn luôn song hành trong mọi hình thái. Dù giàu hay nghèo, mỗi người luôn có một cái ngưỡng nhất định, cái ngưỡng này là điểm hội tụ tính cách đạo đức quan niệm tầm nhìn. Người đạt đến ngưỡng nào thì hành xử theo ngưỡng ấy. Nếu có cái nhìn minh định tỉnh táo và ôn hòa, thì có thể hiểu và chấp nhận mọi hành trạng theo từng cảnh huống cụ thể để con người có thể đối xử với nhau hợp lý và nhẹ nhàng hơn. Đáng tiếc là điều này rất khó thực hiện, không chỉ cảm quan mỗi người một phạm vi, mà còn vì những định kiến bị mặc nhiên mà đóng đinh vào tâm thức đa số. Sự phân hóa giàu nghèo nhiều khi không thể hiện ở con số, mà thể hiện trong cách sống của mỗi người khi đối diện với vấn đề. Chính điều này mới gây ra nhiều bất nhẫn phản cảm hệ lụy để rồi cuộc đời vẫn luôn “bị” diễn ra những điều bất hợp lý, phi nhân tính, mất cảm tình. Ở một góc độ tiệm cận có thể nói “Con người nhiều khi tự gây khó cho chính mình bởi những cảm quan thiên kiến và hạn hẹp”.

Và như thế, câu chuyện giàu nghèo mãi mãi là câu chuyện không có hồi kết, bài viết này chỉ nhằm khơi gợi một vài ý niệm suy cảm, phần còn lại dành cho mỗi người có thêm ngẫm ngợi riêng mình. Chỉ mong sao, con người ta giàu hay nghèo cũng nên nghĩ rằng “Tất cả phương tiện chỉ là guốc dép. Vấn đề là ta đi qua cuộc đời này bằng những bước chân thế nào. Và giá trị thực sự của cuộc sống, của sự tồn tại một Con Người là gì? Hãy chọn cho mình một tâm thế sống sao cho thấy mình thanh thỏa, sao cho sự có mặt mình trong cuộc đời này không là sự vật vã”. Vậy thôi.

ĐÀM LAN

B Ê N

C H Â N

N Ú I

T A O

P H Ù N G

Trăng tròn vành vạnh, treo lơ lửng trên vòm trời trong veo màu mảnh chai, phả xuống mặt biển lặng sóng quầng sáng huyền hoặc. Chị nhìn sửng vầng trăng. Chẳng có gì khác với thuở ấy. Có chăng là tuổi của trăng. Trăng già mất rồi. Như chị bây giờ. Đã hai mươi năm qua, tóc đã có vài sợi bạc. Vậy mà chị cứ chờ mãi một người bên chân núi Tao Phùng.

Lắm lúc chị cảm thấy mình điên. Có ai lại chờ một điều vô vọng. Khi chị hai mươi tuổi, độ tuổi bình minh của một đời người. Độ tuổi mơ mộng, lãng mạn, tin yêu mọi điều một cách… hời hợt, vô tư. Chị đã gặp anh. Như định mệnh đã an bài. Thông thường nhóm bạn bốn đứa con gái hay kéo nhau ra bãi sau để tắm biển vào cuối tuần. Nhưng lần ấy, bỗng dưng chị đòi leo núi. Vậy là cả nhóm chuyển hướng qua núi Nhỏ, cùng giao ước ai chạm vào cây súng thần công trên đỉnh núi Tao Phùng trước tiên sẽ được các bạn đãi kem sô cô la. Cả nhóm còn hăng hái bởi một điều khác nữa. Trên đỉnh Tao Phùng có tượng Chúa Ki Tô đã được Giáo hội Thiên Chúa giáo xây dựng vừa mới khánh thành. Đây là một công trình kiến trúc độc đáo kết hợp giữa nghệ thuật và tôn giáo. Cảnh quang lúc đó còn mới mẻ, lạ mắt và tinh khôi cả đối với người Vũng Tàu, thu hút biết bao du khách và nhất là nhóm sinh viên trẻ như bọn chị. Trèo gần 800 bậc thang, cả nhóm mệt nhoài, dù dọc lối đi lên có rải rác những khu vườn nhỏ và nhiều băng đá để khách tham quan dừng chân nghỉ mệt. Vài nơi vẫn còn được tiếp tục trang trí thêm. Có một nhóm thợ đang cặm cụi sơn thành một cái hồ nho nhỏ. Chị và các bạn túa đến hỏi:

- Cái hồ này vì sao có thiên thần đứng canh gác vậy mấy anh?

Một anh chàng đen nhẻm nhưng có nụ cười tuyệt đẹp, sáng lóa, mỉm cười:

- Vì Thiên thần sợ chàng trai làng chài tới quyến rũ nàng công chúa Thủy Tề.

Mấy chú thợ kia chen vào:

- Đừng nghe nó ba hoa mấy cô bé ơi.

Anh ta nghiêm mặt:

- Đó là truyền thuyết về cái tên của ngọn núi Tao Phùng mà.

Cả nhóm nhao nhao:

- Kể bọn em nghe đi anh, bọn em tin mà.

Anh gật đầu, mỉm cười. Hình như anh ta biết thế mạnh của mình là nụ cười nên cứ nhếch môi mãi:

- Ngày xửa ngày xưa, nơi này có một chàng trai làng chài lực lưỡng và đẹp trai. Tuy sinh sống bằng nghề chài cá nhưng chàng lại rất yêu quý những sinh vật bé nhỏ sống trên biển cả. Khi chài nhằm chúng, chàng thường thả về biển. Ngày nọ, có một con cá vàng tuyệt đẹp sa vào lưới chàng. Con cá đẹp đến nỗi chàng trai làng chài sợ cá sẽ gặp nguy hiểm khi phải sống trên vùng nước mênh mông, sóng to, gió lớn nên đã mang lên đỉnh núi, đục một cái hồ nhỏ để nuôi cá. Ngày nào chàng cũng lên đó thăm con cá một lần. Một hôm, chàng chợt thấy quang cảnh khác lạ. Ngọn núi trọc giờ xum xuê hoa lá và ngan ngát hương thơm. Bỗng đâu từ hốc núi, một người con gái xinh đẹp tuyệt trần đi ra và nàng bảo mình là công chúa con vua Thủy tề. Cảm ơn chàng cứu giúp nên nguyện ở lại trần thế kết nghĩa vợ chồng. Vậy là họ bắt đầu những ngày chung sống hạnh phúc. Chẳng được bao lâu, vua Thủy tề hay được, cho người đến bắt công chúa. Chàng trai van xin mãi không được. Nhưng thấy cảnh quyến luyến của hai vợ chồng, vị quan chốn hải cung không đành lòng nên đã tâu lại đức vua. Chạnh lòng thương, Vua Thủy tề cho phép cứ năm năm họ được gặp nhau một lần trên đỉnh núi Nhỏ nầy. Vì vậy mà nhân gian đặt tên cho ngọn núi là Tao Phùng.

Chị chớp mắt cảm động:

- Nhưng đến giờ họ còn gặp lại nhau không anh?

Cả nhóm phì cười. Anh nhìn xa xăm:

- Chắc là có. Tình yêu là điều kỳ diệu nhất mà.

- Ủa, sao anh biết?

Cả nhóm lại cười rộ. Một bác lớn tuổi bảo:

- Vì nó đi rình xem cặp tình nhân gặp nhau hoài nên nó biết.

Vậy mà chị cũng tin, hỏi một câu ngốc nghếch:

- Họ thường gặp nhau lúc nào vậy bác?

Bác nọ vò đầu:

- Chắc là vào những đêm trăng cho… lãng mạn.

Về phòng trọ, chị cứ suy nghĩ mãi về câu chuyện ấy. Một đêm, khi trăng chênh chếch trên vòm trời, chị bật dậy, lấy xe đạp phóng về hướng núi Nhỏ, hy vọng nhìn thấy một hình ảnh tình yêu tuyệt hảo trên đỉnh núi Tao Phùng. Nhưng cổng ra vào khóa chặt. Thấy có nhiều lán trại cất tạm bợ gần đó, chị mon men đến gần một lán còn ánh đèn. Bỗng có tiếng quát:

- Ai đó?

Một người đàn ông đi ra cửa, anh ta mỉm cười khi nhận ra chị:

- Ủa, cô bé đi đâu đây?

Chị cũng nhận ra đó là anh chàng kể chuyện hôm nào, nên bảo:

- Em muốn đi lên đỉnh núi, anh có thể mở cửa giúp em không?

- Ôi trời! Chi vậy cô bé? Nguy hiểm lắm. Lại rất lạnh nữa.

- Em muốn xem công chúa có gặp lại chàng trai làng chài không?

Anh cười rũ ra:

- Sao mà ngây thơ quá vậy em. Đó là truyền thuyết thôi. Về ngủ đi cô bé, mai còn đi học. Nhà em ở gần đây không?

- Nhà em ở trọ cũng gần đây.

- Vậy em về sớm đi, con gái đi đường vắng giờ nầy nguy hiểm lắm. À, để anh đưa em về nhe.

Vậy là họ quen và thường gặp nhau rồi yêu nhau tự lúc nào chị cũng không nhớ rõ. Công trình đã hoàn tất mọi việc. Nhóm thợ trang trí sắp được công ty đưa đến nơi khác làm việc. Họ gặp nhau lần cuối cũng vào một đêm trăng. Chị và anh chẳng muốn rời nhau. Anh bảo lần nầy ra tận Huế để thi công, lâu lắm mới gặp được chị, chắc anh sẽ héo hon vì nhớ. Chị cũng bảo vắng anh biển sẽ dậy sóng nhớ nhung. Gió sẽ gào thét trên đỉnh Tao Phùng vì day dứt… Anh ôm chầm lấy chị. Họ quyện vào nhau thành một trên phiến đá bên chân núi Nhỏ. Trong nỗi đê mê chị mơ màng thấy bóng nàng công chúa cũng đang ôm ghì chàng trai lực lưỡng trên đỉnh cao chót vót. Tiếng nàng bật khóc dội vào vách núi tựa như tiếng gió hú lồng lộng vang xa. Chị thấy mình cũng bay lên, níu được một vì sao đêm và nỗi hân hoan tràn ngập, lan tỏa…

Sau đêm ấy, anh theo đoàn thi công biền biệt nơi nào không rõ. Chỉ để lại một lời hứa mơ hồ “Anh sẽ về tìm em một ngày thật gần!”. Chị tin và chờ. Rồi chị nhận ra trong cơ thể mình có một mầm sống mới. Cũng từ đó chị kết thúc thời sinh viên tươi đẹp. Chị không muốn phá bỏ đứa con tượng hình bằng tình yêu của chị và anh. Đổi lại, chị phải rời trường Đại học, chia tay với ước mơ thành một cô giáo dạy văn để lao vào kiếm sống, chuẩn bị cho lần vượt biển một mình. Chị định sau khi sinh sẽ trở lại giảng đường. Thế nhưng điều ấy lại quá khó đối với chị. Ba chị đau nặng rồi mất. Dì ghẻ đi thêm bước nữa, ngôi nhà của ba chị đổi chủ thật sự, chị không còn chốn quay về. Sợ anh sẽ mất dấu chị và con gái nên chị dành dụm cất được một ngôi nhà nhỏ gần bên chân núi Nhỏ. Chị mở một quán nước mía trước thềm nhà và bán thêm vài thứ lặt vặt khác. Gần đây, bé Tao Phùng, con gái chị đỗ vào Đại học, chi phí tăng vọt chị đành phải xin làm phục vụ dọn phòng theo giờ ở một số khách sạn.

Chị làm bán sống bán chết để nuôi con. Dù vậy, nhan sắc vẫn còn phảng phất nét đẹp thuở nào. Cũng có nhiều người đàn ông quanh vùng để ý, thương mến và muốn kết hôn. Nhưng chị từ chối. Niềm tin về sự trở lại của anh đã trở nên hão huyền nhưng chị vẫn chờ, chờ mãi. Con gái chị vẫn thường khuyến khích mẹ bước thêm bước nữa với chú Tảo nhà kế bên người mà nó kính như cha. Người đã hùn vốn với chị, biến cái quán nước mía thành quán giải khát có nhiều mặt hàng hơn như cà phê, sinh tố, nước ngọt và cho thuê ghế bố, dù, xe đạp đôi để phục vụ nhu cầu vui chơi của du khách. Cứ nhìn ánh mắt Tảo cũng đủ biết anh yêu chị. Chưa kể việc anh thay chị chăm lo quán sá khi chị đi dọn phòng ở các khách sạn, những bữa cơm do anh nấu, dọn sẵn chờ chị về cùng ăn, rồi đi họp phụ huynh thay chị khi chị bận. Và cũng chính anh chạy đôn chạy đáo vay tiền để sắm xe máy cho con gái chị khi nó đỗ Đại học Ngân hàng ở Tp. Hồ Chí Minh. Con bé có thể về nhà bằng xe máy vào cuối tuần hay những dịp nghỉ lễ. Anh đã từng cùng chị đưa con bé đến tận ký túc xá để chị an tâm về chỗ ăn chỗ ở của con gái. Nhưng chị giả đò làm ngơ không biết tình ý của anh, vì một lẽ gì chị cũng không hiểu nổi. Tình yêu cũ ư? Chị không còn tin vào tình yêu anh dành cho chị nữa rồi. Chàng trai làng chài xa xưa, cứ năm năm lại được gặp nàng công chúa xinh đẹp một lần. Còn chị và anh. Hai mươi năm qua, bốn mùa tình yêu trên đỉnh Tao Phùng lên ngôi thì cũng là bốn mùa tình yêu của chị bị bào mòn, tổn thương, đau đớn và tuyệt vọng. Có lúc chị tự dỗ mình rằng chắc anh gặp khó khăn gì đó, hoặc giả bị tai nạn, biết đâu anh mất trí nhớ cũng nên, chị đặt ra hàng trăm lý do khiến anh biệt tích để tự trấn an mình.

Hôm nay là ngày thứ bảy, khách sạn đông nghịt người. Chị phải tăng ca để giúp chủ khách sạn dọn dẹp. Vừa dọn xong một phòng đôi, chị đang lúi húi định khuân bộ dra bẩn và các vật dụng xuống phòng giặt thì nghe một giọng rất quen:

- Em à, phòng 302 đây rồi. Ôi cha, phòng sạch sẽ, thơm tho quá! Tha hồ… ha ha…

Chị muốn xỉu khi nhận ra giọng nói của anh dù khuôn mặt đã biến dạng mất rồi. Hai gò má anh nần nẫn thịt. Đôi mắt híp như làn chỉ khi anh cười. Ôi chao, còn cái bụng phệ xuống như người đàn bà có thai gần ngày sinh nở. Điều làm chị thất vọng nhất là cánh tay múp míp của anh đang vòng ngang eo phụ nữ rất trẻ, chỉ độ tuổi con gái chị. Nếu không có câu nói của anh chắc chị nghĩ đấy là hai cha con.

- Mình vào ngủ một giấc cho khỏe, lúc trời mát dịu hãy tắm biển cưng nhe.

Cô gái nũng nịu bẹo má anh

- Dạ!

Anh chu môi hôn đánh chụt lên gò má mịn màng kia, bất kể có chị và vài chị phục vụ khác nữa đang đứng gần đó. Chị ngồi phịch xuống hành lang. Chị có cảm giác trái tim mình vỡ ra từng mảnh vụn. Tình yêu của chị dành cho anh cũng tan thành mây khói. Nước mắt ràn rụa tràn xuống má. Mấy chị phục vụ kia giật mình, hỏi dồn :

- Chị sao vậy? Chắc quá mệt phải không?

Anh và cô gái thoáng nhìn rồi thản nhiên bước vào phòng đóng sập cửa. Anh không nhận ra chị hay là anh giả đò không quen? Những người bạn lao động dìu chị vào thang máy rồi đến phòng dành cho nhân viên phục vụ. Họ bảo chị nằm nghỉ và hứa sẽ thay chị hoàn tất công việc. Họ còn cẩn thận gọi điện về nhà chị để người nhà đến rước vì sợ chị ngã dọc đường. Lòng chợt trống trải không ngờ. Chị giận chị ngu. Chị thương con gái mình bạc phước. Biết xử sao đây? Gõ cửa phòng kia, lôi anh dậy và nói cho anh biết anh phải có trách nhiệm với con gái ư? Liệu anh có chấp nhận hay là chối phắt rằng không quen biết chị huống chi có con với chị, một con mụ phục vụ nghèo kiết xác, già cỗi đang nổi điên. Cũng có thể điều đó xảy ra lắm! Và chắc chắn người ta sẽ tin anh hơn tin chị. Biết đâu còn tưởng chị thấy sang rồi bắt quàng làm họ. Anh mang dáng dấp của một người thành đạt đang say men trác táng. Anh trở về không phải để tìm chị mà để hưởng thụ lạc thú với một cô gái trẻ. Chị biết mình đã sai lầm. Chị òa khóc. Vừa lúc đó, cửa phòng xịch mở, chị bạn phục vụ dắt theo anh Tảo. Anh cuống quýt chạy tới bên chị hỏi dồn:

- Em có sao không?

Anh đặt tay lên trán chị rồi bảo:

- Nóng quá! Chắc em ốm thật rồi. Để anh đưa về. Thiệt khổ, ham làm chi cho lắm không biết. Em có bề gì con em ai lo nè?

Câu nói đánh gục sự mê muội của chị. Chị tỉnh hẳn, ngồi dậy, níu tay Tảo:

- Anh đưa em về nhe. Ngày mai con Tao Phùng về nghỉ lễ mấy ngày... Nó mà biết em bệnh, nó lo lắng lắm. Mai mình làm một bữa tiệc nhỏ nhe anh”. Tảo mỉm cười sung sướng, anh cởi áo khoác đưa cho chị mặc vào:

- Nghe em ốm, quýnh quá quên cả lấy áo ấm cho em, mặc tạm cái áo này che gió vậy.

Chiếc xe phóng đi. Gió thổi vù vù bên tai, nhưng chị bỗng cảm thấy ấm hẳn khi khép chặt vạt áo đậm mùi đàn ông của Tảo. Chị áp má lên tấm lưng vạm vỡ của anh, quàng tay ra phía trước, ôm chặt bụng người đàn ông đang hớn hở phóng xe về bên chân núi Tao Phùng.

Nguyễn Thị Mây



 

|  51 |
 52 |
 53 |
 54 |
 55 |
 56 |
 57 |
 58 |
 59 |
 60 |
 61 |
 62 |
 63 |
 64 |
 65 |
|  66 |
 67 |
 68 |
 69 |
 70 |
 71 |
 72 |
 73 |
 74 |
 75 |
 76 |
 77 |
 78 |
 79 |
 80 |
|  81 |
 82 |
 83 |
 84 |
 85 |
 86 |
 87 |
 88 |
 89 |
 90 |
 91 |
 92 |
 93 |
 94 |
 95 |
|  96 |
 97 |
 98 |
 99 |
 100 |
 
|  51 |
 52 |
 53 |
 54 |
 55 |
|  56 |
 57 |
 58 |
 59 |
 60 |
|  61 |
 62 |
 63 |
 64 |
 65 |
|  66 |
 67 |
 68 |
 69 |
 70 |
|  71 |
 72 |
 73 |
 74 |
 75 |
|  76 |
 77 |
 78 |
 79 |
 80 |
|  81 |
 82 |
 83 |
 84 |
 85 |
|  86 |
 87 |
 88 |
 89 |
 90 |
|  91 |
 92 |
 93 |
 94 |
 95 |
|  96 |
 97 |
 98 |
 99 |
 100 |
 
Netadong.com thiết kế