VÀI CHI TIẾT VỀ KỲ HỌP NGÀY 09/3/2013 CỦA CÂU LẠC BỘ SÁCH XƯA & NAY Như thường lệ, Dịch giả Vũ Anh Tuấn đã mở đầu phiên họp bằng việc giới thiệu hai cuốn sách cổ bằng Pháp văn mà ông mới sưu tầm được. Đó là hai cuốn Mười năm ở Thượng Du Bắc Kỳ (Dix ans de Haut-Tonkin) của Léon Xavier Girod, một linh mục Dòng Thừa Sai, và cuốn Sứ bộ Truyền giáo ở Nam Kỳ (Mission de Cochinchine) của tác giả Fortune de Montezon. Cuốn Mười năm ở Thượng Du Bắc Kỳ được in năm 1911, khổ 18x24cm, bìa cứng rất đẹp với ba cạnh mạ vàng, và được dùng làm sách Phần thưởng của một trường Trung học. Cuốn sách kể lại các hoạt động và những sự việc linh mục Girod đã gặp hoặc được chứng kiến trong mười năm ông giảng Đạo ở Thượng Du Bắc Kỳ. Sách có gần 20 minh họa, nhiều bức nguyên trang, được vẽ bằng bút sắt cực đẹp và rõ. Qua cuốn sách các thành viên đã được thấy tận mắt hình ảnh nguyên thủy của cái Dinh Độc Lập ngày nay. Cuốn Sứ bộ Truyền giáo ở Nam Kỳ cũng khổ 18x24cm, và cũng có bìa cứng gáy mạ vàng vì cũng thuộc loại sách được dùng làm Phần thưởng của một trường Trung học, đồng thời cũng có gần 20 minh họa bằng bút sắt rất đẹp. Sách nói về các hoạt động của Sứ bộ Truyền giáo ở Nam Kỳ vào thời điểm đầu thế kỷ 20 vừa qua. Sau khi được giới thiệu, một số thành viên đã chuyền tay nhau xem hai cuốn cổ thư một cách thích thú. Sau khi Dịch giả Vũ Anh Tuấn giới thiệu hai cuốn sách, anh Phạm Thế Cường cũng lên giới thiệu bộ sách Lịch sử Công Giáo của tác giả Cao Thế Dung mới được phát hành. Tiếp lời anh Cường, anh Nguyễn văn Sâm, một Việt kiều ở Mỹ và một nhà nghiên cứu Hán Nôm nổi tiếng đã lên giới thiệu mấy tác phẩm bằng chữ Nôm mới được ấn hành của anh ở Mỹ. Sau anh Cường, Bác sĩ Nguyễn Lân-Đính cũng lên giới thiệu một cuốn sách dịch nhan đề là “Không còn bệnh tim” của một Bác sĩ Mỹ tên là Louis J. Ignarro, sinh năm 1941, được giải Nobel Y học năm 1998. Ông này đã khám phá ra là cơ thể con người cần tới chất nitric oxide gas để làm cho các mạch máu được thư giãn và khám phá này đã dẫn tới việc phát sinh ra Viagra để giúp các già hơi… dê, đồng thời cũng có tác dụng rất tốt trong việc trị bệnh tim. Vị Bác sĩ tác giả này đã có lúc được gọi là “Cha đẻ của Viagra” (Father of Viagra). Tiếp lời BS. Đính, dịch giả Vũ Anh Tuấn đã kể lại việc ông đi dự Lễ Giỗ cụ Á Nam Trần Tuấn Khải. Kế đó anh Hữu đã lên ngâm một bài thơ tặng các thành viên. Sau khi anh Hữu ngâm thơ, bà Thùy Dương cũng lên hát tặng các thành viên một bài hát liên quan tới Hai Bà Trưng. Sau cùng anh Thanh Châu đã hát tặng các thành viên bài Đàn Chim Việt bằng giọng hát rất hùng dũng của anh. Buổi họp kết thúc lúc 11 giờ 15 cùng ngày.
VŨ THƯ HỮU Một số chi tiết về cuốn cổ thư mang tựa đề là: “Tư lệnh RIVIÈRE và cuộc viễn chinh ở Bắc Kỳ” (Le commandant Rivière et l’expédition du Tonkin) của tác giả Charles Baude de Maurceley xb năm 1884 Đây là một cuốn sách đã 129 tuổi đời mà tôi tình cờ có được trong tay trong 2 tuần lễ. Sách khổ 15 x 21 cm và dày 223 trang, được in ở Paris năm 1884. Tác giả cuốn sách là Charles Baude de Maurceley, và sách có lời nói đầu của Alexandre Dumas con (Alexandre Dumas fils). Cuốn sách được chia làm 3 chương cộng với lời nói đầu (đi trước 3 chương) của Alexandre Dumas con. Lời nói đầu gồm 7 trang được đánh số La Mã từ trang VII tới trang XII. Chương 1.- Từ trang 1 - 94 nói về cuộc đời và sự nghiệp của Đại tá Hải Quân Rivière, Tư lệnh Cuộc Viễn chinh ở Bắc Kỳ. Chương 2.- Từ trang 95 - 126 nói về thời gian Tư lệnh Rivière ở Nam Kỳ. Chương 3.- Từ trang 127 - 187 nói về cuộc Viễn chinh ở Bắc Kỳ. Và từ trang 188 - 222 nói về cái chết của Rivière và phần kết luận Đọc lướt qua cuốn cổ thư hấp dẫn này, tôi thấy một điều cực kỳ hấp dẫn, mà trong bài viết ngắn này tôi sẽ cùng các quý độc giả chia sẻ: điều này cực kỳ hấp dẫn ở chỗ tất cả chúng ta chỉ biết Henri Rivière là một Đại Tá Hải Quân thực dân xâm lược đã tử trận ở Ô Cầu Giấy chứ ít ai trong chúng ta lại biết là Henri Rivière còn là một văn nhân cộm cán với khá nhiều tác phẩm văn học. Nhờ đọc qua cuốn sách tôi mới được biết, xin chia sẻ với quý bạn, nhất là với quý bà đọc tôi. Henri-Laurent Rivière sinh ở Paris ngày 12 tháng 7, 1827. Rivière nhập học trường Hải Quân năm 1843, thành Chuẩn úy năm 1845, Thiếu úy năm 1849, Trung úy năm 1856, Trung tá năm 1870 và Đại tá (Hải quân) năm 1880. Ngày 21 tháng 5, 1883 (hai ngày sau khi ông tử trận), mọi người được hay tin là Rivière được phong là Tổng tư lệnh lực lượng quân sự Pháp ở Bắc Kỳ. Trên đây là binh nghiệp của Henri Rivière mà sau mọi người chúng ta đều biết là anh ta tử trận ở Ô Cầu Giấy, và sau đây là văn nghiệp của Henri Rivière mà hầu như không ai trong chúng ta để ý và biết. Xin nói thêm là Ô Cầu Giấy là nơi rất có duyên với các hồn ma Pha Lang Sa vì năm 1873 đây cũng là nơi Fran c is Garnier đã mất mạng. Trở lại với Henri Rivière, ngay từ khi còn trẻ, song song với việc theo đuổi binh nghiệp trong ngành Hải Quân, Rivière cũng viết lách rất hăng say và có vẻ khoái văn nghiệp hơn cả binh nghiệp. Và sau đây là toàn bộ các tác phẩm văn học của Rivière: - Tập thơ Thú vui du ngoạn (Loisirs de voyage) mà Rivière cho xuất bản năm 1852. - Kế đó là tác phẩm “Hải Quân Pháp dưới triều đại Lộ Y (Louis) XV, xuất bản năm 1859. - Năm 1860, Rivière cho ấn hành tác phẩm Pierrot, Cain và sự thư yếm (Pierrot, Cain et l’Envoutement). Một tác phẩm kỳ dị làm tác giả nổi danh và được mọi người biết đến. Vào thời điểm đó Rivière đọc rất nhiều Edgar Poe và Lavater và có vẻ khoái viết các tác phẩm có khuynh hướng siêu nhiên, dị kỳ, và huyền bí. Rivière đã có rất nhiều tác phẩm trong hai tờ báo nổi danh là tờ Tạp chí Hai Thế Giới (Revue des Deux Mondes) và tờ Tân Tạp Chí (Nouvelle revue) và dưới đây là tên các tác phẩm đã được lần lượt đăng trên hai tạp chí nói trên: - Bàn tay bị chém đứt (La main coupée), - Một cuộc bắt cóc (Un enlèvement) trong năm 1862, - Cô gái bị ma ám (La Possédée) – Đại tá Pierre (Le colonel Pierre), - Cuộc đời thứ hai của bác sĩ Roger (La seconde Vie du docteur Roger) trong năm 1863. - Những nhầm lẫn của con tim (Les Méprises du coeur), - Những tiếng thầm thì bí ẩn của Jacques Lambert (Les Voix secrètes de Jacques Lambert), - Đất và Biển (Terre et Mer). - Những ảo ảnh của Trung Úy Féraud (Les Visions du lieutenant Féraud), - Cải lão hoàn đồng (Le rajeunissement) trong năm 1865. - Người tù trưởng (Le cacique) trong năm 1866, - Kẻ giết Albertine Renouf (Le Meurtrier d’Albertine Renouf), - Những ngày cuối đời của don Juan (Les Derniers Jours de don Juan) trong năm 1867. Và từ năm 1869 tới 1882 Rivière còn có thêm 22 truyện vừa ngắn vừa dài đã được đăng trên hai tạp chí nói trên. Và trong những ngày cuối đời Rivière còn viết tiểu thuyết Edith mà sau này tờ Figaro đã đăng tải. Ngoài ra Henri Rivière còn viết kịch và nhiều vở kịch đã được trình diễn ở nhà hát Comédie Française. Tóm lại Đại tá Hải Quân Henri Rivière còn là một nhà văn được khá nhiều người Pháp các thế hệ cũ biết đến và đọc, trong khi chúng ta thì chỉ biết một Đại tá Hải Quân Rivière, kẻ đã tử trận ở Ô Cầu Giấy mà thôi… Hồi ký 60 năm chơi sách, chương VI VŨ ANH TUẤN
"Không đồ trang trí nào hấp dẫn bằng sách dù bạn không hề lôi nó ra, không đọc lấy một chữ" (S.Smith) *** THÚ CHƠI SÁCH Trong thế giới của người chơi sách, có những điều hết sức kỳ lạ mà chúng ta không thể nào hiểu nổi. Bộ sưu tập của họ ngoài các quyển sách đắt tiền, đôi khi một giấy bìa, vài tờ bích chương quảng cáo hay ít trang nhật báo cũng được giữ gìn cẩn thận. Trò tiêu khiển này thường chỉ có nơi những người lớn tuổi và nếu không phải nhà văn, họ cũng là các học giả uyên bác với tinh thần "Sĩ phu ba ngày không đọc sách, soi mặt vào gương thấy hổ thẹn". Những tủ sách ấy được mua sắm tùy theo sở thích từng người. Có thể toàn sách báo, tư liệu về một đề tài mà chủ nhân chuyên viết hoặc khi xuống phố gặp gì mua nấy, đem về cất trong tủ. Mỗi ngày những quyển sách đều được họ mang ra phủi bụi và vuốt ve như trò chuyện với chúng. Các bậc trí thức trên, vừa chơi sách vừa chơi thêm đồ cổ hay một thứ gì khác, nhưng tất cả đều để chung gần nhau và coi như một phần thân thể của mình. Tôi may mắn có dịp tiếp xúc với những khách hàng thuộc nhóm người trên khi họ đến đóng lại bìa sách. Các mẩu chuyện nghe thấy đầy thú vị và ngộ nghĩnh, xin ghi lại để các bạn cùng vui. Có một người hỏi: "Đối với tôi, sách và bạn hữu là hai điều không thể thiếu trong cuộc đời. Vì thế, tôi không muốn mất một trong hai thứ ấy. Thỉnh thoảng bạn bè hỏi sách, tôi đành vị nể phải cho mượn. Từ lúc đó cứ thấp thỏm lo âu cho đến khi sách được thu trả về chỗ cũ. Cuối cùng, để tâm hồn được bình an chỉ còn cách treo ngay tủ sách một tấm bảng: "Xin miễn cho mượn". Một người khách khác lại nói: "Tôi và ông D. chơi rất thân từ nhỏ, tưởng không gì có thể chia rẽ tình bạn đó. Không ngờ có một lần, D. mượn quyển "Hận Ngày Xanh", xuất bản năm 1958 mà tôi rất quý về đọc rồi không trả. Về sau mới biết D. lỡ làm mất và tình bạn chúng tôi bỗng trở thành mối "hận nghìn thu". Nhưng quan niệm và thú chơi sách cũ rất công phu, đôi lúc cầu kỳ. Sách khách hàng đưa tới thường yêu cầu đóng bìa da, làm gân, làm góc và mạ chữ vàng. Ruột sách phải được xỏ dây dính vào hai bìa carton rồi đập mo, đập ngạnh cho chắc và bền. Có người không muốn cắt xén cho ngay ngắn dù lúc may lại các cahiers bên trong bị so le với nhau, họ vẫn cho là đẹp. Những tờ bìa mỏng bao bên ngoài cũng được yêu cầu giữ lấy để cất dán vào trong. Nói chung, tôi chỉ có việc đóng thêm một bìa cứng bên ngoài mà thôi. Cách đây vài chục năm, sách mới xuất bản không xén trước phần trên nên toàn bộ các trang dính liền với nhau. Những tay chơi sách mua về để vào phòng làm việc của mình. Họ đợi một buổi đẹp trời mới đốt một nén trầm hương, lấy khăn ướt lau cho ẩm bờ sách rồi dùng dao cùn bằng tre hay ngà để rọc. Với loại sách in trên giấy lụa hoặc giấy đặc biệt chế tạo bằng rơm bồi, lúc rọc các tựa giấy sẽ giống những sợi tơ vàng mỏng manh, đẹp cực kỳ. Bắt đầu một ngày bằng việc đọc một trang sách với chén trà thơm trên tay, các học giả cảm thấy cuộc đời chẳng có thú nào hơn. Tủ sách của những người chơi sách nhiều lúc còn đầy đủ tư liệu hơn các thư viện công cộng. Tại miền Nam theo tôi biết, về chất lượng phải kể đến tủ sách của cụ Vương Hồng Sển, ông Nghiêm Thẩm… về số lượng tôi nghĩ rằng tủ sách ông Khai Trí, và một vài người khác không thua kém bất kỳ một thư viện nhỏ của trường học hay quận huyện nào. Trong điều kiện hiện nay, ít người còn giữ được thú chơi sách vì lý do kinh tế. Tuy nhiên, khi có chút tiền trong tay, các cụ liền đi mua ngay vài quyển đem về đọc suốt ngày đêm. Việc làm này khiến những thành viên trong gia đình cảm thấy khó chịu và cho là không thức thời. Hiện rất ít bạn trẻ khoái thú sưu tầm sách, chơi sách. Một mai khi các cụ nằm xuống những kho tàng văn hóa ấy không biết sẽ về đâu, âu cũng là điều đáng tiếc. (Chi Như – Báo Kiến Thức Ngày Nay số 70, ngày 15/10/1991, trang 18-19) Xin giới thiệu với hội viên CLB Sách Xưa và Nay một bài báo cách nay 22 năm mà bất ngờ người viết đã đọc được nhân dịp xếp lại mấy tạp chí cũ. Hy vọng các thành viên sẽ được hâm nóng lại nhiệt tình với việc sưu tầm, lưu giữ, bảo quản và phát huy văn hóa đọc qua sách báo Xưa và Nay. Tân Sa Châu, ngày 01 tháng 04 năm 2013 Lm. Jos. Nguyễn Hữu Triết
MỘT TRUYỆN CỦA THÂM TÂM VIẾT 73 NĂM TRƯỚC
CHUYỆN HOA Hoa có rất nhiều loài, và nhiều thứ hương, sắc. Gặp ngày Tết hoa càng quý-giá hơn, bán được đắt lên gấp bội. Vì có những nhà quanh năm không chơi hoa, không biết đến hoa là gì, như một sa-mạc không biết đến bóng dừa, mà gặp dịp tết nhất, cũng chuốc mua được ít bông tươi-thắm để trang-hoàng trong phòng khách hoặc trên bàn thờ. Cuộc đời không khô lạnh quá, một phần nhờ về mầu-sắc. Cho nên ở đâu có hoa và ánh-sáng, là có sự vui sống rồi-rào. Thơ Đường ca-tụng về hoa, có câu rằng: “Cứ vô-tình thế mà cảm nổi người, nếu lại biết nói thì có thể nghiêng được nước.” Vốn có bản-chất linh-diệu ấy, nên hoa thường được các thi-nhân bảo là có hồn. Và mỗi khi ta nhớ lại một câu thơ nào có nhắc đến hoa, là trong trí lại hiển-hiện ra một hình người đẹp, mà mầu hồng của má của môi, và của ngực đều làm bằng tất cả hoa! Nên hoa lại ngon nữa! Cổ nhân thường nuốt từng nắm hoa mai, mà bảo: “để cho hàn-hương thấm rửa vào trong phế-phủ”. Và kể riêng một thứ cúc đã có công dụng trong việc ẩm-thực nhiều rồi. Song ở đây, là những giờ trà dư tửu hậu. Thở hơi ấm của tân-xuân, và hưởng cái nhàn-nhã của vài ngày Tết, người ta có thể tỉ-mỉ thăm ngắm đến từng cánh tinh-vi. Hoa lan bao nhiêu thức, ai sành chơi lắm mới nhận hết được đủ các giống. Nào Trần-mộng hoa đỏ, Mặc-lan hoa đen, Động-lan hoa phớt tím, Hội-điểm hoa trắng có chấm hồng, Hạc-đính hoa như đầu hạc, còn thi Đại-kiều, Tiểu-kiều, Bạch-ngọc, Kiến-lan, Phong-lan, Hoàng-lan, vân vân… thứ giồng trong chậu, thứ để vào lẵng treo quanh giàn, mỗi hạng một vẻ và một mùi hương… Nhưng tựu trung, thường quý vì đắt tiền, và chỉ các cụ già hay chơi, một cớ là mất công lau vuốt rất tỉ-mỉ. Lan có giáng quý-phái và cổ-điển, như những người tóc bạc phong-lưu. Mùi hương thường kín đáo như một đời ẩn-dật. Những cánh hải-đường đỏ thắm, nụ chum-chúm từng núm ngon lành, và hoa trổ lả-lơi. Hãy nhẹ bàn tay, đừng dập-vùi thái quá, đừng gió mưa thái quá! Đây là một người gái đẹp không tiếc gì ta, đây là những giọt máu hồng; đêm tàn, rụng theo vài cánh máu. Bước chân xéo qua, quên đi… Hoa cúc mang nhiều tên như lan: Bạch-hạc, Kim-bàn, Đại-đóa, Bạch-my đỏ có, tím có; thứ thì cánh bằng như xén, ấy là Cam-cúc; thứ thì nhỏ li-ti, ấy là Kim-cúc; và thứ cánh xoăn lại, thứ cánh thẳng đều, dầy hoặc thưa… Hương thơm hắc, nhưng ý-nhị và kín đáo, như những thiếu-phụ khéo tề-gia nội-trợ, trang-điểm sơ-sài, mà rất giữ bền tình yêu như hoa rất lâu tàn-tạ. Phù-dung chỉ có hai loại: một là Bát-diện, nhiều cánh và tươi mầu; một nữa là Tam-sắc, vì hoa nở ra thoạt sáng sắc trắng, càng về trưa càng hồng gắt, và đến chiều nhạt dần đi mà rụng. Vì hoa sống có một ngày, như kiếp phù-du, làm cho người ta nghĩ đến những sự chóng-vánh, những sự kết-liễu một đời non yểu! Cánh hoa yếu-ớt, mong-manh như tàn-lực mấp-máy trên đôi môi còn nồng hơi sữa một đứa trẻ ấu-thơ… Những bông cẩm-chướng, cánh như cắt bằng gấm, lụa, hoặc trắng như băng sương, vàng như nắng thu, hay là hồng của buổi lê minh, và ngà-ngà của một thứ mây giáng… Người ta bảo đấy là một bầy gái nhỏ khoe áo trước gió xuân! Hoa dạ-hợp thì chờ đến nửa đêm, kêu tách ra một tiếng, rồi bùng nở trong chớp mắt. Nở xong, rất chóng rụng. Đừng bảo loài ấy tượng-trưng cho những cuộc xum vầy. Đấy là đời những chiếc pháo nổ lên mà tan xác! Đấy là đời anh-hùng mà yểu mệnh! Hồng thì đại-khái có hồng bạch, hồng đơn, hồng quế, hồng nhung, vân vân… vừa trang-trọng, vừa kiều-diễm như một nàng hoa-hậu kiêu-sa. Song cũng không giấu nổi cái buồn của bóng chiều. Rồi đến thủy-tiên, cốt trắng như băng thanh ngọc khiết, lá xanh là những giải áo, và nhụy là những chiếc khăn vàng. Cái huyền-ảo của toàn-thể trước khói-hương, nhắc lại sự tích nàng Lý-phi-tiên bị dân làng mê-tín đem dâng cho Hà-Bá dưới sông Dương-tử; sau Phi-tiên chết, hóa thành những củ nở hoa, người ta gọi là Thủy-tiên. Cũng còn một tích khác nữa: có một nhà chia gia-tài, con lớn tranh hết phần em. Con út tủi thân ra ngồi khóc ở bờ sông. Bỗng có ông lão tóc bạc hỏi duyên-cớ rồi cho một thứ củ trắng bảo đem về trồng mà sinh-nhai, lại xưng tên là Thủy-tiên. Sau củ đó nở hoa, lấy tên ông lão đặt cho. Nhằm dịp tết, thiên-hạ thấy hoa đẹp, đua nhau mua bầy chơi. Rồi sau thành lệ. Ngày tết, thịnh-hành nhất, còn hoa mai và hoa đào, bán từng cành. Hoa mai đạm-bạc như một kẻ thanh-bần, song cao-khiết, những nhánh khẳng-khiu nhắc đến những thân-hình gầy yếu vì phong sương. Hoa đào cũng những cánh nhỏ như mai, song sắc đỏ thắm, và cũng có một sự tích: Tại thôn Nhuệ-cái thuộc địa phận Hàng-châu, có gã Vương-sinh lấy vợ họ Đào rất đẹp. Vương yêu hoa thường cùng vợ vào rừng núi tìm những hương-sắc kỳ lạ. Một lần, gặp tết Nguyên-đán, hai người du xuân rồi nghỉ bước trên bờ suối, Vương chỉ cho vợ ngắm bóng nàng soi xuống dưới nước, và chàng ước có một thứ hoa đẹp như nàng, mầu hồng tươi như mầu áo đang mặc của nàng. Đào-thị mỉm cười, hứa đến lúc chết, thế nào cũng hóa ra loài hoa đó, để làm đẹp lòng chồng. Không ngờ lời hứa nhằm giờ linh, nên ít lâu, Đào-thị mắc bệnh từ trần. Vương đem táng ở bờ suối. Về sau, suốt bờ suối mọc đầy một thứ cây, vào khoảng tháng chạp thì nở hoa, quả-nhiên mầu hồng như sắc áo cũ của Đào-thị. Vương nhớ lời vợ, ngắt mấy cành về cắm lên bàn thờ và gọi tên là hoa đào. Mọi người trong thôn thấy hay cũng bắt chước. Sau vì thôn đó sản ra giống hoa ấy, mới nhân thế mà đổi thành là Đào-hoa-thôn. Câu chuyện hoa xuân tới đây là hết. Những bó hoa sau mấy ngày tết, từ trên bình rơi xuống đống rác… Không ai như các nhà thi-sĩ đọc trên cánh hoa những hình-ảnh xa vời, hay bóp nát ra vì một hờn giận đâu đâu! Không, hoa chỉ đến cho người ta ngắm những mầu tươi, rồi hoa lại đi… Hoa đi như một nàng ca-kỹ hát xong ở một đám tiệc vui, rượu đã cạn hồ, tiếng cười đã hết… THÂM-TÂM
BÙI ĐẸP st.
Một số ý kiến về phòng chống sự xâm nhập của các sản phẩm văn hóa độc hại gây hủy hoại đạo đức xã hội 1-Nói không với sản phẩm văn hóa độc hại: Suy cho cùng, cách mạng xã hội là cách mạng văn hóa nhưng kinh tế, chính trị quyết định văn hóa và chính văn hóa tác động lại kinh tế và chính trị. Đấu tranh văn hóa là đấu tranh tư tưởng cả chính trị để nâng cao nhận thức lành mạnh hóa xã hội và gia đình trong điều kiện của một nước độc lập, tự do và hạnh phúc. Nay phải được thêm là dân chủ, văn minh và tiến bộ. Một danh nhân từng chỉ ra: “Văn hóa chỉ đường cho chúng ta đi”. Đó chính là đã xác định giá trị của văn hóa là tối cao và văn hóa kiến tạo tư tưởng và xã hội. Từ đó, chúng ta hiểu rằng các sản phẩm của văn hóa đem lại hạnh phúc cho con người nhưng đồng thời cũng gây nguy hại cho con người nếu đó là thứ sản phẩm văn hóa độc hại. Ngày nay, trong thời bình chúng ta ra sức xây dựng đời sống văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc và chống lại nền văn hóa ngoại lai, tức là chống lại các sản phẩm văn hóa độc hại làm hủy hoại nền đạo đức xã hội. Nước ta đang trong quá trình xây dựng đất nước trong đó có xây dựng nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc, từng bước hội nhập vào nền kinh tế thị trường của thế giới nhưng là nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhưng trong quá trình hội nhập không tránh khỏi sự xâm nhập của các sản phẩm độc hại trái với bản sắc dân tộc, đạo đức xã hội mà trong xã hội có gia đình và trường học. Trước trào lưu hội nhập, sản phẩm văn hóa phản động, đồi trụy, độc hại luôn xâm nhập và gây nguy hại cho xã hội, mà thế hệ con cháu chúng ta chịu ảnh hưởng, chịu sự tác hại nhanh nhất và nặng nề nhất. Một văn bản của lãnh đạo nhà nước ngày 27/7/2010 đã sớm phát hiện và chỉ ra như sau: Thời gian qua, nhiều sản phẩm văn hóa độc hại từ bên ngoài đã xâm nhập vào nước ta bằng nhiều con đường, tác động rất xấu đến tư tưởng, đạo đức, lối sống, tâm lý, hành vi của một bộ phận nhân dân, nhất là thanh thiếu niên; làm huỷ hoại, xói mòn nền tảng và những giá trị đạo đức tốt đẹp của dân tộc. Lối sống thực dụng, vụ lợi, vị kỷ, thích hưởng lạc, sa đọa; cái xấu, cái ác, phi nhân tính có dấu hiệu tăng lên rõ rệt... Tình trạng đó đã và đang ảnh hưởng trực tiếp đến trật tự, an toàn, an ninh xã hội, dẫn đến khuynh hướng tự diễn biến về chính trị, tư tưởng, tác hại lâu dài đến các thế hệ mai sau. Và đề ra các giải pháp ngăn chặn và tiêu diệt. Chúng ta có thể liệt kê một số loại sản phẩm độc hại như sau: - Phim ảnh, sách báo mà hiện nay với sự phát triển và phát huy cao độ công nghệ thông tin, hệ thống mạng Internet là điển hình đã nhanh chóng chuyển tải đủ các thứ, các loại sản phẩm độc hại và xâm nhập vào gia đình, trường học và xã hội mà hầu như không có gì ngăn chặn được. Internet là con dao hai lưỡi, một mặt giúp cho người sử dụng thu thập nhiều tri thức mới bổ ích, là công cụ học tập, thông tin và tuyên truyền hiệu quả nhất nhưng mặt khác gây nguy hại không nhỏ cho tinh thần, tư tưởng và các giá trị văn hóa, đạo đức xã hội. - Băng dĩa với nhiều nguồn từ nước ngoài tràn về, trong đó không ít là các sản phẩm độc hại, nguy hiểm cho mọi giá trị đạo đức của nền văn hóa – xã hội dân tộc ta. - Con người và sản phẩm “mới” độc hại không kém là “Pê đê” – con người được cải tạo lại hình hài, sinh hoạt và tư tưởng – thay đổi giới tính (hoàn toàn mới và trái với văn hóa dân tộc, xa lại với xã hội Á đông). Kèm theo đó là các loại hình dụng cụ “nhân tạo của người” và thuốc kích dục đáng sợ hiện đang chiếm lĩnh một góc tối trong đời sống xã hội, gia đình vô cùng nguy hại. - Trong nội địa, các sáng tác phẩm văn học nghệ thuật do một số tác giả chạy theo kinh tế thị trường làm ra được chuyển tải trên các kênh truyền hình, biểu diễn ở các nhà hát, trung tâm văn hóa, sân khấu, các quán Karaoke trá hình, các phòng massage thư giãn, tiệm hớt tóc nam có thợ nữ… vô hình chung trở thành các sản phẩm văn hóa độc hại mà các cơ quan, ban ngành, đoàn thể không nhận ra hoặc chưa nhận ra và vô tình buông lỏng quản lý. - Cung cách ăn mặc hở hang, tóc tai nhuộm nhiều màu, sinh hoạt, giao tiếp và ứng xử kém văn minh, lịch sự của một số người trẻ (thanh niên, thanh nữ, nghệ sĩ thiếu văn hóa) ở nơi công cộng, tham gia giao thông hay ở các tụ điểm văn hóa, trên sân khấu đang bị dư luận phê phán hay được đồng tình, có tác động không nhỏ tới đạo đức xã hội. 2-Đâu là giải pháp xây dựng nếp sống văn minh trong gia đình, nhà trường và xã hội? Cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư” từ trên 10 năm nay, “Thực hiện nếp sống văn minh – mỹ quan đô thị” hơn ba năm nay và nhiều phong trào, chương trình hành động khác của các đoàn thể đề ra thực hiện từ nhiều năm nay, nhất là ở các phường văn hóa, khu phố văn hóa… vừa được công nhận “phường, khu phố văn hóa hay ở các gia đình đạt chuẩn văn hóa cấp quận, cấp thành phố” lại vừa ẩn chứa những sản phẩm độc hại nói trên. Chúng tôi rất hoan nghinh Chương trình 24 của Quận ủy Quận 1 đã chỉ đạo tổ chức trên 100 chuyên đề về kỹ thuật sống và đã thu hút hơn 64 ngàn người tham dự gồm đủ mọi thành phần trong xã hội, kể cả công an, người tái hòa nhập cộng đồng và thân nhân của họ. Cuộc đấu tranh cách mạng trên mặt trận văn hóa chống lại các sản phẩm văn hóa độc hại đang diễn ra ở các nơi hình như không còn cân sức bởi vì lực lượng và phương thức đấu tranh còn hạn chế, chưa đổi mới kip thời. Đã tới lúc toàn xã hội phải huy động toàn lực với nhiều bước đi có phương thức phù hợp cần được các cấp, các ngành từ cá nhân tới tập thể quan tâm tổ chức thực hiện. Đây là mặt trận cách mạng mới trong bối cảnh của diễn tiến hòa bình có sự chuyển hóa mới của giai cấp tư sản và tiểu tư sản. Trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân và đế quốc để bảo vệ Tổ quốc đồng thời chúng ta phải kháng chiến chống văn hóa ngoại lai và phản động. Ngày nay xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong thời bình, chúng ta lại phải đấu tranh chống các loại sản phản văn hóa độc hại chẳng những từ trong nước, từ các nước tư bản phản động lẫn nước bạn có nền kinh tế mạnh sản xuất những loại sản phẩm độc hại về thực phẩm, nông sản phẩm, mỹ phẩm và công nghệ phẩm có hại cho cả thế hệ thanh thiếu niên trong âm mưu hủy hoại xã hội. - Suy cho cùng, đồ chơi các loại dành cho trẻ con hiện đang tràn ngập thị trường trong nước đều có nhiều loại thuộc sản phẩm có tính chất văn hóa độc hại hữu hình, chúng ta cần nhanh chóng phân loại để hủy bỏ như hủy bỏ các băng hình, phim ảnh. - Chúng ta vận động mọi hình thức để nói không với sản phẩm văn hóa độc hại từ phim ảnh, sách báo, dụng cụ thư giãn ngoại lai, ca nhạc rẻ tiền trình diễn lố lăng, chọc cười thiếu văn hóa, văn minh trên truyền hình, trên sân khấu, phản đối các loại quảng cáo bằng hình ảnh gợi cảm, khiêu dâm kể các các loại hình nộm quảng cáo trang phục trưng bày nhan nhãn ở các cửa hàng may đo, trang phục may sẵn của phụ nữ nước ngoài. Vô tình những loại độc hại này tác động tới vẻ mỹ quan đô thị và môi trường văn hóa, tác hại tới tinh thần, tư tưởng của các thanh thiếu niên. (Ngay cả hình ảnh củ sâm cũng tạo hình người nữ khỏa thân gợi cảm, dục tình…) Nhiều người hoan nghinh và đồng tình các đoàn thể nhân dân cùng với chính quyền thực hiện chương trình phối hợp về chống sự xâm nhập của các sản phẩm văn hóa độc hại gây hủy hoại đạo đức xã hội, trong đó có nội dung và giải pháp thực hiện. Chỉ tiếc rằng thời gian qua, do nhiều hoạt động khác sôi nổi hơn, nóng bỏng hơn làm che khuất và giảm nhẹ cường độ đấu tranh cho kế hoạch này. Do đó, kế hoạch này cần tiếp tục đẩy mạnh và có nhiều giải pháp cụ thể, thiết thực hơn, trong đó ngoài hoạt động và thể hiện vai trò của các đoàn thể chính trị-xã hội, chúng ta còn cần đề cao vai trò và chức năng của trường học, gia đình trong việc giáo dục thế hệ trẻ nâng cao ý thức và nhận thức tốt cho chúng có sức đề kháng hữu hiệu, giáo dục giới tính và hôn nhân gia đình phải tới nơi tới chốn, giáo dục truyền thống của các câu lạc bộ ông bà cháu phải có chất lượng, nội dung thiết thực không chỉ giáo dục truyền thống cách mạng mà còn giáo dục truyền thống dân tộc về luân thường, đạo lý, nhân cách, nhân văn, nhân bản và thuần phong mỹ tục. - Các hình thức tín ngưỡng, thờ cúng có tính cách mê tín, dị đoan như xin xâm bói toán, cúng sao, đốt vàng mã... cũng là một thứ sản phẩm văn hóa độc hại cần bài trừ trong xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư, hạn chế cấp đất xây chùa đồ sộ tốn kém hàng trăm, ngàn tỷ đồng ở mọi lúc mọi nơi gây lãng phí tiền của xã hội, bá tánh trong khi tình trạng xóa đói giảm nghèo ngày càng khó khăn. Xây dựng nơi cầu nguyện cho một số bá tánh đâu phải chỉ vụ vào cơ sở vật chất hoành tráng, nhiều tiền, đất đai chiếm dụng quá lớn trong khi nhiều đồng bào còn nghèo khổ, thiếu nhà ở, không có đất canh tác, chăn nuôi, có khi lại diễn ra ở giữa lòng đô thị, chật chội, đông đúc. Do đó, chúng tôi đề nghị các ngành chức năng cần tăng cường hoạt động giáo dục, thông tin, tuyên truyền, vận động song song với kiểm tra, xử phạt (tiền và tù) để tích cực chống và đẩy mạnh xây, trong đó có việc không cấp phép quảng cáo, mở cửa hàng và biểu diễn các chương trình ca nhạc nhạy cảm, biến tướng thành vũ trường, ăn chơi sa đọa có liên quan, các diễn viên ăn mặc không đứng đắn, kể cả hạn chế tới đa các chương trình truyền hình thiếu lành mạnh và trình chiếu các phim mang tính bạo lực, dâm đãng, trái luân thường đạo lý và thuần phong mỹ tục dân tộc (phim tình cảm, kiếm hiệp, hành động kể cả phim hoạt hình, thiếu nhi vô luân có nguồn gốc từ Hàn quốc, Trung quốc, Đài Loan…) Các ngành giáo dục và cơ quan văn hóa, thể thao, du lịch các cấp cần đẩy mạnh và có biện pháp cụ thể, tích cực và hiệu quả hơn trong thực hiện hoạt động phòng chống các loại sản phẩm văn hóa độc hại, các chương trình truyền hình, ca nhạc mang tính ngoại lai, mất gốc, thiếu bản sắc văn hóa dân tộc nhằm đem lại hiệu quả thiết thực và rộng khắp của mặt trận văn hóa chống các sản phẩm độc hại mà hiện nay đang ngày càng hủy hoại giá trị đạo đức xã hội, đời sống cộng đồng, trường học, gia đình và dân tộc, kể cả đời sống tâm linh, tín ngưỡng dân gian. Vương Liêm CHẾ LAN VIÊN Đất nước cổ kính Việt Nam quả thực đã được tạo dựng bằng bàn tay của con người. Hàng mấy ngàn năm trước, chặt phá rừng già, con người từ dải bờ biển và bờ những con sông con suối, đã tiến sâu vào lòng đất nước, để lại sau lưng mình những cánh đồng ruộng lúa, những kênh đào lạch sẻ, vườn tược và những vòng thành lũy. Nếu như từ trên cao qua ô cửa sổ máy bay nhìn xuống đất nước này: màu vàng và màu xanh của ruộng đồng và đường ren bạc của những con sông, những dẫy núi phủ kín rừng và vàng của những bãi cát dọc bờ biển, những khối (mái) đỏ (tường) trắng nhiều đường góc của các đô thị và những khuôn nhà ở bằng tranh tre thu tròn của các thôn làng,- bản thân đất nước này dường như một giai điệu ngưng đọng của một bản trường ca cổ kính. Không phải ngẫu nhiên mà nhân dân sống trên dải đất này yêu thích hợp âm thánh thót của ngôn từ và ở mỗi vùng đất ở đây từ xa xưa đều có một làn điệu thơ ca dân dã, khác nhau về nhạc điệu và các hình tượng riêng biệt, nhưng thấm đượm những tình cảm cao cả và trong sáng không thay đổi, tính cách không khoan nhượng đối với cái ác và sự dối lừa. Một nhân dân, cầy sới mảnh đất giàu có thơ ca, gieo xuống đó những hạt giống đầu tiên, và vì thế đã nẩy nở một cách nhiều màu sắc và rực rỡ cả một nền thơ ca chữ viết, tồn tại ở đây vậy là đã hàng chục thế kỷ. Tất cả mọi người, những ai từng thông thạo chữ nho - các quan lại và dân thường, vua chúa và các nhà tu hành, thẩy đều làm thơ. Những kiệt tác mà thơ ca cổ điển Việt Nam để lại cho chúng ta, tán tụng sự công bằng và chí hướng tìm đến chân lý, ca ngợi vẻ đẹp của mảnh đất quê hương. Nhưng khi đó, cũng như ngày nay, tán tụng sự công bằng và ca ngợi vẻ đẹp của mảnh đất ông cha là chưa đủ. Những cái đó cần phải bảo vệ bằng vũ khí trong tay. Từ phương bắc bọn xâm lược của đế quốc con trời thỉnh thoảng lại tràn tới. Và lời thơ trở thành vũ khí tấn công. Một trong những bài thơ cổ xưa nhất còn giữ được đến tay chúng ta được biết bởi vị thống soái lừng danh, và theo truyền thuyết, đã được ngâm lên trước quân xâm lược ngay mở đầu trận chiến. Những người lính Việt Nam được cổ vũ bởi nhà thơ, đã đánh tan tác đạo quân của hoàng đế nhà Tống đông gấp bội. Sự kiện ấy xẩy ra ít nhất cũng đã chín trăm năm trước. Từ thuở đó trong âm vang của thơ ca Việt Nam nghe rõ tiếng gươm khua và tiếng sấm rền của trống trận. Cũng lại như vậy cả khi nhân dân đứng lên chống những quân xâm lược mới lần này đến từ phương Tây, từ Châu Âu “văn minh”. Nhưng những motif tình yêu đối với đất nước đạt tới sức mạnh đặc biệt trong thơ ca cách mạng, ra đời vào buổi đầu của những năm ba mươi thế kỷ chúng ta (thế kỷ XX), bởi vì nó đòi hỏi sự giải phóng nhân dân và khôi phục phẩm giá con người bị xâm hại, mà lý tưởng của nó là đổi mới thế giới. Thơ ca này được sáng tạo trong các nhà tù (đế quốc), trong các hang động của những nhà in bí mật và trên những con đường rừng kỳ bí, nhưng chính nó đã xác định bước đi tiếp phát triển của thơ ca Việt Nam. Nó trở thành người báo hiệu của tháng Tám năm 1945 thắng lợi, theo tiếng gọi của nó tất cả các nhà thơ chân thực và tài năng của đất nước đã ra đi vào vùng rừng núi cùng các đơn vị đầu tiên của quân đội nhân dân. Thơ ca trở thành ngọn cờ chiến đấu của nhân dân chiến đấu chống bọn thực dân. Các nhà thơ sát cánh cùng các người lính và du kích xung trận, thay chân các người thợ đứng bên các cỗ máy in cổ lỗ, in những tờ báo, những tờ truyền, những tập thơ trên thứ giấy mầu xám lởm chởm. Trong chín năm chiến tranh gian khổ đó thơ ca Việt Nam đã có được những phẩm chất của riêng mình mà trước đó không phải bao giờ nó cũng có được - sự tinh tường nhận biết cuộc sống, sự chuẩn xác trong lựa chọn tư liệu và tính cách trong sáng thấu suốt của những âm sắc nhân dân. Và khi sau chiến thắng miền Bắc Việt Nam trong một thời gian ngắn lạ thường đã trở thành một mảnh đất hoàn toàn xóa nạn mù chữ, thơ ca đã có được một cử tọa toàn dân và trong đó vang lên đề tài lao động được giải phóng, đề tài chủ nghĩa xã hội. Phạm vi các phương tiện hình thức và thủ pháp thơ được mở rộng, nhiều nghệ sĩ cùng một lúc sáng tác cả trong truyền thống cách ngôn kính điển, cả trong phong cách gần với ca khúc dân gian du dương và trong sáng. Thể thơ tự do trước đó không được quen cho lắm cũng được khẳng định. Sự phong phú về thể loại và rộng đường tìm tòi được thông cảm - thơ ca cần được nói về nhiều điều, trước còn chưa được biết tới hoặc nói chung còn chưa hề tồn tại, và ở điểm này nó trở nên cần có tất cả sự phong phú của phương tiện diễn tả. Chính sự vươn tới cái mới và sự đa sắc mầu của hình thức là điểm điển hình trong sáng tác của Chế Lan Viên. Tạp chí hôm nay giới thiệu thơ trong hai tập thơ gần đây nhất của thi sĩ. Số phận văn chương của Chế Lan Viên được định hình một cách suôn sẻ: Tập thơ đầu tay của ông ấn hành năm 1937, đã đưa chàng trai mười bẩy tuổi vào hàng ngũ các nhà thơ dẫn đầu của đất nước, và cho đến hôm nay mỗi cuốn sách của ông đều trở, thành sự kiện thu hút sự chú ý của giới phê bình, bạn đọc và bạn bút thơ. Chế Lan Viên bắt đầu trong trào lưu xuất hiện vào những năm ba mươi phong trào “thơ mới”, bẻ vỡ những quy tắc cổ cựu của thi luật, khẳng định quyền tự do của thi nhân tiếp nhận trừ tình thế giới và lựa chọn để thể hiện toàn bộ tính chất đa tầng thế giới nội tâm của con người. Tập sách đầu tiên của ông, tên gọi có thể dịch bằng từ “Zapuxtenije - Hoang tàn” hay “Upadok - suy đốn, suy sụp, suy tàn” - câu chuyện bi thảm thế giới quan về sự diệt vong của đế chế Chăm đã có một thời hùng mạnh và những đau thương của nhân dân đế chế ấy. Tập thơ tiếp theo của ông đề cập đến các vấn đề đương thời. Thi sĩ hào hứng đón chào cách mạng và thơ ông trần đầy âm điệu sảng khoái, lạc quan, điển hình trong thơ ông khẳng định thêm cả một yếu tố mới - nhận thức thế giới một cách trí tuệ, mà trước đó thơ ca Việt Nam không có một cách đậm đà. Tôi đang cầm trong tay tám cuốn sách, theo tôi là tất cả những gì Chế Lan Viên đã ấn hành (đến giờ, 1973). Dường như không phải đã là nhiều. Nhưng thời gian trong những cuốn sách này, như các nhà vật lý nói đã được “kết tụ” đông đặc khác thường. Tôi nhớ, đã khá lâu về trước tại trường đại học tổng hợp Matxcơva đã diễn ra một cuộc tranh luận: liệu các tác phẩm văn chương có thể dùng làm nguồn tư liệu lịch sử chăng? Bản thân tôi thì câu hỏi này chưa bao giờ gây cho tôi phải hoài nghi. Và chính thơ Chế Lan Viên có thể gọi là nguồn tư liệu lịch sử với ý nghĩa cao cả và chính xác nhất của từ này. Còn một phẩm chất nữa trong thơ ông, khi nhìn bao quát tất cả những gì Chế Lan Viên viết, thì trở nên đặc biệt rõ ràng: qui mô rộng lớn và tính chính xác biểu hiện thấy rõ ở “địa đồ” của ông. Bao giờ ông cũng biết tìm ra trên mảnh đất của mình điểm chính nhất, nóng bỏng nhất trong thời khắc hiện thời và phơi bày ra cái góc đó trên mảnh đất của mình với một cách khúc chiết rung động đến kỳ lạ: chúng ta nhìn thấy, những hạt thóc nẩy mầm và những búp măng tre mảnh mai và yếu ớt từ dưới đất đâm lên cao như thế nào, đất được con người làm cho hồi sinh đã che chở cho những đứa trẻ khỏi bị sắt thép rơi từ không trung xuống sát hại ra sao... Ông biết cách như các họa sĩ thường làm - bằng sự thay đổi mầu sắc và ánh sáng cho thấy những đổi thay của thời gian: những chiếc lá ngụy trang xanh, vàng và lại xanh; những mái tranh mầu hung nâu thay bằng những ô vuông ngói hồng; mầu xanh xóa những vệt đen hố bom khỏi các thửa ruộng... Phải chăng các mảng mầu trên mặt sơn mài Việt Nam mầu nọ thay mầu kia, cũng như vậy sao? Và ông còn biết bằng những đường vạch lớn chính xác - hẳn con dao trổ của người nghệ sĩ vô danh từ thuở xa xưa lâu lắm rồi đã đưa như vậy trên mặt bảng gỗ in tranh dân gian ở làng Đông Hồ - vẽ ra những chân dung những con người cùng thời của mình: những đứa trẻ cất lên những tiếng đầu tiên trong đời mình, những người lính, ngư dân, cả người thợ cầy, cả vị chủ tịch nước... “Thơ cần phải có ích cho con người”, - Chế Lan Viên nói trong “Suy nghĩ về thơ” của mình, hàm ý, tất nhiên không phải “ích lợi” duy lợi của nghệ thuật, mà là sự phục vụ cao cả, quên mình cho con người. Và với ý nghĩa ấy thơ của Chế Lan Viên cần thiết và có ích cho con người và sẽ còn lâu dài mang lại niềm vui cho người đọc ở Việt Nam và cả ngoài biên giới Việt Nam. Lời giới thiệu thơ Chế Lan Viên trên tạp chí Văn học nước ngoài (Liên Xô). Số 9/1973. Thúy Toàn dịch Phụ Bản I
NHÂN GIỖ HÙNG VƯƠNG GỢI NHỚ TINH THẦN ANH HÙNG BẤT KHUẤT
Hùng Vương , hay vua Hùng, là tên hiệu các vị thủ lĩnh tối cao của nhà nước Văn Lang của người Lạc Việt . Theo truyền thuyết , các vua này là hậu duệ của Lạc Long Quân và Âu Cơ . Truyền thuyết khởi đầu . Đại Việt Sử ký Toàn thư , phần lời tựa của Ngô Sĩ Liên chép: "Nước Đại Việt ở phía nam Ngũ Lĩnh, thế là trời đã phân chia giới hạn Nam–Bắc. Th ủy tổ của ta là dòng dõi họ Thần Nông, thế là trời sinh chân chúa, có thể cùng với Bắc triều mỗi bên làm đế một phương ". Lại chép về họ Hồng Bàng như sau: "Xưa cháu ba đời của Viêm Đế họ Thần Nông là Đế Minh sinh ra Đế Nghi, Rồi sau Đế Minh đi tuần phương Nam, đến dãy Ngũ Lĩnh gặp Vụ Tiên nữ sinh ra Vương (Lộc Tục). Vương là bậc Thánh trí thông minh. Đế Minh yêu qu ý lạ, muốn cho nối ngôi. Vương cố nhường cho anh mình, không dám vâng mệnh. Đế Minh vì thế lập Đế Nghi là con trưởng nối dòng trị phương Bắc. Lại phong cho vua là Kinh Dương Vương, trị phương Nam, đặt tên nước là Xích Quỉ. Vương lấy con gái Chúa Động Đình tên là Thần Long, sinh ra Lạc Long Quân. ". "Lĩnh Nam chích quái" thời Trần viết rằng: "Âu Cơ kết hôn với Lạc Long Quân, sinh ra một bọc trăm trứng, nở ra một trăm người con. Về sau, Lạc Long Quân chia tay với Âu Cơ; 50 người con theo cha xuống biển, 50 người con theo mẹ lên núi. Người con cả được tôn làm vua, gọi là Hùng Vương." (Hoặc nằm trong truyện Con rồng cháu tiên ) . Xã hội Văn Lang dưới thời các vua Hùng . Đứng đầu nước Văn Lang là các thủ lĩnh tối cao, được biết đến với tôn hiệu Hùng Vương. Hùng Vương đồng thời là người chỉ huy quân sự , chủ trì các nghi lễ tôn giáo . Dưới Hùng Vương có các Lạc tướng , Lạc hầu giúp việc. Cả nước chia thành 15 bộ (đơn vị hành chính lớn) có Lạc tướng còn trực tiếp cai quản công việc của các bộ. Dưới nữa là các Bố chính, đứng đầu các làng bản. Kinh đô của nhà nước Văn Lang được cho là đặt ở Phong Châu , nay thuộc tỉnh Phú Thọ . Công cụ là đồng thau trở nên phổ biến và bắt đầu có công cụ bằng sắt. Có n ề n kinh tế nông nghiệp trồng lúa nước, dùng sức cày kéo của trâu bò là phổ biến nhất. Ngoài ra còn săn bắt, chăn nuôi, đánh cá và làm nghề thủ công như đúc đồng, làm đồ gốm. Sự phân công lao động giữa nông nghiệp và thủ công nghiệp đã xuất hiện. Các vua HÙNG VƯƠNG. Theo Đại Việt Sử ký Toàn thư , tính từ thời Kinh Dương Vương (2879 TCN) cho đến hết thời Hùng Vương (năm 258 TCN ) kéo dài 2.622 năm. Nhà nước Văn Lang tồn tại đến năm 258 TCN thì bị Thục Phán (tức An Dương Vương ) thôn tính. (số năm trị vì là ước đoán) . 1. Hùng V ương ( Lộc Tục ): 2879 - 2794 TCN 2. Hùng Hiền (Lạc Long Quân): 2793 - 2525 TCN 3. Hùng Lân (vua) : 2524 - 2253 TCN 4. Hùng Việp : 2252 - 1913 TCN 5. Hùng Hy (trước): 1912 - 1713 TCN 6. Hùng Huy : 1712 - 1632 TCN 7. Hùng Chiêu : 1631 - 1432 TCN 8. Hùng Vỹ : 1431 - 1332 TCN 9. Hùng Định : 1331 - 1252 TCN 10. Hùng Hy (sau) (tuy là cùng âm "Hy", nhưng về mặt chữ Hán thì hai chữ này viết khác nhau): 1251 - 1162 TCN 11. Hùng Trinh : 1161 - 1055 TCN 12. Hùng Võ : 1054 - 969 TCN 13. Hùng Việt: 968 - 854 TCN 14. Hùng Anh : 853 - 755 TCN 15. Hùng Triều : 754 - 661 TCN 16. Hùng Tạo : 660 - 569 TCN 17. Hùng Nghị : 568 - 409 TCN 18. Hùng Duệ : 408 - 258 TCN Quốc hiệu VĂN L ANG. Văn Lang của các vua Hùng Vương là nhà nước đầu tiên của Việt Nam trong lịch sử . Nhà nước Văn Lang được cai trị bởi các vua Hùng . Bài “Việt Sử ca” cho chúng ta biết: Hùng Vương –Thục –Trưng –Tiền (Hậu) Lý –Ngô - Đinh –Tiền Lê – Lý – Trần –Hồ - Lê Sơ –Mạc –Lê (Trung hưng) – Tây Sơn –Nguyễn. Lịch sử Tiên Rồng! Theo bộ sử ký Đại Việt sử ký toàn thư (ĐVSKTT) - phần ngoại kỷ do sử gia Ngô Sĩ Liên viết ở thế kỷ 15 chép rằng: Đế Minh sinh ra Lộc Tục , Lộc Tục sinh ra Lạc Long Quân . Kế tiếp Lạc Long Quân và vợ là Âu Cơ sinh được 100 người con trai, 50 người theo mẹ lên núi cùng suy tôn người con cả lên làm vua, hiệu là Hùng Vương , đặt tên nước là Văn Lang, đóng đô ở Bạch Hạc - Phú Thọ Nước Văn Lang được hình thành vào khoảng năm 2879 TCN và kết thúc vào năm 258 TCN bởi An Dương Vương Thục Phán . Từ đây hình thành quan niệm dân gian coi nước Văn Lang đời Hùng Vương ra đời cách ngày nay khoảng hơn 4000 năm và thường được sách báo nói tới 4000 năm văn hiến . Tuy nhiên theo bộ sử ký xuất hiện còn sớm hơn bộ ĐVSKTT là bộ Đại Việt sử lược vào thế kỷ 13 thì chép nước Văn Lang được thành lập bởi thủ lĩnh bộ tộc Văn Lang thu phục các bộ tộc Việt (15 bộ) khác vào khoảng thế kỷ 7 TCN cùng thời với vua Chu Trang Vương của nhà Chu - Trung Quốc. Ông lên ngôi xưng hiệu là Hùng Vương, đặt tên nước là Văn Lang, đóng đô tại Phong Châu - Phú Thọ Cương vực nước Văn Lang. Theo Đại Việt Sử ký Toàn thư thì Văn Lang có cương vực và 15 bộ (bộ tộc) với tên gọi các bộ: Giao Chỉ, Chu Diên, Vũ Ninh, Phúc Lộc, Việt Thường, Ninh Hải, Dương Tuyền, Lục Hải, Vũ Định, Hoài Hoan, Cửu Chân, Bình Văn, Tân Hưng, Cửu Đức và Văn Lang là bộ nơi vua đóng đô.
Đại Việt Sử Lược cũng chép rằng Văn Lang gồm 15 bộ, trong đó có 10 bộ giống tên như ĐVSKTT ghi trên đây (Giao Chỉ, Vũ Ninh, Việt Thường, Ninh Hải, Lục Hải, Hoài Hoan, Cửu Chân, Bình Văn, Cửu Đức, Văn Lang) và 5 bộ lạc với tên khác (Quân Ninh, Gia Ninh, Thang Tuyền, Tân Xương, Nhật Nam).
1. bộ Văn Lang: thuộc Phú Thọ 2. bộ Gia Ninh: thuộc Phú Thọ 3. bộ Tân Xương: thuộc Vĩnh Phúc 4. bộ Giao Chỉ: tương đương miền Hà Nội ngày nay và miền hữu ngạn sông Hồng 5. bộ Vũ Ninh: tương đương Bắc Ninh, Hải Dương ngày nay 6. bộ Ninh Hải: tương đương miền nam Khâm Châu-Quảng Tây (Trung Quốc) 7. bộ Thang Tuyền: tương đương nam Ung Châu -Quảng Tây (Trung Quốc) 8. bộ Lục Hải: tương đương Quảng Ninh 9. bộ Cửu Chân: một phần Thanh Hóa ngày nay. 10. bộ Quân Ninh: các huyên bắc Thanh Hóa và Ninh Bình. 11. bộ Hoài Hoan : tương đương vùng bắc Nghệ An (tức Diễn Châu đời nhà Đường) 12. bộ Cửu Đức : tương đương nam Nghệ An và bắc Hà Tĩnh (tức Hoan Châu đời nhà Đường) 13. bộ Việt Thường: thuộc Hà Tĩnh 14. bộ Nhật Nam: nam Hoành Sơn (Hà Tĩnh) 15. bộ Bình Văn : không rõ. Các tài liệu nghiên cứu sau này cho rằng lãnh thổ nước Văn Lang bao gồm khu vực Bắc Bộ và ba tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh ngày nay, dựa trên các di tích văn hóa đồ đồng đã được phát hiện, thời kỳ Văn Lang của các vua Hùng tương ứng với thời kỳ văn hoá Đông Sơn (từ năm 2700 TCN - 2000 TCN) .
Tổ chức nhà nước Văn Lang. Đứng đầu nhà nước là Hùng Vương , trong triều đình có các quan giúp việc là Lạc Hầu , quan Lạc Tướng cai quản các bộ địa phương, dưới Lạc Tướng là các quan Bồ Chính cai quản từng khu vực nhỏ (làng). Theo các tư liệu cổ, các vị vua cai trị nước Văn Lang có tất cả 18 đời (hoặc dòng) vua. Xã hội phân ra làm ba tầng lớp, vua quan, dân, nô lệ. Nô lệ chỉ có trong nhà của vua quan. Dân ở các làng dưới quyền cai quản của quan Bồ Chính, chủ yếu làm nghề nông. Quan điểm về đặc tính của nhà nước Văn Lang rất đa dạng. Có nhiều quan điểm khác nhau trong đó có quan điểm của GS. Hà Văn Tấn cho rằng nhà nước Văn Lang chỉ là một cái làng lớn (Hà Văn Tấn, Làng, liên làng và siêu làng (Mấy vấn đề về phương pháp), Tạp chí Khoa học, Đại học Tổng hợp Hà Nội, số 1, 1987, in lại trong Một số vấn đề Lý luận Sử học, Nxb ĐHQGHN, 2007); quan điểm của tác giả Nguyễn Minh Tuấn cho rằng: Nhà nước Văn Lang thực chất là một "nhà nước siêu làng", thể hiện cả ở sự liên kết giữa làng và nước, chứ không chỉ là sự liên kết giữa các làng với nhau. Theo tác giả, tính chất "siêu làng" thể hiện ít nhất ở ba khía cạnh: Thứ nhất, về nội dung, nhà nước mang dáng dấp của một cái làng lớn có tính liên kết mạnh, tính đại diện cao và tính giai cấp yếu. Thứ hai, về phạm vi và tính chất liên kết, quan hệ làng nước mang tính hoà đồng, lưỡng hợp, chưa có sự phân định rạch ròi về chức năng, thẩm quyền giữa làng và nước. Thứ ba, về thời gian, nhà nước Văn Lang dần được hình thành trong một quá trình rất lâu dài (Nguyễn Minh Tuấn, Nhà nước Văn Lang - nhà nước siêu làng, Tạp chí Khoa học, Đại học Quốc gia Hà nội, chuyên san Kinh tế - Luật, Tập 23, Số 3, năm 2007). Kết thúc vương triều Hùng Vương. Cuối thời Hồng Bàng , theo ĐVSKTT cũng như theo Đại Việt sử lược, do nhiều lần bị vua Thục sang đánh nhưng nhờ binh cường tướng giỏi nên đều thắng nên vua Hùng sinh ra kiêu ngạo, chểnh mảng võ bị, ngày chỉ uống rượu ăn tiệc làm vui. Năm 258 TCN, cháu vua Thục là Thục Phán sang đánh, vua còn mải mê uống rượu, khi quân Thục đến gần vua nhảy xuống giếng chết, quân lính đầu hàng. Thục Vương chiếm lấy nước, sát nhập và thành lập nước Âu Lạc . ĐỀN HÙNG Ở TỈNH PHÚ THỌ Đền Hùng là tên gọi khái quát quần thể đền chùa thờ phụng các Vua Hùng và tôn thất của nhà vua trên núi Nghĩa Lĩnh, gắn với lễ hội Đền Hùng được tổ chức tại địa điểm đó hàng năm vào ngày 10 tháng 3 âm lịch. Hiện nay, theo các tài liệu khoa học đã công bố đa số đều thống nhất nền móng kiến trúc đền Hùng bắt đầu được xây dựng từ thời vua Đinh Tiên Hoàng trị vì. Đến thời Hậu Lê (thế kỷ 15) được xây dựng hoàn chỉnh theo quy mô như hiện tại. Vị trí Đền Hùng. Quần thể di tích đền Hùng nằm từ chân núi đến đỉnh ngọn núi Nghĩa Lĩnh cao 175 mét (núi có những tên gọi như Núi Cả, Nghĩa Lĩnh, Nghĩa Cương, Hy Cương, Hy Sơn, Bảo Thiếu Lĩnh, Bảo Thiếu Sơn), thuộc địa phận xã Hy Cương, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ , trong khu rừng được bảo vệ nghiêm ngặt giáp giới với những xã thuộc huyện Lâm Thao , Phù Ninh và vùng ngoại ô thành phố Việt Trì , cách trung tâm thành phố Việt Trì khoảng 10 km. Khu vực đền Hùng ngày nay nằm trong địa phận của kinh đô Phong Châu của quốc gia Văn Lang cổ xưa. Theo cuốn Ngọc phả Hùng Vương , đương thời các Vua Hùng đã cho xây dựng điện Kính Thiên tại khu vực núi Nghĩa Lĩnh này. Đặc điểm: Khu di tích lịch sử đền Hùng bao gồm bốn đền chính là đền Hạ, đền Trung, đền Thượng và đền Giếng. Từ những bậc đầu tiên dưới chân núi, du khách sẽ qua cánh cổng, bước nhiều bậc đá lên thắp hương và thăm thú các đền, kết thúc tại đền Thượng trên đỉnh Nghĩa Lĩnh, nơi có lăng mộ vua Hùng thứ 6. LỄ HỘI ĐỀN HÙNG. Văn học dân gian Việt Nam nói về lễ hội đền Hùng như sau: Dù ai đi ngược về xuôi Nhớ ngày Giỗ Tổ mùng Mười tháng Ba Lễ hội đền Hùng còn gọi là Giỗ tổ Hùng Vương là một lễ hội lớn mang tầm vóc quốc gia ở Việt Nam , tưởng nhớ và tỏ lòng biết ơn công lao lập nước của các vua Hùng , những vị vua đầu tiên của dân tộc. Lễ hội diễn ra vào ngày 10 tháng 3 âm lịch , tuy nhiên, lễ hội thực chất đã diễn ra từ hàng tuần trước đó với những phong tục như đâm đuống (đánh trống đồng ) của dân tộc Mường , hành hương tưởng niệm các vua Hùng, và kết thúc vào ngày 10 tháng 3 âm lịch với lễ rước kiệu và dâng hương trên đền Thượng. Lễ hội đền Hùng hiện được Lễ giỗ tổ Hùng Vương nâng lên thành Q uốc giỗ tổ chức lớn vào những năm chẵn. Phần Lễ: Có 2 Lễ được cử hành cùng thời điểm ngày chính hội: - Lễ rước Kiệu vua : Đám rước kiệu với màu sắc sặc sỡ của bạt ngàn cờ, hoa, lọng, kiệu, trang phục truyền thống xuất phát từ dưới chân núi rồi lần lượt qua các đền để tới đền Thượng, nơi làm lễ dâng hương. Đám rước như một con rồng uốn lượn trên những bậc đá dưới những tán lá cây để tới đỉnh núi Thiêng. - Lễ Dâng hương : Người hành hương tới đền Hùng chủ yếu vì nhu cầu của đời sống tâm linh. Mỗi người đều thắp lên vài nén hương khi tới đất Tổ để nhờ làn khói thơm nói hộ những điều tâm niệm của mình với tổ tiên. Trong tâm hồn người Việt thì mỗi nắm đất, gốc cây nơi đây đều linh thiêng và chẳng có gì khó hiểu khi nhìn thấy những gốc cây, hốc đá cắm đỏ những chân hương. Phần Hội : Có nhiều trò chơi dân gian đặc sắc. Đó là những cuộc thi Hát X oan (tức hát ghẹo ), một hình thức dân ca đặc biệt của Phú Thọ , những cuộc thi vật, thi kéo co, hay thi bơi trải ở ngã ba sông Bạch Hạc , nơi các vua Hùng luyện tập các đoàn thủy binh luyện chiến. Vào ngày 24-11-2011, Hát Xoan đã vinh dự được UNESCO công nhận là “Di sản Thế giới Phi vật thể. Từ năm 2000, giỗ tổ Hùng Vương trở thành quốc lễ. Từ ngày 10/3/ 2007 âm lịch hàng năm là ngày nghỉ lễ. Lễ giỗ Quốc Tổ không chỉ diễn ra ở khu di tích lịch sử đền Hùng Phú Thọ mà sẽ diễn ra ở nhiều địa phương trong cả nước như thành phố Hồ Chí Minh , Cần Thơ , Đà Nẵng .v.v. Đền Quốc Tổ được thờ cúng tại khắp cả nước, với trên 1 400 đền thờ lớn nhỏ. Vì lý do Lễ giỗ Hùng Vương, từ xa xưa, đã gắn kết cộng đồng các dân tộc Việt Nam trên khắp vùng miền đất nước và trường tồn với thời gian, chính vì thế, “Tín ngưỡng Thờ vua Hùng Vương tại Phú Thọ, Việt Nam, cũng đã vinh dự được UNESCO vinh danh là “Di sản Thế giới Phi vật thể” vào ngày 6-12-2012. Đây là Di sản Thế giới mới nhất và từ đó,nâng tổng số các Di sản Thế giới tại nước ta là 17 Di sản. Thông tin thêm về Trống đồng Hy Cương: Trống đồng này được tìm thấy ở xã Hy Cương ngay dưới chân núi Nghĩa Lĩnh ngày 7 tháng 8 năm 1990 khi một gia đình người dân đào hố tôi vôi . Trống khá nguyên vẹn, có đường kính mặt 93cm và chiều cao 70cm, là trống đồng Đông Sơn có kích thước lớn nhất trong tổng số trống Đông Sơn đã biết ở Việt Nam và Đông Nam Á. Trống có hoa văn trang trí phong phú và cách điệu hóa cao độ, trong đó có các loại hoa văn chủ đạo như hình ngôi sao 12 cánh đường kính đến 20cm, 8 con chim lạc dài 15cm bay theo hướng ngược chiều kim đồng hồ, hình người hóa trang cách điệu chỉ có mắt và lông công, thuyền vv .. . Có thể quanh Hy Cương còn nhiều trống đồng chưa được phát hiện ra, nhưng với việc phát hiện trống lớn như một bằng chứng khảo cổ tại chân núi Nghĩa Lĩnh, cho thấy vị trí đặc biệt của Hy Cương và đền Hùng trong lịch sử dân tộc (trống lớn thường thuộc sở hữu của một vị tù trưởng hoặc thủ lĩnh rất lớn), là một trong những minh chứng khẳng định tính lịch sử của huyền thoại các vua Hùng. Trống hiện được lưu giữ trong Bảo tàng Hùng Vương với số đăng ký ĐH 2012 (theo số mới), số cũ là 1549. KẾT LUẬN - Với việc các nhà khảo cổ Việt Nam đã tìm thấy Trống đồng Hy Cương tại khu vực Đền Hùng, chứng tỏ rằng, Vương triều Hùng Vương –dù là truyền thuyết với 18 đời vua, thời gian làm vua quá dài, với số năm trị vị của 18 vua Hùng chỉ là ước đoán- là hiện thực. Đồng thời cùng với sự kiện UNESCO công nhận điệu Hát Xoan và Tín ngưỡng Thờ cúng vua Hùng của khu vực núi Hy Cương, Phú Thọ là 2 Di sản Thế giới Phi vật thể đã chứng tỏ hùng hồn về Nguồn gốc dân tộc Việt Nam là hiện thực, chứ không chỉ là huyền thoại - của các vua Hùng – những vị Quốc Tổ của đất nước Tiên Rồng mến yêu. - Từ ngọn núi Hy Cương uy nghi và linh thiêng dân tộc Việt Nam cũng tương tự như ngọn núi Olympus uy nghi và linh thiêng thời Cổ Hy Lạp, nơi mà 12 vị thần: Chúa tể Zeus, Nữ vương Hera cùng với -Demeter (Nữ Thần nông nghiệp) -Hestia (NT. nội trợ) - Aphrodite (NT. sắc đẹp) -Athena (NT. thông thái) -Artemis (NT. săn bắn) và -Poseidon (Thần hải vương) -Ares (T. chiến tranh) -Apollon (T. âm nhạc) -Hephaestus (T. lửa) - Hades (T. diêm vương) điều hành mọi công việc trên thế gian. Trên ngọn núi Hy Cương, Vương triều Hùng Vương với 18 vương triều đã trị vì dân tộc Văn Lang, hun đúc nên tinh thần với các đặc tính. Chính là dân tộc Việt Nam ngày nay, có đủ khả năng viết nên những trang sử oanh liệt của mình ở mọi thời đại, nhưng với điều kiện: toàn bộ tiềm lực của họ về trí tuệ, tình cảm, lòng tự tôn dân tộc, sự đoàn kết của cộng đồng, sự lãnh đạo ưu việt, tinh thần dũng cảm, ý chí quyết thắng… nhất thiết không thể để cho bị chìm đắm như trong giấc ngủ mê, mà phải được đánh thức và phát huy cao độ. Dân tộc này đã và sẽ đập tan mọi sự xâm lăng của bất cứ một quốc gia nào, dù là siêu cường cũng vậy – dù trên đất liền hay ngoài hải đảo (với trên 4 000 hòn đảo trong Biển Đông – lẽ ra nếu gọi là Biển Việt Nam thì chắc chẳng có tranh chấp hải đảo như hiện nay). Nhân Lễ giỗ Quốc tổ Hùng Vương vào ngày 10-3 âm lịch 2013, chúng ta cùng nhau đốt nén hương thơm và cùng nhau cất cao lời hát bài “Hùng Vương” để tưởng nhớ Quốc Tổ của non sông Việt Nam. Bài hát HÙNG VƯƠNG của nhạc sĩ Thẩm Oánh Bốn ngàn năm văn hiến Nước Nam khang cường là nhờ công đức Hùng Vương Hoa gấm giang sơn này cùng chung đắp xây bao thời hùng uy vẻ vang Đời đời nhờ Hùng Vương đã vì quốc dân lập non nước này Cho cháu con quây quần vẽ nên cơ đồ bền vững tới nay Việt Nam bao sáng tươi thề cùng bền gắng cương quyết xây nhà Nam Đây cháu con Lạc Hồng từ Bắc chí Nam Xin đoàn kết tâm đồng Non nước Việt Nam nhờ Hùng Vương quyết thắng muôn năm Dòng giống khang cường! PHẠM VŨ (Tham khảo: Các sách Việt sử và bài hát trên Internet)
MỘT TRUYỆN NHÀ VĂN LÊ VĂN TRƯƠNG ĐÃ VIẾT NĂM 1942
CHIẾC ÁO MẦU HỒNG - Ếp! ếp! Bà cả Bình đang lững thững đi, giật mình quay lại. Bác phu xe đã đi quá bà dăm bẩy buớc, còn chửi đổng một câu: - Đi nghênh ngang như mẹ người ta ở đường, đồ mù! Giá mọi lần, bà cả Bình đã tức sôi, và dù người phu xe có đi quá tầm không nghe thấy nữa, bà cũng mắng theo một câu cho hả lòng tự-ái. Nhưng lần này; không. Chẳng những bà không tức, bà lại còn hình như không nghe thấy tiếng chửi của anh xe nữa. Một hình-ảnh vụt qua vừa làm sao động mớ ký-ức bi-ai mà bà đã cố vùi sâu xuống bao từng năm tháng. Cô thiếu-nữ với chiếc áo mầu hồng với chiếc hòm da đen và vẻ mặt rầu rầu vừa gọi thức dạy ở trong thần-trí bà một mẩu đời đau đớn. Cô thiếu-nữ bà vừa thoáng nhìn thấy trong khoảnh khắc sao có một khổ mặt giống con bà thế! Nếu cô không gầy một chút thì bà đã cho là chính con bà rồi. Ba năm trước đây, một buổi chiều xuân tưng bừng, cô Hợi đã bỏ nhà ra đi, đi theo tiếng gọi của ái-tình, để lại cho bà một mối hận mênh mông với bao nhiêu lời mỉa mai cay độc của xóm giềng! Cái gia-đình đang yên vui đầm ấm từ đó phủ một mầu tang, và từ đó, nụ cười rụng trên môi bà cả Bình. Đang buôn bán phát đạt, bà dẹp hết, bà dẹp bởi vì bà không chịu nổi những khinh khi bà đọc thấy trên mặt mọi người. Những câu hỏi móc máy, những tiếng bóng gió mát mẻ của kẻ thù bà cũng như những lời an ủi chí tình của bạn bè, đều có cái đức sé ruột sé gan bà, bởi vì chúng nhắc nhở một xấu xa trong gia-đình bà. Ở ai, bà cũng như thấy vang lên một lời chế riễu: Con gái theo giai, con gái theo giai! Vì bị đau đớm và nhục nhã, tình mẹ quay từ yêu sang thù, lòng mẹ khép kín lại, khép kín trước sự kêu thương của đứa con. Đã bao lần cô Hợi viết thư về kêu van lạy lục để cầu xin bà tha thứ, bà đều trả lời bằng nguyền rủa, nguyền rủa đứa con tội lỗi đã dầy séo lên danh dự của gia-đình và làm cho bà không dám nhìn thẳng mặt ai. Luôn luôn bà nói với họ hàng: - Tôi có chết thì nó mới về cái nhà này được! Tôi mà gặp nó, tôi gọt gáy bôi vôi! Bà thề không bao giờ tha thứ cho con. Đã ba năm nay, bao nhiêu người nói hộ cho cô Hợi, bà đều trả lời bằng một câu son sắt: - Tôi không băm nó ra trăm mảnh là phúc cho nó rồi! Nhưng không hiểu sao, không hiểu tư-tưởng và tình-cảm trong người bà luân-chuyển ra sao, cái hình bóng một thiếu-nữ mặc áo mầu hồng vụt qua trước mắt bà trong một buổi chiều ba mươi tết bỗng làm cho bà phải bâng khuâng nhớ tới con. Bà cảm mơ hồ thấy rằng cái lời thề son sắt nhủn dần trong tấm lòng son sắt của bà. Phải chăng cô thiếu-nữ vừa qua đã là tượng-hình của những cái đau khổ ngấm-ngầm của kiếp người nó gợi lên ở hồn bà một thương sót, thương sót đối với cả mọi người mà trong cái mọi người ấy đứa con bà cũng dự một phần vào đấy. Trong một buổi chiều mùa đông rét cóng cá, một người con gái đẹp hòm siểng lếch-thếch lại chỉ, mặc phong phanh một chiếc áo mầu hồng mỏng dính đi qua trong cái dộn dịp tưng-bừng của những người sắm tết, trong cái hăm hở của những kẻ có tiền đang tíu tít sắm sửa để đón xuân, ôi! còn gì mỉa mai cho bằng! Chiếc áo mầu hồng bay vào tâm hồn bà như một phép mầu, rồi nó liền khơi cái nguồn yêu thương trong một thời-gian mà tội lỗi của đứa con đã làm cho bế tắc. Trong đầu bà vụt hiện lên bao nhiêu câu hỏi, dựng lên bao nhiêu ức-thuyết. Sao ở cái chiều rét mướt này người kia lại lại chỉ mặc phong phanh có một chiếc áo mầu hồng? Sao trông cô ta võ vàng và buồn thỉu buồn thiu như thế? Ở cái giờ sắp sửa chia năm tháng, ai còn xê-dịch nữa? Người này đi đâu, về đâu trong cái lúc năm cùng tháng tận này? Bà nghĩ ngay rằng người thiếu-nữ kia đang gặp bước điêu linh. Có lẽ nàng vừa chia tay với một người trai trẻ nào sau khi đã bán dần mọi đồ tế-nhuyễn? Hay là, hay là… người trai trẻ đã lâu lắm không về mà chủ nhà thì bách-thúc. Bà phác-họa trong trí bao nhiêu ngang trái để gán cho người thiếu-nữ bà vừa thoáng thấy. Lòng bà thắt lại; cảnh đọa đầy của thiếu-nữ khiến bà liên-tưởng đến con bà. Sắc mặt võ vàng nhập vào mầu hồng nhạt của áo, ăn với mầu hòm da đen hẳn phải là mầu “ly-cách” nó gợi lên ở trong trí bà một cái gì tang-thương. Bà không ngờ gì nữa. Bà nhíu mày lại, đi chậm hơn, chậm cái bước chân lảo đảo cũng như lòng… Cả thiên-hạ rộn-ràng trước cửa chợ Đồng-Xuân. Người ta sô đẩy, người ta chen chúc trước một trời hoa. Tiếng người mua, tiếng người bán huyên-náo vô cùng. Xa trông, đám đông này dâng lên đủ mầu sắc. Mầu quần áo, mầu hoa, mầu cây đập vào mắt như một bức tranh đậm nét. Bà cả Bình đi mua hoa, cốt ý chờ đến chiều ba mươi mới đi là để mong được rẻ, nhưng bấy giờ cả hoa, cả sự đắt rẻ, bà cũng không còn “hồn vía” nào nghĩ đến nữa. Tuy thế cái thói quen, cái thói quen ghê-gớm nó trói buộc những kiếp người cũng đưa bà đến trước một bàn thủy-tiên. Rồi thì cái bản-ngã thứ hai ấy lại buộc bà phải ngắm nghía trong khi thần-trí bà đang chạy đến những chân trời thê-thảm tận đâu đâu… Cả bàn thủy-tiên chỉ có một đài là trông được, trông được gọi là thôi. Rễ tuy nuột, nhưng hoa không tề-thoát lắm; dò cái cao, cái thấp và nhất là lá lại chẳng có hình võ-kiếm giao nhau. Bà chăm chú nhìn nhánh thủy-tiên, rồi thở nhẹ. Trong hơi hở, có một cái gì như oán tiếc và cũng có một cái gì như âm ấm nó lôi bà về những ký-ức xưa. Phải rồi, trong nhành thủy-tiên xanh dờn, bà vừa thấy bàn tay trắng nuột của đứa con, đứa con vì biết bà thích chơi hoa thủy-tiên, yêu hoa thủy-tiên mà cố công học cho kỳ được cách gọt tỉa. Bà nhớ lại những buổi sáng mùa đông rét cắt ruột, con bà dậy từ mờ mờ sáng chẳng quản giá lạnh, chẳng quản nhọc nhằn, thục tay vào bầu nước buốt, châu chia những dò thủy-tiên để đem dâng bà. Bà nhớ lại có nhiều đêm đang ngủ, con bà vùng giậy đem thủy-tiên phơi sương vì sợ để ở trong nhà ấm, hoa chóng trổ, nở sớm ngày. Bà nhớ lại những buổi tối ba mươi, con bà ngồi khắc-khoải nhìn ngắm và mong muốn cho những dò hoa nở đúng ngày mùng một. Bà không bao giờ quên được cái giọng nũng nịu của con bà: - Điềm lành rồi, hoa nở đúng mùng một! mợ thưởng cho con đi, năm nay thì mợ buôn bán phải phát tài. Những kỷ-niệm ấm áp ấy làm cho bà cả Bình nhủn lòng, nhủn lòng vì cái hình bóng tiều tụy một thiếu-nữ mặc phong phanh chiếc áo mầu hồng đã chạy qua đấy với tất cả những viễn tưởng hãi-hùng của ngày mai nó có thể đến với con gái bà. Nhủn lòng, vì nó mới đem lại cho thân-trí bà một so sánh làm héo ruột những bà mẹ, dù sao vẫn chỉ là những “người mẹ”, sẵn chứa bên trong một mối thương không bờ bến đối với cái “thịt sương” của thịt sương mình. Thân-hình điêu-linh, nét mặt võ-vàng của cô thiếu-nữ biết đâu đã chẳng là cái thân-hình điêu-linh, nét mặt võ-vàng của con bà? Đứa bé lạc đàn, đứa con lạc mẹ đã đến nỗi nào rồi chưa? Rất có thể lắm! Vì đã bơ vơ trong bể trầm-luân thì con thuyền nào chẳng là con thuyền mỏng mệnh! Càng mỏng mệnh lắm khi con thuyền ấy lại là con thuyền ghép bởi mười chín cái xuân tươi trẻ và thơ-ngây. Tấm lòng người mẹ một phen bị oán-hờn đè ngã, vùng trở giậy, mạnh mẽ hơn xưa. Những câu hỏi hãi-hùng mọc tua tủa trong đầu bà cả Bình: giờ này, nó ở đâu, với ai? Tết này, nó có tiền ăn tết không? Giời rét cắt da này, nó có đủ áo mặc không? Hay là nó lại chỉ cũng phong phanh một chiếc áo mầu hồng mỏng mẻo như ai? Nó sướng hay nó khổ? Nó no hay nó đói? Nó khỏe hay nó ốm? Nó còn má hồng,mắt sáng không? Hay là, hay là mầu “chết” của đoạn-trường, mầu xám sịt của tang thương, màu võ vàng của bệnh tật đã nhuốm cả mặt mày và lòng ruột nó rồi! Và tết này, gian buồng nó ở có được một đóa thủy-tiên không? Trời ơi! Nếu không thì hoa lòng nó hẳn là phải tan-tác, hồn nó hẳn là phải rụng rời! Bao nhiêu ức-đoán về cô Hợi như muôn lưỡi kim dật xé lòng bà. Muốn được an ủi, an ủi ngay bà vùng đi “tìm” tình cảnh con trong những bức thư. Bà mua vội mấy đài thủy-tiên, rồi đi xe thẳng về nhà đem thư ra đọc, đọc với tất cả một tấm lòng người mẹ. Thôi, không còn ngờ gì nữa! Chữ trên giấy nét không xóng, lời không tĩnh. Bức thư nào cũng biểu-lộ một tinh thần bối rối, và tất cả tố-cáo một hoàn-cảnh nếu chưa hẳn ba-đào thì cũng sắp phải điêu-linh. Giấy lại là giấy tồi, phong bì có khi là những tờ giấy gập lại, mà con bà thì xưa nay ưa dùng những thứ hảo hạng mầu vàng lạt. Cái mầu, cái mầu ở đây là cái mầu trắng lạnh-lẽo và nhạt phèo cũa nhửng tờ giấy học trò khổ. Nhìn kỹ các bức thư bà thấy có nhiều chỗ hoen! Thôi, đúng rồi ngấn nước mắt! Con bà đã nhiếu lần khóc. Có lẽ nó khóc vì nhớ thương mẹ, nhớ thương các em, có lẽ nó cũng khóc vì… thiếu-thốn, khổ sở, nhưng chắc chắn là đang khóc vì đau đớn. Thôi thế là trong cái buổi chiều ba mươi tết nó dần đi đến sự xum họp ríu rít của buổi giao-thừa, bà thấy không thể giận con được nữa. Như thế là nó cũng đã bị đầy-ải nhiều lắm rồi! Bà thấy cần phải dằng lại đứa con mà tội lỗi đã quẳng nó ra một nơi xa lạ và đầy nó ở đấy cho đến héo hắt. Nếu bà không cứu, con bà sẽ chết, chết ở một ngả đường hay một buồng nhà thương sau khi đã phải chịu tất cả những cảnh đọa-đầy trên trái đất. Chao ôi, những đứa con không mẹ, không có cái lòng thương của mẹ thì đứa nào là chẳng có thể bị số-mệnh tàn-khốc đầy-ải. Không có cái lòng thương của mẹ, che chở và đùm bọc, có con gái nào mà chẳng có thể bị tình-thế du đến con đường gió thốc cất lầm. Một chân-lý tưng bừng vùng đến với bà cả Bình cùng với tiếng pháo lác-đác của phố-phường: Từ mẹ đến con, từ gần gụi đến xa lìa, chỉ ngăn cách… có đôi giòng nước mà bao giờ, bao giờ lòng yêu cũng có thể là dịp cầu bắc ngang cho kẻ bắc, người đoài. Cầu càng chóng bắc thì kẻ bắc, người đoài càng chóng gập nhau. Thì vẫn bảo lòng mẹ là lòng giời. Lòng giời ở cả mọi nơi, ruộng dâu cũng như biển cả, gác tía cũng như bùn lầy. Bà, bà là mẹ mà bà không tha thứ cho con được, thì ở trên đời này, còn ai tha thứ cho con bà nữa: đứa con, đứa con tội lỗi trước mắt bà lúc ấy chỉ còn là đứa con đáng thương. Bà thấy bà không còn e ngại sợ hãi gì lời mỉa mai của thiên-hạ nữa, cái thiên-hạ nông lòng và độc miệng chỉ biết trừng-trị một tội ác xỉ vả một sa-ngã mà không biết an ủi một hối quá, nâng đỡ một lỗi lầm. Bà, bà là mẹ đẻ con rứt ruột ra mà bà không nâng đỡ an ủi con bà thì còn chờ ai nâng đỡ, an ủi nữa. Giời sinh ra nhưng vết thương của những đứa con là để cho những bàn tay hàn dịt của những người mẹ. Đứa con là chúng sinh, mẹ là đức phật cứu khổ cứu nạn. Lòng mẹ là lòng giời! Lòng mẹ là phép mầu! Phải rồi. Có cái suối nước mắt nào không phải ngừng chẩy khi bàn tay của mẹ đụng vào. Có mối đau thương nào mà không phải tiêu tan trước cái hơi thở nóng hổi của mẹ. Trước cảnh dộn dịp tưng-bừng của một chuỗi ngày sắp chết, bà cả Bình thấy sống, sống một nguồn thương không bờ không bến, trong một buổi chiều tà đầy tang-tóc, bà thấy sáng, sáng một ngời yêu muôn trượng. Bây giờ, từ bây giờ thì con gái bà không còn phải sợ gì nữa, nó có thể ngạo nghễ với chẳng may, bởi bà đã bọc nó trong bao từng giáp sát của yêu đương. Bà phải bắc, phải bắc ngay một dịp cầu để cho đứa con lạc-loài kia trở về với bà, trở về với yêu đương của gia-đình. Từ nay thì tha hồ, mưa cứ xa đi, nước cứ cuốn đi, gió cứ rít đi, sét cứ giáng đi, cầu kia đã được xây trên những nền tảng vô cùng bền vững của lòng mẹ. LÊ-VĂN-TRƯƠNG ĐỖ THIÊN THƯ st. Phụ Bản II
Tác giả: Dương Lêh Sáng Chủ nhật, đồng hồ báo thức lúc 4 giờ. Mắt nhắm, mắt mở muốn ngồi dậy nhưng không làm sao đưa cái lưng rời khỏi giường. Con mắt thứ hai vẫn chưa chịu mở. Tối qua ngồi lai rai với ông tổ trưởng và anh bạn bán trái cây ở chợ Ve chai đến gần mười một giờ khuya. Lúc tính tiền mới biết mỗi người nốc hết sáu chai Saigon đỏ. Không phải quảng cáo cho cái hãng bia này chứ thật sự chúng tôi đã quen cái “gu” của mặt hàng nội địa này rồi. Nói như vậy có người sẽ quật lại là “Không tiền thì nói không tiền cho rồi. Còn làm bộ nói gu này gu nọ”. Biết rồi, thời buổi bây giờ bà con người ta chỉ dùng “kên” hay “ti-ghe”. Mặc dù sản xuất ở Việt Nam nhưng nguyên vật liệu từ a dến z đều nhập của nước ngoài trừ, suýt quên, gạo nội địa để sản xuất anh chàng “ti-ghe”. Đây cũng là một kiểu tiêu thụ hàng hóa sản phẩm của nước ngoài thay vì nhập nguyên chai, dù rằng có giúp giải quyết một bộ phận người lao động Việt Nam. Coi bộ cái xứ sở này là nơi sản xuất bia nhất nhì thế giới chứ không phải đùa. Thời gian qua mau quá, mới hôm đầu tuần, một đàn em đồng môn gọi điện báo cho biết Chủ nhật tới, tức là ngày hôm nay, sẽ có một chuyến dã ngoại ở Thủ Đức và mời tôi tham gia. Tôi đã trả lời ô-kê. Có nghĩa là sáng hôm nay, 8 giờ, tôi phải sẵn sàng có mặt ở công viên để lên xe đến khu resort. Tôi còn đang mơ màng thì chuông báo thức của cái điện thoại reo lần thứ hai. Tôi vội vàng chụp lấy cái điện thoại, bấm đại một nút cho nó câm lại, sợ làm cho một nửa của tôi đang nằm bên cạnh thức giấc thì không hay cho lắm. Tôi thường xuyên thức giấc vào giờ này để đến công viên Tao Đàn đi bộ cho đến 5g30 trở về nhà lấy đồ bơi tiếp tục qua Cung văn hóa lao động vùng vẫy dưới nước chừng bốn mươi lăm phút đến khi ra khỏi hồ bơi là đúng bẩy giờ. Đó là cái thời khóa biểu của tôi. Ngày nào cũng vậy. Chỉ khi nào gặp mưa vào buổi sáng, tôi đành phải bỏ cữ đi bộ, nhưng vẫn mặc áo mưa đến hồ bơi như thường, kể cả những ngày lạnh căm gần Tết. Tối qua uống hơi nhiều vì anh chàng bán trái cây muốn tôi cho ý kiến về việc anh muốn cho con gái đi du học nước ngoài. Mới nghe qua nghề nghiệp của anh chàng này người ta không thể nghĩ rằng anh có khả năng cho con gái đi nước ngoài du học. Thật ra anh ta buôn bán được lắm. Chỉ với mấy giỏ trái cây trên một khoảng đất không đầy hai mét vuông thuê trước một căn phố trong chợ Ve chai này, anh đã có được vài căn nhà cho thuê và mới đây anh mua lại một căn phố nhỏ để làm nơi chứa trái cây và bán thêm các thứ bia, nước ngọt. Công việc kinh doanh chủ yếu của anh là giao hàng trực tiếp cho các nhà hàng tiệc cưới, các quán cà phê sân vườn. Số lượng giao hàng rất lớn mỗi lần lên đến hàng chục thùng trái cây, và một ngày không biết bao nhiêu lần. Biết được như vậy thì chuyện cho con gái đi học nước ngoài không có gì khó khăn. Mới đây, anh dắt bầu đoàn thê tử gần chục người đi du lịch Singapore và Mã Lai và anh còn dự định trong năm nay sẽ sắp xếp công việc để làm một chuyến đi Mỹ “cho biết với người ta”. Xưa kia anh cũng từng mài đũng quần tại một trường đại học ở Đà lạt, nhưng có lẽ vì ham vui nên anh tự “tốt nghiệp sớm” không chịu đợi đến hai năm sau để người ta cấp cho anh cái văn bằng cử nhân kinh tế… Đến công viên, mọi người đang lục tục bước lên xe ca năm chục chỗ ngồi. Tôi đến chỗ anh chàng nhạc sĩ, cũng là đồng môn, đang khệ nệ mang các dụng cụ âm thanh chất vào khoang hành lý. Nhờ có cái càng hai bánh để vận chuyển hàng hóa nên chẳng mấy chốc, các loại vật dụng âm thanh được sắp xếp an toàn trên xe. Xe chạy lên cầu vượt ở ngã tư Hàng xanh. Cầu vượt này vừa mới hoàn thành làm lối thoát cho các loại xe ôtô và xe tải. Các loại xe hai và ba bánh không được sử dụng, nhờ vậy mà không còn cảnh kẹt xe, ùn tắc. Đến ngã ba Cát Lái, xe rẽ tay phải và đi sâu vào bên trong. Tới đây tôi không để ý đến lộ trình nữa vì phải lo theo dõi một anh bạn đồng môn đang cài đặt giùm cái điện thoại di động. Anh bạn này ngày xưa thi đậu vào trường chuyên ngành Kinh doanh nhưng khi ra trường là kỹ sư cơ khí. Chuyện đời hên xui, may rủi không biết đâu mà lường. Số là như thế này. Cả lớp anh ấy vừa học xong năm thứ nhất, thì thời cuộc biến đổi, lớp anh ta cùng với một lớp năm thứ hai được chuyển sang trường đại học bách khoa học tiếp cho đến khi ra trường với học vị kỹ sư. Cho nên nói là đồng môn ở một trường chuyên ngành kinh doanh nhưng một số lớn các cô, các bà ở đây là kỹ sư hóa, kỹ sư cơ khí, kỹ sư công chánh, cũng có một số anh, chị, em được chuyển sang đại học Kinh tế, đại học Tài chánh Ngoại thương vv… tất cả đều thành đạt, một vài người đang thoải mái bước vào tuổi hưu. Anh trưởng xa hình như nhớ lầm đường nên xe cứ chạy tới rồi quay lui, chưa chọn được lối nào dứt khoát mặc dù đã đến gần khu nghỉ mát rồi. Anh bạn đồng môn đang ngồi cạnh tôi nãy giờ, nhìn vào bản đồ định vị trên điện thoại, rồi chạy lên cạnh trưởng xa trao đổi ý kiến, sau cùng thống nhất hướng đi và tài xế cho xe chạy về phía trước. Chỉ mười phút sau đó xe vào đúng ngay khu giải trí. Thời tiết hôm nay thật khô ráo, nhưng khá nóng. Nắng ngập tràn trên một vùng đất mênh mông. Tầm mắt không bị che chắn bởi những cao ốc như trong thành phố. Khu giải trí nằm dọc theo một nhánh nhỏ của sông Đồng Nai, còn gọi là sông Tắc. Bên kia sông là một dãy cây bần và dừa nước tạo nên một cảnh hoang sơ giống như những vùng sông nước ở đồng bằng sông Cửu long. Tuy chỉ là một nhánh nhỏ trên bản đồ nhưng mặt sông tương đối rộng thuận lợi cho một vài môn thể thao dưới nước như chèo thuyền, trượt nước…
(nguồn: Internet) Chúng tôi di chuyển hành lý vào một bungalow đã đặt trước. Đây là một căn nhà rất rộng, mái lợp bằng lá dừa cho có vẻ đồng quê rẫy bái, thừa sức chứa đựng khoảng bốn mươi người của nhóm chúng tôi. Ông nhạc sĩ chọn một nơi làm sân khấu để bày biện dụng cụ âm thanh. Anh này cũng từng là một chuyên viên tài chánh kế toán, tuổi đời năm nay cũng sắp bước vào hàng sáu bó. Cây đàn organ được anh coi như là một người vợ lý tưởng. Anh nâng như nâng trứng, hứng như hứng hoa, không hề có bóng dáng một người phụ nữ nào được len lỏi vào cuộc đời của anh. Tội nghiệp, anh đã làm cho một người phụ nữ nào đó chưa có cái duyên gặp được anh, phải chịu cảnh cô đơn lẻ bóng. Sau khi để đồ đạc vào những nơi riêng biệt của từng cá nhân, chúng tôi tự phân ra từng nhóm nhỏ. Đa số các phụ nữ chia ra đi tản bộ chung quanh khu giải trí. Khu đất rất rộng vài chỗ còn đang xây dựng dở dang hứa hẹn sự đổi mới thường xuyên của khu giải trí theo kế hoạch của ông chủ đầu tư. Một số bạn nam kéo nhau qua sân tennis thi thố tài năng. Các bạn này thường xuyên chơi tennis trong thành phố, cho nên người nào cũng đem theo “hàng” đầy đủ như vợt và banh. Có anh bạn trẻ mang một lúc hai hoặc ba cái vợt, mới nhìn thấy có vẻ giống Djokovic lắm. Ở đây chủ đầu tư cho xây hai sân tennis để phục vụ khách hàng. Sau khi tiêu phí một lượng calories khá lớn cho môn thể thao này, anh bạn cho biết sân chơi được lắm, banh tưng đúng mức cho biết độ nhám của sân đạt tiêu chuẩn kỹ thuật.
(nguồn: Internet) Tôi theo nhóm bạn trẻ qua khu vực hồ bơi. Trong nhóm chúng tôi các bạn trẻ, cả nam lẫn nữ, đều sắp bước vào hàng sáu bó, còn mấy anh cao tuổi nhất như các anh khóa 1, khóa 2 đã chuẩn bị bước vào hàng tám.Tôi xếp vào hàng trung bình cũng đã tròn trịa bẩy mươi, và nếu tính theo lịch cõi âm thì cộng thêm một cái xuân xanh nữa.
(nguồn: Internet) Hồ bơi rất xinh xắn, có khu vực cho trẻ em. Bên người lớn cũng có chỗ cạn, chỗ sâu. Tôi thường bơi vào buổi sáng sớm tại một hồ bơi trong thành phố, nên coi như đã “quen nước quen cái” rồi. Ngâm mình trong nước, cảm giác mát rượi làm tôi thấy vô cùng sảng khoái, tôi bơi ra ngoài xa, sát với vách hồ bơi. Nơi đây cũng vừa sát với bờ sông. Đứng trong hồ bơi mà có cảm tưởng như đang bơi trong dòng sông mát lạnh cùng với sự háo hức muốn bơi qua bên kia bờ, đến những cây bần, để leo lên hái những trái xanh mơn mởn. Tôi nhớ lại hồi còn trẻ, khoảng mười lăm, mười sáu gì đó, vào những ngày Chủ Nhật, tôi và em tôi thường qua khu vực Cầu Sơn, thuộc quận Bình Thạnh bây giờ, để lội đi hái bần. Hồi đó ở Bình Thạnh dân cư còn rất thưa thớt. Phía sau dãy nhà mặt tiền trên đường qua Cầu Sơn là khu bưng biền bao la, ngập nước mênh mông, quanh năm trường kỳ. Trên vùng nước ngập bao la đó chỉ có cây bần và dừa nước sống vững sống bền, trơ gan cùng tuế nguyệt. Bần chua mới hái, ăn với mắm ruốc, hay với muối tiêu đường thì không có món gì trên đời ngon hơn nữa. Có người ăn bần với mắm sặc hay mắm cá linh cũng ngon… “chết ngắt”. Nghe nói hồi xưa khu vực này là chỗ thoát nước của sông Saigon. Bây giờ người ta lấp hết trơn để xây nhà cửa, đường sá. Nước sông Saigon không có lối thoát đã tràn vào nhà dân gây ngập úng, triều cường là chuyện đương nhiên. Tạm cắt luồng tư tưởng về một quá khứ êm đềm ngày xa xưa, tôi ngụp lặn trong dòng nước trong xanh của hồ bơi khu giải trí. Từ vách hồ, một dãy rất nhiều vòi nước phun lên rồi rớt xuống làm thành một mái nhà bằng nước. Tôi bơi tung tăng qua lại dưới mái nhà đó, không khí ở đây mát rượi vì chứa đầy bụi nước. Nắng bắt đầu đổ lửa, bà con lần lượt trở về “chuồng bungalow”, quần áo tề chỉnh. Mọi người như đang bước vào một nhà hàng trong thành phố để ăn trưa hay ăn tối. Nhìn lại gian nhà mới thấy rất rộng. Bốn chục con người kể cả đồ đạc cá nhân và dụng cụ âm thanh chưa kể một dãy bàn ăn dài “mút mắt” và một khoảng trống để làm sân khấu và làm pist khiêu vũ coi như bị nuốt trọn vào gian nhà lá đơn sơ này. Do mái bằng lá lợp dày, nên trong nhà vẫn im mát, trong khi sức nóng thiêu đốt đang hoành hành ngoài sân, hay ở khoảng đất trống bên kia đường, nơi không bóng cây che khuất. Thức ăn từ từ được dọn ra, đột nhiên ở khoảng giữa dãy bàn xuất hiện một người đàn ông xa lạ. Ông này có vẻ như một nhà doanh nghiệp chứ không hề có cái dáng “trói gà không chặt” như hầu hết mọi người trong nhóm chúng tôi. Anh ta đang đứng nói chuyện gì đó với mấy huynh trưởng của chúng tôi ra chiều nghiêm túc. Tôi ngồi chung với “xóm nhà lá” dưới này, đa số là mấy khóa đàn em đã bắt đầu ăn và đếm “1,2,3, zô” năm sáu lần rồi. Một lát sau, một đồng môn trong ban tổ chức dắt người ấy tiến về phía chúng tôi và giới thiệu người khách đặc biệt này. Thì ra, đây là ông chủ đầu tư của khu resort. Anh ngồi xuống ghế bên cạnh tôi, nhìn mọi người: - Sáng nay, trong khi đôn đốc các nhân viên làm việc, tôi thấy các anh chị đến trên một xe ca lớn. Nhìn mọi người xuống xe, tôi thấy tất cả các anh chị có phong thái rất đặc biệt, không giống như những khách đã đến đây từ trước đến giờ. Lúc nãy tiếp xúc với các anh phía trên kia tôi biết được hầu hết các anh chị đều là đồng môn với nhau. Một số các anh chị là giảng viên đại học, một số là chuyên viên tại các doanh nghiệp…” Một đồng môn hiện là giảng viên marketing tại một trường đại học, rót bia cho anh ta: - Anh quá khen rồi. - Tôi thấy đúng như vậy, thời buổi này mà các anh chị tập hợp được một số người đông như thế rất hay trong khi các anh chị đã cao tuổi. - Thực ra mỗi năm chúng tôi chỉ họp mặt được vài lần. - Vậy cũng hay quá rồi. À, lúc nãy tôi thấy có anh nào cao tuổi rồi mà còn bơi sải đẹp lắm! Bạn đồng môn lúc nãy chỉ vào tôi: - Đây, anh này đây. Ông chủ quay về phía tôi: - Mèn ơi anh bơi đẹp thiệt đó nghe. Tôi cười che giấu cái thẹn thùng: - Ối, già rồi còn bơi được lúc nào hay lúc ấy. Một đồng môn khác cầm ly bia đứng dậy: - Rồi, xin mời. Một, hai, ba… - “Zôôô..!” Cả nhóm chúng tôi cầm ly lên tu một hơi bia rồi chọc đũa vào các đĩa thức ăn đã được mang lên đầy đủ. Chợt có cái gì đó nhốn nháo ở trên sân khấu. Tôi lắng nghe tiếng nói của anh trong ban tổ chức. Thì ra, buổi đi dã ngoại hôm nay đúng vào sinh nhật của một đồng môn tên là Du. Anh này đã dắt theo bầu đoàn thê tử, các cháu nội ngoại và mang theo cả bánh sinh nhật. Rồi thêm một sự trùng hợp rất ít khi có, đó là hôm nay lại sát với sinh nhật của một anh tên Dương, hình như còn hai ngày nữa mới đúng. Do vậy, ban tổ chức chúc mừng và tặng quà cho cả hai người có tên rất ăn khớp là Du – Dương. Một điểm đặc biệt nữa hai người cũng là bạn thân thiết gần năm chục năm nay. Tiếp theo đó là các giọng hát của những ông già bà lão. Mỗi người mỗi vẻ. Ai cũng hát hay. Có một cặp bước ra pist lả lướt vài đường khiêu vũ. Anh chàng “kép” này coi bộ cũng khá lão luyện nhưng chỉ tiếc một điều là anh hơi bị thiếu chiều cao và cô “đào” nhỉnh hơn anh vài centimét. Đặc biệt có một madam lên hát một bài vọng cổ “Tu là cội phúc” bằng một giọng ấm cúng lạ thường. Với bài vọng cổ này, vào đầu thập niên 60, nghệ sĩ cải lương Minh Cảnh đột nhiên nổi tiếng. Rồi từ đó tại Saigon, từ các hang cùng ngõ hẻm, đâu đâu người ta cũng nghe tiếng con nít nghêu ngao hát: “Ai nức nở quì bên chánh điện…”. Thậm chí có một anh chàng người Hoa ở trong xóm, nói tiếng Việt chưa rành cũng ráng gào lên: “Ngai lức lở vùy pên chắng liệng…”. Bữa tiệc kéo dài cho đến khi nắng chiều dịu hẳn xuống. Mọi người lần lượt lên xe ra về. Ông chủ đến tận cửa xe chào từ giã từng người và hẹn tái ngộ vào một ngày đẹp trời nào đó… Riêng tôi hy vọng lần sau trở lại chỗ này, có lẽ tôi sẽ được ông chủ dành cho một chiêu… khuyến mãi. Dương Lêh 5-3-2013
XƯỚNG HỌA THƠ ĐƯỜNG MỘT TRÒ CHƠI TRÍ TUỆ THANH CAO
(KỲ 5) THÙY DƯƠNG Thơ mời họa: Trói voi (*) Trói voi bỏ rọ thách trêu đời Ai có thi thì trói thử chơi : Cho đỏ thành đen, người hóa ngợm Cho duyên hóa nợ, ngợm ra người Cho sao rụng hết, trò chưa cạn Cho biển khô cằn, chuyện chửa vơi Cho chú voi nằm trong rọ mếu Phì cười, Thơ dậy ý: Thi mời! Họa sỹ Điêu khắc TRẦN QUANG Kính họa: TRÓI HÙM Trói hùm cũng được, thách chi đời Trói dễ, nhưng này thử mở chơi! Biến đỏ thành đen là chước quỷ Mong duyên hóa nợ ấy tình người Ba sinh không hẹn, lòng đừng ước Bảy kiếp có chờ, hận chẳng vơi Hạnh phúc tầm tay, ta tận hưởng Đua tài đâu dám, dẫu ai mời. THÙY DƯƠNG (*) Lời bàn của người họa: Xưa kia các cụ ta tuy coi xướng họa thơ Đường là một trò chơi trí tuệ thanh cao nhưng đối với những người chưa thuần thục thì cho là rất khó, khó như thể trói voi bỏ rọ vậy. Thật vậy, nếu người chưa luyện voi thuần thục mà trói voi bỏ rọ thì rất nguy hiểm, cũng như người chưa thuần thục với quy luật thơ Đường mà chủ quan cao hứng họa ngay, đọc bài thơ nghe xuôi tai thấy đắc ý liền đem đăng ngay thì rất nguy hiểm, vì chỉ cần sơ ý một chút, một chữ vần bằng thành trắc hay ngược lại là có thể rơi vào trường hợp khó xử… Biết nói sao khi báo đã đăng lên rồi. Chẳng lẽ lại bắt chước người mua phải nón bảo hiểm dởm khi bị phạt thì nói: “Tôi không định đội nón này làm nón bảo hiểm đâu, mà chỉ đội để làm đồ trang trí thôi”. Họa sĩ Trần Quang đã dùng từ TRÓI VOI để thách họa một bài thơ khá hóc búa của ông khiến cho bài thơ thêm phần hài hước và chát chúa.
Thêm một số bài họa cho HƯƠNG XƯA
Bài xướng: HƯƠNG XƯA Thơm ngát tinh hoa tỏa bút đài Đường thi muôn thuở sắc không phai Hương xưa man mác tình tri ngộ Bình cũ xôn xao khúc cảm hoài Ngắm nguyệt tao nhân trầm nỗi nhớ Trông hoa mặc khách rộn niềm say Tri âm ai đó đồng thanh khí Kết nghĩa thi đàn hẹn trúc mai! THÙY DƯƠNG Bài họa 1: HƯƠNG XƯA “HƯƠNG XƯA” xuất hiện lộng thi đài Gìn nếp cổ truyền chẳng để phai Năm tháng ấp ôm niềm khát vọng Tâm tư lắng đọng nỗi u hoài Tân trào mấy độ khôn lay chuyển Cựu ảnh bao đời vẫn đậm say Đôi ngả tao đàn vui nhạc điệu Xướng hòa Bắc Trúc hiệp Nam Mai LẠC NAM Chủ Nhiệm CLB Thơ Ca Cổ Truyền HÀ NỘI Bài họa 2: Hương xưa
Xem thơ thầm phục khách trang đài Ngọc gấm thơ Đường chẳng nhạt phai Nghe tiếng gọi đàn đầy cảm khái Đáp lời họp bạn bớt u hoài Hương xưa phảng phất lan mùi nhớ Tình cũ(1) ân cần gợi ý say Tương ứng đồng thanh hằng khát vọng Thi đàn kết nghĩa trúc cùng mai. NGUYỄN CHU LIỆT tự AN ĐẠO 390 Lê văn Sỹ – Q3 (1) Tình cảm dành cho thơ Đường Bài họa 3: Nhất trí HƯƠNG XƯA sực nức cả thi đài Vẻ đẹp thơ Đường khó nhạt phai Lúc hứng đôi vần là phấn khởi Khi buồn vài nét cũng u hoài Bình xưa thanh thoát sao không mến Rượu mới ngạt ngào há chẳng say ? Tri kỷ tâm đồng vui xướng họa Mơ ngày kết nghĩa dưng vườn mai. LÊ TRỌNG DIỄM Phó Chủ Nhiệm CLB Thơ Ca Q3 Thơ mời họa:
KẾT NGHĨA VƯỜN MAI (*) Duyên thơ kết nghĩa dựng Vườn mai Bình cũ, Hương Xưa chén cảm hoài Rượu mới xôn xao niềm khát vọng Men nồng ấp ủ mộng tương lai Tinh hoa nương bóng đài Văn Học Nghệ thuật noi gương bậc thiện tài Son sắt tơ lòng chung thắm dệt Đường Thi Ngọc Gấm mãi không phai. THÙY DƯƠNG (*) Nhóm thơ Đường HƯƠNG XƯA lấy cành mai với dáng dấp thanh cao cổ kính làm biểu tượng của Nhóm.
Bài họa 1:
KẾT NGHĨA VƯỜN MAI Xướng hòa Bắc Trúc hiệp Nam Mai Đáp ứng đồng tâm khách viễn hoài. Thanh khí khơi mào tuần khổ tận, Ám hương(1) báo hiệu buổi cam lai. Giao tình hội trước thơm chung thủy, Kết nghĩa vườn nay đẹp đức tài. Bình cũ chan hòa men nếp mới, “HƯƠNG XƯA” vẫn đượm chẳng hề phai. LẠC NAM (1) Ám hương: Hương kín đáo của hoa mai.
Bài họa 2: (Nương vận) TỰ TẠI Một chiếc cần câu một chiếc mai Đói no mình vẫn nhởn nhơ hoài Nhân sinh dẫu biết là khổ hải Bĩ cực lọ cầu cũng thái lai Phúc họa phải chăng còn tự mệnh Thành không thường quyết bởi ư tài Tuổi xanh mấy chóc nên đầu bạc Dấu cũ một thời chẳng nhạt phai. NGUYỄN CÔNG THÚY Tự HỮU LIÊN
NỰC CƯỜI Nực cười cho kẻ đa tình Nửa đêm đứng tựa hoa Quỳnh xem trăng Chị Hằng ngó xuống bảo rằng: Bên hoa chẳng biết…? cái thằng ngu si
GIẬN ĐỜI Giận đời chi lắm hoa Quỳnh ơi Nứt nách nửa đêm hé nụ chơi Ta tiếc đời hoa sao ngắn ngủn Tàn đêm còn đọng chút hương trời
VÔ DUYÊN Nực cười cái thằng vô duyên Nửa đêm đứng tựa mạn thuyền xem trăng Chị Hằng ngó xuống bảo rằng: Bên hoa chẳng biết…? cái thằng Vô Duyên TRẦN VĂN HỮU
Bạn đến chơi
Bạn đến chơi đây chẳng rượu trà Có vài chậu kiểng mới thay hoa Có chim có cá cùng thơ nhạc Xướng họa đôi vần lại hợp ca.
Tâm sự bên nhau có bạn, ta Sớt chia vui, khó tháng ngày qua Lời thơ ý nhạc cùng hòa nhịp Tình nghĩa tri âm mãi đậm đà.
Đời quá chua cay lắm trái ngang Ham danh, thích nịnh chuộng giàu sang Đời người là chuỗi dài cay đắng Còn, mất, hơn, thua dạ chẳng màng.
Danh lợi phù du hà chuyển lòng Tiền tài vô nghĩa cũng như không Nực cười thế sự xin lui bước Nhân thế đời nay mấy sạch trong.
Ta, bạn tiền tài chẳng thiết chi Một đời thanh bạch có ham gì Về vườn ngắm cảnh vui – thơ nhạc Nhân nghĩa gìn lòng mãi khắc ghi. XUÂN VÂN
Dư âm
Mây lam giăng mờ chân trời xa Thu phong u hoài lay rèm hoa Sầu rơi mênh mông sầu chan hòa Đôi chim vành khuyên buồn không ca
Trăng xanh nằm yên trên lưng đồi Vì sao cô đơn vừa dời ngôi Người mình yêu thương giờ xa rồi Mây chờ ai nên mây ngừng trôi?
Dư hương tình yêu vương trang đài Ngày xưa quen nhau bên rừng mai Mình thề yêu nhau yêu nhau hoài Dù cho muôn hoa rừng tàn phai
Âm thanh chiều nao vang trong tim Nương theo màn sương mình đi tìm Lời thề từ làn môi trinh nguyên Và vòng tay thơm hương ân tình
Thùy dương ru cung đàn êm mơ Dòng sông Ngân giang chia đôi bờ Còn dư vang lời ca bơ vơ Người ơi! Tình xưa chưa phai mờ. NGÀN PHƯƠNG
Thiết tha
Hái sao, nhặt gió, gom mây Đi mua ảo ảnh về xây lầu vàng Cách nhau một giải Ngân Giang Cầu Ô đã gãy Vỡ tan mộng tình
Chùng chân mỏi bước đăng trình Nhịp cầu chưa nối Nên mình còn xa Mắt em lóng lánh trăng ngà Còn yêu nên vẫn còn tha thiết hoài Tình xưa vượt quá tầm tay Choàng ôm kỷ niệm đắng cay vào hồn NGÀN PHƯƠNG 05.5.2008 PHÓNG SINH
Ngày xuân ta dạo xuân chơi Say sưa cảnh đẹp đất trời tạo nên Con người hòa với thiên nhiên Xã hội vạn phúc, mọi miền hoan ca
Bắt rồi đem bán, thả ra Cái “điệp khúc” ấy gọi là “phóng sinh” Tại sao cứ phải gạt mình Để cho “thế thái nhân tình” thêm đau
Ô kìa trên ngọn cây cao Có đôi chim hót “bắt vào, thả ra” Mới hay làm hại chúng ta Ngẫm xem muôn sự chẳng qua vì… tiền. LÊ MINH CHỬ
Vẫn xa xôi
Chào thua nhé! Cuộc đời nhiều gian dối Núi Công Danh, đồi Vật Chất gọi mời Ta leo mãi, đến chồn chân, mỏi gối Ba phần đời, đích đến vẫn xa xôi!
Chào thua nhé! Bạc tiền – nhiều man trá! Ta quơ quàu, cào hốt, cố gom vào! Nhưng tay thu, rồi tay kia đánh mất! Một đời ta giữ được bấy nhiêu đâu!
Chào thua luôn những cuộc tình dang dở! Yêu người hoài – có giữ được ai đâu! Để bây giờ đèn khuya sầu bóng lẻ, Ta đầu hàng, xin chấp nhận chào thua! TÂM NGUYỆN 17.02.2002
TẬP LÀM VUI Vui vẻ Khổ đau cũng một đời Vui thời thoải mái, Khổ buồn ơi! Tìm Vui để Khổ không kịp đến Ôm Khổ thì Vui cũng phải rời Cái Khổ dang ra, Vui tiếp cận Niềm Vui gần gũi, Khổ xa xôi Tại Tâm, Vui Khổ là như vậy Hãy tập Vui đi, Khổ hết thời. THANH CHÂU DÒNG ĐỜI DÒNG SÔNG
Em hỏi tôi có vui không? Biết trả lời sao được nhỉ Tôi nghĩ đến một dòng sông Đến một chân trời góc biển
Tôi là hạt sương của lá Là giọt nước trong suối nguồn Sắp hòa mình vào biển cả Còn chi phải lụy vui buồn
Đã vui niềm vui tuyệt đỉnh Đã buồn nỗi đau tận cùng Đã bạc hai lần áo lính Nợ vay trả mãi chưa xong
Đã hóa thân vào dòng chảy Đỏ lòng nặng hạt phù sa Những con sóng ngầm ai thấy Qua hàng dâu biết bãi xa
Anh trả lời em rồi đấy Vui buồn giờ nhẹ như không Dòng đời dòng sông vẫn chảy Dẫu không bến hẹn bờ mong LÊ NGUYÊN
ĐỌC TRUYỆN KIỀU Mở trang Kiều đọc đêm thu, Nghe đàn Kiều gảy, buồn ru xa vời! Nguyễn Du ơi, tiếng thơ Người Rung rinh cây cỏ, bồi hồi trời sao. Thơ Người hay những ước ao Của bao thế kỷ dồn vào cả đây? Nghiêng đầu trên sách đêm nay Ngỡ soi suối thấy mây bay ánh trời. Thơ Người lấp lánh ra khơi, Vỗ rung tim triệu triệu người mai sau! Hà Nội, 30.10.1965 VŨ ĐÌNH HUY READING THE TALE OF KIEU Opening and reading the page of Kieu in an autumnal night Listening to Kieu’s twanging, while far away sadness lulled! O Nguyen Du, the sound of your poems Quivered trees and leaves, turning heaven and stars fretty Is that your poems or the cherished dreams Of so many centuries that are all concentrated here? Inclining my head over the book tonight I thought I’d seen the stream reflecting clouds flying on the sky Your poems sparklingly went to the high sea Throbbing and stirring the heart of millions and millions people in coming time! Hanoi, 30.10.1965 VŨ ĐÌNH HUY Translated by VŨ ANH TUẤN Lấp lánh đường ray
Tàu bơi mê mải trong trăng bạc Rung động không gian lảnh tiếng còi Đoạn đêm ngắn lại – Gà xao xác Lấp lánh đường ray sáng ánh trời 07.11.1965 VŨ ĐÌNH HUY THE SPARKLING RAILWAY The train swam enticingly under the silvery moonlight The ringing train – whistle shook the air space Shortened was the fragment of night – while chickens turned upset The railway sparkled under the sunlight. 07.11.1965 VŨ ĐÌNH HUY Translated by VŨ ANH TUẤN Bềnh bồng nỗi nhớ
Mây bềnh bồng mênh mang nỗi nhớ Nước bềnh bồng dào dạt niềm yêu Trăng bềnh bồng, mắt ướt đăm chiêu Gió bềnh bồng, tim sầu thổn thức Ôi cuộc đời hư hư thực thực Khiến lòng người cũng ray rứt thương đau XUÂN VÂN Trăng nước thì thầm Trăng thì thầm cùng nước… Gió thì thầm với mây… Anh thì thầm bên em… Cho tình mãi đong đầy… Thơ, nhạc, hương ngát bay. XUÂN VÂN Tôi muốn là trăng
Tôi muố n là trăng hôn tóc em, Là trăng ve vuốt t ấm vai mềm, Này em, sàng sẩy tình trăng ấy, Em có mơ gì trong giấc đêm? * Tôi muốn là trăng, là gió êm, Mơ màng sa xuố ng, đứng bên thềm, Nơi có em đưa tôi vào mộng, Giấc mộng trăng vàng bên Giáng Tiên! * Em là trăng, tôi mơ tình trăng? Nhìn trăng lòng xuyến xao, bâng khuâng, Cao Nguyên vằng vặc vầng trăng cũ, Soi sáng một đời...Mơ giấc Tiên... Phạm Thị Minh-Hưng
LÀM THẾ NÀO ĐỂ BÌNH TĨNH TRƯỚC ĐÁM ĐÔNG Bạn ngại ngùng khi gặp người lạ? Bạn lúng túng khi phát biểu trước đám đông? Sau đây là bài viết của Bác sĩ David D. Burns, giáo sư môn Tâm thần học (Psychiatry) Viện đại học Pennsylvania ở Philadelphia (Hoa Kỳ), chỉ cho ta cách thức lấy lại được sự bình tĩnh, tự chủ khi đứng trước đám đông. Cách nay không lâu tôi được mời nói chuyện về đề tài “sự lo âu” trước hàng trăm nhà chuyên môn nghiên cứu tâm thần học. Trước tôi đã có nhiều giáo sư bác sĩ phân tâm học nổi tiếng phát biểu, và đặc biệt người mới nói trước tôi thì rất có duyên, hấp dẫn người nghe khá mạnh. Tôi cảm thấy lúng túng, tim đập mạnh khi bước lên bục giảng. Tôi tự hỏi: “Ta đang làm gì đây?” Tệ hơn nữa bài nói chuyện của tôi phải mở đầu bằng “nỗi sợ hãi khi nói với đám đông”. Môi tôi như se lại, không thể cất ra tiếng nữa! Để tự trấn tĩnh, tôi dùng một chiến thuật ngược đời. Tôi hỏi người nghe: “Trong số quý vị ngồi đây, những ai đã từng cảm thấy bối rối khi nói chuyện trước đám đông?”. Hầu như toàn thể hội trường đều giơ tay. “À, chính tôi lúc này cũng thế đấy!” Tôi nói tiếp. Thế là cả hội trường rộ lên tiếng cười, và tôi đã lấy lại được sự bình tĩnh để đi vào nội dung bài nói. Đôi lúc chúng ta gặp trường hợp lúng túng, bồn chồn áy náy như khi dự một buổi tiếp tân, hay phát biểu về một vấn đề gì đó trước nhiều người, hoặc khi bắt đầu làm bài thi. Không ít người đã bị nỗi lo âu, sợ hãi đè nặng khiến họ mất hết khả năng xoay trở để đối phó với tình hình. Hầu như tất cả mọi người trong chúng ta ít nhiều gặp phải tình huống “bị động”, trở nên lúng túng hay bứt rứt. Qua nhiều năm làm việc với con bệnh (tâm thần), tôi rút được kinh nghiệm giúp ta lấy lại được tự tin và bình tĩnh ngay cả khi gặp những tình huống éo le phức tạp nhất. 1. Hãy chân thật . Khi chúng tôi dọn đến nhà mới tại một khu thượng lưu, con gái tôi quen với một cô bé hàng xóm sống trong một biệt thự sang trọng. Một tối nọ tôi ghé qua ngôi biệt thự để đón con tôi về. Lúc ấy tôi chỉ mặc quần jeans và áo thun. Bà mẹ cô bé hàng xóm ra mở cửa và mời tôi vào phòng khách. Bà ăn mặc như thể một người mẫu thường đăng hình trên tạp chí thời trang Vogue, và căn phòng khách thì giống như một bảo tàng mỹ thuật với nhiều bức tranh sơn dầu và đồ cổ được trưng bày! Tôi thật sự cảm thấy bứt rứt khó chịu vì tư thế của mình lúc này. Nhận thấy tôi lúng túng, bà mẹ bèn hỏi lý do. Tôi đã muốn chối phắt nhưng sau đành nói thật: “Thưa bà, chưa bao giờ tôi bước vào một căn phòng sang trọng như thế này”. “Ồ vậy sao? Tôi vẫn nghĩ là các bác sĩ tâm thần không bao giờ cảm thấy bất ổn chứ”, bà mẹ cười nói với tôi. Chính nhờ sự cởi mở của tôi mà cả hai chúng tôi trở nên thoải mái dễ chịu sau đó. Tôi đã chân thành bày tỏ sự lúng túng khó chịu của tôi với bà chủ nhà cũng như trước hội nghị chuyên đề về bệnh tâm thần và nhờ vậy tôi đã lấy lại tự tin và bình tĩnh. Tôi tin tính chân thành giúp cho mọi người gần gũi với nhau dễ dàng hơn. 2. Từng bước khống chế nỗi sợ sệt . Tại Viện đại học Pennsylvania, giáo sư tâm lý học Michael Mahoney và huấn luyện viên thể dục Marshall Avener đã điều tra tác động của lo âu đối với các vận động viên dự thi tuyển để tranh giải Olympic Hoa Kỳ năm 1976. Kết quả cho thấy tất cả các vận động viên đều bày tỏ sự lo âu nhưng chính những người biết chế ngự nó đều đạt thành tích cao. Những vận động viên thua cuộc đã rơi vào tình trạng gần như hoảng loạn trước khi tranh đua vì họ quá lo sợ thất bại. Còn những người thắng thì tất cả đều đã tập trung tư tưởng và hành động. Họ tự nhủ: “Nào hãy hít mạnh và thở ra từ từ”, hoặc “phải nhảy vọt lên để nắm được cây đà”, vv… Nỗi sợ hãi đã bị khống chế từng bước ở mỗi giai đoạn. Có thể nói biện pháp này có hiệu quả đối với bất cứ việc gì chúng ta dự định làm mà còn lo ngại kết quả. Cô sinh viên Penny đến gặp tôi 3 ngày trước kỳ thi cuối năm thứ nhất ở trường luật. “Em lo quá. Em đọc sách mà chẳng hiểu gì hết. Em sẽ thi rớt và chắc phải nghỉ học mất!”. Sự lo âu khiến chúng ta có ý tưởng bi quan, mất cả tự tin và ý chí trong rất nhiều trường hợp. Cần phải cho Penny biết là cô vẫn có thể học tốt ngay cả khi tinh thần căng thẳng. Nếu cô lo sợ không hiểu nổi bài vì cô đọc lướt qua các phần thì chỉ có cách là đọc từng câu, từng từ, và tìm cách giải thích các câu hỏi khó. Tôi cũng khuyên cô không bỏ phí thời giờ, luôn luôn cầm bút viết cho dù cô có bị căng thẳng tinh thần cách mấy đi nữa. Hai tuần sau cô sinh viên trở lại với giấy báo điểm – cô đã đạt điểm xuất sắc trong kỳ thi. Kinh nghiệm của cô chứng minh rằng ta không nên nản chí ngay cả khi cảm thấy tuyệt vọng nhất. Hãy viết câu mở đầu đi, hoặc hãy rướn người lên phía trước trong cuộc đua, ta sẽ thấy mọi việc sẽ tuần tự diễn ra theo ý muốn của ta. 3. Chú ý tới người đối thoại . Nhiều lúc chúng ta phải tiếp chuyện người khác mà không cảm thấy thoải mái. Hãy làm cho người đối thoại chú ý tới câu chuyện bằng cách đặt ra một số câu hỏi về người ấy. Tâm lý chung là muốn được người khác chú ý tới mình. Vậy bạn cần phải tỏ vẻ quan tâm chú ý tới họ trong câu chuyện. 4. Biến lo âu thành nghị lực . Mọi người đều cảm thấy lo âu bồn chồn mỗi khi phải ra trước đám đông hoặc để trình diễn tiết mục văn nghệ, hay trình bày một vấn đề. Cần bắt thần kinh căng thẳng làm việc cho mình chứ không để nó chi phối mình. Tôi đã được phỏng vấn nhiều lần trên đài truyền hình, và lần nào tôi cũng bồn chồn lo lắng. Một thân chủ theo dõi cuộc phỏng vấn kể lại là tôi tỏ ra lúng túng, mặt mày cử chỉ cứng nhắc, trông rất là buồn cười. Tôi tìm cách tự trấn tĩnh trước ống kính. Trong một cuộc đối thoại với một bác sĩ phân tâm học trên đài truyền hình, tôi đã phản pháo mạnh mẽ khi ông này nói tôi chỉ viết sách về môn tâm thần học chứ không nghiên cứu. Sự coi thường này khiến tôi tức giận, và tôi không lo giữ thái độ lịch thiệp nữa. Tôi tập trung tư tưởng vào đề tài và trình bày rất lưu loát những suy nghĩ của tôi. Kết quả rất tốt đẹp. Chúng ta có thể giảm nỗi lo âu bằng cách tập trung tư tưởng để diễn tả ý nghĩ và tin vào khả năng của mình.
5. Gạt bỏ mặc cảm tự ti . Một hạn chế lớn nhất về mặt giao tiếp xã hội của chúng ta là mặc cảm tự ti. Nhiều khi bạn cảm nhận không bằng người khác về một mặt nào đó, (người ấy hay hơn mình, thông minh hơn, đẹp hơn, ăn nói có duyên hơn,v.v...) như thế là lầm. Để dễ dàng hội nhập với mọi người thì trước hết bạn phải gạt bỏ ý tưởng tự đánh giá thấp bản thân. Bạn là bạn, người ta là người ta. Bí quyết để thành công trong giao tiếp là chấp nhận cái mình có. Hồi còn ở trường đại học, tôi có một sổ nhật ký trong đó ghi lại tất cả những suy nghĩ riêng và ký ức, có những trường hợp buồn khổ, hoang mang, cô đơn và cảm xúc bất ổn từ thuở ấu thơ. Trong nhật ký tôi cũng viết cả những ước mơ riêng tư, những gì yêu thích và giận ghét… Thế rồi tai nạn khủng khiếp xảy ra. Một tối kia tôi để quên sổ nhật ký trong phòng giữ áo choàng của nhà ăn tập thể trong khu đại học. Nó đã biến mất khi tôi trở lại để tìm kiếm. Suốt mấy tuần liền sau đó tôi rất đau khổ. Kẻ nào chiếm đoạt sổ nhật ký đó hẳn đang chế riễu tôi và tệ hơn nữa là đã biết rõ về con người tôi. Nỗi đau buồn rồi cũng qua đi, tôi như đã quên hẳn việc mất sổ nhật ký thì một hôm tôi thấy nó nằm chình ình ngay chỗ tôi vẫn thường mắc áo trước khi vào nhà ăn. Tôi chụp lấy và lật giở từng trang. Tất cả còn nguyên vẹn. Chỉ riêng ở trang cuối “kẻ lạ” nào đó đã viết những giòng sau đây: “Cầu Trời phù hộ cho bạn. Tôi đây cũng rất giống bạn, chỉ khác một điều là tôi không viết nhật ký – không viết nổi thì đúng hơn – và tôi rất sung sướng vì biết rằng có người khác giống tôi. Hy vọng rằng mọi sự sẽ tốt đẹp đối với bạn”. Nước mắt như muốn trào ra mắt tôi. Tôi sung sướng vì có một người khác – cho dù không quen biết – cảm thông với tôi và quan tâm tới tôi. Bất kể bạn là ai, giàu hay nghèo, có tên tuổi hay không, hấp dẫn hay bình thường, bạn luôn có thể hội nhập với quần chúng nếu bạn chân thành quan tâm đến người khác và bạn cũng sẽ được người khác quan tâm. Tất nhiên không có ai có thể làm vừa lòng mọi người, nhưng chắc chắn nhiều người sẽ chấp nhận bạn nếu bạn chấp nhận chính bản thân mình.
HOÀNH PHI (Theo Reader’s Digest – 3/91) KIM THƯ st.
Phụ Bản III LỄ HỘI CÀ PHÊ BUÔN MA THUỘT NHỚ BÀI HÁT “CÔ HÀNG CÀ PHÊ” Lễ hội cà phê Buôn Ma Thuột lần thứ 4 - 2013 đã diễn ra tại thành phố Buôn Ma Thuột từ ngày 9-12/3 với chủ đề "Cà phê Buôn Ma Thuột liên kết và phát triển" (Trước đây thành phố này được gọi là “Ban Mê Thuột” nghe có vẻ thơ mộng hơn, nên các nghệ sĩ vẫn thích sử dụng từ này trong thơ nhạc và người dân cũng hay sử dụng từ này vì không có chữ “Ma” - có vẻ không được may mắn cho lắm. Mặc dù tên mới thì chính xác hơn vì Ma có nghĩa là cha hay là bố cho nên địa danh “Buôn Ma Thuột” – có nghĩa là Buôn của ông bố thằng Thuột, một cư dân nổi tiếng tại Buôn này trước kia). Quá trình hình thành và phát triển cà phê Buôn Ma thuột . Cà phê Buôn Ma Thuột - yếu tố lịch sử. Cây cà phê du nhập vào Việt Nam khá sớm (từ năm 1857) thông qua một số linh mục thừa sai người Pháp. Đầu tiên là giống cà phê chè (coffee arabica) được trồng thử nghiệm tại các nhà thờ Thiên chúa giáo ở một số tỉnh phía bắc sau đó mới phát triển dần vào Nam Tây Nguyên và Đông Nam bộ. Nhưng cho đến nay, cả về quy mô và danh tiếng, không nơi nào ở Việt Nam có cà phê nổi tiếng trong và ngoài nước, đồng thời gắn với một vùng địa danh mang nhiều huyền thoại như Cà phê Buôn Ma Thuột.Với lợi thế là một vùng đất đỏ bazan màu mỡ, có những ưu thế đặc trưng về điều kiện tự nhiên, cao nguyên Buôn Ma Thuột không những là nơi cây cà phê sinh trưởng tốt, mà còn tạo nên hạt cà phê chất lượng cao, hương vị khác biệt so với nhiều vùng đất khác. Chính sự khác biệt đó là yếu tố quyết định lợi thế cạnh tranh của cà phê Buôn Ma Thuột và nơi đây đã sớm trở thành "tâm điểm" của ngành cà phê toàn vùng Tây Nguyên nói riêng, Việt Nam nói chung, đặc biệt là đối với cà phê vối (coffee robusta). Tuy nhiên, bên cạnh những lợi thế về tự nhiên, cũng cần điểm lại yếu tố lịch sử của ngành cà phê Đắk Lắk, bởi đây cũng là nhân tố góp phần làm nên danh tiếng của cà phê Buôn Ma Thuột. Ngay từ lúc thăm dò để chuẩn bị xâm chiếm Tây Nguyên, các nhà thám hiểm và truyền giáo Pháp đã sớm nhận ra vùng đất này không chỉ có vị trí địa lý chiến lược ở miền nam Đông Dương, mà còn có những tài nguyên hết sức quý giá có thể khai thác phục vụ chính quốc, trước hết là đất và rừng. Đặc biệt nơi đây có loại đất mà các nhà thám hiểm như bác sĩ Yersin, giám mục Cassaigne, linh mục Pierre Dourisboure... đều nhận định là loại đất tốt nhất thế giới, rất thích hợp cho việc mở các đồn điền trồng cây công nghiệp. Vì vậy, để độc chiếm Tây Nguyên về chính trị và kinh tế, năm 1893 Khâm sứ Trung Kỳ Boulloche ra lệnh đặt vùng đất này "dưới sự bảo hộ đặc biệt" của Pháp, nhằm mục tiêu nắm toàn bộ vấn đề an ninh, tiến tới khai thác tài nguyên đất đai phục vụ chính quốc. Ngày 02-11-1901, Toàn quyền Đông Dương ra nghị định về "Quyền bảo hộ và khai thác Tây Nguyên", mở đường cho tư bản Pháp vào lập đồn điền. Ngay sau đó đã có 8 trong số 12 đơn xin phép đã được Công sứ Đắk Lắk chuẩn y trình lên Khâm sứ Trung Kỳ duyệt đợt đầu, chủ yếu là xin khai thác khu vực lân cận phía đông thị xã Buôn Ma Thuột. Tuy nhiên, do những điều kiện cụ thể (thiếu phương tiện và nhân công) nên ở Buôn Ma Thuột lúc bấy giờ chưa hình thành những đồn điền lớn, chủ yếu là lập một số nông trại quy mô vài chục mẫu để trồng thử nghiệm cây công nghiệp; trong đó trẩu và cà phê chè (coffee arabica) là những loại cây được đưa vào trồng thử nghiệm đầu tiên tại Buôn Ma Thuột, trước thời điểm Toàn quyền Đông Dương ra nghị định thành lập đơn vị hành chính tỉnh Đắk Lắk, vào ngày 22-11-1904. Đến những năm 1912-1914, cây Cà phê chè mới thực sự ghi dấu ấn tại Buôn Ma Thuột. Trong khoảng thời gian này hai công ty nông nghiệp lớn nhất Đắk Lắk đã được chính quyền Pháp cho phép thành lập, đó là công ty Cao nguyên Đông Dương (compagnie des hauts plateaux indochinois - c.h.p.i) và công ty Nông nghiệp An Nam (compagnie agricole d'asie - c.a.d.a). hai công ty này bao chiếm tới 30.000ha đất, trải dài trên một vùng đất bazan rộng lớn dọc hai bên quốc lộ 21 từ Buôn Ma Thuột đến km34 đường đi Nha Trang, với tổng số vốn đầu tư ban đầu là 66.000.000Franc; trong đó diện tích cà phê trồng tập trung là 260ha (c.h.p.i: 135ha, c.a.d.a: 125ha). Lượng cà phê thu được lúc này tuy còn rất ít nhưng được đưa về chính quốc chế biến, tiêu thụ và đem lại hiệu ứng không ngờ. Cây cà phê Buôn Ma Thuột, trồng trên vùng đất tốt, khí hậu thích hợp, ở độ cao từ 400-500mét đã cho sản phẩm tuyệt vời ngoài sự mong đợi của các công ty Pháp. Các nhà rang xay tại Pháp lúc bấy giờ đánh giá chất lượng và hương vị tự nhiên của Cà phê Buôn Ma Thuột thơm đặc trưng và thể chất đậm đà hơn hẳn cà phê tại Bờ biển Ngà (Châu Phi) vốn đã nổi tiếng khắp Châu Âu. Vì thế, nhiều nhà tư bản và chủ ngân hàng của Pháp quyết định đầu tư mở đồn điền ở Buôn Ma Thuột. Ngày 12-2-1925, để tiếp tục hợp thức hóa việc khai thác đất đai ở Tây Nguyên, Toàn quyền Đông Dương ra nghị định về chế độ khai thác kinh tế ở Tây Nguyên, trọng tâm của nghị định này là định ra các nhượng địa (thực chất cướp không đất của người bản xứ) để cho tư bản Pháp vào đầu tư. Ngay sau đó đã có thêm 26 đồn điền được thành lập ở khu vực Buôn Ma Thuột, với tổng diện tích dự kiến khai thác lên đến 200.000ha; bao gồm: + Trên quốc lộ 21 có đồn điền Auger ở km47, diện tích 136ha; đồn điền Mercurio km21, diện tích 222 ha; đồn điền Vererkene ở km42, diện tích 82ha; đồn điền Padovani ở km15, diện tích 160ha; đồn điền Herion ở km35, diện tích 35ha; đồn điền Aitain ở km18, diện tích 22ha; đồn điền Hagen ở km16, diện tích 89ha; đồn điền Santé ở km23, diện tích 39ha. + Phía nam Buôn Ma Thuột có đồn điền Morit diện tích 10ha và đồn điền Maillo diện tích 20ha. + Trên hướng Mêwan có đồn điền Acpera diện tích 20ha; đồn điền Société civile de Banmethuot km7, diện tích 278ha; sau này có thêm đồn điền Société du domaine de Chu sue km9, diện tích 283ha; đồn điền Société agricole d' Eatul, km16 diện tích 240ha. + Trên hướng đi Lạc Thiện có đồn điền Coronen diện tích 73 ha; đồn điền Broger diện tích 28 ha; đồn điền Godon diện tích 36ha. + Khu vực Buôn Hồ có đồn điền Rene Rossi), diện tích 612ha. Tại các đồn điền này, cây cà phê đã được giới chủ Pháp đầu tư trồng ngày càng nhiều; quy mô lớn hơn cả chè, cao su, cây ăn trái và nhiều loại cây trồng khác. Ngoài ra, có một người dân tộc Ê-đê (là thành viên của Hội đồng kinh tế An nam) tự mình khai phá 625 ha đất bazan và trồng thành công 125ha cà phê. Đến năm 1931, tổng diện tích cà phê ở Đắk Lắk (tập trung chủ yếu ở khu vực Buôn Ma Thuột) đã lên đến 2.130ha (riêng đồn điền c.a.d.a là 1.000ha) đứng thứ tư trong cả nước; trong đó 51% diện tích là cà phê chè, 33% cà phê vối, còn lại là cà phê mít. Việc trồng, chăm sóc cà phê trong các đồn điền ngay từ những năm này đã mang dấu ấn của lối canh tác công nghiệp và đạt trình độ tổ chức quản lý cũng như đầu tư thâm canh khá cao. Trong tài liệu "Địa chí tỉnh Đăk Lăk" viết năm 1930, ấn hành năm 1931 tác giả người Pháp Monfleur đã mô tả hoạt động của một số đồn điền như sau: "Công ty nông nghiệp An nam có một nhượng địa rộng 8.000 mẫu tây, khai thác được 1.800 mẫu, trồng cà phê 1.000 mẫu, chè xanh 800 mẫu, nằm ở cây số 24 đến cây số 34 đường An nam... có những cơ xưởng lớn sửa chữa máy móc, nhà để xe, kho tàng, nhà ở của giám đốc, chủ đồn điền, trưởng phòng nhân sự, tất cả đều rộng rãi, an toàn và có điện thắp sáng. Nơi ăn ở của công nhân bản xứ cũng được chăm sóc tốt, tập trung trong hai ngôi làng lớn là Ea knuêk và Ea yông; mỗi làng có chợ, trạm xá, nơi cung cấp nước đảm bảo sức khỏe cho công nhân... Các đồn điền đều có triển vọng tốt đẹp, cây cà phê trồng và chăm sóc tốt, cao đều 1,4 mét, các đồi chè xanh gốc Nam Dương trồng vào tháng giêng năm 1921 vượt quá 2 mét". Một vài tư liệu mô tả trên cho thấy việc trồng cà phê lúc này đã được giới chủ Pháp rất chú trọng và có triển vọng trở thành một ngành trồng trọt chủ lực trên vùng đất Buôn Ma Thuột. Với các điều kiện tự nhiên phù hợp, được trồng và chăm sóc tốt nên chất lượng cà phê ngày càng tăng lên, kích thước hạt lớn, chất lượng nước đậm đà rất được ưa chuộng ở Pháp và một số nước Châu Âu. Ngoài hương vị thơm ngon đặc trưng tự nhiên, thời kỳ này cà phê Buôn Ma Thuột còn nổi danh với một loại cà phê mang tính huyền thoại là "Cà phê Chồn". Do đặc điểm để cà phê chín mọng gần hết mới thu hoạch, nên một loại chồn màu xám có tên địa phương là Mija thường ăn những trái cà phê ngon nhất, sau đó thải ra phần nhân đã được hấp thụ các chất trong cơ thể nó; người ta lấy về rửa sạch, phơi khô, xat vỏ thóc, rang xay, tạo nên một loại cà phê danh bất hư truyền ít người được thưởng thức. Tuy nhiên, thời kỳ này do bệnh gỉ sắt phát triển mạnh trên cây cà phê chè, làm giảm đáng kể năng suất, nên các chủ đồn điền Pháp lần lượt chuyển sang trồng loại cà phê vối (cà phê chè chỉ còn khoảng 1% diện tích), năng suất cao, chất lượng thơm ngon hơn. Chính vì vậy cà phê vối Robusta, được chọn lọc qua nhiều thập kỷ, đã trở thành cây cà phê chủ lực ở vùng đất Buôn Ma Thuột bởi khả năng thích nghi với điều kiện tự nhiên, chất lượng và hiệu quả kinh tế cao của nó. Đến năm 1959 đã có 49 đồn điền trồng cà phê ở khu vực Buôn Ma Thuột (bao gồm cả Buôn Hồ, Phước An) với tổng diện tích trên 5.200 ha; trong đó riêng đồn điền c.h.p.i là 576 ha. Ngoài các đồn điền cũ do Pháp kiều quản lý, cũng đã dần xuất hiện một số đồn điền trồng cà phê do người dân tộc bản xứ và người Kinh khai phá, làm chủ. Đến năm 1975, tổng diện tích cà phê ở Đắk Lắk đã tăng lên 8.600 ha, cho sản lượng hàng năm trên 11.000 tấn, hầu hết là cà phê vối Robusta. trong đó, các đồn điền cà phê danh tiếng như công ty Cao nguyên Đông Dương (c.h.p.i), Andrei Guibert, Vina Café, Société agricole d' Eatul, Société du domaine de Chu sue, Guibert Batolli), Aux trois soeurs) chiếm giữ đến 68% diện tích; các đồn điền nhỏ chiếm 18% diện tích; 75 trang trại hộ cá thể chiếm 14% diện tích cà phê toàn tỉnh. Tuy xuất khẩu chưa nhiều, nhưng thông qua con đường du lịch, hạt cà phê Buôn Ma Thuột đã đến được nhiều quốc gia trên thế giới và nhiều người thực sự ngưỡng mộ chất lượng và hương vị thơm ngon của nó .Sau ngày miền Nam Giải phóng, tỉnh Đắk Lắk đã sớm quan tâm phát triển ngành sản xuất cà phê. Ngày 12-11-1975, Ủy Ban Nhân dân cách mạng tỉnh Đắk Lắk ra quyết định trưng thu tài sản, đất đai của các đồn điền; đồng thời vận động 75 hộ cá thể hiến lại 1.196 ha cà phê; trên cơ sở đó thành lập các nông trường cà phê như: Thắng Lợi, Ea hồ, 10-3, Đức Lập do công ty quốc doanh Nông nghiệp tỉnh trực tiếp quản lý. Đồng thời một loạt các nông trường cà phê quốc doanh thuộc trung ương quản lý cũng ra đời trên địa bàn cùng với sự hợp tác của một số quốc gia trong khối Đông Âu (cũ) như Đức, Tiệp Khắc, Liên Xô (cũ) đã đến hợp tác để khai thác vùng cà phê với lợi thế về đặc trưng về tự nhiên và danh tiếng vốn có của nó. Từ sau năm 1986, nhờ chính sách đổi mới kinh tế của Nhà nước, tỉnh Đắk Lắk chủ trương đầu tư trồng mới, thâm canh rộng rãi trong nhân dân, từ đó bắt đầu hình thành các vùng tập trung chuyên canh cà phê lớn ở thành phố Buôn Ma Thuột và các huyện Krông Păc, Cư m'gar, Ea h'leo, Đăk mil, Krông ana, Krông Búk, Krông Năng và Ea kar. Các vùng chuyên canh này chiếm 86% diện tích và 89% sản lượng cà phê toàn tỉnh. Với bề dày về truyền thống và tích lũy kinh nghiệm hơn 70 năm của ngưòi dân trồng cà phê nơi đây, cà phê Buôn Ma Thuột đã hội đủ các yếu tố bền vững và ngày càng khẳng định vị trí vững chắc trong nền sản xuất hàng hoá của tỉnh Đắk Lắk ( giá trị sản phẩm cà phê hàng năm chiếm 35% gdp và 85% tổng kim ngạch xuất khẩu của tỉnh). Sản phẩm cà phê vối Robusta đã trở thành biểu tượng và là niềm tự hào của tỉnh Đắk Lắk nói chung, vùng địa danh Buôn Ma Thuột nói riêng trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế. Lần đầu tiên tôn vinh "Nữ hoàng cà phê" Lễ hội cà phê Buôn Ma Thuột lần thứ 4 – 2013 đã diễn ra tại thành phố Buôn Ma Thuột từ ngày 9 - 12/3 với chủ đề "Cà phê Buôn Ma Thuột liên kết và phát triển". Điểm nhấn chính, và cũng là hoạt động lần đầu tiên được tổ chức trong lễ hội năm nay là chương trình "Nữ hoàng cà phê" với chủ đề: "Đi tìm Đại sứ cà phê Việt Nam năm 2013", do UBND tỉnh Đắk Lắk và tập đoàn Trung Nguyên phối hợp tổ chức. Chương trình "Nữ hoàng cà phê" là cuộc tìm kiếm thông qua những trải nghiệm thực tế, nhằm tìm ra gương mặt làm Đại sứ cho hình ảnh thương hiệu cà phê Việt Nam. Đối tượng tham gia là các nữ công dân Việt Nam từ 18-25 tuổi, cao 1,65m trở lên, yêu thích và hiểu biết về cà phê. Các ứng viên sẽ nộp hồ sơ, hội đồng sẽ tuyển chọn tại từng khu vực: miền Nam, Tây Nguyên, miền Trung, miền Bắc để tìm ra ứng viên đạt yêu cầu tham gia hành trình với các phần thi: trang phục tự chọn, trang phục áo dài với chủ đề "Vẻ đẹp Tây Nguyên", tham gia khóa học tìm hiểu về cà phê do chuyên gia Trung Nguyên hướng dẫn, trình diễn trang phục dạ hội, thử thách khả năng xử lý tình huống... Đêm chung kết đã diễn ra tại Trường Đại học Tây Nguyên đêm 10/3/2013. Ban Tổ chức trao danh hiệu "Nữ hoàng Cà phê năm" với phần thưởng là 100 triệu đồng tiền mặt và vương miện trị giá 50 triệu. Người đoạt danh hiệu NỮ HOÀNG CÀ PHÊ NĂM 2013 chính là Nguyễn Lâm Diễm Trang đến từ tỉnh Vĩnh Long. Ngoài ra là danh hiệu "Người đẹp Passiona" trị giá 30 triệu đồng, "Người đẹp sáng tạo/tài năng" trị giá 30 triệu đồng và các giải "Người mặc áo dài đẹp nhất", "Người pha cà phê ngon nhất", "Người đẹp được khán giả bình chọn qua mạng"... Theo ông Y Đhăm Ê Nuôl, Phó Chủ tịch thường trực UBND tỉnh Đắk Lắk, có 13 chương trình được tổ chức trong Lễ hội cà phê Buôn Ma Thuột, và tất cả sẽ được thực hiện bằng nguồn kinh phí xã hội hóa hoàn toàn hoặc xã hội hóa một phần; gồm: Hội chợ - triển lãm chuyên ngành cà phê, Lễ hội đường phố với chủ đề “Cà phê thế giới - Thế giới cà phê”, lễ khai mạc Lễ hội cà phê Buôn Ma Thuột với chủ đề “Hương sắc Cao nguyên”, hội thảo “Giá trị gia tăng của cà phê trong chuỗi sản xuất và chế biến cà phê”, Hội thi pha cà phê, Thi chọn “Nữ hoàng cà phê”, Chương trình giao lưu giọng ca vàng Đắk Lắk, Hội thi Nhà nông đua tài, Triển lãm thời sự - nghệ thuật cà phê, du lịch Đắk Lắk, lịch sử đồn điền cà phê Cada và âm nhạc cồng chiêng Tây Nguyên, chương trình hành trình du lịch cà phê, khu phố cà phê, uống cà phê miễn phí, lễ bế mạc Lễ hội cà phê Liên tưởng đến Nỗi lòng “Cô Hàng Cà Phê”. Nhân Lễ hội Cà phê Buôn Ma Thuột, chúng ta cùng nhau nhớ lại Cô hàng Cà phê năm nào. Trước đây vào thời kỳ năm 1946- 1950, người dân Hà Nội phải tản cư về các miền xa để tránh bom đạn của Pháp đang tái chiếm Việt Nam, các cô thiếu nữ phong lưu, đài các thuở nào, lúc đó rảnh rỗi thường mở các quán bán Cà phê, bán nước chè tươi ở nơi tản cư để thanh thản và có thể phụ giúp một phần nào kinh tế gia đình. Các thiếu nữ Hà thành xinh đẹp và duyên dáng ấy đã hốt hồn các chàng trai mới lớn. Đ â y l à qu á n c à ph ê nhỏ bé của một thiếu nữ Hà Nội về tản cư ở Chợ Dầu (Thanh Hóa), cô chủ xinh đẹp đã làm cho ba chàng nhạc sĩ say m ê đ ắm đuối. Để thu phục được tình cảm mến yêu của cô hàng Cà phê, các chàng nghệ sĩ Ngọc Bích, Đoàn Chuẩn và Canh Thân thường lui tới thưởng thức và ngắm nghía cô hàng cà phê, ba chàng bèn ra một cuộc tranh tài, xem ai sáng tác được một bài hát về Cô chủ hàng Cà phê. Một thời gian ngắn sau đó, các chàng nhạc sĩ giới thiệu tác phẩm của mình để mong chiếm được trái tim của Cô chủ quán Cà phê hấp dẫn và đáng yêu: - Ngọc Bích viết xong bài “Mộng chiều xuân”: Gió chiều thầm vương bao nhớ nhung, Người yêu thoáng qua trong giấc mộng Vui nguồn sống mơ những ngày mong chờ, Trách ai đành tâm hững hờ. Mối tình đầu xuân ai thấu chăng, Lòng tha thiết buông theo tiếng đàn Mơ đời ái ân những ngày phong trần, Sống trong mộng đẹp ngày xuân. Ngây thơ dáng huyền đến trong mơ lòng anh bớt sầu Mộng vàng phút tan theo gió chiều biết em về đâu? Hãy trả lời lòng anh mấy câu, Tình duyên với em trong kiếp nào Xuân còn thắm tươi anh còn mong chờ, Ái ân kẻo tàn ngày mơ. - Đoàn Chuẩn sáng tác bài “ Tình Nghệ sĩ” Đ ây kh ách ly hương mấy thu vàng ấm, Nơi quán cô đơn mơ qua trùng sóng Mơ tới bên em, em tô quầng mắt, Em tôi ngập ngừng trong tấm áo nhung Tung phấn hương yêu qua muôn lời hát, Bay tới bên em tới em thầm nhắc. Đây ý tơ xưa đâu duyên tình cũ, Bóng anh phai dần ái ân tàn theo. Mối tình nghệ sĩ như giấc mơ, Chóng tàn vì vướng muôn ý thơ Mỗi chiều ngàn tiếng tơ khóc than, Còn nhắc mãi tới đêm nao trăng về. Theo gió tha hương bay về miền xưa, Nâng phím tơ lên mấy cung lả lơi Đây phím đưa duyên đây hoa đợi bướm, Lá thu lìa cành nhớ hoa ngàn xưa. - Và đặc biệt Canh Thân viết bài “CÔ HÀNG CÀ PHÊ”. Ở chợ Dầu có hàng Cà phê, Có một cô nàng be bé xinh xinh, Cô hay cười hồn xuân phơi phới, Cứ xem dáng người mới chừng đôi mươi Làn thu ba cô liếc nghiêng thành, Mùi hương lan thơm ngát vương bên mình Làm say mê bao gã thiếu niên đa tình, Mấy anh nho nhỏ thường hay đến ngồi cười với cô. Lơ thơ tơ liễu buông mành, Cho hay cái sắc khuynh thành Làm cho nhiều chàng chết mê mệt, Đi đâ u cũng gh é qua h à ng Mong trông thấy bóng cô nàng, Thì trong lòng chàng mới yên Hôm nao dưới ánh trăng mờ, Tôi mơ ngắm cánh tay ngà Nhẹ nâng ly trà ướp sen ngạt ngào, Trông cô rón rén ra vào Đôi môi thắm cánh hoa đào, Lòng tôi dạt dào muốn xiêu.
Cả ba ca khúc đều hay, đúng là “Mỗi người mỗi vẻ, mười phân vẹn mười” (Nguyễn Du) Kết quả ra sao thì chúng ta không được rõ. Có lẽ lòng Cô hàng Cà phê ngẩn ngơ trong thời gian dài để suy ngẫm, so đo tùy theo con tim rung động của nàng, để quyết định Mối tình Cà phê và Âm nhạc của mình! Biết đâu đó là chàng nhạc sĩ Canh Thân - với bài hát “Cô Hàng Cà Phê” thật là tả chân dáng điệu xinh xắn, nên thơ của Người đẹp bán Cà phê - sẽ được lọt vào mắt xanh của Người đẹp hay chăng? PHẠM VŨ (Tham khảo: Sách báo về Cà phê Buôn Ma Thuột và các bài hát trên Internet) KÝ SỰ 11 TUẦN MỸ DU
Với những người sống trên đất Mỹ thì có lẽ không ai thắc mắc về những gì hàng ngày vẫn diễn ra, vì với họ đó là cuộc sống thường nhật. Nhưng với những du khách đặt chân lên đất Mỹ thì mọi thứ đều mới lạ, đều đáng để ý. Ngay cả đối với những người chưa hề đến Mỹ chắc ít nhiều cũng muốn biết không hiểu người thân của họ sinh sống như thế nào trên đất nước xa lạ từ ngôn ngữ, tập quán, cho đến con người. Là người may mắn được đến nước Mỹ, lần này thì thời hạn có dài hơn, nên tôi cố gắng ghi lại những gì nghe thấy trong thời gian ở đó, để phần nào chúng ta hiểu thêm về cuộc sống của người Việt - dù chỉ trong phạm vi hạn hẹp là người thân của tôi - nhưng đó cũng là một mảng nhỏ trong hàng trăm, hàng ngàn gia đình người Việt đang định cư ở Mỹ. Với nếp sinh hoạt của một gia đình nho nhỏ, có cơ sở làm ăn nhỏ, có con đi làm, đi học và môi trường tiếp xúc chung quanh... tôi nghĩ có thể phản ảnh phần nào về cuôc sống của người Việt trên đất Mỹ. Lần đi Mỹ này của tôi cũng rất là tình cờ. Con gái tôi đi thăm con nó đang du học, vé đã mua trước đó cả tháng rồi. Tự nhiên trong một ngày gọi điện về nhà, em tôi lại kêu: “Sẵn con T. nó đi thì chị cũng đi luôn cho vui. Có đông người càng vui". Tôi ngần ngừ, nói để suy nghĩ thêm thì nó nói: "Có gì mà phải suy nghĩ. Không có tiền thì em cho mượn, chừng nào có sẽ trả"! Tôi chưa kịp nói gì thì nó bồi thêm là: "Cứ điền đơn xin đi. Chắc gì được cho?". Thằng cháu ngoại tôi đang du học ở đó, chỉ cần có thế là lập tức kêu bà ngoại cung cấp những chi tiết cần thiết và đi kêu tôi đi chụp ngay 1 kiểu hình mới, xong scan qua liền cho nó. Không hiểu nó nộp như thế nào, mà ngay ngày hôm sau báo với tôi là ngày mai tới Ngân Hàng nộp tiền xin phỏng vấn rồi đến Bưu Điện trên đường Nguyễn Thái Bình để nộp tiền, lấy một bì thư EMS, xong mang hộ chiếu, biên lai, bì thư đến xếp hàng ở Tòa Đại Sứ Mỹ rồi chờ kết quả. Do năm trước tôi đã đi Mỹ rồi, nên lần này không phải phỏng vấn trực tiếp, mà cứ nộp giấy tờ, hộ chiếu. Nhân viên Tòa Đại Sứ sau khi xem giấy tờ thấy hợp lệ thì nhận, rồi bảo tôi cứ về, trong vòng 2 hoăc 3 ngày sẽ có kết quả gởi về tận nhà. Ba hôm sau thi Hộ Chiếu được trả về, trong đó chấp thuận cho tôi đi Mỹ 3 tháng. Được cho phép tôi cũng còn phân vân, vì nghe nói mùa Đông ở Mỹ khá lạnh, không biết có chịu nổi không, nên ngần ngừ... Thế là mọi người xúm lại khuyến khích: nào là..."dễ gì được cho vô nước Mỹ. Thiếu gì người có tiền mà có được đi đâu?". Nào là..."bây giờ còn có sức khỏe nên đi, mai mốt đi hết nổi thì có muốn đi cũng không được...". Nào là..."kỳ rồi qua ít thời gian quá, chưa kịp đi đâu... qua 3 tháng để xem được nhiều nơi hơn". Và cuối cùng là..."đi cho biết những ngày lễ lớn của Nước Mỹ. Những tháng cuối năm toàn là lễ lớn nhất của Mỹ. Qua xem người ta ăn lễ cho biết"... Nghe riết rồi cũng xiêu lòng. Thế là chỉ trong vòng 9 ngày từ lúc em tôi xúi đi, tôi đã xách valy lên đường. Lên máy bay ở Phi Trường Tân Sơn Nhất trưa hôm trước, 5 giờ chiều hôm sau đã tới Phi Trường San Francisco. Thời tiết khá lạnh. Tôi gặp một Nhân Viên Hải Quan Mỹ là người Việt. Anh ta hỏi tôi ở bao lâu? Mang theo những gì? Tôi trả lời là Mắm và Khô. Thế là được đóng dấu cho qua sau khi soi vân tay như lần trước. Bên trong Sân bay thì ấm áp, chắc do có heat. Nhưng vừa đẩy valy ra khỏi cửa thì thấy rất lạnh, lại thêm có gió. May mà tôi và con gái đều đã chuẩn bị quần áo khá dày. Bạn của cháu tôi sẵn đang ở gần đó nên tới đón hộ. Hai tiếng rưỡi sau là về tới nhà em tôi. Một nồi Phở to đùng, nóng hổi, và mọi người đang chờ. Tẩy trần xong là nhập tiệc. Tháng 11, nước Mỹ đang là Mùa Thu, nên hàng cây hai bên đường lá chuyển sang màu vàng, đỏ, tím rất đẹp mắt. Em tôi nhắc là muốn chụp ảnh với cây cảnh Mùa Thu thì nên chụp sớm, bởi vì chỉ cần 1, 2 tuần nữa là Mùa Đông đến, chỉ qua vài trận mưa là lá sẽ rụng hết, không còn đẹp nữa, nên nghỉ ngơi một, hai ngày là chúng tôi cùng đi chụp hình để lưu niệm. Chẳng cần phải đi xa. Chỉ cần ra ngõ, cách 1 căn nhà, là ngã tư với con đường với hàng cây hai bên màu sắc rực rỡ hiện ra trước mắt. Trời trong xanh . Mây trắng. Lá trổ màu vàng hay đỏ rực, đẹp không thể tả. Tôi chụp cho mọi người khá nhiều. Bản thân thì cũng có chụp một số, vì thấy rằng mấy khi có dịp nhìn thấy tận mắt cảnh đẹp, không thể không ghi lại, dù biết là với bộ dạng, mặt mày đầy dấu vết thời gian để lại gần 70 mươi mùa mưa nắng chỉ làm hỏng bối cảnh đẹp của thiên nhiên thôi. Nhưng chắc chắn vài năm nữa, xuống cấp thêm, da nhăn nheo thêm, nhìn lại hình sẽ thấy ít ra cũng còn coi được hơn hiện tại l à cái chắc ! Ngay khi tôi sang Mỹ được 2 hôm thì em tôi dắt ra cửa hàng để sắm một mớ qu ần áo nỉ, áo khoác dày, một số vớ dày như khăn lông, v à dép mang trong nhà để trang bị cho mùa Đông, vì đồ dày mấy mang từ xứ nóng sang, gặp mùa Đông bên này chẳng thấm vào đâu. D ù trong nh à đã sẵn hệ thống heat, t ới một độ nào đó thì tự động bật lên, v à ngoài chăn bông dày cộm có sẵn cả đống trong nhà, cháu tôi còn mua thêm cho tôi 1 chiếc mền điện, dặn tôi khi nào thấy lạnh quá thì cắm điện vô, điều khiển độ ấm theo nút bấm, 3 tiếng sau nó sẽ tự tắt, nếu muốn tiếp tục thì bấm lại. Yard Sale là nơi mà cuối tuần tôi được em rể chở đi lục lạo. Mọi người sống ở Mỹ đều biết: Ngày thứ Bảy, Chủ Nhật là mọi người không có đi làm. Thế là nhà nào có những đồ dùng dư hoặc cũ muốn bỏ đi, thay vì phải chở đi đổ còn mất tiền bãi, hoặc cho những cơ quan từ thiện thì thỉnh thoảng họ mới đến, bỏ những bao không trước cửa nhà và hẹn ngày tới lấy. Ai có đồ gì muốn tặng thì cho vô đó, t ừng loại bỏ riêng theo bao có tiêu đề bên ngoài. Đúng ngày họ sẽ tới lấy. Như vậy mất thời gian, trong khi cần giải tỏa cho trống nhà. Thay vào đó, nếu bán rẻ thì cũng thu được ít tiền, nên trước ngày thứ Bảy là người có đồ dư muốn bán, thì mang bảng kẻ chữ Yard Sale bằng bút hay sơn màu cho dễ thấy. Trong bảng có ghi rõ địa chỉ và mũi tên chỉ hướng đến nhà để người nào muốn tìm thì dễ dàng. Họ mang treo trên những cây cột đèn ở những ngã 4. Người mua cứ theo hướng có mũi tên chỉ để tìm đến. Hàng hóa muốn bán đã được bày sẵn, chủ nhân cũng đang chờ để chào đón người mua. Họ bán đủ thứ: Từ vật dụng như bàn, ghế, tủ, máy móc, máy may, đồ dùng trong nhà bếp. Có khi là quần áo, tranh ảnh, giày bóp, nữ trang… Khách cứ tha hồ lựa chọn, trả giá. Thuận mua, vừa bán. Người bán thì giải quyết được số đồ đạc dư dùng. Người mua thì cũng kiếm được một vài món với giá hời, có khi chỉ bằng 1 / 4 hay phần 10 đồ mới. Có món vẫn còn mới nguyên bao bì , chưa dùng. Nếu gặp nhà sắp dọn, có đề bảng Moving Sale thì mọi thứ trong nhà đều bán. Họ ghi bảng "Everything must go" để người mua biết là họ sẵn sàng bán hết mọi thứ. Yard Sale cũng là nơi mà những người rảnh rang đi coi đồ để giết thời gian. Khách đi mua cũng đủ quốc tịch: Việt, Mỹ, Mễ… X e chạy nối đuôi nhau. Ai cũng tranh đến trước để chọn sớm thì có nhiều thứ để chọn lựa hơn. Chậm chân là chỉ còn mấy thứ xấu, cũ. Đôi khi có người cũng vớ được món bở do đồ đó bỏ xó từ đời ông bà, con cháu không biết giá trị, mang bán như cho! Sở dĩ gọi là Yard Sale hay Garage Sale là vì họ bày đồ muốn bán ở garage hay ở sân trước nhà. Có khi cả xóm rủ nhau bán một lượt, nên khách đến để xe từ xa rồi đi bộ từ nhà này sang nhà khác để xem. Đừng tưởng chỉ ở Việt Nam thì tiếng Anh mới lạng quạng. Ở tại Mỹ, chúng tôi đi tìm bảng ghi Yard Sale. Có nhà đó bán đồ dùng nhà bếp, có bảng ghi là Kitchens, rồi cũng nhà đó, bảng khác họ lại viết là Chickens! Có người cũng không biết cách hướng dẫn, như có lần chúng tôi thấy 1 bảng Yard Sale có mũi tên chỉ vô. Chạy theo đó thì gặp con đường vòng . Đ i tới lại gặp mũi tên chỉ ngược lại. Chúng tôi phải vòng đến 2 lần. Cho đến lúc thấy chủ nhân là một cô Mỹ da đen đang đứng tô lại cái bảng . T r ực tiếp hỏi thì cô ta mới chỉ rõ là phải quẹo vô một ngã 3 nằm giữa hai con đường. Bó tay! Đa phần những người Việt lúc mới qua Mỹ chưa có nhiều tiền cũng chọn Yard Sale là nơi để mua sắm đồ dùng trong nhà, rồi khi đi làm có tiền sẽ dần thay bằng những món mua ở cửa hàng. Vì thế, kinh nghiệm đi mua đồ Yard Sale là chọn khu phố sang. Ở đó có thể mua được đồ nước nhì. Còn ở những khu nghèo thường khi họ loại ra để bán thì đã quá cũ kỹ, đôi khi là nước thứ 3 hay thứ 4! Người sống ở Mỹ lâu năm đều phân biệt được thế nào là khu nhà nghèo, thế nào là khu nhà giàu, dù cùng hướng ra mặt tiền như nhau. Khu nhà nghèo thường không có lầu . Nhà nhỏ. Chung quanh không có sân, vườn, và nhà kiểu không đẹp. Những khu mới cất thì nhà to. Có lầu. Sân cũng rộng, diện tích trên 2.000 square feets. Nhà lâu năm thường rẻ tiền hơn nhà mới cất. Thế nhưng cũng có trường hợp ngoại lệ là khu OLD ELK GROVE. Khu này nhà kiểu xưa, không có lầu. N hưng là khu Phố Cổ của người Mỹ. Giá rất cao, người ở đó không được sửa chữa khác với cấu trúc cũ và hình như chỉ những người Mỹ trắng mới được mua nhà ở đây. Người nước khác dù có tiền nhiều cũng cũng chưa chắc chen chân vào khu đó được. Người Mỹ tuy nói rằng không kỳ thị nhưng vẫn không thích sống chung khu phố hay ở gần những người Châu Á. Bằng chứng là những khu nào người Châu Á dọn đến ở nhiều thì người Mỹ âm thầm bán và dọn đi nơi khác. Những hàng quán cũng vậy, khu người Việt bán thì người Mỹ ít đến. Một phần chợ của người Việt bán những món hàng đặc trưng của Việt Nam, họ không dùng được. Phần khác cửa hàng của họ dồi dào hàng hóa, cần gì phải đi chợ của người Việt. Ngoài Yard Sale thi cũng có những cửa hàng mua bán đồ cũ như chuyên nghiệp Goodwill, Thrift Store mở cửa thường xuyên và chợ trời Folsom thì mở bán thứ Bảy và Chủ Nhật. Good Will có cả một hệ thống bán. Có nơi để tiếp nhận, người nào cho nhiều đồ sẽ được cấp giấy chứng nhận để cuối năm sẽ được giảm thuế. Khi tiếp nhận hàng thì họ có bộ phận sàng lọc. Hàng nào còn tốt thì bán từng món ở cửa hàng sạch sẽ hơn. Hàng xấu thì bán một nơi khác, cân pounds tính tiền. Ở cửa hàng bán tính pounds này, họ để đồ trên những cái thùng to cỡ 1mx2m có bánh xe để đẩy. Khách mua đứng chờ, chốc chốc có nhân viên đẩy ra mấy xe một lúc, trong xe để đủ thứ: Có xe toàn quần, áo, chăn, mền. Có xe là đồ nhựa, đồ sắt, băng, đĩa, cassette cũ, điện thoại cũ. Có xe thì giày, bóp... mạnh ai nấy tranh nhau lựa. Họ để cho lựa chán, thấy không ai lựa nữa thì nhân viên bán hàng lại đẩy vô, trộn thêm ít món mới rồi đẩy ra. Nghe nói có một số người bán hàng ở chợ trời cũng tới đây để lục mua rồi mang ra bán lại. Chúng tôi còn đi một chợ trời nằm trong một khuôn viên rất rộng, là chợ Galt ở Thị Trấn Galt. Khu chợ này có bãi đậu xe rất lớn, hàng hóa dồi dào nên người đi rất đông. Kiếm một chỗ đậu xe không phải dễ. Chạy vòng vòng mãi, chờ có xe nào ra là lập tức lủi vô. Có chỗ xe cũ chưa kịp ra thì xe mới đã chờ sẵn, nhá đèn để xí chỗ. Nhưng vô trong mới thấy đa phần là đồ mới. Nữ trang xi mạ, vòng, chuỗi hột đá, quần Jeans, áo thun, mền Trung Quốc, thuốc viên, giày, dép, đồ giả cổ của Trung Quốc! Xen kẽ các gian hàng cũng có đồ cũ như loa, máy móc, đĩa nhạc, đồng hồ. Cũng có những người Mỹ mua về để bán lại. Tôi thấy họ chở ra cả đống mền của Trung Quốc. Có lẽ giá rẻ hơn hàng Mỹ. Chợ rộng và bán cả ngày nên có những xe bán thức ăn của Mỹ và của M ễ . Họ có cả một mặt bằng rộng để bàn ghế cho thực khách ngồi. Tôi chủ yếu là đi tìm những thứ đồ xưa, cũ, nên chợ Galt xem ra chẳng có gi hấp dẫn mà phải chạy xe đến hơn 100 km mới tới đó. Lần đó tôi chỉ mua được 2 xe mô hình cũ, nhưng giá cũng không mềm chút nào, đến 25đô/chiếc, nên tôi chỉ tới chợ đó có một lần rồi không trở lại nữa. Đi chợ nấu ăn thường ngày thì em rể tôi thường chở đi những Siêu Thị của người Tàu và người Việt như Siêu Thị A & A, Siêu Thị Vĩnh Phát, Siêu Thị People và Siêu Thị SF. Ở các Siêu Thị đó người bán hàng và người thu ngân đa phần là người Việt, cũng như khách hàng thấy toàn là người Việt hay người Tàu, không thấy có bóng dáng người Mỹ nào. Họ bán đủ thứ hàng giống như các Siêu thị ở VN. Cũng là Đồ hộp, nước ngọt, thịt bò, heo, gà, cá, tép, tôm, cua... tươi có, đông lạnh có. Ngoài những thứ đã cân, đóng gói sẵn. Nếu ai muốn mua nguyên tảng rồi cắt nhỏ ra, thì nhân viên sẵn sàng thực hiện theo khách yêu cầu. Cá thì mua, cân xong thì họ sẵn sàng làm và rửa sạch. Muốn cắt đôi cắt ba cũng được. Thịt bò cũng thế. Họ để cả cục cỡ 2, 3lbs, nhưng khách mua cần thái mỏng thì nhân viên sẽ mang lại máy thái rồi vô hộp cho. Rất tiện lợi. Có cả k hô, mắm tôm, mắm cá linh. Rau xanh thì cũng có đủ thứ: Húng cây, h úng q uế, h úng lủi, xà lách, dấp cá, tía tô, cải bẹ xanh, cải bẹ trắng, hẹ, hành lá, bấp cải, bấp chuối, củ sắn, c ủ cải trắng, bầu, bí xanh, bí đỏ, mướp khía, mồng tơi, nấm các loại, trái thơm, táo, lê, nho, chuối già, củ s ả, lá l ốt. Có cả lá trầu cho các bà ăn trầu. Nhưng xem giá cả thì lá lốt mắc nhất trong các loại rau xanh. Một gói nhỏ chắc chỉ độ 20 lá thấy ghi giá 4đ70! Có cả cải để làm dưa chua, giá chỉ 1đô/bó khá to mà tôi thường mua về muối cho cả nhà ăn, vì vừa ngon, vừa rẻ, thay vì mua dưa muối sẵn mềm xèo mà có khi họ ngâm lâu ngày có mùi khó chịu ăn không nổi. Một con gà ta, bên Mỹ gọi là gà dai, giá từ 7 đến 8 đô. Thịt bò thịt heo thì cũng không đắt mấy so với bên nhà. Muốn ăn thịt bò ngon thì nên mua ở Siêu Thị Mỹ là Winco hay Foods Co. COSTCO. chuyên bán đủ thứ mặt hàng từ quần áo cho tới đồ hộp, thuốc bổ, thịt bò, thịt gà, thịt heo... giá sỉ. Người có thẻ mỗi năm đóng mấy chục đô mới được vô mua hàng ở đó. Trong đó rộng mênh mông, hàng hóa tràn ngập, quy mô gấp cả chục lần các Siêu thị của người Tàu và người Việt. Một điều vui vui là vô mấy Siêu thị Việt Nam ở Mỹ luôn được nghe nhạc do Phương Thanh, Đan Trường, Ưng Hoàng Phúc hát... cứ tưởng như đang ở tại quê nhà Việt Nam. Gần Siêu Thị Vĩnh Phát, đường Lemon Hill có mấy vườn nông sản do người Lào trồng và cắt bán tại vườn. Họ ngồi sau hàng rào kẽm gai. Hàng hóa cắt bày sẵn dưới đất hay treo trên hàng rào. Có bắp trái, bí đỏ, ớt, bầu, trái su, bông bí và cả đọt bí. Tôi mua đọt bí, bông bí về luộc rồi làm nước mắm kho quẹt. Tưởng tượng trời lành lạnh mà ăn cơm nóng còn bốc hơi với rau mới cắt luộc lên xanh mướt, dòn và ngọt, chấm với nước mắm kho quẹt bỏ chút tiêu, tóp mỡ, tôm khô, hành phi…thì ăn quên thôi. Cả nhà ăn khen nức nở, vì cứ ăn thịt gà, thịt bò hoài riết đến phát ngán. Lâu lâu mới được ăn rau xanh thấy quá hấp dẫn. Ngay cả ở nước ta thì rau luộc cũng đã trở thành đặc sản tại các nhà hàng lớn từ lâu rồi, nói chi là tại nước Mỹ! Nhưng ở đây rau xanh được cắt bán tại vườn nên giá rất rẻ. Một bó đọt bí hay bông bí chỉ có 1đô. 1 trái bí đỏ khá to chỉ có 2 đô. Ớt thì họ nhổ cả cây, bó thành từng bó, cũng 1 đô 1 bó. Bí đỏ ở đây cũng rất ngon, bí hai da, dẻo và ngọt, hầm với nước cốt dừa đóng hộp, ăn với mắm cá lóc mang từ Việt Nam qua thì không chê vào đâu được. Bên Mỹ cũng có bán dừa khô trái. Nhưng nhiều khi mua về đập ra thì bên trong đã lên mốc, nên ăn nước cốt dừa đóng lon tuy không ngon, nhưng chắc ăn! Nhưng mua được vài lần thì mưa xuống, rau xanh, bí cũng bị chết, không sống nổi, họ cũng ngưng bán, đành chờ mùa sau. Tôi qua đến Mỹ vào gần cuối tháng 10 nên có cơ hội xem người Mỹ ăn lễ Halloween. Trước lễ khoảng 1 tuần đã thấy lác đác vài nhà cắm cọc, giăng màn nhện, làm hình con dơi trên tường, cắm bia làm mộ giả trong sân nhà. Họ cắm đầu lâu trên sân cỏ và bảng "nguy hiểm, đừng tới gần" vv... Ngay ngày lễ hội, gia đình em tôi mua sẵn một số kẹo và chiều đến thì mở đèn ở trước nhà. Đó là dấu hiệu chủ nhà sẽ phát kẹo để mấy em bé biết mà bấm chuông để xin. Em tôi cho biết, dù mỗi nhà chỉ cho 1 cục kẹo thôi, nhưng những năm con nó còn nhỏ, đi một vòng trở về là có cả mấy ký kẹo. Cũng không phải con nít nào ở Mỹ cũng đều thật thà. Em tôi kể, có năm lười mở cửa để phát kẹo, nó để cả trong một cái thau, đặt trước cửa nhà, đinh ninh là chúng nó tự lấy mỗi đứa 1 chiếc... chẳng dè chốc sau ra chẳng còn viên nào. Chắc có nhóm nào đó lấy để khỏi đi vòng vòng mỏi chân! Chỉ sau 5 giờ chiều là tốp đầu tiên đến. Chúng bấm chuông. Chúng tôi ra mở cửa xem cho biết. Bọn chúng đi chung với nhau, vẽ mặt mày đỏ, xanh, mặc áo hình người dơi, người nhện và ăn mặc trông rất vui mắt. Mỗi đứa xách một cái bao bằng vải, cỡ 3 tắc rộng, dài 4, đến 5 tấc. Theo sau là cha mẹ chúng đứng xa xa. Chúng chào chủ nhà rồi mở túi ra cho chủ nhà bỏ kẹo vô. Mỗi đứa được phát 1 cục hay vài ba cục. Bọn chúng cảm ơn rồi sang nhà kế bên. Tốp khác lại đến. Sau 8 giờ, không thấy còn ai đến, chúng tôi đóng cửa để đi xem NGÔI NHÀ MA, cách nhà khoảng 4Okm. Suốt con đường từ nhà đến đó từng nhóm hóa trang đủ kiểu đi ngược xuôi trông rất vui. Ngôi nhà ma đã được chủ nhân làm từ nhiều năm qua nên khá nổi tiếng, người quanh vùng kéo nhau tới xem rất đông. Chúng tôi tới đó thì không có chỗ đậu xe, phải đậu cách đó khoảng vài trăm thước rồi đi bộ lại. Mọi người đi thành từng nhóm. Có nhóm còn vừa đi vừa mang theo đàn, rồi vừa đi vừa hát. Khi tôi đi bộ ngang qua một anh chàng cao lêu khêu hóa trang thành thần chết còn bị hắn ta ghé tai hù cho một phát! Chủ nhân ngôi nhà ma thật chịu tốn tiền và công phu để dựng một cảnh rất hoành tráng. Ngay trước sân, phía bên kia đường là chiếc xe chở quan tài màu đen được gắn đèn chớp, tắt. Nghe nói đó là xe tang thật, vì ông ta cũng là một nhân viên trong nhà xác Bệnh viện. Ngay trước nhà là một chiếc xe khác, 4 bánh xe là 4 quả bí đỏ. Người đánh xe là hình nhân mang khuôn mặt tử thần. Trong xe là một cái xác, mặc áo choàng đen, chốc chốc ngồi nhỏm dậy! Trong nhà thì tắt đèn, chỉ thấy ánh sáng lờ mờ, khói bay mù mịt. Trước nhà để máy đèn chạy và để đèn chiếu quay quay. Chủ nhà còn để cái bảng ghi chữ: "bắp rang và nước ngọt miễn phí". Ai thích thì cứ đến lấy, có người phát cho. Chúng tôi xếp hàng để lần lượt vào nhà. Lố nhố trước nhà là người lớn, trẻ con, ai cũng hóa trang. Có bà Mỹ đen, mập tù lù, mặc áo ren trắng, mang đôi cánh, hóa trang thành Thiên Thần, dắt theo mấy đứa trẻ cũng hóa trang xanh đỏ đầy mặt. Có người mang tóc đủ màu, đội những chiếc nón hay băng đô ngộ nghĩnh. Có người mặc đồ thủy thủ, bác sĩ, người nhện, người dơi... thiên hình vạn trạng... chủ yếu là lạ, độc đáo, vui mắt. Ngay trước sân, trên bãi cỏ, chủ nhân Ngôi nhà Ma thiết kế thành một nghĩa trang mini với những tấm bia được cắm xuống đất. Bước lần vô thì trên hàng ba có hình đầu lâu và tấm bảng: "cái chết phía trước". Có một hình nhân răng cắn lại, mỗi lần há ra thì miệng phun lửa kèm với tiếng hú. Lần theo lối đi hẹp, vừa một người đi là một khung cảnh mờ ảo, khói phun mù mịt. Cạnh đó có một hình nhân, thỉnh thoảng mắt sáng rực và rú lên, chồm ra. Trên tường có cắm tấm bảng ghi: "Có gan thì bước vào". Bên tay phải cạnh đó là con dơi mắt đỏ ngầu. Có hình nộm treo tòn teng trên tường, thỉnh thoảng rú lên, hai mắt xẹt lửa. Ngay các góc cua quẹo có hai người như thây ma, mặt xanh lè, ngồi trên ghế, thỉnh thoảng bật dậy, quơ tay đe dọa. Có cảnh người đang nằm trên máy chém. Ở một góc quanh, có người ngồi chờn vờn mặt mày dễ sợ, trợn mắt đe dọa. Giữa khung cảnh âm u, ma quái càng thấy khiếp hãi, nên thỉnh thoảng lại có tiếng các cô gái rú lên vì sợ. Đã vậy, dưới gầm bàn còn có người phục sẵn, lâu lâu lại thò tay níu chân người tham quan, làm người đang hồi hộp vì cảnh tượng ma quái hoảng sợ hét toáng lên. Có lẽ chủ nhân của Ngôi Nhà Ma mỗi năm phải tiêu tốn một số tiền không nhỏ cho trò chơi này, vì ngoài những hình nộm, ông còn thuê người thật ngồi ở các khúc cua quẹo để giả ma hù khách tham quan làm mọi người vừa sợ vừa thích thú, lại không có thu tiền vé nên rất nhiều người đến xem. Người đến xem rồi đồn nhau nên mỗi năm số lượng khách đến lại tăng lên. Đó cũng là niềm vui của chủ nhân ngôi nhà. Tôi mang theo máy ảnh và ghi lại được một số hình ảnh ma quái được thiết kế công phu để về cho mọi người xem cho biết thú chơi của một người Mỹ vào dịp lễ Halloween. Ngày lễ Halloween không chỉ dành cho trẻ con mà người lớn cũng tham gia. Nhiều người đi làm cũng hóa trang mặt mày đủ kiểu. Có một khách hàng đến tiệm em tôi làm tóc mà hóa trang thành tù nhân với bộ đồ tù và chiếc còng lủng lẳng trên tay. Ngày đó dù ai ăn mặc thế nào để đi ngoài đường, kể cả đến sở làm cũng không ai thắc mắc. Có khi càng quái dị càng vui... Tháng 11, trong gia đình của em tôi có đến 2 cái Sinh Nhật. Giữa tháng là Sinh Nhật đứa con trai, rồi tuần sau là đến của ba nó. Sinh nhật đứa con trai được tổ chức ở một nhà hàng Hàn Quốc. Nhà hàng này cũng khá đông khách. Cháu tôi là người thích sưu tầm những chỗ ăn ngon, lạ, nên vẫn thường đến đây. Chúng tôi gọi một món thịt bò, một món cá, còn lại là cả chục loại Kim Chi làm bằng đủ thứ rau. Đĩa thịt bò thì thịt trong đó chắc chỉ chưa đến nửa ký. Cá thì chỉ có độ 4 khứa. Nhưng giá cả thì không rẻ và phong cách phục vụ thì thua một nhà Hàng Nhật mà tuần sau chúng tôi tổ chức mừng Sinh Nhật của em rể tôi. Nhà hàng Nhật này ăn theo kiểu buffet. Thức ăn để trong những ngăn trong tủ kính trông rất sạch sẽ. Mọi người tự chọn để ăn thoải mái những món Nhật đặc trưng như shushi, cá sống vv... Ngoài ra còn có hải sản như càng cua, hàu, nghêu, tôm… chế biến khá ngon. Bánh ngọt, kem và trái cây tráng miệng cũng khá đa dạng. Đặc biệt ở đây là nếu thực khách tổ chức Sinh Nhật có trên 5 người thì người có Sinh Nhật ngày đó được miễn phí. Ngay khi chúng tôi bước vào nhà hàng và thông báo là tổ chức Sinh Nhật, thì vừa ngồi xuống bàn, nhân viên dọn bàn hỏi chúng tôi muốn uống nước gì, trà hay nước đá, thì bản nhạc Happy Birthday đã vang lên. Chốc sau, có nhân viên khác đến bàn, lễ phép xin xem giấy tờ chứng minh có người đúng ngày Sinh Nhật, rồi thì mọi người đi lấy thức ăn bình thường. Mỗi phần ăn có 12 đô la, nhưng được lấy thoải mái. Không hề có cảnh tranh dành nhau mà mỗi người lặng lẽ đến quầy lấy đủ thức cần dùng, mang về bàn. Hết nhà hàng lại châm thêm. Cuối cùng, trước khi trả tiền thì nhân viên nhà hàng mang ra một cái khay, trên để một cái bánh nhỏ, có cắm cây nến kèm theo cái quẹt để thắp nến. Trên khay có dòng chữ Happy Birthday, đồng thời mở lại bài hát Happy Birthday. Gia đình tôi và bàn gần bên cũng hát và vỗ tay khi người mừng Sinh nhật thổi nến. Không khí rất thân thiện, ấm cúng. So sánh hai nhà Hàng thì nhà Hàng Nhật thức ăn ngon và dồi dào hơn. Cách phục vụ cũng dễ thương hơn. 8 người ăn no, kể cả tiền tip mà chưa đến 130 đô, trong khi phía bên nhà hàng của Hàn Quốc giá cả tương đương mà thức ăn ít hơn, chỉ có kim chi đủ loại là dồi dào! Ở Mỹ có những cửa hàng bán giá 1đ 3món, nhưng chúng tôi chưa ghé, vì với giá đó chắc chẳng có món gì hấp dẫn. Nhưng cửa hàng 99cents thì có ghé qua nhiều lần, trong đó, tất cả các món hàng đều đồng giá 99c. Từ bộ nhắc nồi cho đến trái cây như dưa hấu, chanh, hành tím, hành trắng, khoai tây, đồ hộp, bánh ngọt, bánh Pizza, chocolat, chuối già, bắp cải, củ gừng vv... được gói thành từng gói, đồng giá. Đa phần dụng cụ làm bếp như muỗng, ly, giá múc canh vv... đều ghi sản xuất ở Trung Quốc. Ở các cửa hàng lớn của Mỹ, và các Siêu Thị Việt Nam thỉnh thoảng cũng có giảm giá một số món để khuyến mãi. Có khi là đồ hộp, có khi là sữa đặc có đường, có khi là thịt bò hay thịt heo, gà... giá chỉ còn phân nửa. Khách đi chợ gặp những dịp như vậy thì mạnh ai nấy mua số lượng nhiều về để dành. Có lúc là bánh Pizza. Giá bình thường hơn 1đô/cái, nhưng giảm giá chỉ còn hơn 70cents thôi. Thường thì vừa thấy hàng giảm giá là người đang đi chợ ít ai bỏ qua. Chúng tôi cũng không ngoại lệ. Mua về bỏ tủ lạnh ăn dần, vì ở Mỹ rất ít đi ra ngoài để ăn sáng. Hàng quán thì xa nhà, nên có bánh Pizza có thể để lâu được cũng đỡ. Nếu không thì mua mì gói, bánh mì lát, bánh mì ổ do người Việt làm, đặc ruột, để mấy ngày không sao. Giá bán 1đô 3 ổ bánh mì cóc, để dành ăn với phô mai hay n ướng với bơ. Ở tiệm bánh ĐỨC HƯƠNG vừa bán bánh mì nóng, vừa có bánh mì thịt, giò, chả lụa, xôi, bánh cuốn, thấy khách mua cũng đông. Mì gói thì ở các Siêu Thị Tàu, Việt có đủ mì của Việt Nam: Vifon, Hảo Hảo và rất nhiều hiệu khác nữa. Nhưng giá đắt hơn trong nước khá nhiều. Một ly mì Hảo Hảo có giá 99c. Hầu hết gia đình người Việt sống ở Mỹ đều phải biết nấu vài món Việt như Bún Bò hay Phở, vì không phải cửa hàng nào nấu bán cũng ngon. Đôi khi chạy từ xa đến, kêu được tô Bún Bò hay Phở, chờ khá lâu mà khi ăn thấy chẳng những dở mà còn mắc, nên rút kinh nghiệm là tự nấu. Học lẫn nhau hay trên mạng rồi từ từ tay nghề cũng tiến bộ lên, mà chất lượng còn bảo đảm hơn. Chỉ cần có 1 cái nồi Slow-cooker, rồi mua xương bò ninh 24 giờ, sẽ có nước dùng ngọt tự nhiên. Gia vị thì không thiếu. Nấu một nồi Phở tốn chừng 35đô, có đủ rau thơm, giá, chanh, ngò gai, húng quế và thịt bò được lạng mỏng sẵn bán thành từng hộp, rất là mềm và giá tính theo cân lượng được dán sẵn trên hộp. Về các tiệm ăn Việt thì bên này có rất nhiều hiệu mang những tên nổi tiếng ở Saigon từ trước 75. Phở Anh Đào, Giò chả Đức Hương, Nem Ninh Hòa, Thanh Sơn Hiển Khánh vv... Thanh Sơn Hiển Khánh bán rất nhiều mặt hàng, từ bánh cuốn cho tới chè, đậu hũ nước đường, xôi vò, bánh cam, chất lượng cũng khá. Bánh cuốn Tây Hồ có những 9 chi nhánh ở nhiều vùng, không biết có liên quan gì đến Bánh cuốn Tây Hồ ở Đakao hay không? Ở những Siêu Thị của Mỹ cũng có bán những loại thịt ướp sẵn, người mua chỉ việc theo công thức kèm theo đó mà nướng hay bỏ lò ăn cũng rất ngon. Mới đầu tháng 11 mà mọi người đã mang cây thông Giáng Sinh ra để trang hoàng, vì đa phần ai cũng đi làm nên làm sớm, không chờ đến giờ chót. Nhiều người cũng đã bắt đầu treo đèn chung quanh nhà. Cháu tôi cũng bận đi làm nên chuẩn bị rất sớm bên nhà nó. Bên đây tôi cũng phụ với tụi nhỏ để bày Cây thông và treo trái châu và các đồ trang trí lên. Cây thông được bày để ăn mừng cả 3 lễ lớn: Thanksgiving, Giáng Sinh và Tết Dương Lịch. Thời tiết đang ấm áp, mát mẻ của Mùa Thu, sang tháng 11 thì bắt đầu chuyển dần sang Mùa Đông. Trời âm u và nghe nói có bão tuyết ở Sierra. Tôi phải mặc thêm quần áo dày và ngoài hệ thống heat chạy chung trong nhà tôi còn được trang bị thêm một cái heat nhỏ giống như cái quạt máy. Cắm điện vô là nó đỏ rực, thổi ra hơi nóng. Nhưng theo mấy đứa nhỏ thì thời tiết bên Mỹ này vô chừng. Có khi lạnh đó, rồi hết bão lại ấm lại. Quả thật, sau đó thì thấy có mặt trời lên. Dù vậy, gió vẫn mang hơi lạnh hơn những ngày trước đó. Sáng sớm chui vô xe cũng giống như bước vô cái tủ lạnh. Phải chờ một lúc, xe nóng máy, mở heat lên thì mới ấm. Người đi bộ ngoài đường thì mặc áo dày, trùm đầu, mang găng tay, quàng khăn... Chúng tôi đi shopping thấy người đi mua thưa thớt. Em tôi đi bỏ tiền vô Ngân Hàng để đóng tiền nhà. Nó nói cả ngân hàng váng ngắt, không có một khách hàng nào, thấy nó vô họ mừng rỡ, tíu tít phục vụ! Không khí chuẩn bị cho lễ mà thấy có vẻ không được nhộn nhịp bằng những năm trước, theo lời em tôi. Gia đình em tôi chuẩn bị để ăn lễ Thanksgiving. Với nước Mỹ, đây là lễ lớn nhất trong năm, mọi gia đình dù nghèo hay giàu cũng đều tổ chức. Trước đó cả tuần, Siêu Thị bán Gà tây làm sẵn. Thịt Ham cũng ướp sẵn gia vị, người mua chỉ việc ghim đinh hương chung quanh cục thịt rồi bỏ vô lò nướng theo hướng dẫn rồi mang ra cắt lát cho vô dĩa, ăn kèm với rau, nước sốt. Một điều cũng khác ở bên ta, là dịp lễ thì các cửa hàng lại giảm giá. Có lẽ lúc đó họ tính toán thấy bán được số lượng lớn hàng hóa thì dù có giảm giá, mức lời cũng không vì thế mà kém đi chăng? Gà Tây thì có hai loại. Một loại bình dân, giá rẻ, 1 lbs chưa đến 1 đô la và một loại đặc biệt là gà tơ mà nuôi thả, giống gà thả vườn của bên ta, có tên là Butter Ball giá đến 1đ50/lbs. Thịt nó mềm và dai chớ không bở như gà bình dân kia. Chính phủ Mỹ không để cho dân nghèo không được ăn lễ. Trước đó cả tuần, TV thông báo địa điểm, ngày giờ tiếp nhận để những người khá giả muốn tặng Gà Tây thì mang đến, và người nghèo cũng lái xe đến để nhận. Cứ lái xe đến và bật cốp xe ra thì có người mang gà đã làm sẵn bỏ vô cho. Tổng Thống Mỹ và gia đình cũng đi đến một Ngân Hàng Thực Phẩm của Washington DC để tham gia phát các bưu kiện thực phẩm cho người nghèo. Sinh viên, công, tư chức ai rảnh thì cũng tham gia. Cháu tôi nói lại, có người kể, những năm trước bản thân từng mang gà đi tặng, năm nay chính họ phải đi nhận của cho, vì tài chánh kiệt quệ. Từ đó họ thấy rằng việc họ từng san sẻ cho người khác có một ý nghĩa rất lớn. Đời không ai chắc sẽ mãi giàu sang, phú quý. Thường thì lễ Thanksgiving mọi người được nghỉ nhiều ngày nên cũng là dịp để đại gia đình đoàn tụ. Họ ăn gà Tây và Ham với bắp non nấu với sữa tươi, Bí đỏ, khoai tây nghiền, bánh Pumkinpie làm bằng bí đỏ, kèm thêm là rau, đậu, và uống rượu nho. Đó là những thức ăn truyền thống, để tỏ lòng biết ơn quê hương mới đã cưu mang những người đầu tiên đến nước Mỹ, trong mùa Đông giá rét, đói khổ, được người dân Da Đỏ địa phương chỉ cho cách trồng trọt, săn bắn để sinh sống. Người ta ước tính mỗi năm vào ngày lễ Thanksgiving có khoảng 45 triệu chú gà Tây bị khai tử. Từ thời Tổng Thống Harry Truman (1945-1953) mỗi năm có một chú Gà Tây được ân xá. Chú Gà Tây may mắn năm nay có tên là Courage, nặng hơn 20 lbs được tổng thống Obama ân xá. Ngay trong ngày, chú ta được đưa đến Disneyland tham dự lễ tuần hành và sẽ sống đến hết cuộc đời ở đó. Từ lâu, nước Mỹ đã quy định lấy ngày thứ 5 của tuần áp chót tháng 11 làm ngày lễ Thanksgiving, nên hàng năm ngày lễ diễn ra ít khi trùng ngày với năm trước. Đêm đến, nhiều người đi xếp hàng để mua đồ giảm giá của ngày hôm sau gọi là Black Friday. Cháu tôi cũng đi từ chiều. Gần sáng nó mang về được 2 túi xách, không hiểu mua được những gì. Mấy đứa trẻ nói trước đó phải tới ngó trước vị trí món hàng nào mình định chọn. Vì cửa mở là mọi người ùa vô, mạnh ai nấy chụp lấy món đồ muốn mua. Chậm tay là không còn. Không có thì giờ để đi tìm kiếm, lục lạo như ngày thường. Người ta ước tính có hơn 100 triệu người xếp hàng để mua đồ giảm giá trong ngày này. Giáng Sinh ở Mỹ được mọi gia đình tổ chức như một dịp để tặng quà cho nhau. Người theo đạo Thiên Chúa giáo hay không, giàu cũng như nghèo, mọi thành viên đều có món quà tặng cho nhau, nên những ngày trước lễ là các cửa hàng quần áo, quà tặng khách hàng vô ra tấp nập. Ngoài đường thì nhiều nhà giăng đèn, bày tượng ông già Noel, xe nai, cây thông, người tuyết với đèn nhấp nháy. Truyền hình đi quay, chụp ảnh và thông báo những địa chỉ có nhà trang hoàng đẹp để ai muốn tham quan thì tìm đến. Cháu tôi cũng chở đi xem đèn qua nhiều con đường. Nhiều nhà chỉ có đèn sơ sài, nhưng nhiều nhà trang hoàng thật đẹp. Lộng lẫy nhất là một ngôi nhà có mặt tiền rất rộng. Họ làm cây thông, đèn, xe nai với những bóng đèn chạy theo điệu nhạc và đổi màu liên tục từ đỏ pha trắng cho tới các màu xanh, đỏ, tím, vàng, lục thật đẹp mắt. Cháu tôi đánh giá với ngần ấy đèn thì tiền điện có thể lên đến cả 1.000đô. Ngay phía trước nhà, họ để cái thùng có viết chữ xin đồ hộp và bánh kẹo để phát cho người nghèo, để khách đến tham quan đóng góp. Không nhận tiền. Em tôi thì những ngày lễ là khách liên tục nên giờ chót mới chở tôi đi mua quà. Thường thì những người mua vào giờ chót là những người nghèo, vì giờ đó mới có tiền, nên cửa hàng thì hàng hóa cạn kiệt, và thấy chỉ có những người Mỹ da đen. Chúng tôi mua cấp tốc, về lập tức gói rồi mang xuống sắp ở dưới gốc cây thông đã trang hoàng và gắn đèn trước đó khá lâu. Hai đứa cháu tôi thì có xe nên đã tự chuẩn bị quà từ trước cũng tập trung cả vô đó. Cả nhà tề tựu lại rồi tự chọn lấy món quà có tên mình, hay đích thân người tặng đưa cho. Ai nấy nhận quà xong là mở ngay tại chỗ. Quần áo thì thử luôn và cảm ơn người tặng cũng như khen món đồ vừa ý mình. Tôi được cháu tôi mua tặng cho 1 bộ đèn giả nến thắp bằng pin có hẹn giờ, vì nó để ý hôm qua nhà nó thấy nó chưng, tôi có khen đẹp và hỏi coi cách thắp ra sao. Đứa cháu trai thì mua cho tôi 1 áo khoác nhẹ bằng len mà trước đó nó lén hỏi chị nó tư vấn về kích thước, màu sắc để mua cho phù hợp. Em tôi thì mua cho cái túi xách. Chỉ có tôi, vừa không có phương tiện để tự đi, chỉ đi vào giờ chót, hàng hóa cũng cạn kiệt, lại không có thời gian để chọn lựa, nên quà tặng cũng bèo nhèo. Chỉ mua cho có. Nhưng cả nhà đều biết nên không ai thắc mắc. Có quà là vui rồi. Qua đó tôi biết thêm một nét văn hóa của người Việt sống trên đất Mỹ. Thấy không nhiều thì ít họ cũng ảnh hưởng với những phong tục, tập quán mà họ thấy là tốt nên tiếp thu vì nó gắn kết thêm tình thân của những thành viên trong gia đình, bạn bè. Cháu tôi có nuôi hai con chó. Noel nó cũng mua quà cho chúng. Bạn nó cũng tặng quà không những cho nó, mà còn cho cả hai con chó nữa! Hầu như tất cả hàng hóa ở Mỹ, từ máy móc cho tới vật dụng, quần áo, mua xong, mang về nhà dùng, trong thời gian còn bảo hành, nếu không hài lòng thì có quyền mang tới cửa hàng để đổi hoặc trả. Vì thế, việc mua quà tặng không sợ người được tặng không dùng được, vì nếu họ không thích thì sau đó cứ mang ra cửa hàng để đổi hoặc lấy tiền lại. Cũng vì vậy, sau tháng 1 là có thêm 1 đợt bán hàng giảm giá. Tức là những cửa hàng mang đồ bị trả, bán giảm giá đi, nên nhiều người lại đi sắm thêm, vì hàng còn mới nguyên nhưng rẻ được đến mấy mươi phần trăm. Sau thủ tục tặng quà là bữa tiệc Giáng sinh. Trước đó, cháu tôi đã mua một loại thịt bò ướp sẵn được cho là món ngon số một của người Mỹ gọi là Prime Rib. Món này được ướp sẵn với giá hơn 10đô/lbs. Một cục to đến cả chục pounds và 1 cục Ham. Về mở giấy hướng dẫn để bỏ lò. Trước hết là độ thật cao trong bao lâu, rồi giảm lần xuống, tóm lại là cả 4 giờ đồng hồ để cho cục thịt đủ chín nhưng bên trong vẫn còn đỏ. Thịt này ăn với rau trộn và khoai tây nghiền với sữa tươi. Bữa tiệc còn có rượu vang. Mọi người cụng ly để chúc nhau Giáng Sinh vui vẻ. Năm trước qua Mỹ tôi thấy ở nhiều ngã tư có nhiều người đứng ôm bảng homeless. Có cả phụ nữ da đen. Năm nay thí ít hơn, chỉ có vài người đàn ông khoảng độ 5, 60 tuổi. Trời nắng, mưa nhỏ họ cũng kiên nhẫn đứng cầm cái bảng để người chạy xe chú ý. Đèn đỏ, xe ngừng, có người ngoắc lại cho thì họ chạy vội đến để lấy. Nhưng cũng ít người cho, vì khi đèn xanh bật lên là phải chạy ngay, không thể chần chừ vì còn những xe phía sau. Ở Siêu Thị A&A có một anh chàng người Mỹ da đen chuyên đứng đó, chờ người mua hàng đẩy xe ra, chất đồ lên xe thì anh ta chạy ra, chắp tay xin 25cents, nói là để đẩy cái xe đi cất. Có người cho, có người không. Siêu Thị cũng nhiều lần đuổi, nhưng anh ta cứ ở lỳ. Có lẽ đó là cách kiếm tiền lương thiện duy nhất mà anh ta nghĩ ra chăng? Có lần dừng xe đổ xăng tôi cũng thấy cảnh có anh chàng Mễ chạy xe đến đó rồi cạn xăng mà không tiền đổ. Anh ta đến từng người đang chờ đổ xăng để xin giúp đỡ. Có người cũng cho 1, 2 đ. Thỉnh thoảng tôi cũng mua vé số Mỹ cho biết. Vé số ở Mỹ không in sẵn dãy số để bán như ở nước ta, mà người mua tự chọn con số. Một số cây xăng có bán vé số. Người mua lấy 1 tờ có in nhiều ô trống rồi lấy viết bic tô đen những ô mình muốn chọn. Mỗi ô là một con số từ 0 đến 9, rồi cho vô máy. Máy sẽ in ra cái vé với những con số mà người mua đã chọn. Mỗi dãy số là 1đ. Muốn mua mấy số thì cứ điền, trả tiền rồi in ra. Số độc đắc gồm 5 cặp số và một con số lẻ gọi là Mega. Cứ trúng đủ 5 cặp, không cần theo thứ tự, và con Mega là được. Ngoài giải nhất cũng có những giải phụ nhưng tiền trúng rất nhỏ. Mỗi tuần chỉ xổ có 2 ngày, thứ Tư và Thứ Bảy. Tôi có trúng được 2 lần, một lần 2đ, 1 lần 3đ, lỗ vốn, và thấy rằng so với vé số ở Việt Nam thì số ở Mỹ khó trúng hơn rất nhiều, nhưng giải độc đắc rất cao. Nếu lần trước xổ mà chưa có ai trúng thì số tiền được dồn cho lần sau nên số độc đắc dồn từ nhiều kỳ rất lớn, có khi lên đến mấy trăm triệu đô. Đợt này số độc đắc rất cao nên nhiều người xếp hàng để mua. Nhưng số này không có bán ở Cali, mà ở Tiểu Bang khác. Nghe nói có 2 người trúng. Em tôi làm nghề thợ tóc gần 20 năm qua, sắm nhà, mua xe cũng nhờ vào đó. Nghề tóc đòi hỏi gần 2 năm đào tạo và người hành nghề phải nói tiếng Anh khá vững để tiếp xúc với khách hàng. Tiệm nó mở cạnh một Siêu Thị nên sân bãi đậu xe thoải mái và có lượng khách hàng ổn định. Ở đó ít thấy khách Việt hay Tàu, mà đa phần là Mỹ, Mễ, Ấn Độ. Nhiều người đến làm rồi rủ thêm bà con, bạn bè. Khách lâu năm trở thành thân thiết, như vừa qua, một khách hàng nhỏ tuổi, người Mễ, không biết làm gì mà bị bắn chết. Nó hay được, vô tận nhà xác để viếng và phúng điếu, gia đình họ rất cảm động. Có những khách hàng nhỏ tuổi còn hỏi ý kiến về việc học hành. Thời gian sau quay lại cảm ơn, nói là nhờ em tôi khuyên đừng bỏ học nên giờ đây đã tốt nghiệp và tìm được việc làm với lương cao. Có người cũng kể về gia đình, vợ hay chồng. Nó rất được lòng khách hàng, nên nhiều người đi vùng khác, lúc trở về cũng quay lại. Thậm chí còn biết khách hàng có bao nhiêu con, học gì, làm gì, vì khách cũng hay tâm sự, nên tiếng Anh yếu thì không thể làm nghề được. Cứ mỗi ngày ra tiệm thì ít nhiều cũng có tiền, nên nó cũng ít ở nhà, trừ khi đi xa chơi. Tiệm em tôi cũng cộng tác thêm với vài người thợ Nails. Thợ nails ở Mỹ thì không cần tiếng Anh nhiều. Quy trình đào tạo cũng ngắn, chỉ mất 2 tháng rưỡi. Họ được chủ bao lương, tối thiểu cũng 1.800đô/tháng, trên số đó thì chia. Có vùng lạnh còn thấy báo đăng báo 2.500 đô. cho nên đa phần người Việt mà ít chữ thường chọn nghề này. Nghề làm Nails là nghề bình dân, vì chuyên “nâng niu bàn chân Mỹ”. Tuy vậy, dễ học, dễ làm, và đi vùng nào cũng sống được. Cũng vì dễ tìm việc nên đa số thợ nails cũng rất chảnh. Chỉ cần chủ nói một câu không vừa ý là xách đồ nghề bỏ đi. Thợ nails cũng là người đi xe xịn, xài đồ hiệu. Giới chủ tiệm, nhất là những chủ không có tay nghề rất ngán họ. Chuyện cãi nhau dành khách giữa họ với nhau, giữa họ với khách hàng xảy ra như cơm bữa. Thời hoàng kim của thợ nails, mỗi tháng mỗi người kiếm 3, 4 ngàn đô là chuyện thường. Nhưng thời này không còn vàng son với họ nữa, vì kinh tế suy thoái, người diện cũng hạn chế tiêu xài, tiền tip cũng ít đi. Nhiều tiệm cũng ế, lượng khách giảm hẳn. Không đủ tiền trả mặt bằng. Chủ nhân phải bỏ tiệm để đi làm thuê. Có tiệm phải đăng báo sang nhượng giá rẻ. Có người quen của em tôi, hùn nhau mỗi người 60 ngàn đô để sang một cái tiệm cao cấp. Khi ế chỉ lấy ra được có 10.000 mỗi cổ phần! Một ngày làm việc của em tôi bắt đầu từ 9 giờ sáng. Trước đó coi trong nhà có đồ ăn dư của ngày hôm qua thì cho vô hộp, vì buổi sáng đâu có thì giờ nấu nướng. Lấy theo cơm, canh... rồi lái xe đi. Trưa ăn cơm ở tiệm đến 19g30 mới về. Ở tiệm có khi không ăn kịp hết chén cơm. Vừa bỏ lò hâm xong, lấy ra, mới và được vài miếng thì có khách đến. Vậy là phải buông đũa chạy ra tiếp. Có ngày khách đông thì nhịn đói, mang cơm về nhà luôn! Kiếm tiền vất vả như vậy nên em tôi cũng ăn tiêu dè sẻn, chỉ dám mua đồ giảm giá, không dám xách bóp Gucci, LV mấy ngàn đô một cái như các cô thợ nails. Một ngày thời tiết tốt, không lạnh nhiều, cháu tôi đã đưa tôi đi Napa để tham quan vườn nho và vài nơi sản xuất Rượu Nho nổi tiếng của nước Mỹ cách thành phố tôi ở khoảng 200km. Đầu tiên là đến Lâu Đài Cổ có tên là CASTLE OF LOVE, tên tiếng Ý là CASTELLO DI AMOROSA là nơi sản xuất rượu nho cùng hiệu. Lâu Đài được xây toàn bằng đá và gạch, có 7 tầng, 4 chìm dưới mặt đất. Tất cả có 107 phòng. Từ ngoài bước vô lâu đài phải bước lên một số nấc thang xây bằng gạch xưa. Sau một sân bằng phẳng chừng vài mét là một chiếc cầu cây có dây cáp và xích to bằng cườm tay để kéo chiếc cầu lên, như ngày xưa các lâu đài thường xây như thế để khi bị tấn công thì chui vô trong lâu đài, kéo cầu thang lên, đóng cửa lại. Bên ngoài rất khó để xâm nhập vô. Cánh cửa bằng gỗ rất dày và nặng, có đóng đinh đồng lớn như chúng ta thường thấy trong phim ảnh. Bước vào bên trong là có một anh chàng đứng đó để hướng dẫn du khách, Ai muốn tham quan tự do thì cứ đi. Ai muốn có người thuyết minh và được thử rượu thì bước vào trong quầy để mua vé. Giá 32đô cho một người. Cháu tôi mua vé rồi ra chờ, cứ 15 phút là có người hướng dẫn cho một tốp. Tốp chúng tôi có 14 người. Anh chàng hướng dẫn tới, dắt đoàn chúng tôi tới một phòng nhỏ, dùng làm Nhà Nguyện của lâu đài và kể về tiểu sử lâu đài. Anh nói thao thao bất tuyệt, tất nhiên là tôi nghe như vịt nghe sấm, nhưng cháu tôi sau đó dịch lại cho biết, và sau đó tôi về mở trên mạng để tham khảo tiếp. Anh ta kể, đầu tiên chủ lâu đài định chỉ xây một ngôi biệt thự bình thường để an dưỡng. Nhưng được biết rằng vùng đó có thể trồng được loại nho để sản xuất rượu, nên ông quyết định xây thành một lâu đài, vừa trồng nho để làm rượu luôn trong khuôn viên đất rộng đến 7 mẫu. Ông đi qua nước Anh để tham quan, và lấy mẫu của một lâu đài thế kỷ 14 bên đó, rồi mua gạch, đá của những lâu đài cổ bị phá bỏ của nước ngoài chở về, thuê kiến trúc sư từ Úc sang để dựng lại từ phòng ốc, kiến trúc cho giống hệt lâu đài cổ kia. Thợ thì ông thuê từ Ý, Úc để xây và vẽ trang trí trong các phòng. Họ phải làm việc nhiều năm, sau đó có người ở lại luôn. Thậm chí ông ta còn mua lại những bàn, ghế, đèn treo xưa và những dụng cụ tra tấn, hình nhân bằng đồng… của Viện Bảo Tàng. Ông dành riêng một phòng để xây chuồng cọp một bên. Giữa phòng đặt chiếc giường tra tấn ngày xưa trói tội nhân nằm lên chông sắt, cùm chân. Cạnh đó một chiếc ghế ráp bằng những cục sắt nhọn đầu, để tội nhân ngồi trên đó rồi đốt lửa bên dưới cho nóng. Góc phòng là dụng cụ hình khối tròn bằng sắt, vừa 1 người đứng vô, bên trong cánh cửa có cây sắt nhọn, khi bắt tội nhân đứng vô đó, đóng cửa lại là sắt nhọn xuyên qua người. Sau đó, họ lôi tội nhân ra, bỏ vô chiếc lồng như lồng chim, treo lên để răn người khác! Bên trên vách tường cũng treo những dụng cụ cũng dành để tra tấn. Cạnh bên là một phòng được thiết kế để có thể nghe âm thanh từ các phòng khác. Nơi đó, chủ nhân lâu đài bắt những người cận vệ của ông ta ở đó để theo dõi xem có ai mưu đồ tạo phản hay không, vì chỉ cần bàn bạc là trong phòng này sẽ nghe hết! Mọi thứ trong lâu đài đều cổ kính, thậm chí những cánh cửa của restroom cũng vẽ tranh lên đó, bên ngoài nhìn vào tưởng phòng triển lãm. Hệ thống nước thì hiện đại, cho tay vô là có nước, nhưng vòi nước được thiết kế theo mẫu hình đầu rồng xưa. Lâu đài này phải xây mười mấy năm mới hoàn tất, so với lâu đài ngày xưa phải xây cả 100 năm mới xong. Chúng tôi được hướng dẫn xem các thùng khổng lồ, cả chục tấn, chứa nho để làm rựợu và giải thích quy trình làm rượu bắt đầu từ lúc Nho mới hái vô, làm sạch rồi cho vô thùng ở đâu. Sau thời gian là chuyển qua thùng khác như thế nào, cho đến khi ra những cans nhỏ như cái trống nằm xếp lớp trong các phòng với các lối đi chằng chịt, rẽ trái, rẽ phải như một mê cung khổng lồ mà nếu đi một mình chắc khó tìm ra lối để lên mặt đường. Phòng nào cũng sạch tinh tươm, không khí lạnh ngắt, có những vòi phun khí lạnh để ủ cho rượu lên men. Chúng tôi cũng được mời nếm thử rượu nho mới làm được 1 năm, để thấy là rượu chưa đủ độ để uống được thì chỉ có vị chát và đắng. Qua các phòng chưng bày những chai rươu, người hướng dẫn cũng cho xem những chai rượu lâu năm đã trở thành dấm. Cuối cùng là tới 1 phòng để thử rượu. Họ đưa cho xem danh sách gần 20 loại rượu, và khách muốn nếm thử hiệu nào thì người hướng dẫn sẽ rót để mời.Mỗi người được thử 5 hiệu. Thử xong thì ăn bánh mì để sẵn trong những bao nhỏ. Mỗi cái chỉ to bằng chiếc đũa, mục đich là để làm mất đi vị của rượu thử trước. Tôi không biết uống rượu nên cũng nhấp thử một chút thì chỉ thấy đắng nghét, nhưng cháu tôi và bạn nó thì khen ngon. Chai giá cao nhất hình như 90 đô. Chai thấp nhất là 12 đô. Rượu ở đây chỉ bán cho khách tham quan và người tiêu dùng mua trực tiếp, không có bán trong các nhà hàng. Khách nếm xong, muốn mua hiệu nào thì nhân viên đóng gói, ra quầy trả tiền là hoàn tất buổi tham quan. Những người không mua vé tham quan thì chỉ được đi một số phòng nào đó thôi, không được đi nhiều nơi và cũng không được nếm thử rượu. Cách tiếp thị rượu của hãng cũng rất là hiệu quả. Thử hỏi mỗi người được thử 5 loại, mỗi loại là gần nửa ly loại có chân dành để uống rượu, thì làm sao không xỉn! Tôi thấy có người mua đến 12 chai. Cháu tôi sau khi thử cũng mua 2 chai, hơn 100 đô. Lúc về, nó cự thằng bạn đi cùng, hỏi sao không can nó? Thằng kia trả lời là chính nó cũng xỉn làm sao tỉnh táo để mà can! Trước khi ra về thì mọi người qua ngang một sảnh đường khá rộng, trong đó có bày bán những đồ lưu niệm của lâu đài. Chúng tôi ra ngoài tiếp tục chụp thêm một số ảnh nữa rồi mới về. Không khí ở dây khá lạnh, nhưng cảnh thì chụp góc nào cũng đẹp. Người tham quan hôm đó cũng khá đông. Rời lâu đài, chúng tôi tiếp tục đi thăm vài hãng rượu khác. Nhưng phải thú thật là sau khi tham quan lâu đài cổ đó rồi thì những hãng rượu khác không có gì hấp dẫn nữa, dù nơi nào cũng có thiết kế nét riêng để hấp dẫn du khách, nhưng quy mô thì nhỏ, và chỉ là những ngôi nhà bình thường nên không thể nào so sánh với lâu đài kia được. (Còn 1 kỳ nữa)
Tháng 1 năm 2013 TÂM NGUYỆN
Phụ Bản IV Tản Mạn LÀM NGHỆ THUẬT Đầu tiên, phải khẳng định luôn rằng: cụm từ Nghệ thuật chỉ bắt đầu xuất hiện khi đời sống con người đã tiến đến một ngưỡng văn minh nhất định. Khi những hình ảnh thông thường của đời sống được nâng lên hàng nghệ thuật cũng có nghĩa đời sống được thăng hoa thêm một bậc, cũng có nghĩa con người nhận thức được thế nào là những nét đẹp cuộc đời. Bởi những câu chuyện đời sống thông thường xảy ra chung quanh mỗi con người hàng ngày có khi quá quen dẫn đến nhàm tẻ. Nhưng qua con mắt của người làm nghệ thuật đã chỉ ra vẫn luôn có những nét đẹp ẩn hiện trong những thông thường ấy. Nhờ đó, con người nhận ra cuộc sống là sự chắt lọc những cái đẹp từ bao hình hài cũng ý nghĩa. Người ta sẽ biết yêu nhiều hơn, trân trọng nhiều hơn những cái đẹp mà người ta đã có được. Và có thể tóm lại một câu “Nghệ thuật là sự gom nhặt chắt lọc những tinh túy của cuộc đời và lưu giữ chúng”. Như đã biết, nghệ thuật có rất nhiều loại hình: văn thơ nhạc họa điêu khắc nhiếp ảnh sân khấu điện ảnh kiến trúc… Đó là những loại hình đã được cô đúc thành một cấu trúc mang tính ngành nghiệp. Bên cạnh đó, có khá nhiều hoạt cảnh đời sống khác cũng mang tính nghệ thuật không kém. Ví dụ như: nghệ thuật ẩm thực, nghệ thuật giao tế, nghệ thuật công sở, nghệ thuật chăm sóc cây cảnh, nghệ thuật cắm hoa, nghệ thuật diễn đàn… Tóm lại, bất kỳ loại hình sinh hoạt đời sống nào được uốn nắn cho chỉn chu hơn, đạt hiệu quả cao hơn, dễ tiếp nhận với cộng đồng hơn đều phải được nâng lên tầm nghệ thuật. Trong hầu hết các lĩnh vực đời sống hiện nay đều liên quan đến cặp từ “Nghệ thuật”. Như vậy, nghệ thuật là cuộc sống hàng ngày, nghệ thuật là sự nâng cao nhận thức con người với các vấn đề chung quanh mình, để con người ngày càng biết sống đẹp hơn, lành hơn, và nhiều ý nghĩa hơn, nói một cách khác: nghệ thuật là văn hóa. Đó là bàn rộng ra cái nghĩa của Nghệ thuật, trở lại dòng tiêu đề “LÀM NGHỆ THUẬT”. “Làm” có nghĩa là công việc thường xuyên, có chủ đích, có tâm huyết, có hướng phát triển lâu dài, có sự cộng hợp cộng hưởng cùng xã hội, là một công cuộc của cả một đời người, là một chặng trình dài mang tên sự nghiệp. Đây chính là những loại hình cô đúc mang tính ngành nghiệp kể trên. Điều đầu tiên nên đề cập đến là: thiên hướng nghệ thuật. Thiên hướng là bởi, nghệ thuật không phải là sự tự lựa chọn đào tạo một cách lý tính mà được. Đầu tiên là trong con người ấy phải có một đam mê, có năng khiếu, có tình yêu nồng nhiệt với một thể loại nghệ hình sắc. Từ những yếu tố phôi thai ban đầu ấy, được truyền thụ một số kinh nghiệm của người đi trước, được tạo điều kiện và môi trường thuận lợi để đi sâu dần vào nghiệp. Cộng thêm sự trưởng thành của tư duy, góc nhìn, khuynh hướng, cá tính mà lập thành cái gọi là quan điểm. Nghệ thuật còn là sự sáng tạo dựa trên cơ sở đời sống, Người Làm nghệ thuật thông qua quan điểm của mình mà hình thành nên những chất, tạng riêng, đó gọi là: quan điểm sáng tạo. Cái quan điểm sáng tạo này không chi phối không dẫn dắt được từ ngoại thân, cho dù từ những bậc thầy có bề dày chuyên môn đến đâu nữa thì cũng chỉ là những gợi ý. Nếu răm rắp làm theo một hình mẫu, hoặc chịu ảnh hưởng một khuynh hướng nào đó đến mức rập khuôn, thì đó không thể gọi là sáng tạo nghệ thuật được nữa. Làm nghệ thuật đến mức ngày đêm lăn lê chịu bao nhiêu vất vả thử thách, trả giá những tác phẩm bằng tất cả mọi khả năng có thể, thì đó gọi là lao động nghệ thuật. Đến cái ngưỡng này thì con người và nghệ thuật ấy như nhập làm một. Sản phẩm của nghệ thuật ấy là sự sống là máu là tâm can là giá trị của người làm ra nó. Có thể ví người làm nghệ thuật cũng như người leo núi. Leo được đến đâu thì biết đến đấy, có khi ngỡ đã lên được đến đỉnh, nhưng thực chất chỉ là lên được cao hơn một số người mà thôi, vì ngoài núi còn có núi, ngoài bậc thang này còn có bậc thang khác. Vì vậy mà đích thực nghệ thuật không có đỉnh. Sự đánh giá thang bậc chỉ tùy thuộc vào một giai đoạn và một thành phần cảm quan tương ứng. Nên có thể rộ lên trong một thời gian rồi dần dần chìm xuống và mất hút. Có một góc độ khá phi lý của nghệ thuật là chỉ số đám đông. Cho dù ai cũng biết, đám đông chưa chắc đã là đúng đắn, đã là chuẩn xác. Nhưng cứ được một con số kha khá tung hô thì nghiễm nhiên có thể xem đó là một sản phẩm nghệ thuật đã gặt hái được thành quả. Và rồi cũng kha khá con số ấy rụng rơi rất nhanh. Chính xác mà nói, thì giá trị bất biến của một sản phẩm nghệ thuật là độ bền theo thời gian. Sự sàng lọc tự nhiên qua nhiều thế hệ là sự khẳng định xác thực nhất về một thang bậc giá trị. Mặc dù vậy, cuộc sống luôn bày ra những bi hài quanh những ảo thực của những giá trị. Và con người, dù thế nào vẫn bị cuốn bị ảnh hưởng không ít vào những gì mang tính thời đoạn. Nghệ thuật là sự tinh lọc cuộc sống và quay trở lại phục vụ cuộc sống. Mà cuộc sống luôn là sự hoàn thiện không ngừng cho con người trên chặng trình chinh phục tầm cao về nhân cách, tính nhân văn và sự nhân bản. Là những điều xây dựng nên một thế giới người đúng nghĩa. Loại dần đi những bản năng sống một cách dục vọng và hiểm ác. Chính vì thế mà sản phẩm nào không đưa ra được một thông điệp tích cực và mỹ cảm nhân tính thì không thể xem đó là sản phẩm nghệ thuật. Điều này tùy thuộc rất then chốt vào bản thân người tạo ra nó. Người làm nghệ thuật chân chính không chỉ có tài mà còn phải có tâm có tầm. Phải nhận thức một cách sâu sắc rằng: những gì mình làm ra sẽ có xúc tác thế nào vào cuộc sống chung. Không thể tùy tiện ném ra một hình thù nham nhở rối mù lem luốc làm vẩn đục những tâm hồn, làm băng hoại những trái tim và bảo đó là nghệ thuật. Cho dù cuộc sống vẫn luôn phải chịu lắm ngổn ngang bởi sự đa diện đa tầng, nhưng sẽ bớt đi được nhiều nhiều nghịch cảnh, sẽ bớt đi được nhiều nhiều mù tối, nếu được thụ hưởng những sản phẩm nghệ thuật đúng nghĩa và có tầm. Người làm nghệ thuật đương nhiên phải có cái nhìn sâu hơn xa hơn về một số hoạt cảnh đời sống hơn nhiều người. Thấy được những góc độ bất cập của vấn đề và dùng chuyên môn của mình phản ảnh đồng thời gửi gắm một ước vọng. Hoạt động nghề trải dài theo tâm tưởng tuổi tác tinh túy của bản thân, bề dày cả số lượng lẫn chất lượng đến một độ cao tương đối nào đó thì được gọi là “Nhà”. Khi công luận đã vô hình chung thừa nhận cấp bậc “Nhà” này, thì đã có thể xem đó là sự chuyên nghiệp. Làm nghệ thuật đúng nghĩa không thể thiếu sự chuyên nghiệp. Có chuyên nghiệp thì mới có thể cho ra một tác phẩm đắt. Có chuyên nghiệp thì mới khẳng định được cái gọi là tầm vóc của một “Nhà”. Và độ chuyên nghiệp càng cao càng sâu thì sự bảo đảm độ bền của giá trị sản phẩm càng tin tưởng và thuyết phục. Để đạt được đến độ chuyên sâu như thế thì người Làm nghệ thuật cần có một kim chỉ nam “MINH-TĨNH-ĐỊNH”. Minh là cái nhìn sáng, việc làm sáng, lối sống sáng. Tĩnh là đủ một độ trầm để nhận thức cho ra cốt lõi được vấn đề mà mình muốn chuyển tải, đủ độ vững để thoát khỏi những khen chê miệng lưỡi người đời, đủ độ khoan hòa để lướt qua những tị hiềm đố kỵ. Định là hiểu rõ chính mình, bản chất khả năng tính cách, hiểu rõ môi trường mình đang cộng đoàn, các thành phần tham gia, xu hướng và văn hóa, hiểu rõ tính ảo thực giả chân để giữ mỉnh tỉnh mà không lạnh, mê mà không sa. Khi cầm chắc được kim chỉ nam này, người Làm nghệ thuật sẽ có đủ trí lự và phong thái tự tin để đi đến hết con đường yêu mê của mình. Vì những lẽ trên mà người làm nghệ thuật luôn được xã hội coi trọng. Đáng tiếc là có một số người, khi đã tạm đạt được một chút thành tựu tương đối nào đó, thì bỗng cảm thấy mình sao mà quá tài ba, quá lộng lẫy, quá vĩ đại, và họ tỏ ra dị hợm khó coi, có những hành xử kệch cỡm lố lăng hách dịch vô lối. Họ không nghĩ rằng, họ tự đánh mất giá trị của họ, họ không nghĩ rằng một chút thành công nho nhỏ của họ chưa là gì cả so với quả đất tròn bao la này, họ chỉ biết có một thứ ảo giác sướng rơn người đang nâng họ lên cao cao mãi, họ cảm thấy cái mũ hào quang của họ sao mà chói sáng đến mê man, để rồi, sẽ đến một lúc, họ bắt buộc phải nhìn thấy mình đang ngồi xệp trong khi có nhiều nhiều tượng đài thực sự đã mọc lên ngay bên cạnh họ. Nếu quá vội vàng khi tận hưởng thành quả trong một thời đoạn, thì không thể có những sản phẩm nghệ thuật đúng nghĩa và lâu bền. Vì vậy mà con đường nghệ thuật thực sự là một thách thức về nhiều mặt với tất cả những ai dấn thân vì nó. ĐÀM LAN DẶN DÒ VÀ BA HOA Lúc vịt con ra khỏi cửa, vịt mẹ ở sau lưng nói: - Đem theo cái ô, cục khí tượng nói chiều nay trời sẽ đổ mưa; lúc qua đường nhớ cẩn thận, nhìn rõ ràng trước sau không có xe mới đi qua; tối nhớ về cho sớm, cẩn thận… Vịt con không chịu nổi, cắt đứt lời của mẹ: - Từ sáng đến tối mẹ cứ ba hoa, có thôi không nào? Dần dần vịt con lớn lên, kết hôn, cũng làm vịt mẹ, mỗi ngày đàn con vây luẩn quẩn quanh mình. - Mẹ bảo con mặc thêm quần áo có nghe không nào?… Đợi một chút không thì lại cảm mạo đấy. Nhớ ăn cho hết rau ở trong cơm hộp, gầy như thế mà còn kén ăn, còn… Không đợi nó nói hết, lũ con la lên kháng nghị: - Má, má nói lôi thôi không à, ngày nào cũng ba hoa không à . Nó muốn mở miệng chửi mắng, đột nhiên im lặng không nói, câu nói ấy thật quen thuộc, từa tựa như đã nghe qua ở đâu rồi thì phải ! Đúng rồi, chính là bản sao lại của nó hồi năm xưa. Thật kỳ lạ, lời ba hoa của mẹ, hôm nay chợt nhớ lại từng câu từng câu, đều tràn đầy sự dặn dò quan tâm yêu mến. Nó hỏi Đấng tạo hóa: - Rốt cuộc thì dặn dò và ba hoa có gì là khác biệt? Đấng tạo hóa nhẹ tiếng trả lời: - Khác biệt ở chỗ thân phận làm mẹ và làm con không giống nhau. Hà Mạnh Đoàn st Muốn diệt cỏ hoang hãy trồng cấy mùa màng Một nhà hiền triết dẫn một toán học trò của mình đi ngao du khắp chốn trên đất nước. Trong vòng 10 năm trời thầy trò họ theo nhau đi hầu hết các nơi, gặp gỡ hầu như tất cả những người có học vấn. Lúc này, thầy trò họ đã trở về, người nào người nấy kinh luân đầy một bụng, kinh nghiệm đầy mình. Trước khi vào thành, nhà hiền triết ngồi nghỉ trên một bãi cỏ ở ngoại thành, nói với học trò của mình: - Mười năm ngao du, các con đều đã trở thành kẻ sĩ học rộng hiểu nhiều, lúc này đây, sự học sắp kết thúc ta sẽ giảng cho các con bài học sau cùng. Các học trò kéo đến ngồi vây quanh nhà hiền triết. Lát sau, nhà hiền triết hỏi: - Hiện chúng ta đang ngồi ở đâu? Các học trò đồng thanh trả lời rằng đang ngồi trên bãi cỏ hoang ở bên ngoài thành. Nhà hiền triết lại hỏi: - Trên bãi cỏ hoang này có cây gì mọc lên? Học trò đồng thanh đáp: - Trên bãi hoang mọc toàn cỏ dại! Nhà hiền triết nói: - Đúng! Trên bãi cỏ hoang này mọc toàn cỏ dại. Bây giờ ta muốn biết bằng cách gì để trừ hết thứ cỏ dại này đi? Các học trò nhìn nhau hết sức ngạc nhiên, họ thực sự không ngờ rằng, nhà hiền triết xưa nay vốn chỉ đi sâu nghiên cứu những điều huyền bí của cuộc sống, vậy mà trong bài học sau cùng này lại hỏi một vấn đề giản đơn như thế? Một người trong toán học trò lên tiếng trước: - Dạ thưa thầy, chỉ cần có một cái xẻng thôi là xong hết ạ! Nhà hiền triết khe khẽ gật đầu. Một người học trò khác như phát hiện ra điều gì mới, nói tiếp: - Dạ thưa thầy, đốt lửa để diệt cỏ cũng là một cách rất hay đấy ạ! Nhà hiền triết im lặng mỉm cười, ra hiệu gọi một người khác. Người học trò thứ ba nói: - Thưa thầy, rắc vôi lên cũng có thể diệt được hết tất cả các giống cỏ đấy ạ! Tiếp ngay sau đó là người học trò thứ tư anh ta nói: - Diệt cỏ phải trừ tận gốc, chỉ cần nhổ được rễ lớn là xong hết! Và những học trò khác lần lượt đưa các ý kiến... Nhà hiền triết đứng dậy, nói: - Bài học hôm nay đến đây là hết, các con hãy về đi, rồi theo cách mình nghĩ, mỗi người hãy diệt cỏ ở một mảnh đất trên bãi hoang này. Nếu không diệt được cỏ, một năm sau quay lại đây,chúng ta nói chuyện sau..." Một năm sau, mọi người quay trở lại, có điều khác là bãi cỏ năm trước không còn đầy cỏ dại nữa, mà đã trở thành cánh đồng ngô lúa xanh tươi. Toán học trò lại ngồi quây quần gần ruộng lúa, chờ nhà hiền triết tới nhưng chờ mãi vẫn không thấy ông tới... Mấy năm sau nhà hiền triết ấy qua đời, những người học trò cũ của ông đã chỉnh lý lại những tài liệu, luận thuyết mà ông nêu ra, thấy ở một chương cuối, ông đã tự ghi thêm vào một câu: "Muốn diệt hết cỏ dại ở bãi hoang, chỉ có một cách hay nhất, đó là hãy trồng cấy mùa màng lên đấy! Cũng như vậy, muốn để linh hồn, tinh thần không phải buồn lo tản mạn..., thì cách tốt nhất là hãy chiếm cứ nó bằng những đức tính tốt, tư tưởng hay!". Xin được thêm vài ý. Chúng ta có thể làm một việc thiện, việc có ích, dù việc nhỏ... giúp đỡ người thân, bạn bè, người đang gập khó khăn...! Tâm hồn sẽ thanh thản hơn... Tùy điều kiện, chúng ta có thể giúp đỡ mọi người! Không nhất thiết phải giúp đỡ bằng vật chất có giá trị cao! Tất cả chúng ta đều ít nhiều trải qua những khi gập việc, hoàn cảnh... khó khăn! Những giây phút chán nản, tưởng như cuộc sống bế tắc! Có khi chán đời! Đôi khi một ý tưởng hay, một lời động viên, lời khuyên, một cuốn sách, bản nhạc, bài thơ... cũng có ích với những người đang găp khó khăn, giúp họ tìm ra lối thoát, cách giải quyết! Điều đó đôi khi có ích hơn tiền bạc! Tôi nhớ lại câu chuyện "Người đầu bếp già" của Pauxtopxki mà chắc ai cũng vẫn nhớ, kể một chuyện về một nhạc sĩ thiên tài, đầy lòng bác ái... Xin kể rất vắn tắt, sơ lược để các em học sinh chưa đọc hiểu rõ hơn... Một buổi tối mùa đông thế kỷ 18, thành Vienne ngập tuyết. Một cô thiếu nữ đi tìm vị linh mục vì cha cô sắp qua đời! Nhưng khuya quá, không tìm được! Cô gặp một người qua đường và hỏi thăm. Người đàn ông nhỏ bé này nhận lời và về nhà ông cụ. Cụ già đang trên giường, đang nói một mình... Cụ kể lại những sai lầm trong đời..., ân hận và bày tỏ ý muốn được thấy lại những kỷ niệm đẹp trong đời mình..., thấy lại hình ảnh gia đình ngày xưa, người yêu... Nhạc sĩ khuyên giải và ngồi vào đàn piano, bắt đầu chơi nhạc... Tiếng dương cầm điêu luyện lan tỏa trong căn nhà, vang lên như dòng ánh sáng đem lại sức sống... Từ lâu lắm có lẽ chiếc dương cầm cũ kỹ này không được biểu lộ hết khả năng! Cụ già lắng nghe và đột nhiên kêu: Tôi đã thấy! Thưa nhạc sĩ tôi đã thấy những ngày tuổi trẻ thơ mộng... tôi sống cùng gia đình thật sung sướng... Nhạc sĩ chuyển tiết tấu, nét nhạc dồn dập hơn: cụ có thấy hoa đang nở, chim đang hót, các dòng suối chảy róc rách... và biết bao đàn chim đang bay lượn trên kinh thành Vienne cổ kính tuyệt đẹp của chúng ta? Cụ già lại nói tiếp như trong giấc mơ... và khóc... Tôi đã thấy tất cả, vâng, tôi đã thấy lại ngày tôi gặp nàng... Marta thật đẹp, chúng tôi đã có một tình yêu thật say đắm, thật tuyệt vời... Nhưng rồi tôi đã lấy một cái đĩa của Bá tước, chỉ để tặng nàng! Tôi rất ân hận! Nhạc sĩ an ủi: cụ không phải ân hận nữa, ai cũng có khi sai lầm, nhưng đây chỉ là một việc rất nhỏ, một biểu hiện của Tình Yêu, không hại gì đến ai... Cụ đã có một tình yêu thật đẹp mà nhiều người mơ ước... Cụ sắp được gặp lại tất cả những người thân yêu... Cụ già yếu ớt bày tỏ: cảm ơn ngài, tôi thật sung sướng, nhưng tôi muốn biết ngài là ai mà có thể đưa tôi sống lại dĩ vãng đẹp đẽ, đem lại niềm vui... Nhạc sĩ bỏ chiếc mũ và cụ già thảng thốt nhận ra người nhạc sĩ thiên tài của thành Vienne! Cụ già khẽ mỉm cười: cảm ơn nhạc sĩ, và từ từ khép đôi mắt... Cô gái nhỏ khóc ngất, quỳ xuống, thốt lên: Mozart! rồi gục đầu bên người cha... Khi cô ngửng đầu lên, nhạc sĩ đã ra đi, và những tia nắng hiếm hoi bắt đầu rọi trên nền tuyết đường phố Vienne... Câu chuyện này được dịch ra tiếng Việt từ lâu! Ai cũng xúc động khi đọc! Bản dịch của V.T.H.rất hay! Tôi chỉ kể lại rất sơ lược... Mong các em học sinh tìm đọc và có ngày may mắn được đến Vienne như con gái tôi và tôi, cách đây hơn 10 năm! Bs Nguyễn Lân Đính st 03/3/1013 HAI LẦN CHẾT Tối hôm ấy, chúng tôi đi viếng một người bạn ở phố hàng Bột mới từ trần, lúc ra về đến giữa phố Sinh-từ thì trời đổ mưa, nên anh Tri rủ các bạn về nhà mình ngủ để mai đi đưa ma cho tiện. Anh em lâu không họp mặt, truyện trò đến hơn mười hai giờ đêm. Câu truyện dồn cả vào sự nghiệp và tính nết Đàm-văn-Tâm, người thiệt mệnh. Anh Tâm là một người thiếu niên thông thái, có khiếu về khoa học và đối với bạn là một người tử tế thật thà. Anh ta không lấy vợ, cha mẹ mất sớm, bao nhiêu của cải của ông chú ruột để lại cho chỉ dùng vào công cuộc khảo cứu mà chúng tôi biết là có giá trị. Tâm cùng cộng tác với anh Đinh-văn-Mão, một người bạn học cùng chí hướng với anh ta. Sự nghiệp về khoa học của Tâm đang chừng có vẻ rực rỡ, thì bỗng không bệnh mà chết. Họ hàng không có, nên Mão đứng lên lo việc tang ma. Cái chết đột ngột của một người bạn còn trẻ gây cho chúng tôi một thứ cảm giác phảng phất, lo sợ, nhất là vì đêm ấy lại mưa gió sụt sùi. Tính vui đùa của anh Tính cũng không làm bớt được vẻ lạnh lẽo, nặng nề trong gian phòng sáng bởi một cây đèn dầu hỏa. Tính nói: - Chết sớm, càng được nghỉ sớm chứ sao? - Anh thì anh chỉ thích nghỉ thôi. Giá có chết cũng không thiệt cho ai. Còn anh Tâm… Tính gật đầu: - Phải. Quốc dân thiệt mất một nhân tài… Rồi lại tiếp luôn: - Nhưng sống khôn chết thiêng, hẳn ngài nhớ đến bọn ta, sẽ về phù hộ. Một người bạn mắng: - Chỉ nói nhảm. Anh này việc gì cũng đem pha trò… - Kìa! Pha trò đâu? Tôi nói thực đấy. Tâm chả nhiệt thành tin thuyết “linh hồn hiển hiện” là gì? Phải không anh Ngôn? Tôi đáp: - Phải. Tâm hay bàn về vấn-đề ấy lắm. Có lần anh hẹn tôi rằng khi nào chết sẽ về báo hiệu cho tôi biết. “Tôi chết, tôi sẽ về gãi chân anh…” - Y như trong sách của Camille Flammarion ấy nhỉ? - Mà không phải là câu nói đùa đâu! Tính nói nửa thực nửa bỡn: - Nếu vậy, có lẽ anh Tâm sắp hiện lên giữa chúng ta… Mọi người cùng cười thào lên một tiếng nhạt, rồi cùng ngồi im. Bên ngoài tiếng ướt-át rì-rào của mưa gió vẫn không ngơi. Tri ngẫm-nghĩ thế nào chợt se sẽ nói: - Ừ, thế ngộ anh Tâm hiện hồn lên bây giờ thì sao? Nhưng câu ấy không có ai trả lời, rơi vào trong vực yên lặng mất. Bỗng nhà dưới có năm, sáu tiếng gõ cửa, tôi toan nói một câu, liền nín lại. Tiếng gõ cửa ra dáng gấp, và cứ mạnh thêm. Đức nói thầm: - Hay là anh… Tâm về… Tôi: - Có lẽ nào? Mọi người: - Ừ, có lẽ nào? Nhưng chúng tôi đồng lo sợ. Tiếng gõ cửa nhà dưới ra chiều thúc dục, - tiếng mở cửa rồi khép, rồi một lát thằng nhỏ đi lên, vừa ngái ngủ, vừa thưa vào: - Thưa cậu, cậu Tâm lại chơi. - Hử? Cậu Tâm nào? - Thưa, cậu Tâm hàng Bột. Chúng tôi kinh-ngạc nhìn nhau. Tri cau mày gắt: - Mày nói láo! Còn cậu Tâm nào ở hàng Bột nữa? Sao mày không hỏi xem ai? - Bẩm, chính cậu Tâm… Cậu đang đi lên. Chúng tôi như gặp luồng gió lạnh, nhìn ra thấy anh Tâm thực. Tâm đứng ở khung cửa, đầu tóc bơ phờ, mặt mày ngơ-ngác, mình mặc bộ quần áo trắng dài là bộ mặc cho anh ta lúc đặt nằm trong áo quan. Hơn một phút, chúng tôi không ai nói gì, ngồi đực ra như bị thôi-miên. Sau một người bạn đi đạo lấy tiếng dõng dạc hỏi: - Tôi xin viện tình bằng hữu thiêng-liêng của chúng ta, hỏi vong hồn Đàm-văn-Tâm có oan ức điều gì không? Tâm, hay linh hồn hiển hiện của Tâm không đáp, cứ trân-trân nhìn chúng tôi một lúc lâu. Tiếng dõng-dạc lại hỏi lên lần thứ hai: - Viện tình bằng hữu thiêng-liêng… tôi xin hỏi vong hồn... Thì Tâm bỗng đưa tay gạt đi, dịu nét mặt lại rồi thong thả nói: - Tôi không phải là vong hồn… Vì tôi chưa chết. Chúng tôi vẫn không hiểu. Tâm lại nói: - Phải. Tôi còn sống. Còn sống thực, có xương, có thịt, có máu chạy trong mạch… chứ không phải là một vật hư vô… Rồi Tâm yên lặng tiến lên, nhìn hết mọi người một cách soi mói dò xét, rồi lại kéo một chiếc ghế ngồi. Chúng tôi bất giác ngồi rãn cả ra, thì Tâm buồn rầu, mỉm cười, nói: - Không. Tôi không chết đâu, tôi chưa chết. Tôi muốn… tôi hỏi các anh: Tôi có thể tin ở sự kín đáo của các anh được không? Tôi có thể tin ở tình bằng hữu thiêng-liêng của chúng ta mà anh Đào vừa nói, được không? Chúng tôi trả lời: - Được. Nếu anh có oan uổng điều gì… - Tôi đã bảo tôi còn sống mà! Sống như các anh, thực thế. - Ừ, chúng tôi muốn tin rằng thế, song anh Tâm đã chết thực, đã có giấy chứng-nhận chôn, chúng tôi cũng đã đến viếng… - Nhưng tôi chưa chết. Tôi ở trong săng dậy đây. Yên lặng một phút. Sau tôi hỏi: - Thế còn anh Mão ngồi coi bên săng? Anh ấy đâu? Tâm bóp trán thở dài. Bỗng anh ngửng phắt lên, hai mắt lóng-lánh, đột ngột nói: - Mão chết rồi. Phải, chết rồi! Mà chính tôi, tôi, các anh nghe chưa? Tôi giết nó đấy… - Sao lúc chập tối chúng tôi còn thấy anh Mão khóc, chúng tôi lại nhận rõ mặt anh trong săng? - Nhưng tôi vừa giết Mão xong, giết vì bất bình, vì điên dại… Các anh hãy ngồi yên, tôi kể đầu đuôi cho nghe. Tôi thực là một người khổ sở hết sức! Rồi Tâm ôm mặt se sẽ khóc trước năm bộ mặt kinh dị của chúng tôi. Một lúc lâu, anh ta mới lại nói: - Tôi không ngờ đâu lại thấy những điều cay độc, mỉa-mai đến như thế… Tôi tưởng phát điên lên mất, - không ngờ đâu lòng người mà lại đến thế. Các anh thử xét mà coi. - Các anh vẫn biết Mão với tôi là hai người bạn thân hơn ruột thịt, vì tôi thương anh ấy nghèo và chăm chỉ, lại muốn cùng theo đuổi một công-cuộc với tôi. Chúng tôi thề suốt đời không lấy vợ, để đem hết tâm trí hy-sinh cho khoa-học. Trong hai năm trời Mão càng ngày càng tỏ ra một người có chí và hết lòng với bạn, nên tôi càng ngày càng yêu thêm. Tôi muốn cho Mão vững tin ở lòng thành-thực của tôi, nên viết một tờ “chúc thư” để gia-tài của tôi với sự-nghiệp của tôi lại cho Mão. Đó là một điều gàn dở, nhưng trong lúc nồng-nàn hăng-hái ấy thì tôi có trông thấy xa đâu? Tôi có ý tỏ cho Mão biết rằng của tôi cũng như của anh ta, mà nếu bất hạnh tôi chết trước, thì bổn-phận anh ta là phải đi cho tới mục-đích bước đường mà tôi bỏ dở. Từ lúc tôi ký tờ giấy kia đến nay đã được hai năm rồi, không có điều gì hết. Mão vẫn yêu tôi, vẫn hết lòng làm việc với tôi như trước. Mà nếu rủi tôi chết sớm thì chắc Mão là người thương tôi hơn cả. Có ngờ đâu người bạn thân-thiết ấy lại là một giống sài-lang. - Năm năm về trước, nguyên tôi vẫn mang một chứng bệnh thần kinh thường khi đang yên bỗng ngã lăn ra bất tỉnh. Nhưng từ khi ông chú tôi mất, bệnh ấy như khỏi dứt, tôi không để ý đến nữa – rồi quên bẵng đi. Bệnh đó tới nay lại phát khởi lên xem chừng nặng hơn trước nhiều lắm. Mấy ngày trước tôi thấy những triệu-chứng thứ nhất và bắt đầu lo. Song tôi vì bận viết một bài khảo biện rất dài cho một tạp-chí chữ Pháp, nên không kịp nói truyện với Mão. Ba giờ sáng hôm qua, lúc buông bút đi ngủ, bỗng tối sầm mặt lại, ngã gục xuống rồi từ đó lịm đi… - Lúc mở mắt ra thì thấy mình bị ép hai bên trong một xó tối và khó thở. Tôi định tâm vừa nghĩ vừa sờ soạng mãi mới biết là mình nằm trong săng. Nhưng trông lên thấy mờ mờ có ánh lửa soi vào hai bên nắp săng và lắng tai còn nghe thấy quả lắc đồng-hồ tích tắc đưa với chuông điểm. Tôi đoán rằng tôi ngất đi đã lâu lắm – vì bụng thấy đói dữ – có lẽ mọi người tưởng chết thực và đã cho mình vào săng sắp-sửa đem chôn. Tôi nâng nắp săng thì thấy còn mở, bèn yên lặng ngồi lên. Lúc ấy mới biết là hơn mười hai giờ đêm. Mão đang xem một tờ giấy bỗng quay ngoắt lại, kêu lên một tiếng khẽ. Tôi cười để cho hắn khỏi sợ và nói: - Tôi không chết đâu… Sống đây mà! Mão vẫn trừng mắt nhìn tôi. Thấy tôi cười nói tự-nhiên va gọi anh ta nâng hẳn nắp săng đỡ tôi dậy, thì như đã hơi định trí. Hắn nhìn tờ giấy mà tôi nhận ra là tờ “di chúc” rồi lại nhìn tôi. Bỗng nhiên hắn rảo bước lại bên chiếc quan tài, mắt long-lanh một cách lạ thường, rồi nhanh tay ấn mạnh tôi xuống, đậy nắp săng lại. Trước tôi còn ngờ hắn hoảng hốt vì sợ hãi quá, sau bỗng nghĩ ra một điều rất ghê gớm: Mão muốn giết tôi! Phải rồi… tờ “chúc thư” mà hắn làm bộ không nói đến bao giờ… cái gia tài quan trọng của tôi… mà đối với mọi người thì tôi đã chết. Phải. Tôi chết là hắn được hưởng, mà tôi đã không chết thực thì hắn giúp tôi chết nhân thể, ai biết đấy là đâu? Trong có một giây đồng hồ mà tôi cũng thoáng thấy được cái kế hiểm độc của bạn với cái tình thế nguy hiểm bấy giờ. Tôi căm giận không biết ngần nào, đấm nát tay lên cái nắp săng, nhưng cái nắp bật hé được lên lại bị ấn xuống. Chân tôi không bị buộc trói theo như thói thường trong lúc khâm liệm, nhưng không thể cử động được dễ. Bên ngoài, tôi nghe thấy tiếng chân vội vàng chạy xa dần. Tôi đoán chắc hắn đi tìm cái gì để đè lên mặt săng cho nặng thêm. Nhân cơ hội tôi thét lên một tiếng rất dữ, đạp một cái hết sức mạnh, nắp săng bật ra một chỗ, tôi ngồi dậy thì hắn đã tiến đến, cái ống tiêm thuốc độc cầm ở một tay. Tôi vùng đứng lên, vừa sợ vừa giận. Hắn bước tới, tôi liền níu lấy tóc, nghiến răng ấn đầu hắn xuống rồi nhảy xổ lại đè lên mình hắn: cái ống tiêm rơi xuống, vỡ tan ra. Hắn bị tôi cưỡi lên ngực, hai cánh tay bị dập dưới đầu gối tôi, và cổ, bị hai bàn tay tôi thắt vào đến hai mươi phút. Tôi càng nhìn cái mặt thú vật của nó, cái bộ mặt mà mới hôm trước đây, tôi còn yêu quý, thì cơn giận cứ bốc lên mãi, tôi bóp ghì lấy cổ nó mà vẫn không rõ là mình làm gì. Lúc nó đã tắt thở rồi, tôi mới buông tay ra. Bấy giờ đúng mười hai rưỡi. Tôi không sợ hãi, không hối hận, không vội vàng, vì không cho sự giết thằng khốn ấy là một tội ác. Tôi xốc nó lên, bỏ vào săng đậy nắp lại tử tế, thu xếp ít tiền bạc, giấy má, định gieo thành một mối bí mật, rồi đi. Nhưng tôi nghĩ lại ngay, nên thuê xe đến gọi anh Tri kể cho anh nghe để cùng với anh khu xử việc này… Lúc tôi vừa bước lên đây, trông thấy các anh, tôi thú thực rằng hơi có ý nghi ngờ các anh… đồng lòng với Mão. Bởi vì… các anh xét hộ, tôi bị một kẻ tâm giao độc nhất xử với tôi một cách ghê gớm như thế… làm cho tôi tưởng phát điên lên mất, tôi tưởng rằng ở đời này thế cả… họ thấy lợi là họ quên cả tình nghiã… Các anh tha thứ sự nghi ngờ ấy cho tôi. Tâm nói đoạn thở dài một tiếng rất cay đắng, gục đầu xuống sụt sùi. Chúng tôi ngồi lặng nhìn nhau… Đêm hôm ấy, chúng tôi không ngủ, sau bàn nên để anh Tâm ở yên một chỗ, dựa theo cái ý kiến mà anh Tâm đã nghĩ tới, xoay việc án mạng kia thành một thiên bí mật để không ai dò được manh mối ra sao. Chúng tôi làm như người ngạc nhiên trước nhất về truyện này, đi trình các nhà chuyên trách đến khám xét chỗ ở của Tâm và thản nhiên, trả lời rất khéo những câu hỏi mà chung tôi đã đóan biết từ trước. Bỗng nhiên, ngay sáng hôm ấy, đang khi tra vấn kỹ lưỡng thì anh Tâm lại lù lù hiện ra, nói rằng mình đi vơ vẩn suốt đêm, rồi đem kể hết đầu đuôi việc xẩy ra đêm trước. “Tôi đã giết người, các ông dẫn ngay tôi vào ngục.” Đó là câu nói sau cùng của anh ta. Cuộc thẩm vấn, chúng tôi cố chạy cho mau chóng và rất công minh, nên một tháng sau, lúc ra tòa, Đàm-văn-Tâm được trắng án. Chúng tôi cũng không được vui mừng lắm, vì Tâm vẫn giữ vẻ nhẫn nhục, rầu rĩ như hôm mới bước chân vào đề lao. Anh cám ơn công săn sóc của chúng tôi, rồi tự giam mình trong gian nhà phố hàng Bột, nhất định không tiếp ai cả; sống ở đấy một cách yên lặng, kín đáo, bảo là một cách thầm vụng cũng được, như muốn cho người ta quên mình đi. Một hôm, người đầy tớ già của Tâm đến nhà anh Tri nói rằng chủ mình đã hai hôm nay ở tịt trong phòng. Chúng tôi đến, phá cửa vào xem thì thấy anh ta gục đầu lên bàn trên một tờ chúc thư để của cải lại cho các viện tế bần, người lạnh ngắt và cứng đờ. Lần này thì anh Tâm chết thật. THẾ LỮ
|