Hiện có 7 người xem / 2518737 lần xem
         info@sachvatranh.com       84 (0) 1 222 929 703        

VÀI CHI TIẾT VỀ KỲ HỌP NGÀY 10/5/2014

CỦA CÂU LẠC BỘ SÁCH XƯA & NAY

Mở đầu phiên họp, như thường lệ, Dịch giả Vũ Anh Tuấn đã giới thiệu với các thành viên 2 tân thư mà ông vừa có: một cuốn bằng tiếng Việt và một cuốn bằng tiếng Pháp. Cuốn tiếng Việt là một tập truyện ngắn của nhà văn nữ Nguyễn Thị Mây ở Trà Vinh, mới trao đổi sách tặng với ông. Đây là một tập truyện ngắn gồm 15 truyện, được viết một cách rất bình thường, nhưng không thiếu điều li kì, lý thú, sâu sắc, mà lại được viết bằng một văn phong dễ hiểu, dễ nhớ, dễ đi vào lòng người. Tuyệt đối không thấy bóng dáng một ẩn dụ, hiện dụ, hậu hiện đại, hậu ma dại nào khiến Dịch giả Vũ Anh Tuấn thích lắm. Sách do nhà xuất bản Hội Nhà Văn in năm 2012, và thật là một điều kỳ diệu, sách được in bằng một kích cỡ xinh đẹp, nhẹ nhàng, và bằng thứ giấy sẽ tồn tại với thời gian, thay vì bằng một kích cỡ to đùng, khi đọc phải để lên bàn, trừ phi người đọc muốn tập thể dục tay, và đương nhiên là nếu to đùng như vậy thì giá tiền cũng phải bự theo, và chỉ có thể được mua bởi các phú gia mang về… trưng chứ ít khi đọc! Ngoài ra nếu được in bằng loại giấy láng thì sách, chỉ cần hơi bị ẩm là đã đoàn kết lại thành một cục để… về Hư Vô Chữ Nghĩa, Em Đi cái một! Tóm lại tập truyện ngắn rất đẹp (in đẹp) rất dễ thương (do vóc dáng và giá tiền hợp với đại chúng). Cuốn sách thứ hai là một cuốn sách bằng Pháp văn mang tựa đề là “Truyện về Tâm Lý và Tình Dục của các Ông Lớn Thời Hiện Đại” (Psychologie et Sexualité des Grands Contemporains). Các nhân vật lớn, mà các truyện về Tâm Lý và Tình Dục của họ được nói tới trong sách gồm những nhân vật từ Nã Phá Luân (Napoléon) tới Mao Trạch Đông, Kennedy vv… Cuốn sách khổ 18x24 phân, dày 384 trang, có rất nhiều hình ảnh minh họa, cho người đọc cơ hội được biết mặt tất cả các nhân vật lớn đó và “nửa kia”(*) của họ. Đồng thời sách cũng cho người đọc biết rất nhiều chuyện li kì, rối rắm liên quan tới hai lãnh vực kể trên về họ mà, bình thường ta thường gọi là những chuyện “thâm cung bí sử” không phải ai cũng được biết.

Xin đơn cử một trích đoạn siêu ngắn nhưng khá hấp dẩn:

“Nhà độc tài người Ý Mussolini bảo người phụ tá của mình: Tuy tôi vẫn còn là lãnh tụ một nước Cộng Hòa có 36 triệu dân, mà tôi không làm cách nào ngăn được hai Mẫu Hậu (vợ là Rachelle và người tình là Clara Petacci) của tôi xung đột với nhau! Làm ơn ở đây để khi thấy họ to tiếng và làm dữ thì tìm cách ngăn họ lại!”

Với khoảng 30 hình ảnh minh họa và hàng ngàn chi tiết lý thú, cuốn sách quả là một tác phẩm rất hấp dẫn, mà Dịch giả Vũ Anh Tuấn chỉ phải chi ra có 100 đô mít, thực rất may vì nó được viết bằng tiếng Tây nên ít còn ai … thèm đọc! Sau khi được giới thiệu hai cuốn sách được một vài thành viên chuyền tay nhau xem một cách thích thú.

Sau khi Dịch giả Vũ Anh Tuấn nói xong, Bs Nguyễn Lân-Đính đã lên nói chuyện về việc ông tham dự một cuộc Họp và Nói Chuyện về Ẩm Thực do Ts Nguyễn Nhã mời.

Tiếp lời BS Đính, bà Tâm Nguyện, từ Phan Thiết về dự họp đã lên cải chính một vài điểm sai trong bài viết kỳ trước trong Bản Tin và đọc tặng các thành viên bài thơ “Tượng Đài” rất hay, vì đề cập tới chuyện giới trẻ không muốn các ông bà già (cha mẹ mình đi thêm bước nữa, vì tài sản có thể bị phân chia thêm).

Sau bà Tâm Nguyện, anh Hữu lên ngâm tặng các thành viên bài thơ “Hương Mắm Đồng Quê” và thổ lộ mối tình của anh với nhà thơ Xuân Vân, một thành viên của CLB vừa qua đời ba ngày trước.

Anh Hữu nói xong, anh Chử lên hát thơ tặng các thành viên bài “Trường Sa thân yêu”.

Tiếp lời anh Chử, anh Nhựt Thanh, một khách mời mới đến với CLB Sách Xưa & Nay lần thứ nhì đã lên trình bày một bài “Nghiên Cứu và So Sánh giữa Ba Tôn Giáo lớn ở Việt Nam là Nho, Lão và Khổng giáo”.

Sau khi anh Nhựt Thanh nói xong, anh Dương Leh đã lên kể về việc những tấm bảng bằng tiếng Anh được viết bằng thứ tiếng Anh Diệt Mỹ, ví dụ như mấy từ “Võ Thuật” được viết là “Material Arts” thay vì “Martial Arts”. Anh Dương thấy viết quá sai sợ Mẽo nó cười thì cũng rất có lý, tuy nhiên chuyện này ngay lúc này đã thành “chuyện thường ngày ở Huyện”, nên cũng đừng thèm quan trọng hóa nó!

Cuối cùng Dịch giả Vũ Anh Tuấn có nói qua về tập thơ Mây Bạc của các thành viên, và Lm. Triết đã thông báo với các thành viên là tập Thơ đã được cấp giấy phép xuất bản và sẽ ra đời trong cùng lắm là 1, 2 tháng tới.

Buổi họp kết thúc lúc 11 giờ 15 cùng ngày.

VŨ THƯ HỮU

(*) Khi đọc cuốn sách này và được chiêm ngưỡng chân dung các “nửa kia” của các nhân vật trong sách, người viết bỗng cảm thấy khoái lâng lâng vì, sau khi biết mặt tất cả các người đẹp của các nhân vật to đùng đó, hắn bỗng “ngộ” ra rằng các mẫu hậu của cá nhân hắn hơi bị… đẹp hơn họ rất nhiều!

VÀI CHI TIẾT VỀ CUỐN

“KÝ ỨC CỦA MỘT NGƯỜI BUÔN TRANH”

(SOUVENIRS D’UN MARCHAND DE TABLEAUX)

của AMBROISE VOLLARD

Đây là một cuốn sách mới được xuất bản năm 1957, tức là mới được 57 tuổi đời, nhưng đích thực là một quý thư, vì tác giả Ambroise Vollard, dù chỉ là một người buôn tranh, nhưng đã thực sự làm được nhiều việc quan trọng, đáng nể trọng trong lãnh vực Nghệ Thuật. Và, như là một tưởng thưởng thật xứng đáng của người đời sau, tên ông đã được đưa vào tự điển Larousse (và có thể vào vài tự điển Hội Họa khác, nhưng người viết không biết rõ), và sẽ ở lại mãi trong tự điển Larousse, chứ không như ở ta, hồi năm 1960, ta cũng có một nữ nghệ sĩ được đưa vào tự điển Larousse, nhưng rồi vài năm sau lại bị mời ra, thực đáng nản!

Cuốn sách quý này dày 292 trang, được in dưới dạng hình chữ nhật, chiều cao là 20 phân và chiều dài là 24 phân, và được in 7000 bản có đánh số từ 1 tới 7000. Bản người viết có mang số 2019. Quý thư này có khoảng 120 tranh minh họa các loại, rất đẹp, và nó đã đến với người viết nhờ một cơ duyên như sau: một buổi sáng đẹp trời 44 năm trước, một Mẫu Hậu ngoại của người viết, làm thư ký ở Sứ Quán Pháp (lúc đó là Sứ Quán chứ không phải là Tổng Lãnh Sự như bây giờ), tình cờ lại chơi và bắt gặp ở thư phòng của người viết một tập 20 cuốn sách Hồng của Pháp được đóng chung, Nàng thích quá và đòi mua lại. Người viết từ chối không bán và đề nghị tặng không cho người đẹp. Thế là Nàng hớn hở cầm về, và chỉ 5 giờ sau, vào lúc 6 giờ chiều Nàng trở lại với cuốn Souvenirs d’un marchand de tableaux này, và nói “Đổi chứ không xin”, và đương nhiên là người viết hoan hỉ nhận lời, và nhận sách xong cả hai đi ăn (đương nhiên là hắn mời) và ăn xong là cùng đi ciné ở rạp Eden.

Cuốn sách gồm – Một lời nói đầu – 17 chương – và một Lời Kết. Người viết xin lược thuật vắn tắt nội dung các chương như sau:

Chương I.- Tác giả kể về gia thế của mình, thoạt tiên ông muốn làm Y sĩ trong Hải Quân, nhưng số mệnh đã khiến ông theo học ngành Luật. Ông đặt tên chương I này là “Từ đảo La Réunion tới trường Đại Học Luật ở Montpellier.

Chương II.- Nói về việc tác giả tới Pháp và những cảm tưởng sơ khởi và việc ông học Luật ở Montpellier.

Chương III.- Tác giả nói về đời sống ở Paris, về việc ông đi tới các Phòng Bán Đấu Giá, gặp gỡ các họa sĩ, các người buôn tranh, các nhà sưu tầm…

Chương IV.- Tác giả nói về những ngày chập chũng bước vào nghề buôn tranh, nói về “Hiệp Hội Nghệ Sĩ”, người khách hàng đầu tiên của ông, và về việc ông có được một người “đặt hàng” để phục vụ.

Chương V.- Tác giả mô tả Khu Montmartre vào năm 1890, một Khu Montmartre vui và đầy tính nghệ sĩ. Quán Con Mèo Đen, ca sĩ Aristide Bruant, họa sĩ Lautrec, quán Cà Phê Thành Athènes Mới (Nouvelle Athènes), các danh họa Renoir và Degas...

Chương VI.- Tác giả nói về Phố Lafitte, về việc ông tới viếng nhà phu nhân họa sĩ Manet, về việc ông triển lãm tranh của Cézanne và Van Gogh lúc đó chưa nổi tiếng gì lắm, và về quan hệ của ông với các đồng nghiệp…

Chương VII.- Tác giả nói về những bữa ăn ở quán La Cave danh tiếng, về nhà thơ Apollinaire và tác giả Jarry, về những Huy Chương về ngành Giáo Dục mà ông nhận được…

Chương VIII.- Tác giả dành chương này để nói về các người chơi tranh tài tử và các nhà sưu tầm tranh như quý ông Isaac de Camondo, ông Vua thành Milan, ông Denys Cochin vv…

Chương IX.- Tác giả nói về những cảm xúc của ông khi chiêm ngưỡng bức tranh khỏa thân nhan đề là Olympia của Manet (*) ở Điện Louvre, và kể về cuộc gặp gỡ giữa họa sĩ Toché với Manet ở Venise; ông cũng mô tả Manet làm việc như thế nào, và quan hệ của Manet với Hội Họa Ý...

Chương X.- Tác giả nói về De Meissonier và họa phái Lập Thể, về những chuyến thăm viếng các họa sĩ Gervex, Henry de Groux, Claude Monet, Pissaro, Sisley, Guillaumin, Signac, Luce, và Gauguin, toàn các họa sĩ sau này thành muôn thuở! Tác giả cũng nói về nhiều chuyện khác như: về cảm nghĩ đầu tiên của ông khi lần đầu tiên ông trông thấy một bức tranh của Degas và Mary Cassatt, về chuyến viếng thăm Cézanne ở Aix, về làm sao mà ông quen với Renoir ở Esssoyes và cả chục họa sĩ khác, về họa phái “Nabis” về các nhà điêu khắc Maillol, Rodin, và Georges Rouault, về họa sĩ “Nhà Đoan” (Douanier) Rousseau, về Picasso và họa phái Lập Thể, và về những chân dung của ông do các họa sĩ nói trên vẽ.

Chương XI.- Tác giả dành chương này để nói về một số nhân vật văn học, chính trị mà ông có quan hệ như: Mallarmé, Émile Zola, Teodor de Wyzewa, Marcel Sambat, Le Sâr Péladan, Mirbeau, Bộ trưởng Denys Cachin, Arthur Meyer vv…

Chương XII.- Tác giả dành chương này để nói về công việc in ấn và viết lách của ông với các ấn phẩm in trên giấy, trên sứ, trên đồng… và về những tác phẩm ông đã viết.

Chương XIII.- Tác giả nói về Chiến tranh và thời Hậu Chiến. Việc phòng thủ Thủ Đô Paris, và về Hội Họa được vinh danh.

Chương XIV.- Tác giả dành nguyên chương này để kể về những chuyến đi của mình tới các nơi như: Thụy Sĩ, Tây Ban Nha, Alsace, Hòa Lan, Luân Đôn, La Mã, Nữu Ước, Lisbonne.

Chương XV.- Tác giả nói về Giải Thưởng cho các Họa sĩ, các họa sĩ quan niệm làm sao về Văn Chương, Văn Học…

Chương XVI.- Tác giả kể về việc ông thành địa chủ ở miền quê, về Fontainebleau và Le Tremblay-sur-Mauldre.

Chương XVII.- Tác giả dành chương này để nói về một nhân vật tên là Eugène Lautier mà ông đánh giá là một dị nhân

Và cuối cùng là Phần Kết Luận.

Khi có cuốn sách trong tay, người viết thoạt nghĩ “sao chỉ là một người buôn tranh mà lại được đưa vào tự điển Larousse nổi tiếng của Pháp, nhưng sau khi đọc kỹ lại cuốn sách và thưởng thức tất cả những điểm tuyệt vời của cuốn quý thư này, người viết mới thấy là nhà Larousse không hề sai khi đưa Ambroise Vollard vào tự điển vì ông quá giỏi, và có quá nhiều tác phẩm để đời.

Ambroise Vollard sinh tại Saint-Denis ở Đảo La Réunion năm 1868 và qua đời ở Paris năm 1939, và quý bạn thử nghĩ xem trong có 71 năm ở trên đời, một cuộc đời không thọ gì cho lắm, mà ông làm được quá nhiều điều tốt. Quý bạn thử nghĩ xem trong các năm 1895, 1896, 1897, 1898, 1899, năm năm liền và năm 1913, mỗi năm ông cho ra đời một an bom thủ ấn họa của các họa sĩ lúc này được coi là những danh họa. Những an bom này bây giờ nếu tìm được giá phải cả trăm triệu đô mít, nếu là cuốn năm 1913 của Picasso thì dám là bạc tỷ lắm! Ngoài ra ông còn in ra trong 23 năm từ 1900 tới năm ông qua đời là 1939 hai mươi ba tác phẩm văn học và hội họa nữa và cuốn nào cũng đẹp đễ sợ. Ôi, một người như vậy được vào tự điển, được muôn thuở là quá đúng rồi!

Agnès thân yêu ơi, hôm nay cầm cuốn sách ra để viết bài này, anh muốn cảm ơn Em thêm một lần nữa, cũng như anh đã từng cảm ơn Em vào một buổi chiều thật đẹp 44 năm trước…

Trích Hồi ký 60 Năm Chơi Sách, Chương VI

Vũ Anh Tuấn

(*) Viết tới đây, tôi giật mình đến thót một cái khi nghĩ tới “Đường lên đỉnh Olympia (ảo) của người mình”










PHÁP CÚNG DƯỜNG


Nếu không nhờ cái Duyên từ xa xưa nào đó, khiến tôi vì tò mò rồi bị nhiếp vào Đạo Phật. Nếu không được Ân Sư tặng cho 2 Quyển Kinh DUY MA CẬT, VIÊN GIÁC, và tận tình hướng dẫn. Nếu không vì đọc thấy lý lẽ trong Kinh xác đáng. Nếu không vì thắc mắc tìm hiểu xem Đạo Phật dạy những gì? Làm những điều đó để được gì? Đạo Phật dắt người tu về đâu?… Hẳn là tôi cũng như mọi người, cho rằng Đạo Phật dành riêng cho những Tu Sĩ. Cũng cho rằng nếu muốn Tu Phật thì nhất định phải Xuất Gia, phải đầy đủ hình tướng, phải đầu tròn, áo vuông. Phải giữ hàng mấy trăm Giới… Đi đứng, ngồi nằm cũng phải giữ Tứ Oai Nghi. Phải sống xa rời trần thế, biệt lập với thế nhân, không được làm việc gì có dính dáng đến thế tục. Cuộc sống hiến trọn cho con đường tu hành. Cả đời chỉ Ngồi Thiền, Tụng Kinh, Niệm Phật, học pháp, giảng pháp, cứu độ cho bá tánh, thậm chí không được suy nghĩ gì ngoài việc Đạo... Như thế mới được gọi là người tu. Kinh là để cho các vị tu hành Tụng. Người đời mến mộ Đạo nhiều lắm là đến gặp Thầy nào mà mình đánh giá là bậc chân tu để xin Quy Y Tam Bảo, rồi thỉnh thoảng dành ít thì giờ tới Chùa nghe Kinh, nghe thuyết pháp. Muốn kiếm chút phước báo thì chỉ việc cung dưỡng cho những bậc tu hành. Rồi thì theo những ngày Lễ, Vía mà cúng bái, mà Cầu An cho mình và gia đình. Cầu Siêu cho người qua đời. Tất cả đều phải nhờ những TU SĨ chủ trì cho, vì mọi người ai cũng tin là chỉ có các Tu Sĩ thanh tịnh chú nguyện thì mới linh, Chư Phật, Chư Bồ Tát mới nhận lời, thân nhân của mình mới được về Tây Phương Cực Lạc.

Mọi người mặc nhiên chấp nhận có 2 giới trong Đạo Phật: Một là TU SĨ, Xuất Thế Gian, Ly Gia, Cắt Ái. Phần còn lại là Phật Tử, có nhiệm vụ hỗ trợ mọi mặt cho những Tu Sĩ yên tâm mà tu tập, sau đó sẽ “Độ” cho mình. Trong nhóm Phật tử, người muốn đi sâu vào Đạo hơn một chút thì trở thành Cư Sĩ. Nhưng một khi đã có gia đình, thì không thể nào tu hành thành tựu như những người sống đời thanh tịnh, không vướng bận chuyện gia đình, kinh doanh, cơm áo, gạo tiền.. của thế tục. Thế nhưng, ngược lại, nhờ đọc và tìm hiểu khá nhiều Bộ Kinh Đại Thừa, tôi thấy rằng: Thật ra cách thức tu hành, Trai Giới, Tụng Kinh, Niệm Phật để cầu xin nói trên đó là THỜ PHẬT, không phải là Tu Phật để Thành Phật, hay Giải Thoát, đúng như lời Đức Thích Ca đã Thọ Ký “Chúng sinh là Phật sẽ thành” theo tinh thần của các Tổ chính thức được Truyền Y Bát giảng dạy.

Việc tu hành theo Đạo Phật để được Giải Thoát thì không những không có lằn ranh, hay một sự khác biệt nào giữa 2 bậc: TU SĨ và CƯ SĨ, mà mọi người, bất cứ ai, không phân biệt giới tính, độ tuổi, trình độ, nơi chốn… đều có thể thành tựu như nhau.

Cách thức tu hành thì chỉ nhắm vào cái TÂM mà Tu, Sửa, vì thành Phật hay thành ma ở đó, mà chứng Thánh hay đọa Phàm cũng ở đó. Hình tướng không ảnh hưởng gì đến việc tu sửa. Như thế mới phù hợp với tinh thần HOA SEN, “giữa bùn mà không vướng mùi bùn” mà Đức Thích Ca muốn tất cả mọi người đạt được. Ngược lại, nếu cho rằng muốn tu hành thì phải bỏ đời để đóng khung trong một nơi tách biệt với đời thì cũng giống như bứng Sen mang trồng vào chậu nước tinh khiết, thì ý nghĩa Giải Thoát cũng không còn, cũng không phù hợp với biểu tượng là Hoa Sen “gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”. Hơn nữa, bài Kệ của Lục Tổ Huệ Năng nói rõ: “Phật Pháp tại thế gian. Bất ly thế gian giác. Ly thế mịch Bồ Đề, Cáp như cầm thố giác”. Có nghĩa là Pháp Giải Thoát ở tại thế gian. Không rời thế gian mà Giác Ngộ. Rời thế gian để tìm Bồ Đề thì cũng như tìm sừng thỏ. Vì phải ở tại thế gian, va chạm với Phiền não mới cần Giải Thoát. Xa rời thế gian, xây tường che chắn để phiền não không tới gần được thì cần gì phải tìm Giải Thoát? Như thế, rời thế gian để tìm Bồ Đề cũng giống như tìm sừng thỏ! Nghĩa của Tu chỉ là SỬA, Sửa những tính xấu: Tham, Sân, Si, mạn, Ngã chấp, Pháp chấp vv... để hết Phiền Não, không phải để thành Thánh, Thành Phật theo nghĩa thành một vị Thần Linh. Tu hành thật ra cũng không phải làm điều gì ghê gớm mà người bình thường không thể làm được, bằng chứng là Đức Thích Ca và Chư Tổ, trước khi tu hành, đắc đạo thì cũng là con người bình thường như tất cả chúng ta. Việc tu hành chỉ cần thực hiện nơi Tâm. Hành giả cần TÌM TÂM, THẤY TÂM rồi TU SỬA Ở ĐÓ GỌI LÀ TU TÂM. Như vậy cần gì phải lên non cao, động vắng hay vô Chùa, hoặc phải bỏ hết công ăn việc làm, cha mẹ, vợ con, nhà cửa mới tu được. Kinh DIỆU PHÁP LIÊN HOA viết: “Cõi nước chỗ nào nếu có người thọ, trì, đọc, tụng, giải nói, biên chép, đúng như lời tu hành. Hoặc là chỗ có quyển Kinh. Hoặc trong vườn, hoặc dưới cây, hoặc Tăng phường, hoặc nhà Bạch Y, hoặc ở điện đường, hoặc núi hang đồng trống, trong đó đều nên dựng tháp cúng dường.

Vì sao? Phải biết chỗ đó chính là Đạo Tràng. Các Đức Phật ở đây mà đặng Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Các Đức Phật ở đây mà chuyển Pháp Luân. Các Đức Phật ở đây mà nhập Niết Bàn”(Phẩm Như Lai Thần Lực). Rõ ràng Kinh không hề phân biệt nơi chốn để tu hành. Bất cứ ở đâu đều Thành Phật được. Miễn là ĐÚNG NHƯ LỜI TU HÀNH.

Trước khi đi đến kết luận này, bản thân tôi cách đây gần 40 năm cũng đã bước vào Đạo Phật một cách mơ hồ. Cũng từng quay cuồng với hàng trăm thắc mắc. Bối rối trước những câu Kinh Bát Nhã: “Sắc bất dị Không, Không bất dị Sắc. Sắc tức thị Không, Không tức thị Sắc”, nghe rất có lý nhưng không biết có tác dụng gì! Hoặc ngẩn ngơ trước những Công Án có vẻ cao siêu. Những Thiền Sư có vẻ ung dung, thoát tục. Đệ tử hỏi pháp thì chỉ “đưa ngón tay lên”, quăng phất trần, hét, đánh… mà cũng đào tạo được một số Chứng Đắc, ngông nghênh, kiêu mạn. Cho Phật là “Que cứt khô”, là “Ba cân mè”. Gọi Thầy bằng “Lão già” mà cũng được ca tụng hết lời! Tôi cũng từng mơ màng Tây Phương Cực lạc với 7 Báu khắp nơi, không biết làm thế nào để đến được. Cũng hết sức ngưỡng mộ Phật với Chư Bồ Tát trang nghiêm, thanh tịnh, và thật sự lúng túng, không biết phải làm gì với những Lý thuyết của Đạo Phật nghe rất hấp dẫn: nào là MÊ, NGỘ. Nào là THIỀN, nào là GIỚI, ĐỊNH, HUỆ, nào là VÔ THƯỜNG, KHỔ, KHÔNG, VÔ NGÃ. TỨ DIỆU ĐẾ, BÁT CHÁNH ĐẠO, LỤC ĐỘ, LỤC ĐẠO, TỪ, BI, HỈ, XẢ, TỨ NHIẾP, TỨ Y, THẬP NHỊ NHÂN DUYÊN, NIẾT BÀN, GIẢI THOÁT vv.. Chưa biết phải làm gì với mớ Giáo Pháp đó, thì thêm vào đó, vô số Phật Ngôn, Thiền Ngôn, những Bộ Luận dày cộp! Không chỉ của các Tổ chính thức, mà mạnh ai tu hành, thời xưa, thời nay, ai thấy nhiều, thấy ít đều có quyền Luận, Giảng…

Qua một thời gian khá dài, bỏ hết việc đời, lao vào nghiên cứu Kinh sách để rồi như người lạc vào mê hồn trận. Kinh nào cũng nói “đây mới là Kinh cao nhất. Chư Phật do đây mà tu hành, đắc đạo”. Rồi thì MẬT TÔNG, HIỂN TÔNG, TỊNH ĐỘ TÔNG, ĐẠI THỪA, PHẬT GIÁO NGUYÊN THỦY, KHẤT SĨ… bên nào cũng cho mình mới đúng là CHÁNH PHÁP. Bên ngoài thì kẻ nói rằng nên tu theo Đốn, vì “Mê nhất kiếp. Ngộ nhất thời”. Người cho là chúng ta căn cơ chậm chạp nên theo Tiệm, cứ từ từ mà tiến cho chắc ăn! Người nói chỉ cần Tu theo TỊNH ĐỘ. Niệm Phật thôi mà cũng sẽ siêu thăng… làm người mới bước vào thêm hoang mang. Do vậy, tôi tin nếu người tu thời này ai không muốn phó mặc đường tu cho rủi, may định đoạt chắc cũng đầy thắc mắc cũng giống như tôi, trước rừng Phật pháp bao la và người giảng pháp thì hình tướng trang nghiêm, giảng luận thao thao. Ai cũng tu hành nhiều năm, có cả hệ thống Chùa chiền, đệ tử đông đảo, đầy tính thuyết phục.

Qua tham khảo nhiều Kinh, cộng với thực hành để kiểm nghiệm, đã đúc kết cho mình con đường tu hành một cách rõ ràng, tôi thấy có một số PHÁP cần được làm sáng tỏ, thí dụ như PHÁP CÚNG DƯỜNG - là một Pháp rất quan trọng mà người tu Phật nào muốn đạt kết quả đều phải thực hành- Vì PHẢI CÚNG DƯỜNG PHẬT THÌ CUỐI CÙNG NGƯỜI CÚNG DƯỜNG MỚI THÀNH PHẬT. Nhưng Pháp này từ nhiều đời đã bị hiểu lầm, vô tình trở thành phương tiện cho những kẻ lợi dụng cửa Phật, “mượn Đạo, tạo Đời” để Đạo Phật phải chịu tiếng oan bởi đánh giá những người ngoại đạo.

Thật vậy. Phải chăng rất nhiều Kinh đề cập đến PHÁP CÚNG DƯỜNG. Nào là sau khi nghe Phật thuyết pháp thì: “Đế Thích hiến cung điện”, “dâng lọng”, “cởi Y đã mặc trên người dâng lên Phật”. (DPLH). Trong Kinh DUY MA CẬT thì Vương Tử Nguyệt Cái “cởi Y báu và đồ trang sức nơi thân cúng dường Phật”. Trưởng giả tử Thiện Đức “Mở chuỗi Anh Lạc giá đáng trăm nghìn lượng vàng dâng cho Cư Sĩ Duy Ma Cật”! Kinh HOA NGHIÊM cũng viết: “Rộng sắm đồ cúng dường”! Người đọc không tránh khỏi ý nghĩ: Lẽ nào Chư Phật tu hành xong, khi đi thuyết pháp thì thu gom hết của cải của bá tánh? Mọi người khuyến khích việc cúng dường bằng truyền thuyết ca tụng một bà lão ăn mày có 1 đồng bạc cũng cúng để mua dầu đốt cho Phật, và cho rằng dầu đó đốt mãi không cạn! Pháp này bao đời qua được khai thác triệt để bởi hai thành phần: Người CÚNG DƯỜNG, và NGƯỜI NHẬN. Để mọi việc được sáng tỏ, chúng ta xét lại toàn bộ vấn đề:

1/- Trước hết nói về NGƯỜI CÚNG DƯỜNG.

Phải chăng do mọi người nghe giảng rằng: “Cúng dường cho Phật, hay cho các bậc tu hành thì Phước Báu Vô Lượng”? Vì thế, họ đã khởi THAM, muốn dùng tài vật để trao đổi? Muốn bỏ công, của ít mà đắc quả cao nhất. Điều này Lục Tổ dạy: “Đạo nào do thí bạc mà thành”! Nhưng hình như ít ai chịu đọc Kinh để thấy lời Tổ nhắc nhở. Trong đó cũng phải nhắc đến Vua Lương Võ Đế, cả đời cất Chùa, độ Tăng. Vua cất đến 72 kiểng Chùa, tưởng là “Công Đức vô lượng”, không dè khi gặp Tổ Đạt Ma thì Tổ nói: Đó chỉ là Phước Đức, nên chắc Vua cũng bất ngờ. Trong Kinh không thấy Tổ giảng tiếp, nên chắc sau đó Vua Lương Võ Đế cũng không thể nào phân biệt được thế nào là PHƯỚC ĐỨC, thế nào mới là CÔNG ĐỨC VÔ LƯỢNG.

2/- Đối tượng được CÚNG DƯỜNG là PHẬT.

Kinh viết: “PHẬT LÀ VÔ TƯỚNG, DO VÔ LƯỢNG CÔNG ĐỨC MÀ THÀNH”. Nếu đã VÔ TƯỚNG thì làm sao ta có thể Thấy, gặp Phật được để Cúng? Cúng qua trung gian liệu họ có chuyển giúp? Họ sẽ chuyển cách nào khi Phật nhập diệt cách đây đã mấy ngàn năm? Mang phẩm vật đặt trước Tượng Phật để cúng còn vô lý nữa. Vì TƯỢNG đâu phải là PHẬT? Nhưng hình như người đời ít chịu khó phân biệt để hiểu cho đúng. Như vậy thì chừng nào mới Thành Phật như mong ước?

Lời Phật thì không hư vọng. Nếu ta thực hành Pháp nào đó rất kiên trì mà không thành công thì có hai lý do: Một là Kinh viết sai. Hai là ta hiểu sai nên hành sai. PHÁP CÚNG DƯỜNG ĐÚNG THEO KINH DẠY LÀ CÚNG DƯỜNG PHẬT XONG LÀ PHẢI THÀNH PHẬT NGAY. Kinh DIỆU PHÁP LIÊN HOA viết: “con gái của Vua Rồng, mới có 8 tuổi đầu, nhờ cúng Phật viên châu “có giá trị liên thành”. Phật nhận, và nàng thành Phật ngay lập tức. Nhưng làm sao mọi người có được Viên Châu giá trị đến như vậy? Trong khi đó thì Đức Thích Ca thì Thọ Ký: “Tất cả Chúng Sinh là Phật sẽ thành”. Như vậy, hẳn viên châu đó mang một ý nghĩa khác, không phải là châu báu trần gian.

Đúng như thế. VIÊN CHÂU CÓ GIÁ TRỊ LIÊN THÀNH mà Kinh viết: Đó là cái VỌNG TÂM. TÂM này chứa đầy TAM ĐỘC, tức THAM, SÂN, SI, nên Chư Vị Giác Ngộ gọi là CÓ GIÁ TRỊ LIÊN THÀNH. Người XẢ được cái VỌNG TÂM thì sẽ được Giải Thoát hay còn gọi là Thành Phật. Đối chiếu với Kinh Viên Giác, ta thấy Bài Kệ cũng nói lên ý nghĩa đó: “NẾU NGƯỜI ĐOẠN THƯƠNG, GHÉT. CÙNG VỚI THAM SÂN SI. CHẲNG CẦN TU GÌ KHÁC. CŨNG ĐỀU ĐẶNG THÀNH PHẬT”

3.- Về PHÁP CÚNG DƯỜNG.

PHÁP CÚNG DƯỜNG đúng theo lời Phật dạy là phải đạt TAM LUÂN KHÔNG. Tức là KHÔNG CÓ NGƯỜI CHO. KHÔNG CÓ CỦA CHO. KHÔNG CÓ NGƯỜI NHẬN. Đó là “CON ĐƯỜNG ĐỘ SINH”được diễn ra TRONG VÔ TƯỚNG, trong NỘI TÂM của người tu.

Pháp đó sẽ được thực hiện như sau: Người CHO hay NGƯỜI CÚNG DƯỜNG là chính mình. CỦA CÚNG DƯỜNG là những CHẤP LẦM, NHỮNG ÁC TÂM, NHỮNG TÂM THAM LAM, SÂN HẬN, SI MÊ, GIẬN GHÉT… cũng của chính mình. NGƯỜI NHẬN là CON ĐƯỜNG GIẢI THOÁT cũng của chính mình hay gọi tên khác là PHẬT CỦA MÌNH. Đó là việc TU SỬA CÁI TÂM hay gọi tắt là TU TÂM hay còn gọi là CON ĐƯỜNG ĐỘ SINH. Con đường này ai chưa thực hành thì không thể thành tựu.

CHÚNG SINH được Lục Tổ giải thích: “Chư Thiện Tri Thức! Chúng Sanh trong tâm mình là: lòng tà mê, lòng giả dối, lòng bất thiện, lòng ghen ghét, lòng ác độc. Các tâm này đều gọi là Chúng Sanh”.

“ĐỘ” một Chúng Sinh, cho nó được Giải Thoát gọi là CÚNG DƯỜNG MỘT VỊ PHẬT. Chúng Sinh thì “Trùng trùng Duyên khởi”. Do đó, một đời tu hành, mỗi người CÚNG DƯỜNG VÔ LƯỢNG VÔ SỐ ỨC ĐỨC PHẬT. Còn nếu ai đó tạc vô số Tượng Phật rồi Cúng Dường thì chắc chắn là sai hoàn toàn, vì rõ ràng: Tượng đâu phải là Phật!

“Độ tận Chúng Sinh” cũng không phải là diệt hết mọi tư tưởng, không dám nghĩ gì hết, để trở thành ngu ngơ như kẻ không hồn, mà chỉ Diệt Độ những cái khởi Xấu, Ác mà Đạo Phật gọi là Chúng Sinh mà thôi.

Để hiểu được Kinh Phật cần phải nắm được Ý. Nhưng nhiều người đã “Y kinh giải nghĩa”, khiến sinh ra hiểu lầm trầm trọng. Nhà Văn Ngô Thừa Ân sao chép nguyên văn, gán cho Như Lai Phật Tổ đòi Tam Tạng cái Bát bằng vàng của Vua Đường tặng lúc lên đường thì mới ấn chứng cho. Rõ ràng: vừa CÓ CỦA ĐỂ CÚNG. CÓ NGƯỜI CÚNG. CÓ NGƯỜI NHẬN, là “Tam Luân Có” trái ngược hoàn toàn với PHÁP CÚNG DƯỜNG của Đạo Phật dạy. Vì thế, việc phổ biến hình ảnh đó chẳng những không có công đức đối với Đạo Phật, mà còn trở thành “báng Phật, nhạo Pháp”, vì Phật là Vô Tướng. Kinh dạy: “Thấy Tướng ở đâu là thấy Ma ở đó”.

Từ Cảnh Giả, Phật dựng trong NỘI TÂM của hành giả, Kinh VIÊN GIÁC gọi là CẢNH GIỚI BẤT NHỊ, khi mang ra thực hành bên ngoài thì trở thành nhị thị, thành phản tác dụng. Mọi người thấy thế cho rằng đã là bậc Thần Linh mà còn ham châu báu. Người phàm ôm giữ của cải, tài sản thì cho rằng Tham, còn Thần Linh thì lại có toàn quyền bắt người khác phải cúng cho mình! Đạo Phật dạy người trần bỏ Tham đi, Xả của cải đi, trong khi Tu Sĩ, chỉ cần khoác áo tu hành là có quyền thoải mái nhận của bá tánh cúng dường, bao nhiêu cũng được, làm cho nhiều người đâm ra thắc mắc. Chẳng lẽ Phật quá ưu ái đối với đệ tử Ngài? Vậy thì Phật bình đẳng tế độ chỗ nào? Liệu có quá bất công cho hàng Phật Tử không? Đó là chỗ mà người nhận của cúng dường không để ý tới. Phải biện minh thế nào cho thuận đạo mà cũng không trái với đời đây?

4.- Về CỦA CÚNG DƯỜNG.

CỦA CÚNG DƯỜNG được mô tả là những thứ quý giá nhất, như CHÂU BÁU, CHUỖI NGỌC, LÂU ĐÀI… Những thứ đó mang ý nghĩa là Người CÚNG DƯỜNG CỔI BỎ, XẢ ĐI những CHẤP NHẤT, VƯỚNG MẮC, ÔM ẤP, TRÚ NGỤ, ĐEO ĐẲNG TỪ VÔ LƯỢNG KIẾP NƠI CÁI THÂN, CÁI TÂM, ĐỂ HOÀN THÀNH CÔNG VIỆC GIẢI THOÁT CHO BẢN THÂN, gọi là CÚNG DƯỜNG CHO PHẬT. Chính vì ôm giữ từ đời nọ, sang đời kia, không phút nào chịu rời bỏ, giữ bo bo, giống như người giữ kho báu, nên Chư Vị Giác Ngộ quá khứ mô tả như BÁU VẬT, NHÀ CỬA, CHUỖI TRÂN CHÂU, Y BÁU, Y TRỜI, HOA TRỜI vv... Như vậy thì mọi việc đã rõ: Hoàn toàn không dính gì đến nhà cửa, tài sản, châu báu, tiền bạc của thế gian. Do đó người mang nhà cửa, tiền của, châu báu cúng cho người khác thì mất tài sản một cách oan uổng.

Do không đọc Chính Kinh nên hiểu sai, hành sai thì tự thân phải chịu thiệt thòi. Lỗi đó không phải do Kinh cố tình viết không rõ, mà do bản thân người Phật Tử khi muốn thực hành một pháp nào đó mà không chịu đọc Kinh để hiểu mà hành cho đúng để kết quả được như mong đợi, lại tạo điều kiện cho một số người lợi dụng màu áo tu hành mà không rõ Lý Nhân Quả nên điềm nhiên hưởng của bá tánh, không thực hiện lời dạy: “Ăn ít, biết đủ. Như chim bay không. Dấu không thể tìm” của người tu Phật…

Nếu mọi người biết rằng ăn hột cơm của bá tánh là cũng mang nợ, không phải vì mang sắc áo tu hành là được miễn, và nếu có đọc Kinh VỊ TẰNG HỮU THUYẾT NHÂN DUYÊN sẽ thấy cái Quả phải trả cho những ai lợi dụng của bá tánh ắt không dám vô tư lợi dụng cửa Phật để thọ nhận sự kính trọng cũng như phẩm vật mồ hôi, nước mắt của mọi người, để cung phụng cho cái Thân của mình. Người Tu Phật thì phải xem cái thân như oán tặc, vì chính nó là thủ phạm đã làm cho mỗi người nhiều kiếp trôi lăn trong Sinh tử Luân Hồi. Vậy mà nhiều Chùa bây giờ chư Sư ngủ phòng máy lạnh, đi xe đời mới. Phải chăng là vẫn tiếp tục cưng chiều nó? Ni Sư chết để lại sổ tiết kiệm cả mấy trăm ngàn đô. Gia đình và Chùa phải lôi nhau ra Tòa để dành quyền thừa kế. Có vị còn có thú vui thời thượng là sưu tập đồ cổ! Phải chăng người Cúng dường thì nghĩ là Cúng cho Phật. Người nhận lại nghĩ là Cúng cho mình, ăn không hết thì tùy nghi sử dụng? Kinh viết: “Thà cắt thịt mình dùng để nuôi miệng, không dùng tâm tà thọ của cúng thí. Khó lắm! Khó lắm! Cẩn thận. Cẩn thận”. Chỉ nuôi miệng thôi mà không chân chính còn bị nhắc nhở, huống là dùng tiền của Thường Trụ để phục vụ cho cái tâm ham muốn chưa chịu dừng của mình! (còn tiếp 1 kỳ)

Tháng 4/2014

Tâm Nguyện

ĐÍNH CHÍNH

· Số 94: Trang 16 dòng thứ 10 từ trên xuống:

Lan trong Tiểu Thuyết LAN VÀ ĐIỆP của Nhất Linh cũng…

Xin sửa lại:

Lan trong Tuồng Cải Lương Lan và Điệp được chuyển thể từ tiểu thuyết Tắt Lửa Lòng của Nguyễn Công Hoan cũng…

· Số 96: Trang 35 phần cuối, hàng thứ 9 tính từ cuối bài,

đây là một kỹ nghệ tân tiến

Xin sửa lại:

đây là một Công Nghệ tiên tiến. Xin cảm ơn.

TÌM HIỂU SỰ GIỐNG NHAU

của BA TÔN GIÁO

NHO GIÁO – PHẬT GIÁO – THIÊN CHÚA GIÁO

Tìm hiểu sự giống nhau của Nho giáo, Phật giáo và Thiên Chúa giáo phải nói là khó vì sách rất nhiều. Về Thiên Chúa giáo tôi chỉ đọc phần Kinh thánh Tân ước mà thôi. Dù vậy, mỗi tôn giáo tôi tóm lược trên dưới 20 trang, sau đó, tôi rút lại còn vài trang thôi thì cái tôi đã lồng vào sự việc theo lý giải hợp lý của tôi hẳn có sự sai sót. Nói về ba tôn giáo như vậy, tôi thấy tôi táo bạo lắm. Nếu có điều chi sơ sót xin quý vị bổ sung và chỉ vẽ cho.

Tôn giáo là gì? Trong Việt Nam Tự Điển không thấy định nghĩa. Tôi chỉ thấy:

Tôn là tâng, là trọng

Giáo là dạy.

Theo đó, Nhựt Thanh tôi định nghĩa: Tôn giáo là những lời dạy được trân trọng. Đó là những điều làm mực thước cho cuộc sống của con người.

Ở Việt Nam ta có ba tôn giáo lớn du nhập vô, ảnh hưởng lớn đến đời sống của dân tộc ta là Nho giáo, Phật giáo và Thiên Chúa giáo. Mục đích của ba tôn giáo nầy nói riêng và các tôn giáo nói chung là gì? Theo tôi, mục đích của các tôn giáo nói chung là nhằm ổn định cuộc sống yên vui của nhơn loại. Tuy nhiên, mỗi tôn giáo đều có tôn chỉ riêng tùy thời điểm, địa phương của tôn giáo phát sanh.

NHO GIÁO

Nho giáo với Đức Khổng Tử, người nước Lỗ ở Trung Quấc, tên là Khổng Khâu, sanh năm 551 trước Tây lịch, lớn hơn Đức Phật Thích Ca và Đức Chúa Giêsu.

Quan điểm của Đức Khổng Tử là dùng Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín để mong biến đời vô đạo loạn lạc ra hữu đạo an lạc. Trong Nho giáo có sự giải thích về Trời, Đất và Con người. Nho giáo cho rằng trong vũ trụ có cái Lý sáng suốt sanh âm dương rồi sanh ra Trời, Đất, Người và vạn vật gọi là Đạo. Như vậy trong Đạo có 3 nhóm là Trời, Đất và một nhóm nữa là Người và vạn vật.

· Trời: ở trên mây xanh xem xét bốn phương giúp điều hòa sự sống và sự xoay vần của vũ trụ. Trời không tình cảm, không ban phước khi cầu khẩn, không giáng họa khi thất lễ. Ai cố gắng thì đơn độc, ai ươn hèn thì tự diệt.

· Đất: là chỗ trú chưn giúp cho sự sống của Người và vạn vật.

· Người: là kết tinh của âm dương, là tú khí của ngũ hành nên độc tôn và sanh sống với vạn vật. Vì vậy Người phải sống hợp Đạo để yên vui và cần theo kỷ cương để tránh xung đột. Những điểm cốt yếu là:

1. Thương người, thi ơn bố đức để hòa đồng với mọi người mà sống vui vẻ.

2. Người thì hiếu với cha mẹ, đễ (hòa thuận) với anh em, có nhơn hậu, không xử bạc với bạn bè.

3. Lẽ phải là chánh danh phận: Vua ra vua, tôi ra tôi, cha ra cha, con ra con. Vua dùng đức trị dân nên quan, dân phải trung với vua.

4. Xem xét, nghe, nghi… thì phải hỏi cho rõ.

5. Nói phải trung thực.

6. Khi giận phải nghĩ đến tai nạn.

7. Khi thấy lợi phải nghĩ đến điều nghĩa.

8. Giúp người nên hay nên đẹp.

9. Giữ gìn lúc khốn cùng chớ không buông thả.

PHẬT GIÁO

Phật giáo với Đức Thích Ca Mâu Ni, tên thật là Tất-Đạt-Đa, họ Thích già, khi đi tu lấy đạo hiệu là Mâu Ni nghĩa là tịch mịch. Ngài sanh năm 544 trước Tây lịch tại xứ Trung Ấn Độ (nay là nước Nepal), con vua Tịnh Phạn, đi tu năm 19 tuổi.

Đạo Phật là đạo cứu đời nên khắc kỷ mà vị tha và Từ Bi để trả ơn xã hội (từ là tìm vui cho chúng sanh; bi là dứt khổ).

Quan điểm của Phật giáo là giải thoát cái khổ triền miên của chúng sanh. Vì sao chúng sanh khổ? Vì người đời tối tăm nên hành động sai trái mà sanh ra nghiệp và khổ. Chính mình tạo nghiệp để khổ nên chính mình phải giải nghiệp thôi. Đức Phật đề ra Đạo đế với bát chánh đạo:

1. Chánh kiến: thấy, biết rõ nên không bị lôi cuốn.

2. Chánh tư duy: suy nghĩ chơn chánh để làm đúng mà tránh nghiệp.

3. Chánh ngữ: nói năng ngay thẳng theo chơn lý.

4. Chánh nghiệp: tiếng Phạn, nghiệp là tao tác, hành động nghĩa là làm việc công bình, ngay thẳng hợp chơn lý để tránh nghiệp (cái tự mình gây ra để sau chịu lấy cái báo).

5. Chánh mệnh (sự sống): sống phải chơn chánh, theo nhơn nghĩa, lấy tịnh giới làm phép sống.

6. Chánh tinh tiến: giữ tâm trí sáng suốt.

7. Chánh niệm (nghĩ ngợi): nhớ lỗi để sám hối.

8. Chánh định là thiền định, để hết tâm trí tụ tập vào đạo lý nhằm chấm dứt tham sân si… (sân là giận, si là ngây dại).

Theo bát chánh đạo để dứt bỏ 12 nhơn duyên trói buộc làm khổ thì vô minh (nhơn duyên đầu tiên là không biết, hiểu sai nên làm sai) không còn tác dụng nữa nên dứt luôn vô minh nghĩa là không còn gì để hiểu sai rồi làm sai mà khổ. Như vậy thì không còn khổ dây chuyền nên không có luân hồi. Như vậy là lên Niết Bàn. Ai tu cũng được lên Niết Bàn cả nếu đắc đạo.

Mười hai nhơn duyên trói buộc nhau là: Vô minh là tối tăm; Hành là làm; Thức là biết; Danh sắc là tên và hình; Lục nhập là 6 giác quan để nhận biết; Xúc là tiếp xúc nhờ mặt, mũi…; Thụ là nhận lãnh; Ái là ưa muốn, muốn không được thì ghét và tạo nghiệp; Thủ là giữ cho được; Hữu là có; Sanh là ra đời để chịu quả báo kiếp trước; Lão, Tử là già và chết. Sống và chết cứ luân chuyển nhau. Thể xác tan nhưng thân thức lẩn quẩn trong vòng vô minh, mang cái nghiệp đã tạo vào vòng luân hồi. Vòng luân hồi gồm 3 đời là quá khứ, hiện tại và vị lai.

THIÊN CHÚA GIÁO

(Tôi chỉ đọc Kinh thánh Tân ước thôi)

Đức Jésus sanh ra tại Bê-lem, miền Giu-đê đời vua Hê-rô-đê, là cháu 28 đời của vua Đa-vít và được coi là con Đức Giu-se và Ma-ri-a. Năm Đức Chúa ra đời được coi là năm thứ nhất sau Tây lịch.

Tôn chỉ của đạo Thiên Chúa, tôi xin chép lại lời Chúa nhắc: “Không được giết người, không được ngoại tình, không được trộm cắp, không được làm chứng gian. Phải thờ kính cha mẹ, phải yêu đồng loại như yêu chính mình”.

Những nét căn bản của đạo, tôi xin tóm lược thành 15 điểm chính như sau:

1. Phải khiêm tốn, coi mình như em nhỏ, đó là người lớn ở nước Trời.

2. Hãy tha thứ và sửa lỗi cho nhau.

3. Muốn gỡ cái xấu của người thì hãy gỡ cái xấu của mình trước.

4. Muốn người ta làm cho mình thì mình hãy làm cho người.

5. Đừng trả thù ai. Ai vả má phải thì giơ cả má trái ra.

6. Hãy nói giữa ban ngày, có nói có, không nói không… Đừng sợ vì họ chỉ giết được thân xác mà không giết được linh hồn.

7. Ai bỏ mọi sự mà theo Đức Jésus thì tái sanh sẽ được ngự trên tòa vinh hiển.

8. Đừng lo mạng sống, cái ăn, cái mặc mà hãy tìm nước Thiên Chúa và đức công chính của Người. Các thứ kia Người lo.

9. Nếu làm tôi cho Thiên Chúa thì bỏ tiền tài và ngược lại.

10. Phải yêu mến Thiên Chúa của ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn.

11. Phải bố thí, cầu nguyện kín đáo thì Đấng Cha thấu suốt sẽ trả lại.

12. Ai làm lớn thì phải phục vụ.

13. Đừng ly dị vì vợ bị ly dị lấy người khác thì cả hai phạm tội ngoại tình và phải sa vào hỏa ngục.

14. Của cải nên tích trữ trên trời bằng cách đem gia sản bố thí cho người nghèo thì gia sản sẽ không bị mối mọt trộm cắp.

15. Nước tự chia rẽ sẽ điêu tàn, nhà tự chia rẽ sẽ không tồn tại.

NHỮNG ĐIỂM GIỐNG NHAU GIỮA BA TÔN GIÁO

Điều cốt lõi của ba tôn giáo là: Phải thương và giúp người để được sống yên vui và không làm điều gì sai trái.

NHỮNG ĐIỂM GIỐNG NHAU GIỮA BA TÔN GIÁO

NHO GIÁO

PHẬT GIÁO

THIÊN CHÚA GIÁO

1. Thương, giúp người để sống yên vui

Thương người, thi ơn bố đức để hòa đồng với mọi người mà sống vui vẻ.

Khắc kỷ mà vị tha, từ bi để trả ơn cho xã hội. từ là tìm vui cho chúng sanh, bi là dứt khổ.

Phải yêu đồng loại như yêu chính mình. Hãy tha thứ và sửa lỗi cho nhau.

2. Phải thờ kính cha mẹ

Người thì phải hiếu với cha mẹ.

Từ bi, vui người ắt có cha mẹ.

Chúa nhắc phải kính thờ cha mẹ.

3. Nói đúng theo chơn lý

Nói phải trung thực.

Chánh ngữ: nói ngay thẳng, theo chơn lý.

Hãy nói giữa ban ngày, có nói có, không nói không.

4. Sống chơn chánh

Giúp người nên hay. Khi thấy lợi phải nghĩ đến điều nghĩa, khi giận phải nghĩ đến tai nạn. Giữ gìn lúc khốn cùng chớ không buông thả.

· Chánh tư duy: suy nghĩ chơn chánh để làm đúng.

· Chánh nghiệp: làm việc công bình, ngay thẳng, hợp chơn lý.

· Chánh mệnh: sống chơn chánh theo nhơn nghĩa.

Đừng lo mạng sống, cái ăn, cái mặc mà hãy tìm nước Thiên Chúa và đức công chính của Người. Tha thứ và sửa lỗi cho nhau.

5. Phải thấy rõ và biết rõ việc làm của mình

Xem xét, nghi, nghe… thì phải hỏi cho rõ

· Chánh kiến: thấy rõ, biết rõ nên không bị lôi cuốn.

· Chánh tinh tiến: giữ tâm trí sáng suốt.

· Chánh niệm: nhớ lỗi để sám hối.

Muốn gỡ cái xấu của người thì hãy gỡ cái xấu của mình trước.

NHỰT THANH
















Phụ Bản I

MỘT NGHÌN NĂM

NÔ LỆ GIẶC TÀU

MỘT TRĂM NĂM

ĐÔ HỘ GIẶC TÂY

(Trịnh Công Sơn)

Bà phước Féliciel sang Nam kỳ năm 1888 coi ở nhà thương Sóc Trăng, đến năm 1923 thì bà mất, trong 35 năm trời bà đem tấm lòng từ thiện để cứu giúp không biết bao nhiêu người ốm đau bệnh tật, nhất là những người mắc phải bệnh phong (cùi). Đó là bài học trong cuốn Luân Lý “Morale” Giáo Khoa Thư lớp Ba “Cours élémentaire” mà tôi đã học (năm tôi mới lên 9 tuổi), ngày xưa những bài học đều phải thuộc lòng mãi cho đến ngày nay tôi vẫn nhớ.

Kỳ nghỉ hè vừa qua tôi được đi du lịch Quy Nhơn, và có đề nghị cấp trên, xin đến tham quan trại phong Quy Hòa (Quy Nhơn) “nơi Hàn Mạc Tử ra đi vĩnh viễn”: Trước cổng lối vào trại phong Quy Hòa trại cất trên một ngọn đồi, ở đấy có nhà lưu niệm có thư viện, sau đó là nhà khám bệnh phát thuốc, một dải nhà dành riêng cho các tu sỹ và mấy cái nhà riêng cho các bà phước, dọc theo chân đồi là dải nhà trại của những người mắc bệnh phong (cùi), trước hết tôi ghé vô phòng nơi lưu giữ, hiện vật, và nhiều cuốn sách quý còn sót lại tại đây.

Vào năm 1928 được sự ủng hộ của Đức Cha Grangeon Giám mục đại diện Tông tòa giáo phận Quy Nhơn, và chính quyền đương thời đến năm 1929 cha Paul Maheu thuộc hội thừa sai Paris cùng với Bác sỹ Le Moine giám đốc bệnh viện Quy Nhơn, thành lập trại phong Quy Hòa. Bs. Le Moine, tường thuật việc cha Maheu đến Quy Hòa. Một buổi sáng đẹp trời, có một chiếc thuyền cặp bãi Bến Cát, chở theo một cái giường gỗ, một cái bàn, và mấy cái ghế một máy quay đĩa phono 78 tour rất nhiều sách vở (hiện nay còn sót lại vài vật kỷ niệm tại đây) một nhà tu sỹ gầy gò có bộ râu dài, có cặp mắt quyết đoán, đó là linh mục Paul Maheu đã hiến dâng trọn đời mình cho người cùi tại Việt Nam. Cha Paul Maheu làm giám đốc trại phong. Bs. Le Moine phụ trách việc chữa trị, giải phẫu và băng bó cho các bênh nhân.

Lúc đầu cha Paul Maheu chạy vạy xin các nhà hảo tâm ở Bình Định ở Nam Việt và ở Pháp. Cha đã nhận được nhiều sự giúp đỡ rất quảng đại, lúc bấy giờ trại phong được xây dựng bằng mái tranh vách đất gồm: nhà thờ, nhà bệnh nhân và nhà phát thuốc, sau một năm miệt mài làm việc quá vất vả, cha Maheu đuối sức, cha được bề trên đưa về Pháp an dưỡng, ngày 27/02/1931 cha Maheu trút hơi thở cuối cùng tại Pháp.

Sau khi cha Maheu qua đời, cha Alexandre Pierre, đến tiếp tục công việc, tháng 8/1931 cha Alexandre được bổ nhiệm làm Quản lý giáo phận, cha Nicolas Gabriel đến Quy Hòa và một số tu dòng Mến Thánh Gò Thị tới công tác với cha, lúc mới thành lập trại phong, đã đón nhận 52 bệnh nhân, năm sau lên đến 140 bệnh nhân. Vào năm 1930 bệnh nhân càng ngày càng đông nên Bs. Moine làm việc quá tải.

Cuối năm 1930 Đức Cha Tardieu Giám mục đại diện Tông tòa giáo phận Quy Nhơn gõ cửa nhà dòng Phan Sinh Thừa Sai Đức Mẹ ở Roma, những người có chuyên môn, có kinh nghiệm và có khả năng kinh tế giúp cho trại phong Quy Hòa.

Được sự ủy nhiệm của nhà Mẹ Roma, ngày 23/9/1932, năm nữ tu dòng Phan Sinh Thừa Sai Đức Mẹ thuộc tỉnh dòng Thánh Tâm Paris, có các soeur Marie Gisèle “làm trưởng đoàn”, soeur Marie de la Résurrection, soeur Marie de St.Venant, soeur Marie Waberta, soeur Marie Martia du Sacré Coeur, tất cả các soeur đều đặt chân lên tàu Le Général de Mesinger, ở cảng Marseille cập bến Sài gòn ngày 20/10/1932. Vì thời tiết xấu các nữ tu không đi đường thủy về Quy Nhơn, mà đi tàu lửa tới Nha Trang “năm 1932 ngành đường sắt” (Chemin de fer) mới làm tới chân đèo Rù Rì Nha Trang (đường hầm đèo chưa thông) rồi từ Nha Trang về Quy Nhơn bằng xe hơi.

Ngày 24/11/1932 Đức Cha Tardieu và cha Nicolas vui mừng đón tiếp các nữ tu sĩ tại tòa Giám mục Quy Nhơn. Sau đó các nữ tu được đưa đến chân núi Xuân Vân (cổng vào khu du lịch Ghềnh Ráng ngày nay) trước nhà thương hai đại diện bệnh nhân lần lượt đứng ra đọc diễn văn chúc mừng (một bài tiếng Việt và một bài tiếng Pháp) thật đau lòng khi nghe họ tự xưng “thân tàn ma dại”. Kết thúc tiếp đón các nữ tu được sự hướng dẫn đưa về nhà dành riêng cho các nữ tu sỹ.

Áo tôi là một thứ ngợp hơn vàng

Hồn đã cấu đã cào nhai ngấu nghiến

Thịt da tôi đã sượng sần và tê điếng

Tôi đau vì rùng rợn tới vô biên

(trích trong Hồn Là Ai? của Hàn Mạc Tử)

Quy Hòa, nằm trong vùng bờ biển miền Trung, một vùng thường bị gió bão, trận bão ngày 01/11/1933 làm sập đổ tất cả nhà cửa. Trại phong, ngày càng thêm đông, nhờ sự giúp đỡ của các ân nhân gần xa và các nữ tu Phan Sinh, hậu quả bão tố dần được khắc phục…

Năm 1935, Tỉnh dòng gởi thêm bốn nữ tu đến Quy Hòa, trong đó có soeur Marie Ozithe là một kiến trúc sư năng nổ tháo vát góp sức mình trong việc tái thiết “Trại Phong” kiên cố hơn.

Thời gian có hạn, tôi phải theo đoàn trở về lại Sài gòn, ngồi trên xe mà đầu óc cứ vẩn vơ suy nghĩ: “Tại sao thời nhà Nguyễn sử sách nước ta không ghi lại một nhà thương nào trị bệnh cùi, không có nhà thương cùi nào của các đạo giáo khác để lại, mà chỉ có ông cha bà phước (Tây) đã hy sinh đời mình để làm từ thiện cho những kẻ đáng thương đó”.

Còn hai giặc “Tây Tàu” đã đô hộ nước ta, khi thua trận Điện Biên Phủ nặng nề. Pháp đã để lại những kỷ vật gì cho nước ta? Những nhà thương thí ư?! Các bác sĩ tây khám bệnh phát thuốc cho ta ư? Không lấy tiền, không nề hà, không cau có gây gổ bệnh nhân bao giờ, nhiều nhà thương phong từ Nam chí Bắc, những nhà kiến trúc cao tầng đẹp đẽ, những cầu cống đường sá cho tới ngày nay vẫn còn để lại các ông cha bà phước hết lòng giúp đỡ, với những người mắc bệnh phong (cùi) họ đều bị người đời xa lánh kể cả thân nhân bạn bè chứ đừng nói tới người ngoài.

Một nghìn năm nô lệ giặc Tàu, tôi chưa nghe sách vở nào nói Trung Quốc có xây cất hay để lại cho dân ta cái nhà tình thương cái di tích lịch sử nào đáng giá?! Nhưng nói về vơ vét thì số một!...

Gần nhà tôi có cái nhà thương “thí” Tân Định, không biết nó có từ bao giờ, nay vẫn còn; hồi tôi mới lên 6 tuổi, mẹ tôi đưa tôi tới khám bệnh sốt, ông bác sỹ Tây nói cười với tôi, tôi nào có biết, chỉ nghe mẹ trả lời lí nhí mà thôi.

Đánh thực dân Pháp thì ta bắt buộc phải đánh, nhưng nhìn lại quá khứ, Pháp đã để lại cho nước ta ngoài các nhà thương ra, họ còn để lại không biết bao nhiêu công trình cầu cống đường sá nhà cửa đồ sộ như ngày nay ta thấy đó, bao nhiêu là kỹ sư, bác sỹ, bác học, như Bác sỹ Tôn Thất Tùng, nhà bác học Bửu Hội, kỹ sư Trần Đại Nghĩa, Tạ Quang Yến về nguyên tử vv… kỹ sư bác sỹ tốt nghiệp bên Pháp rất nhiều, cái đặc sắc là người Tây có bằng cấp gì thì ta có cái bằng cấp đó, xem mấy cuốn sách sử xưa ghi lại của Tàu chỉ cho tổ tiên ta học cao nhất là cái bằng “Hiếu liêm” (tương đương đệ Tam bấy giờ) “cái bằng này chỉ được cái nghề nói… D”, không thấy sử sách ta nói tới Toán Lý Hóa hay Hình học thực dụng, nói chi tới Hình học không gian!. À mà họ cũng để lại cho ta cái bàn tính lắc cắc tối tân bằng gỗ nhìn nó thấy ngồ ngộ.

HẢI ĐĂNG: TRẦN VĂN HỮU

St một số tài liệu

Mối tình

Huyền Trân & Trần Chung


Tượng Công chúa Huyền Trân

Huyền Trân công chúa (1287 – 1340)

Là một công chúa đời nhà Trần , là con gái của vua Trần Nhân Tông và là em gái vua Trần Anh Tông . Vào mùa Hè năm 1306, Huyền Trân được gả cho vua Chiêm Thành (Champa) là Chế Mân ( tiếng Phạn : Jaya Sinhavarman III) để đổi lấy hai châu Ô, Lý (từ đèo Hải Vân, Thừa Thiên đến phía bắc Quảng Trị ngày nay).

Vào năm 1293, vua Trần Nhân Tông thoái vị, hoàng thái tử Trần Thuyên lên nối ngôi (tức là hoàng đế Trần Anh Tông ). Vua Trần Nhân Tông trở thành Thái thượng hoàng , lên tu ở núi Yên Tử . Năm 1301, Thái thượng hoàng Trần Nhân Tông nhận lời mời, du ngoạn vào Chiêm Thành, được vua Chiêm Thành là Chế Mân tiếp đãi nồng hậu, ở lại trong cung điện Chiêm Thành gần 9 tháng. Khi ra về, Trần Nhân Tông có hứa gả con gái là Huyền Trân cho Chế Mân . Sau đó nhiều lần Chế Mân sai sứ sang hỏi về việc hôn lễ, nhưng triều thần nhà Trần phản đối, chỉ có Văn Túc Vương Đạo Tái và Nhập nội hành khiển Trần Khắc Chung chủ trương tán thành.

Năm 1306, Chế Mân dâng hai châu Ô, Rý (còn gọi là Lý) làm hồi môn, vua Trần Anh Tông đồng ý gả Huyền Trân cho Chế Mân. Huyền Trân về Chiêm Thành, được phong làm hoàng hậu Paramecvari. Một năm sau đó, khi hoàng hậu người Đại Việt vừa sinh xong hoàng tử Chế Đa Đa, thì tháng 5 năm 1307, quốc vương Chế Mân băng hà. Thế tử Chiêm sai sứ sang Đại Việt báo tang. Theo tục nước Chiêm, khi vua chết hoàng hậu phải lên giàn hỏa để tuẫn tang . Vua Trần Anh Tông biết tin, sai Trần Khắc Chung vờ sang viếng tang, tìm cách cứu Huyền Trân. Trần Khắc Chung bày kế thành công, cứu được Huyền Trân đưa xuống thuyền, đưa Huyền Trân về Đại Việt bằng đường biển. Cuộc hải hành này kéo dài tới một năm và theo Đại Việt Sử ký Toàn thư (ĐVSKTT) thì Trần Khắc Chung đã tư thông với công chúa (?)

Tháng 8 năm Mậu Thân ( 1308 ), Huyền Trân về đến Thăng Long . Theo di mệnh của Thượng hoàng Nhân Tông, công chúa đầu gia Phật giáo ở núi Trâu Sơn (nay thuộc Bắc Ninh ) vào năm ( 1309 ), dưới sự ấn chứng của quốc sư Bảo Phát. Công chúa thọ Bồ tát giới và được ban pháp danh Hương Tràng.

Cuối năm Tân Hợi ( 1311 ), Hương Tràng cùng một thị nữ trước đây, bấy giờ đã qu y y đến làng Hổ Sơn, huyện Thiên Bản (nay thuộc Nam Định), lập am dưới chân núi Hổ để tu hành. Sau đó, am tranh trở thành điện Phật, tức chùa Nộm Sơn hay còn gọi là Quảng Nghiêm Tự.

Bà mất ngày mồng 9 tháng giêng năm Canh Thìn ( 1340 ). Dân chúng quanh vùng thương tiếc và tôn bà là "Thần Mẫu" và lập đền thờ cạnh chùa Nộn Sơn. Ngày bà mất sau này hàng năm trở thành ngày lễ hội đền Huyền Trân trên núi Ngũ Phong ở Huế.

Các triều đại sau đều sắc phong bà là thần hộ quốc. Vua triều Nguyễn ban chiếu đền ơn công chúa “ trong việc giữ nước giúp dân, có nhiều linh ứng ” , nâng bậc tăng là “ Trai Tĩnh Trung Đẳng Thần ”.

Sự thật mối tình Huyền Trân công chúa - Trần Khắc Chung

Viết về công chúa Huyền Trân, cả chính sử và dã sử đã tốn khá nhiều giấy mực để luận “công” và “tội” của nàng.

Việc nàng thuận theo ý phụ vương là Thái thượng hoàng Trần Nhân Tông về làm phi của vua Chế Mân nước Chiêm Thành đã góp phần thắt chặt tình bang giao giữa hai nước, tạo mối thâm tình để chống kẻ thù chung là giặc Nguyên Mông vẫn đang ngày đêm nhòm ngó và đặc biệt là việc dâng châu Ô, châu Lý của vua Chế Mân để cầu hôn Huyền Trân công chúa đã giúp nước ta mở rộng bờ cõi về phía Nam.

Nhưng lịch sử cũng đặt ra nhiều câu hỏi xung quanh cuộc đời nàng: Làm thế nào Huyền Trân công chúa có thể thoát khỏi nước Chiêm Thành mà không phải chịu án “hỏa táng” theo vua Chế Mân khi nhà vua băng hà? Làm thế nào để nàng và đoàn hộ tống có thể sống sót trở về sau hơn một năm lênh đênh trên biển, vượt qua những hải khẩu chi chít của nước Chiêm Thành với đội quân tinh nhuệ thiện chiến hay lũ hải tặc luôn đêm ngày rình rập? Và tại sao, sau hơn một năm trời, đoàn thuyền mới trở về? – Đó cũng là mấu chốt của nghi án mối tình giữa Huyền Trân công chúa và quan Hành khiển thượng thư Tả bộc xạ Trần Khắc Chung – vị tướng trẻ tài ba, mưu lược được nhà Trần cử sang Chiêm quốc để tìm cách rước công chúa về nước.

Chuyến tàu định mệnh và nghi án “tư thông”

Trong Đại Việt Sử Ký Toàn Thư có đoạn chép như sau: Theo tục lệ Chiêm Thành, chúa chết thì bà hậu của chúa phải vào giàn thiêu để chết theo. Vua biết thế, sợ công chúa bị hại, sai bọn Khắc Chung, mượn cớ là sang viếng tang và nói với người Chiêm: “Nếu công chúa hỏa táng thì việc làm chay không có người chủ trương, chi bằng ra bờ biển chiêu hồn ở ven trời, đón linh hồn cùng về, rồi sẽ vào giàn thiêu”.

Một sự việc quan trọng như thế mà nhà chép sử chỉ gói gọn trong chừng ấy dòng một cách hết sức sơ sài. Điều đó đã gây ra bao sự hiểu nhầm đáng tiếc, cho rằng trong hơn 1 năm lênh đênh trên biển ấy Huyền Trân và Trần Khắc Chung đã có cơ hội tư thông với nhau.

Từ đó đến nay lẻ tẻ cũng có một vài tiếng nói phản biện nhưng hầu như chưa ai bỏ công nghiên cứu, phân tích thật kỹ lưỡng, nghiêm túc về sự việc trên để minh oan cho Trần Nhân Tông, Trần Anh Tông, Trần Khắc Chung và công chúa Huyền Trân.

Cuộc giải cứu Huyền Trân chắc chắn là có nhiều điều bí ẩn. Triều đại nhà Trần vì một lý do tế nhị nào đó mà không muốn công khai vụ việc này. Những người trực tiếp tham gia vụ giải cứu như Trần Khắc Chung, Đặng Vân… đã mang theo bí mật ấy xuống mồ. Vì thế những kẻ thâm thù với triều đại nhà Trần, với thượng tướng Trần Khắc Chung sau này có cớ để đơm đặt, suy diễn.

Sự thật Huyền Trân có “tư thông” với Trần Khắc Chung?

Chỉ cần tinh ý ta cũng có thể nhận thấy những điều hết sức phi lý trong đoạn văn trên của Ngô Sĩ Liên. Nên nhớ là giai đoạn lịch sử ấy (1220-1340), mối bang giao giữa hai nước Đại Việt và Chiêm Thành hết sức tốt đẹp. Trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên - Mông hai nước đã từng liên kết với nhau. Vua Chiêm đã từng mang quân ra tận Nghệ An giúp Trần Nhân Tông. Vua Trần Nhân Tông đã từng cử hàng nghìn binh mã, hàng trăm chiến thuyền ứng viện giúp chủ tướng Chế Mân đánh thắng Toa Đô khi Toa Đô hùng hổ đưa 5 nghìn quân, 100 hải thuyền, 250 chiến thuyền tấn công Chiêm Thành (năm 1282-1285). Việc Thái thượng hoàng và Vua đồng tình gả công chúa “cành vàng lá ngọc” Huyền Trân cho Chế Mân (vua nước Chiêm) và Chế Mân dâng tặng hai châu Ô - Lý cho Đại Việt làm sính lễ đã nói lên mối bang giao tốt đẹp đó. Đây là chiến lược Hòa – Thân của cả hai nước để liên minh chống giặc xâm lược phương Bắc. Không lẽ chỉ vì sợ công chúa Huyền Trân bị đưa lên giàn thiêu theo tục lệ người Chăm khi Chế Mân băng hà mà Trần Nhân Tông và Trần Anh Tông lại làm một việc chẳng lấy gì quang minh chính đại như vậy đối với một nước láng giềng đang hết sức thân thiện với nước mình? Chuyện Trần Nhân Tông và Trần Anh Tông sợ Huyền Trân bị đưa lên giàn hỏa thiêu là có thật. Chuyện Thái thượng hoàng và Vua cử thượng tướng Trần Khắc Chung đi giải cứu Huyền Trân là có thật. Nhưng sự việc không phải đơn giản như mấy dòng sao chép sơ sài của tác giả ĐVSKTT. Nhiệm vụ đặt ra cho vụ giải cứu này là bằng mọi giá cứu được Huyền Trân nhưng không làm tổn thương mối bang giao hai nước. Đó là một nhiệm vụ vô cùng khó khăn, buộc Thái thượng hoàng và vua phải “chọn mặt gửi vàng”. Thượng tướng Trần Khắc Chung là một sự lựa chọn thích hợp và sáng suốt nhất. Ông vừa có tài quân sự vừa có tài ngoại giao. Chính Toa Đô cũng đã phải kính nể tài ứng đối của Trần Khắc Chung.

Chính Trần Khắc Chung đã có công lớn trong cuộc chiến thắng quân Nguyên - Mông vào năm 1289 (đúng năm Huyền Trân ra đời) và sau đó được phong chức Đại Hành Khiển. Khi trao nhiệm vụ cho Trần Khắc Chung chắc chắn Thái thượng hoàng và vua đã lường trước một số tình huống và dự kiến một vài kế sách ứng phó. Trong bối cảnh mối quan hệ đang tốt đẹp của hai nước thì thượng sách vẫn là dùng con đường ngoại giao, cực chẳng đã mới dùng đến biện pháp quân sự. Theo một số tư liệu đáng tin cậy thì vua Chế Mân băng hà vào tháng 5 - 1306, tháng 9 Huyền Trân sinh thái tử Đa Đa và mãi tháng 10 năm đó đoàn giải cứu của Trần Khắc Chung mới đến kinh đô Chiêm Thành đóng tại Quy Nhơn (Bình Định). Cuộc giải cứu kéo dài gần một năm trời. Tháng 8 năm 1307 đoàn mới đưa được Huyền Trân trở về Thăng Long. Bao nhiêu sự việc phức tạp xảy ra trong thời gian đó. Trước hết là vị thế của Huyền Trân. Nàng giờ đường đường là hoàng hậu của nước Chiêm, phải sống trong hậu cung có quân lính canh phòng nghiêm ngặt ngày đêm nên việc tiếp cận với nàng đâu phải dễ dàng.

Hơn nữa, nàng đang thời kỳ sinh nở nên việc tiếp cận lại càng khó khăn. Như vậy buộc lòng Trần Khắc Chung và đoàn giải cứu phải chờ đợi ít nhất là ba, bốn tháng. Trong thời gian đó Trần Khắc Chung tranh thủ tiến hành công tác ngoại giao, thuyết phục vừa nhu vừa cương để người Chăm buộc lòng đồng ý cho đưa Huyền Trân về nước. Điều này thì Trần Khắc Chung vốn có biệt tài.

Lại còn Huyền Trân nữa. Chắc gì Huyền Trân đã đồng ý trở về cố quốc trong hoàn cảnh chồng vừa mất chưa mãn tang và thái tử Đa Đa vừa mới lọt lòng? Trong một năm chung sống với Chế Mân nàng thấu hiểu vì sao cha nàng đã chọn Chế Mân làm con rể. Chuyến ghé thăm Chiêm Thành (vào năm 1301) gần 9 tháng trời, Trần Nhân Tông quá hiểu về cốt cách và tài năng của Chế Mân. Chế Mân là một vị anh hùng của người Chiêm thời đó. Đâu phải như thiên hạ chào xáo:

Tiếc thay cây quế giữa rừng

Để cho thằng Mán, thằng Mường nó leo.

Chức danh Hoàng hậu của Huyền Trân được Chế Mân và triều đình sắc phong đủ cho ta thấy tình cảm tốt đẹp của cặp đôi “trai anh hùng, gái thuyền quyên” này. Đứa con mới sinh của nàng cũng là một bằng chứng cho tình cảm tốt đẹp đó. Thuyết phục nàng trở về cố quốc đâu phải là chuyện dễ dàng. Tất cả đều phải có thời gian và phụ thuộc vào tài ăn nói của Trần Khắc Chung.

Chuyện Khắc Chung “dùng thuyền nhẹ cướp lấy công chúa đem về, rồi tư thông với công chúa” là hoàn toàn bịa đặt. Có người đã chứng minh khá thuyết phục rằng một chiếc “thuyền nhẹ” làm sao thoát được màng lưới thủy quân hùng mạnh và dày đặc đã từng đánh tan 5 nghìn quân, 100 hải thuyền, 250 chiến thuyền của Toa Đô; làm sao chuyên chở đủ lương thực, nước uống cho đoàn giải cứu trong gần một năm trời; làm sao bảo đảm được tính mạng của một phụ nữ chân yếu tay mềm vừa mới sinh con lênh đênh trên biển những khi sóng to gió lớn? Nếu chiếc “thuyền nhẹ” đó thoát ra khỏi vòng vây của thủy quân Chiêm Thành trong thời gian nhanh nhất (vì chậm sẽ bị bắt) thì làm gì có chuyện gần một năm “loanh quanh” trên biển mới về đến kinh đô Thăng Long. Chuyện này đâu dễ dàng qua mắt bá quan văn võ triều đình nhà Trần thời đó.

Lịch sử hai nước không ghi lại một cuộc rượt đuổi nào hay một sự tổn thất về người nào trong cuộc giải cứu. Và sau khi Huyền Trân về nước một thời gian khá dài không hề thấy phía Chiêm Thành động tĩnh gì. Điều đó cho chúng ta phỏng đoán khả năng cuộc giải cứu đã được tiến hành bằng biện pháp ngoại giao và công đầu thuộc về tài thuyết phục của Trần Khắc Chung. Bởi thế mà sau khi ông mất, triều đình ban tặng cho Trần Khắc Chung chức Thiếu sư (chức danh xếp hàng thứ hai thời bấy giờ).

Chuyện một phụ nữ vừa chết chồng - người chồng mà nàng rất mực yêu thương và kính trọng; vừa mới buộc lòng xa lìa đứa con mình mới sinh cùng với việc Công chúa đang ở trong thời gian hậu sản, về phương diện y học thì thời gian hậu sản nầy kéo dài vài tháng đến nửa năm, nếu như cách đây 700 năm với hiểu biết vệ sinh, phòng bệnh và các phương tiện, thuốc men chăm sóc cho một sản phụ sau khi sinh nở thì còn rất lạc hậu, đâu có cắt tầng sinh môn, đâu có trụ sinh, phòng cách ly vô trùng như bây giờ, vả lại đối với công chúa đây là lần sinh đầu tiên trong đời, sinh con so khó khăn gấp nhiều lần sinh con rạ, thời gian để lành vết thương, thời gian để co hồi tử cung, hoặc nhiễm trùng hậu sản và phần phụ có thể kéo dài rât lâu, theo phong tục tập quán của người Việt Nam thời gian “Phong Long” là 3 tháng 10 ngày, ngưòi ta thường thường có thói quen treo trước phòng sản phụ một nắm lá cây có cây xương rồng, đó là một dấu hiệu, nhắc nhở cho người đàn ông biết chỉ được phép vào phòng vợ và tư thông sau khi cây xương rồng này khô đi!!!! đây chỉ là đầu thế kỷ XX mà còn nằm than nằm lửa huống hồ gì ở thế kỷ thứ XIV thì e rằng thời gian hậu sản này còn kéo dài lâu hơn nữa. Điều đó cho thấy về phương diện thuần túy Y học khẳng định chắc chắn rằng chuyện tư thông là chuyện khó có thể xảy ra được.

Hơn nữa việc tư thông với một người đàn ông bằng tuổi cha chú mình liệu có xảy ra? Còn Trần Khắc Chung vốn được Thái Thượng hoàng và Vua hết lòng tin tưởng, đang giữ một trọng trách trong triều đình, lại theo đạo Phật, là môn đệ của môn phái Thiền Tông, từng viết lời bạt cho tập Tuệ trung thượng sĩ do nhà sư Pháp Loa biên soạn và Trần Nhân Tông hiệu đính… có lẽ nào lại đi làm cái việc xằng bậy ấy?

Huyền Trân trong thi ca nghệ thuật

Câu chuyện về Huyền Trân đã trở thành một đề tài trong thi ca, nghệ thuật.

Tương truyền là bài "Nước non ngàn dặm" theo điệu Nam Bình, có người cho rằng chính Công chúa đã soạn ra trong lúc đi đường sang Chiêm quốc:

Nước non ngàn dặm ra đi...Mối tình chi!

Mượn màu son phấn , Đền nợ Ô, Lý.

Xót thay vì, Đương độ xuân thì.

Số lao đao hay là nợ duyên gì?...

Một số tác phẩm có nói đến Huyền Trân như:

Âm nhạc

· Trường ca Con đường Cái Quan của Phạm Duy

· Tiễn biệt Huyền Trân của Phạm Duy - phổ thơ Đào Tiến Luyện

· Nhớ của nhạc sĩ Châu Kỳ

· Tình sử Huyền Trân của Nam Lộc

· Sương gió Chiêm Thanh - cổ nhạc…

Tiểu thuyết Lịch sử

Bộ “Bão táp triều Trần” của Hoàng Quốc Hải gồm 4 tập: Bão táp cung đình, Thăng Long nổi giận, Huyền Trân Công chúa, Vương triều sụp đổ, được xuất bản lần đầu cả bộ năm 2003. Dịch giả Chapuis Gérard đã hoàn thành bản dịch Huyền Trân Công Chúa/Requiem pour une Princesse sang tiếng Pháp cuối năm 2009 và dự kiến phát hành năm 2012. Năm 2008, bộ tiểu thuyết lịch sử này được nhận Giải thưởng Bùi Xuân Phái – Vì tình yêu Hà Nội.

TÓM TẮT

Phật Hoàng Trần Nhân Tông đã bôn ba hoằng dương Phật pháp ở phương Nam xa xôi, nhưng lại còn đóng thêm vai ‘Ông mai, ông mối’. Mâu thuẫn là, lẽ thường tình là xuất gia thì phải lánh tuyệt bụi trần, vậy mà Trần Nhân Tông chẳng hề sợ hãi vì “Phật ở trong tâm. Tâm là Phật”. Quan niệm đó là tông phái đặc trưng của phái Trúc Lâm Yên Tử (do chính mình sáng lập). Dẫu sống trong trần ai mà vẫn thanh cao thư thái (Cư trần lạc đạo). Phải đem Phật tính ra để giúp đời, vì

Dù xây chín bậc phù đồ

Không bằng làm phúc cứu cho một người.

Trần Nhân Tông không chỉ cứu một người mà còn cứu cả dân tộc, cứu cả sự vĩnh hằng của giang sơn, Tổ quốc Việt Nam. Ông chỉ có một người con gái duy nhất là Huyền Trân Công chúa, vậy mà vì vùng phên dậu phương Nam quan trọng tới bờ cõi nước nhà, vì xã tắc muôn đời, ông sẵn sàng chịu để cho người đời chê trách. Ông có nghe câu:

Tiếc thay cây Quế giữa rừng

Để cho thằng Mán, thằng Mường nó leo?

Ông biết nhưng ông tin cuộc đời sẽ hiểu, con cháu sau này sẽ mãi tri ân. Chính nhờ Huyền Trân Công chúa gả cho Chế Mân, vua Chiêm Thành, mà bờ cõi nước Nam có thêm 2 châu Ô, châu Lý chạy dài tới tận đèo Hải Vân.

Và cách nhau 600 năm sống cách nửa vòng địa cầu, Phật hoàng Việt Nam (1258-1308) và Tổng thống Mỹ Lincoln (1809-1865) lại tìm được sự đồng cảm sâu sắc trong chính sách “Hòa giải và Yêu thương”. Chính sự khoan hồng của Nhà Vua (trong chiến thắng quân Nguyên) và Tổng Thống (xóa bỏ nô lệ, chiến thắng Miền Nam ly khai trong Nội chiến nước Mỹ) vết thương chiến tranh đã mau chóng được hàn gắn, từ đó tái thiết Đất nước hòa bình và thịnh vương, mưu cầu hạnh phúc cho nhân dân Việt Nam và Hoa Kỳ. Cả hai bậc vĩ nhân đều biết rõ rằng không thể nào xóa tan được mây đen của thù hận nếu người chiến thắng cứ “sỉ nhục” kẻ chiến bại, theo cách này hay cách khác.

Chính vì thế, Phật hoàng Trần Nhân Tông là một vị hoàng đế anh minh được hết sức kính trọng, không những tại Việt Nam mà còn trên thế giới với việc thành lập Viện (Academy) Trần Nhân Tông năm 2012 thuộc Đại học Harvard, Mỹ (với Giải thưởng quốc tế Trần Nhân Tông về “Hòa giải và Yêu thương”) như ý nguyện của vị Phật hoàng Việt Nam và Tổng thống Hoa Kỳ thứ 16 vậy.

Kỷ niệm mùa Hè năm ấy (1306) Huyền Trân Công chúa lên đường sang Chiêm, chúng ta cùng nhau hát vang ca khúc “Huyền Trân Công chúa” của nhạc sĩ Nguyễn Hiền để tưởng nhớ tới vị Công chúa khả ái mà cũng lắm truân chuyên…

Ngày xưa có nàng Huyền Trân Công Chúa

Giữa lúc xuân thì, đang độ thắm tươi mặn mà

Đành lòng ra đi, ôm một mối tình ban đầu

Ô, Lý hai châu, duyên nợ phấn son vì đâu.

Thuyền quyên má hồng vì yêu quê hương

Đáp tiếng non sông, xa một bóng người tình chung

Dù ngàn sơn khê, vẫn mơ đến ngày sum vầy

Muôn dặm xa xôi, biệt ly người ơi từ đây.


Duyên kia lỗi hẹn thôi biết bao giờ

Tìm lại nhịp đàn yêu thương, Kinh Kỳ hoàng hôn in bóng

Yêu ai trót nặng lời thề chưa phai

Vẫn một lòng son sắt hoài, dù nổi trôi kiếp hoa rơi.


Muôn chim tiễn nàng Công Chúa lên đường

Vượt ngàn trùng để quê hương

             thanh bình khỏi cơn chinh chiến

Giang san cách trở mịt mờ cô liêu

Bóng nàng nhòa theo bóng chiều,

             mà lòng còn vương niềm yêu.

PHẠM VŨ

(Tham khảo: Tài liệu trong Sách báo & Internet)

Hồi ký văn học

HỒI ỨC VỀ LÊ VĂN TRƯƠNG

NGỌC GIAO

Thời tiền chiến – 1930-1945 – kể về số lượng tác phẩm, Lê Văn Trương là một nhà văn lớn. Theo tôi nhớ, ông có tới 60 tiểu thuyết dài không nói khá nhiều truyện nhỏ đăng trên các báo khắp ba miền trong nước. Ở miền Nam, nhất là tại Sài gòn, tủ sách nhà nào cũng có Lê Văn Trương. Giai đoạn ấy, văn học lãng mạn thịnh hành. Về mặt chính trị, con người, nhất là giới trí thức, lâm vào đời sống tinh thần bế tắc, đứng ở ngã ba lịch sử kể từ sau cái đêm Yên – bái đó, mười ba cái đầu yêu nước, cùng một lúc, rụng dưới lưỡi dao thực dân Tây.

Bắt đầu 1932, xuất hiện Lê Văn Trương trong làng báo, làng văn. Họ Lê ra mắt độc giả một cách khiêm tốn với những bài ngắn đăng đều hàng ngày trên nhật báo Trung Bắc Tân Văn của ông Nguyễn Văn Luận (bố nhà cử nhân văn chương thứ nhất của Việt Nam – ông Nguyễn Khắc Kham ở Pháp về, thiên hạ hồi ấy quen miệng gọi là cậu Cử Kham). Trên báo Trung Bắc Tân Văn mỗi ngày một cột trang đầu, không hề thiếu vắng tên Cô Lý (cô Lý luận) nội dung triết lý, hài hước, nói về các tầng lớp xã hội, đả kích rất chua cay. Quan lại phần lớn bị ông xỉa bút vẫn làm ngơ, Tây cũng mần thinh, không có dấu hiệu gì phản ứng. Tờ nhật báo của ông Luận nhờ cô Lý được nhiều người yêu mến, làm ngả nghiêng mấy bạn đồng nghiệp Ngọ Báo của Bùi Xuân Học, Đông Pháp của Ngô Văn Phú, Tia Sáng của Ngô Vân…

Được hơn một năm, Lê Văn Trương thôi viết báo, bắt đầu sáng tác văn học. Tôi không nhớ tác phẩm đầu tay là cuốn gì, chỉ biết rằng ngay từ bước đầu, chủ “động” Tân Dân Vũ Đình Long đã rung đùi xoa tay, hài lòng với tiểu thuyết Cô Ba Trà của họ Lê. Thuở ấy, người ta đang say sưa với mớ tiểu thuyết tình lâm ly của Pháp như Trà hoa nữ, Mai Nương Lệ Cốt, Graziella… Độc giả nữ say mê và ảnh hưởng đến mức đã xảy ra mấy vụ “trầm hương đắm ngọc” ở Hoàn Kiếm, Tây Hồ. Về vụ đó, đáng kể nhất là vụ “Tuyết Hồng lệ sử”. Cô gái đẹp Hà thành này là hội viên Hội “Phi Cao đẳng bất thành phu phụ”. Hội viên nào phạm nội quy: Không lấy chồng sinh viên Cao đẳng sẽ bị tử hình. Cô Tuyết Hồng, vì khuôn phép giáo dục gia đình đã bị bức bách lấy một thanh niên tên là Đạm ở phố Hàng Mã. Ngay hôm đón dâu, cô nhận được bản án tử hình. Cô vẫn bình tĩnh lên xe hoa, rồi sớm ngày nhị hỉ, một nữ đao phủ đứng đón Tuyết Hồng tại đầu phố Hàng Mã, áp đảo cô lên Tây Hồ, đọc bản án, rồi lập tức đưa mình xuống nước.

Nhân vật Cô Ba Trà của Lê Văn Trương cũng như các nhân vật nam nữ khác ở mọi tiểu thuyết của ông không hề có hành động, tư tưởng yếu hèn, sống khổ, chết khổ vì tình. Ông quyết liệt chống đối lối yêu đương, lề thói hôn nhân ngu muội của cái bọn nữ ma đầu tư sản “Phi Cao đẳng bất thành phu phụ” đó.

Từ Cô Ba Trà, tiếp đến Cô Tư Thung, ông được độc giả hoan nghênh. Đây là hai cô gái đẹp, nổi danh tài sắc của Sài gòn, yêu tỉnh táo, yêu cuồng bạo với thủ đoạn dẫm lên đầu kẻ đàn ông, không hề biết khóc, không hề quỳ gối trước mấy ông Nghị gật, mấy anh nhà giàu đốt giấy bạc kiểu công tử triệu phú Cần Thơ. Hai cuốn tiểu thuyết này đã khiến những chàng, những nàng vốn tôn thờ Mai Nương Lệ Cốt, Trà hoa nữ… quay đầu về phía Lê Văn Trương, ôm ấp tác phẩm của ông, và đón đợi những tác phẩm sau. Cuốn truyện ra tiếp đó là Người Anh Cả, in thành hai tập loại Phổ thông bán nguyệt san của Tân Dân. Đây cũng là một tác phẩm đáng ghi nhớ. Nhân vật chính chỉ là một chàng trai nhà nghèo, sau lưng anh, một đàn em nheo nhóc đói ăn, thiếu học. Người anh Cả đã lao vào cuộc sống kiếm tiền nuôi lũ em, dạy dỗ, dẫn dắt chúng, trở nên những con người hữu dụng. Câu chuyện cũng rắc rối, phức tạp, ly kỳ như Anh em Karamadốp của Dostoievski. Tác phẩm Lê Văn Trương, chủ yếu dựng lên những nhân vật, nam cũng như nữ, phải có một cơ thể mạnh để chứa đựng một tinh thần mạnh. Bởi thế, thời đó, người ta mệnh danh ông là nhà văn triết lý người hùng với luận điệu nửa đùa, nửa mến. Thời kỳ ấy, trí thức một số đông, hâm mộ hai nhà văn chủ trương con người phải mạnh. Đó là, Nietsch và Kant. Lê Văn Trương tán thành ảnh hưởng chủ thuyết này. Lê Văn Trương luôn nghĩ con người phải nuôi dưỡng tinh thần mạnh, ý chí nam nhi. Ông thường nhắc nhủ “Soyons hommes!” (Hãy là Người!). Và với luận cứ ấy, ông bám chặt vào con người hùng trong tất cả sáng tác của ông. Giữa giai đoạn này, xuất hiện một số trí thức tôn sùng André Gide qua tiểu thuyết La porte étroite (Cửa hẹp), “Gia đình, ta căm thù mi” (Ô famille, je te hais). Nhà thơ Lưu Trọng Lư đã là tín đồ của Gide. Bài thơ tứ tuyệt của ông đăng trên Tiểu thuyết Thứ bảy, tôi đã bảo thợ đóng khung trang trọng:

Vô liêu như chiếc đồng hồ

Đôi kim đã chết trên giờ thê nhi

Sông hồ thưa vắng biệt ly

Người lành của rẻ có đi cũng sầu

Tâm trạng những người trí thức, nhất là những văn nghệ sỹ, như tôi đã nói, đứng ở ngã ba lịch sử, ngày tháng rối ren, không biết làm gì, không biết đi đâu, ngoài những chuyến đi giang hồ vặt.

Lê Văn Trương, ngược lại, không tán thành A.Gide, không căm ghét gia đình, coi gia đình là cái lồng hẹp, nhốt đại bàng. Ông càng viết khỏe, bảo vệ chủ thuyết yêu cuộc sống, vượt qua mọi thăng trầm. Hồi đó, một số người nhắc đến Lê Văn Trương, với giọng mỉa mai, xem ông là người hùng kiểu Đông ky sốt, đánh cối xay. Và cho đến ngay cả bây giờ, thanh niên chưa hề đọc Lê Văn Trương, cũng tưởng lầm Lê Văn Trương là người hùng loại cao bồi phong kiến.

Số lượng tác phẩm khổng lồ của Lê Văn Trương, trước khi in, tôi đều đọc bản thảo, thật tình, chưa hề bắt gặp một truyện ngắn nào thiếu đạo đức, vắng cái hào khí của con người đất Việt.

Tôi tưởng cũng cần phác họa dáng dấp nhà văn Lê Văn Trương. Ông cơ thể to cao, da ngăm đen, trán hơi gồ, cặp mắt tinh khôn, có một hột cơm dưới đuôi mắt phải, tiếng cười sảng khoái, đi đứng ung dung, chững chạc. Bạn bè quý mến tính hào phóng, lễ độ, ngang tàng, chân thật, gắn bó với bạn văn nghèo. Gần họ Lê, không có gì đáng phải đề phòng. Duy có điều đáng ngại là mỗi lần gặp nhau, cái bắt tay thân ái của ông khiến người được ông chào phải cố gắng dấu nét mặt đau đớn trong bàn tay sắt của ông. Thật vậy, bàn tay Lê Văn Trương không phải sinh ra để cầm bút, mà để bóp chết những kẻ nào mà ông căm ghét. Mỗi lần Lê Văn Trương đến động Tân Dân hoặc nhà xuất bản nào đó, về đến nhà thì anh em văn hữu, được ông hẹn, đã ngồi chật căn nhà lá hẹp ông thuê tại Ngã Tư Sở, gọi đùa là “Chiêu Anh Quán”, cũng được mang cái tên nữa là Lương Sơn Bạc. Bạn bè đùa ông là Tống Công Minh.

Bà vợ cả Lê Văn Trương quanh năm ở ngôi nhà dưới ngõ Chùa Vua với hai con trai, một con gái. Bà cả người miền Nam, dáng điệu, cốt cách ung dung như một phu nhân mệnh phụ. Cạnh bà vợ quá nghiêm túc, ông tìm hết cách sống riêng, xa vợ, xa con. Và, quả vậy, ông đã sống riêng với một nàng kỹ nữ (chị Đào) nhảy ở tiệm Fantasio, phố hàng Bông. Bà cả không hề phản đối, không hề liếc mắt ngó coi ông chồng nghệ sĩ sống cách nào.

Những ngày trong túi có món tiền bán sách, ông hô bạn đến nhà, cơm rượu suốt đêm ngày, cầm bằng như đốt bạc. Ông có hai đồ đệ tận tụy trung thành là hai gã trẻ tuổi Đặng Đình Hồng, Tân Hiến. Hồng thấp bé, những ngày đói rách, đã từng làm cái nghề đi tuyên truyền đạo Tin Lành ở khắp nơi. Hiến thì cao lớn; bên cạnh vẻ thấp lùn của Đặng Đình Hồng, Tân Hiến tháo vát, khỏe mạnh, tính nết hiền hòa. Tôi nhớ mỗi lần tôi vào “Lương Sơn Bạc” thăm Lê Văn Trương, thấy bóng tôi từ đầu ngõ, ông đã vui vẻ hô to: “Kìa, đại ca đã đến. Chú Hồng, chú Hiến đâu, mau đi làm việc”. Làm gì, tôi kinh ngạc tự hỏi? Thì ra, ngay lúc đó, Tân Hiến đã với tay lên vách, lấy cây lao sắt nhọn. Còn Đặng Đình Hồng thì cắp cây nỏ và một túi tên tre. Tuần trà vừa trọn, ngoảnh ra sân, thấy hai cao đồ của họ Lê, đã xách về một chú gà, chú vịt, và không thiếu một xâu cá béo bắn trộm ở ao trong xóm. Những nhà văn, nhà thơ gần gũi Lê Văn Trương hồi ấy là Nguyễn Bính, Lan Khai, Trần Huyền Trân, Thâm Tâm… lẫn cả anh chàng Viễn, một tay đồ tể khét tiếng ở lò sát sinh Lò Đúc. Làm nghề chọc tiết lợn, nhưng Viễn rất yêu mến, hiểu biết về văn học, hào hiệp như một hảo hán thời Đông Chu liệt quốc. Bài thơ Tống biệt hành bất tử của Thâm Tâm chính là ông gởi tâm sự vào đó trong bữa rượu tại nhà Lê Văn Trương, chia tay Viễn, đi xa… Thâm Tâm ứng khẩu đọc bài thơ ấy trên chum rượu bên Hồ. Nhắc đến Thâm Tâm, tôi không thể nào không thương nhớ con người gày choắt, cao thước rưỡi, hầu như không nói, không cười. Có cảm giác, con người Thâm Tâm, sâu như cái giếng. Rượu uống chẳng kém gì thi sĩ đời Đường. Thơ ứng khẩu nhanh chẳng kém Tào Thực nhà Hán. Con người nhỏ bé này chưa hề biết sợ ai. Chúng tôi thường ví Thâm Tâm là Yêu Ly, là Lạn Tương Như đất Triệu. Cũng ví Lê Văn Trương là đại tướng Liêm Pha, cũng người nước Triệu. Một Lạn Tương Như nhỏ bé, một Liêm Pha thét lửa, cả hai đều khiến bạo Tần phải nể.

Lê Văn Trương chịu khó đọc sách, nghiên cứu sâu văn học Pháp, từ thế kỷ Ánh sáng. Nhưng ông không khoe sách trong câu chuyện văn học với bạn bè.

Về sức mạnh, họ Lê luôn khiêm tốn. Hồi ấy, ở Hà Nội, phố Hàng Trống có một lực sĩ tên là Nguyễn Lộc, mở lò dạy võ, chụp hình trên sách báo, bắp thịt trông ghê như nhà quyền Anh vô địch thế giới Tyson ngày nay. Nguyễn Lộc vắng đồ đệ, có cơ đói rách. Có người xui Nguyễn Lộc thách đấu với Lê Văn Trương, mà thiên hạ thì thầm nhà văn này là cao thủ gồng trà kha, vũ thuật Cao miên. Chuyện ấy đến tai Lê Văn Trương, Trương chỉ mỉm cười. Sau lại nghe võ sĩ Nguyễn Lộc được báo đưa tin ông vừa biểu diễn võ nghệ cho công chúng nhìn tận mắt: trước một tấm mành che cửa, ông Lộc phất tay một cái là lá mành tự động cuốn lên chừng bốn mươi phân. Sau đó, ông Lộc đứng bên một miệng giếng, nước cao gần bằng thành giếng, ông phất tay, làm cho mực nước dâng lên, sóng lăn tăn bắn ra ngoài giếng. Rồi thì báo chí đăng rầm rĩ, ca ngợi Nguyễn Lộc quá trời. Báo Đông Pháp lại mạnh hơn, tung ra cái tin võ sĩ Nguyễn Lộc thách đấu với nhà văn gồng trà kha Lê Văn Trương.

Đã có một lúc, Lê Văn Trương mất cái bình tĩnh thường ngày. Ông định nhận lời thách thức đó. Chúng tôi vội xúm lại hết lời can ngăn, nhắc ông: dù thắng hay bại cũng làm trò cười cho thiên hạ. Nguyễn Lộc, bán sức kiếm ăn như một anh mãi võ, thua không ai cười. Nhà văn Lê Văn Trương mà bị Lộc đánh ngã trước quần chúng thì đó là cái nhục chẳng riêng cho ông, mà nhục chung cho cả làng cầm bút. Cuối cùng ông nghe chúng tôi, rồi câu chuyện lố bịch ấy cũng qua đi.

Năm tháng không đứng lại. Chúng tôi tan tác dần, mỗi người một ngả, vác bút đi kiếm ăn ở khắp ba kỳ. Chao ôi, cái nghề viết mướn mang thuê!

Lê Văn Trương vẫn ở ngôi nhà lá cũ, với hai đồ đệ, với kỹ nữ Đào, người đàn bà xinh đẹp, hiền hậu, cơm nước, hầu hạ ông chồng, càng thêm tuổi càng sinh biến tật, nóng nguội thất thường.

Ông vẫn viết, quanh năm ít có một ngày nghỉ bút. Chỗ làm việc của Lê Văn Trương là một góc gian phòng tối. Những hôm thời tiết đông âm u tối, ông bảo đốt nến trắng, soi bản thảo. Một bàn giấy gỗ mọt, một ghế gần như còn có ba chân. Ông ngồi đó, mặt đăm chiêu, suy nghĩ. Trên bàn giấy, ngay trước mặt đặt một cái sọ người luộc kỹ, sọ bóng lên bởi nhiều bàn tay đã mó vào. Ông ngồi đó, môi mím chặt, mắt trũng sâu, dưới tay một chồng giấy bản thảo. Chúng tôi đã lặng lẽ ngắm nhìn cái đầu ông lẫn với cái đầu lâu sọ người nào đó lung linh trong ánh nến. Theo thói quen, có khi mạch văn bí tắc, ông cầm bút gõ mạnh lên cái đầu lâu mấy tiếng liền. Rồi im lặng. Sau đó ít phút, ông cầm bút viết lia viết lịa, không ngừng nghỉ, có lẽ không cả thở.

Biết ông say viết, chúng tôi bấm nhau lặng lẽ ra về. Cũng đã nhiều lần, ông bảo đồ đệ Đặng Đình Hồng, Tân Hiến, mỗi người ngồi một đầu bàn, cầm bút viết theo ông đọc. Đầu ông ngả trên lưng ghế, mắt nhắm lại, như người ngủ nói mê. Không, ông rất tỉnh. Ngồi mãi mỏi, ông vùng đứng dậy, đi đi lại lại quanh bàn giấy, vẫn tiếp tục đọc cho hai đồ đệ viết. Những tác phẩm sáng tạo theo kiểu đó, khá nhiều. Có tác phẩm thành công, không ít cuốn thất bại. Cũng nhiều khi ông thảo nội dung với đầy đủ chi tiết, ném cho hai đồ đệ viết. Bởi thế, qua mấy năm liền, mấy nhà xuất bản cương quyết khước từ bản thảo tiểu thuyết Lê Văn Trương, vì kém quá, hơn nữa, chữ bản thảo không phải là nét chữ quen thuộc của ông. Họ Lê đi vào túng quẫn. Ông đành vác bản thảo kiểu hàng rởm đó đến “động” Tân Dân. Tất nhiên, ông chủ Vũ Đình Long đưa tôi đọc, cho ý kiến. Thật tình, “nói trộm linh hồn ông Vũ Đình Long” – tôi đã biết là hàng rởm, nhưng thương bạn, tôi không đọc, phê ngay bằng mực đỏ ngoài bìa: “Tốt. In được”. Thế là, ngày hôm sau, Lê Văn Trương, lúc nào cũng y phục chỉnh tề, ngửa cao đầu bước qua động khẩu Tân Dân, tay múa can như Sác-lô, tiếp nhận chiếc phong bì lớn đầy giấy bạc do tay “Tiên ông” đưa nộp.

Sau đó, Trần Huyền Trân, Thâm Tâm, Nguyễn Bính, Vũ Trọng Can được tin mừng, đã đến đủ mặt trong Lương Sơn Bạc. Với Lê Văn Trương, viết cho văn học, cho độc giả thân kính. Với Lê Văn Trương, tiền viết kiếm được, chỉ có giá trị trong việc tiếp đãi, giao du, thỏa mãn bạn văn nghèo. Cho nên, hôm nay, tiệc lớn, không tiếc một ai. Ngày mai, lại xác xơ, nghèo túng. Nhưng họ Lê không vì thế mà than thở, chau mày. Những năm tháng ấy, chúng tôi thực tình yêu thương nhau, đùm bọc nhau, cái nhục cái vinh cùng chia sẻ.

Cho đến một buổi chiều cuối đông, gần tết. Anh em cùng kiết xác, họp nhau uống rượu suông ở nhà Thâm Tâm. Trần Huyền Trân nâng cốc, nhìn Thâm Tâm, Nguyễn Bính, nước mắt lăn xuống má. Trân cúi đầu, lau nước mắt, ứng khẩu mấy câu thơ này, mỗi lần nhớ đến, tôi thấy não lòng:

Thôi thế anh về yên xóm cỏ

Xứ nghèo đã cỗi gốc yêu thương

Nhớ nhau vẩy bút làm mưa gió

Cho đống xương đời được nở hương.

Nghe xong, con người sắt thép như Lê Văn Trương mà cũng cúi đầu dấu tiếng thở dài.

1950. Nhà văn Lê Văn Trương vào Nam, chúng tôi không hề biết trước. Tôi tình cờ giở tờ tuần báo Mới của Phạm Văn Tươi, chủ nhà in, nhà xuất bản Tín Đức thư xã phố cũ Sabourain, thấy truyện dài in hàng tuần, nhan đề Cô gái họ Phạm. Ít ngày sau, tin Sài gòn đưa ra: làng báo trong đó, không biết vì lý do nào, đang phát động phong trào tẩy chay Lê Văn Trương? Tuần báo Mới không in tiếp Cô gái họ Phạm nữa. Lần lữa mãi, Lê Văn Trương, cũng như Vũ Bằng, Tam Lang, Thượng Sỹ, đều thất nghiệp.

Sống trơ vơ, cùng quẫn, họ Lê ốm, già, kiệt sức. Không ai thân thích, ông vẫn hàng ngày đi xoay xỏa. Đói thì chịu vậy, nhưng ông không nỡ để đói lũ mèo 30 con, đủ các loại, các giống, sống quanh ông, bầu bạn chung thủy với ông.

Cho đến một ngày, ông bạn Thanh Châu nhận được thư Thượng Sỹ (nhà văn nhà phê bình cũ trong nhóm Vũ Bằng) gởi ra, kèm theo một mẩu báo cắt nham nhở, đưa tin nhà văn Lê Văn Trương đã qua đời trên căn gác ổ chuột. Trương ơi, anh chết đói hay chết bệnh? Bệnh gì? Vẫn chỉ là căn bệnh chung của lũ mình, cái bệnh của những con người không chịu sống bình thường. Bài báo không quên tả, quanh thi thể ông, một đàn 30 con mèo đói, không kêu gào gì hết. Chúng lặng lẽ bám quanh xác chết, rúc đầu vào nhau. Chúng, chỉ có chúng, những con mèo chung thủy, tiễn ông đi.

Lê Văn Trương ơi,

Hôm nay, ngày xuân Hà Nội. mây trời u ám. Gió xuân se lạnh. Tôi, đã tám mươi, râu tóc bạc phơ rồi. Tôi khép chặt cửa phòng, run tay cầm bút, viết về Anh, nhớ thương Anh. Viết theo thể hồi ức, nhớ gì viết nấy, không bố cục, không văn hoa.

Con chim già, đang rơi rụng cánh, tiếng hót thường lảnh lót. Bạn đọc cổ kim thân quý của tôi, đọc tôi, hãy tin tôi. Sức quá yếu rồi, mạch văn cũng yếu. Bạn đọc thể tình cho cây bút về già.

HOÀNG KIM THƯ st






Nhà thờ Phát Diệm 100 năm trước





Phụ Bản II

Ở cái thời đại nguyên tử này, con trai con gái lớn lên thương yêu nhau nếu không có gì trở ngại thì tiến tới hôn nhân, nắm tay sống đời ở kiếp, còn nếu vì lý do gì đó hai người không đi đến được hôn nhân thì chia tay, mỗi người đi một đường xây dựng lại tương lai cho riêng mình, coi như duyên số không khớp với nhau, ông trời không muốn cho hai người thực hiện cuộc sống với “hai quả tim vàng trong một túp lều tranh”.

Ông Năm ngồi nghĩ tới nghĩ lui về chuyện này hoài. Thời buổi này dù văn minh tiến bộ nhưng cũng không phải đơn giản như vậy, không thể nói nếu cưới nhau không được hai người mạnh ai nấy tìm một nửa cái tôi khác chứ không hề vướng bận tình cảm day dứt chi cả. Hồi thời của ông và bà, bốn năm chục năm về trước, chuyện tình cảm sao mà nó nên thơ quá trời. Con trai con gái thời đó yêu nhau giống như người ta viết trong truyện, trong tiểu thuyết. Người này làm thơ tặng cho người kia. Tặng qua tặng lại. Tình cảm thật là lai láng. Thư từ trao đổi qua lại trên những tờ giấy pelure màu xanh da trời tươi thắm. Có những người con gái khéo tay lấy lá bồ đề và không biết các cô làm cách nào mà chỉ còn gân lá và được tẩm mực tím rồi kẹp trong lá thơ xanh trao cho anh bạn trai. Thường thường các chàng trai mới lớn lúc bấy giờ hơi bị ngớ ngẩn không biết các cô làm sao mà có được chiếc lá bồ đề chỉ còn gân lá và mang một màu tím hiện trên tờ giấy xanh rất đẹp. Có cô bày cho một anh con trai về lấy lá bồ đề già đem ngâm dưới sình, sau ba ngày moi lên sẽ lấy được những chiếc lá chỉ còn gân lá rồi đem ngâm trong mực tím là xong. Anh chàng này về nhà làm thử cái thí nghiệm này. Ba ngày sau anh ta moi lá bồ đề lên thì thấy những chiếc lá bị rách tơi tả, không sử dụng được. Các cô gái được một bữa cười no nê khi biết được kết quả thí nghiệm ngâm lá bồ đề dưới sình của nhà “bác học” tài ba này. Thực ra những là bồ đề này được những tư nhân làm rồi gửi bán ở các nhà sách. Họ làm với số lượng lớn và ngâm lá bồ đề bằng hóa chất chứ không có ai ngâm dưới sình cả. Con trai vô nhà sách không để ý nên không biết.

Ông Năm không tin cậu con trai của ông bị thất bại ở đường tình cảm rồi sinh bệnh hoạn như vậy. Ông thấy vô lý quá. Một đứa con trai ngoan ngoãn học hành bình thường rồi tốt nghiệp ra trường lại có công ăn việc làm tốt bỗng dưng lại suy sụp như vậy. Ông không biết còn có nguyên nhân nào khác hay là cái nguyên nhân mà ông nghi ngờ nhất có chính xác không bởi vì từ khi con ông bắt đầu mang cái chứng bệnh này, ông chỉ nghe nó nói đi nói lại có một câu: “Tui biết mà, không ai chịu hiểu tui hết”.

Hồi năm ngoái, cậu con trai này báo cho ông biết cậu sẽ đi học thêm tiếng Anh vào buổi tối theo yêu cầu của công ty, ông Năm thấy chuyện rất bình thường nhưng cũng có phần vui mừng vì thấy con đang trên đường tiến thân và bắt đầu có ý chờ nó nói về chuyện thành lập gia thất.

Bây giờ nhớ lại ông Năm thấy sau một thời gian ngắn từ khi nó bắt đầu đi học tiếng Anh con ông có một chuyển biến hơi lạ. Cậu có phần vui tính hơn trước. Thỉnh thoảng cậu mua về một miếng vịt quay để ông lai rai với vài lon bia buổi tối trước khi đi ngủ. Bia cũng do chính nó mua về bỏ vào tủ lạnh cho ông và còn nhắc nhở: “Ba uống đi, ít ít thôi, khỏi phải ra tiệm, tối về chạy xe nguy hiểm”. Tiền lương tháng, cậu đưa cho bà Năm coi như đóng góp vào tiền chợ, tiền điện nước trong nhà, còn dư nhiều ít gì cậu cũng đem bỏ vô ngân hàng.

Thấy con trai có cuộc sống ngăn nắp như vậy ông bà già thấy cũng yên lòng, bình tĩnh ngồi chờ cậu con trai, mà ông bà âm thầm coi là quý tử, thông báo cho biết muốn cưới cô gái nào làm vợ, ông bà sẽ chọn ngày lành tháng tốt tổ chức trong thời gian nhanh nhất theo cái kiểu thời bây giờ “con đặt đâu cha mẹ ngồi đấy…”. Hai ông bà cũng hứa với nhau sẽ không gây một phiền hà hay trở ngại gì đến việc cậu con trai chọn vợ tương lai. Hai ông bà thấy thời buổi văn minh tiến bộ này mà còn có nhiều người coi tuổi tác có xung khắc hay kỵ cọ gì không. Chi vậy? Nếu đi coi tuổi rủi ro ông “thầy” nói hai tuổi này không hạp, nào là sát phu hay sát thê, nào là tuổi người con gái không được vượng phu ích tử, hoặc nói tuổi người con trai có tuổi thọ ngắn củn, nghe thầy phán như vậy cha mẹ có dám “cả gan” cấm cản hai đứa không được làm đám cưới, dám không? Thôi thì đã làm cha mẹ, con cái đặt đâu thì ngồi yên chỗ đó cho nó êm thắm. Cứ gì phải đòi cho bằng được cái quyền làm cha mẹ phản bác gây thêm rối rắm.

Bẵng đi một thời gian sau, khoảng bẩy tám tháng gì đó, cậu con trai cho hai ông bà biết đã học xong chương trình tiếng Anh cao cấp và được công ty giao cho “zốp” mới đồng thời dành cho cậu ta một mức lương rất thỏa đáng. Còn chuyện quan trọng mà ông bà muốn được nghe từ lâu nay, đó là chuyện cậu ta đã có bạn gái. Hai ông bà già mừng như trúng số độc đắc. Cậu quen cô bạn gái này vào những ngày đầu của khóa học tiếng Anh cao cấp. Cô cũng được một công ty khác gửi đến học.

Ông Năm không hình dung được trong thời gian học bảy tám tháng trời, tình cảm hai người đã phát triển như thế nào rồi mà hôm nay cậu này đã mạnh dạn báo cáo với cha mẹ như vậy. Ông Năm biết rõ thằng con trai của mình rất kín đáo chuyện gì nó cũng đợi cho có kết quả cụ thể như thế nào đó rồi mới nói ra. Ông Năm cũng thong thả đợi khi nó đưa cô bạn gái về giới thiệu để gặp mặt cũng không muộn màng gì.

Một buổi chiều Chủ nhật, ông Năm bà Năm đang ngồi xem TV gần cửa ra vào. Hai ông bà cố ý ngồi nán lại hy vọng thằng con trai sẽ về kịp dùng cơm tối luôn. Nó về được cũng tốt, nhân tiện ông bà hỏi nó dăm ba chuyện, còn nếu nó không về kịp cũng chả sao.

Trời bắt đầu hết nắng, con hẻm bắt đầu tối dần, bóng đèn tròn trước nhà ông Tư thầy giáo cho ra một thứ ánh sáng vàng vọt soi vào con hẻm nhỏ. Bỗng nhiên có tiếng thắng két quen thuộc của cậu con trai dừng xe ngay trước cửa, rồi có tiếng một cô gái trẻ:

- Ủa, anh ở trong nhà này à?

Tiếng cậu con trai ông Năm:

- Đúng rồi.

- Nhà này của dì Hai em mà!

Nói đến đây cô gái bước hẳn vào trong nhà nhìn ông bà Năm, mừng rỡ:

- Anh Năm, chị Năm!

- Ủa mầy là con dì Bảy ở Cần Thơ đó hả. Ổng bả khỏe hông. Gần cả chục năm không gặp.

- Dạ khỏe, em lên Saigon học. Em là bạn với anh này…

Ông Năm nhìn cậu con trai đang đứng dựa vào khung cửa ra vào, đang theo dõi câu chuyện, mắt có vẻ thất thần. Bà Năm chỉ vào cậu con trai:

- Nó là thằng Phước con chị đó.

Ông Năm chen vào:

- Tụi bây là bạn với nhau đó hả?

Cô gái lấy hai bàn tay úp lên mặt, gật đầu... Ông Năm phá lên cười ha hả…

- Trời đất quỷ thần ơi, nó là con trai lớn của tao đó, nó phải kêu mầy bằng cô.

Vẫn úp hai tay lên mặt, đột nhiên cô đứng dậy bỏ hai tay ra, nước mắt đầm đìa.

- Chào anh Năm, chị Năm em về. Em hiểu rồi.

Nói xong cô bước nhanh ra khỏi cửa và đi thẳng ra khỏi con hẻm, biến mất sau một khúc quanh…

Ngày hôm sau, cậu con trai của ông Năm không đi làm việc nữa. Ở nhà miết. Suốt ngày thơ thẩn ra vào, không màng đến ăn uống, thỉnh thoảng nói lầm bầm trong miệng. Ông Năm cố gắng nghe được mấy tiếng: “Tui biết mà, không ai chịu hiểu tui hết”. Chân trời tương lai của đứa con trai bỗng nhiên tối sầm lại…

Dương Lêh

GIÁO SƯ – DỊCH GIẢ

CAO XUÂN HẠO

(1930-2007)

Đầu năm 1964, khi tôi về Nhà xuất bản Văn học công tác thì anh Cao Xuân Hạo đã là cộng tác viên kỳ cựu của nhà xuất bản từ thời mới thành lập còn mang tên Nhà xuất bản Văn hóa (thuộc Viện văn học). Trong số các xuất bản phẩm đầu tiên của Nhà xuất bản Văn hóa đã có những bản dịch của anh liên tiếp ra thành sách: Đubrốpxki, truyện vừa của A.Puskin (1954); Người con gái viên đại úy, truyện vừa của A.Puskin (1959); Truyện kể của ông Belkin, tập truyện ngắn của A.Puskin (1960); Chiến tranh và hòa bình, tiểu thuyết của L.Tôlxtôi (1962). Ngay trước khi tôi về nhà xuất bản, anh Cao Xuân Hạo và hai dịch giả khác là Nguyễn Ngọc Bằng và Bồ Xuân Tiến được nhà xuất bản ấn hành cho bản dịch tập truyện vừa của nhà văn Aimatov viết bằng tiếng Nga Chuyện núi đồi và thảo nguyên (1964). Những cuốn sách đầu tiên lập tức mang lại tên tuổi cho Cao Xuân Hạo, xếp ngay anh vào hàng các dịch giả hàng đầu của Việt Nam.

Từ đó, tôi và anh Cao Xuân Hạo bắt đầu gần gũi nhau.

Anh Hạo tiếp tục công tác với Nhà xuất bản Văn học và tôi bắt đầu thật sự bắt tay vào biên tập các bản thảo của anh. Khi mới thành lập, nhà xuất bản tập hợp đội ngũ cộng tác viên bằng cách đưa ra một chương trình xuất bản thông báo để mọi người đến chọn và đăng ký dịch thử. Sau khi xét bản dịch thử nhờ đội ngũ chuyên gia đánh giá mới chính thức được giao dịch. Qua đó, nhà xuất bản đã chọn ra một đội ngũ người dịch có trình độ và như bây giờ ta thấy, họ đã dịch thành công không ít tác phẩm của nhiều nước. Đến nay, những cuốn sách do nhà xuất bản ấn hành khi đó vẫn được bạn đọc đánh giá cao. Tuy nhiên, những người dịch đầu tiên này phần lớn thông thạo tiếng Pháp, tiếng Anh, tiếng Trung Quốc. Riêng tiếng Nga mới xuất hiện một ít người, trong đó có anh Cao Xuân Hạo, bên cạnh có thêm Phạm Mạnh Hùng đi với Võ Minh Phú. Anh Hạo và anh Hùng trở thành cộng tác viên trụ cột của Nhà xuất bản Văn học ở mảng tiếng Nga (lúc này Nhà xuất bản Văn hóa thuộc Viện Văn học đã hợp nhất với Nhà xuất bản Văn học của Hội Nhà văn trở thành Nhà xuất bản Văn học).

Dịch giả Cao Xuân Hạo tiếp tục dịch thành công cho Nhà xuất bản Văn học các tác phẩm Con đường đau khổ của A.Tolstoi (1965), cùng anh Phạm Mạnh Hùng tuyển dịch bộ M.Gorki bàn về văn học (1965) và tập Truyện ngắn M.Gorki (1966), rồi Chân dung văn học của M.Gorki (1967); Trên những nẻo đường chiến tranh, tập truyện ngắn của Antônốv (1967), vv…

Từ đây, anh Cao Xuân Hạo không chỉ cộng tác với Nhà xuất bản Văn học, các bản dịch của anh được ấn hành ở nhiều nhà xuất bản khác nhau, nhất là từ sau ngày đất nước thống nhất. Tên tuổi Cao Xuân Hạo còn gắn với nhiều dịch phẩm văn học các nước khác như Đèn không hắt bóng của Y.Oatanabê (Nhật Bản), Nhà xuất bản Cửu Long 1985; Khải hoàn môn, tiểu thuyết của E.Rơmác, Nhà xuất bản Cửu Long 1985; Papillon, người tù khổ sai. Các sách này anh Hạo dịch từ bản tiếng Pháp, tiếng Anh. Từ bé, anh Cao Xuân Hạo đã có khiếu học tiếng nước ngoài và lớn lên anh đã thông thạo nhiều ngoại ngữ: Anh, Pháp, Đức, một ít tiếng Hán. Tự học tiếng Nga, anh trở thành một chuyên gia tiếng Nga xuất sắc và từ đây anh gắn bó với tiếng Nga nhiều hơn.

Vào những năm 80 của thế kỷ trước, anh dịch tác phẩm văn học cổ điển Nga. Năm 1986, bản dịch Tội ác và hình phạt, tiểu thuyết của nhà văn Nga F.Đốxtôiépxki của anh lại xuất hiện ở Nhà xuất bản Văn học. Đồng thời anh tập trung vào việc nghiên cứu giảng dạy ngôn ngữ học. Về lĩnh vực này, anh cũng sử dụng và dịch nhiều tác phẩm ngôn ngữ từ tiếng Nga: Nguyên lý âm vị học của N.S.Trubétxkôi, vv…

Là một dịch giả nổi tiếng với hàng vạn trang dịch và nhiều bản dịch trở thành mẫu mực dịch thuật Việt Nam, anh Cao Xuân Hạo đồng thời là một nhà ngôn ngữ học hàng đầu. Những công trình nghiên cứu ngôn ngữ của anh không chỉ nổi tiếng trong nước mà còn được công bố và phổ biến trên thế giới: Âm vị học và tuyến tính, Tiếng Việt – sơ thảo ngữ pháp chức năng, Tiếng Việt – mấy vấn đề ngữ âm, Ngữ pháp ngữ nghĩa, Sổ tay lỗi hành văn, vv…

Báo Nhân Dân 18/10/2002

THÚY TOÀN


NHÀ BÀ BÙM

Bà Bùm loẹt xoẹt ra mở cổng rào. Gọi là cổng cho oai chớ thật ra chỉ là cái khung gỗ xiêu vẹo máng chằng chịt nào lưới B40, nào kẽm gai mà thực chất là để mấy đứa nhóc tì cháu nội ngoại của bà không chạy ra đường, lỡ xe đụng thì mất công cho bả thêm ngày kỷ niệm, vốn đã đầy nhóc trên tờ lịch tỏn tẻn trên tường rồi.

Đúng vậy, nhà bà trống hoác. Cái nhà ngói rêu phong đã mấy chục năm mà mái đã oằn xuống theo thời gian. Bả nghèo là phải, vì bả có quá trời con. 13 đứa chớ ít ỏi gì! Chưa kể dâu rể cháu tùm lum, làm nhà bà lúc nào cũng ồn như cái chợ. Ồn đây là do bầy con bả, đứa nào cũng có cái bản họng to đùng giống mẹ. Ồn còn do bầy cháu tối ngày léo nhéo, đã vậy còn bầy đặt nuôi chó cho chúng tối ngày nhặng xị lên mà dành ăn. Rồi nào con két gì gì đó được huấn luyện cái kiểu gì mà từ sớm tới khuya hễ ai bước qua cổng là nó ra rả vào tai “cút mẹ mày đi, cút mẹ mày đi”. Vậy mà chẳng ai cút về cả, vì tới nhà Bùm Nổ vui lắm.

Bữa nay cũng vậy. Nhà bả có đám giỗ 40 năm bố chồng bả qua đời. Bả mời ráo cả xóm. Con bả cũng vậy, gặp ai chúng cũng khều:

- Lại chơi đi, tình thương mến thương mà.

Mấy đứa cháu tuổi lằng nhằng cũng:

- Cứ qua nhà ngoại tao đi, ngoại tao vui lắm.

Chỉ có điều chắc ông già chồng bả dưới suối vàng phải tắm bằng bia mới hết được cả núi nùi bia lền khên ngoài sân.

Con cắc kè đậu đâu đó ở chái nhà bỗng cọc cọc cọc mắc tè, mắc tè làm bầy con nít lại nhí nha nhí nhố bắt chước cái tiếng kêu kỳ cục ấy, đám thanh niên ha hả cười.

Bả nói, cứ mời xả láng, không lỗ đâu mà sợ. Không biết bà Bùm có nổ như biệt danh của bả không, chớ nội cái nhà của bả không thôi chắc phải có cỡ 40 cái sinh nhật các thành viên! Hết sinh nhật đến thôi nôi. Chẳng thôi nôi thì đầy tháng. Chẳng giỗ bố chồng thì cũng giỗ bố bố bố chồng và y như rứa về phía bả; Nghĩa là bố ruột, bố của mẹ kế thứ nhì của bả; mẹ kế của bố dượng em dâu bả, vân vân và vân vân… Nghĩa là kể ra thì không thể hiểu nổi cái mối quan hệ zic zac ngoằn nghoèo ngắc ngoái lung tung xòe như vậy. Chỉ kết luận rằng, làm thì chẳng bao nhiêu mà ăn uống hà rầm, lấy gì không nghèo? Con chó chết cũng gầy độ để xử đẹp vài thùng bia. Buồn buồn đi đá gà chơi, gà toi thì cũng hạ thổ một mâm mà thương khóc cho chiến sĩ gà vắn số! Mua cả tỉ tấm vé số, “chẳng may” trúng vài trăm ngàn cũng í ới, miệng ngoác ra rõ to, nổ rõ bự, và nhậu.

Kệ! ngày nào còn sống thì ngày ấy có niềm vui. Chồng bả léng phéng với con nào ngoài ngõ, bả cũng kệ. Bả biết con ranh đó mà bả không quan trọng vấn đề. Thậm chí bả còn mời lại chơi nhân ngày kỷ niệm 27 năm 1 tháng ngày cưới của bả với lão chồng trời đánh. Trước đó 1 ngày, bà còn kêu cả thầy cúng gì gì đó về bái tới bái lui rồi cũng có cái chiếu bày ra với mấy con mực khô, dĩa gỏi vịt và chan chát ly cụng với ly cho lanh canh cuộc đời.

Ngoài lý do chính là giỗ 40 năm kỷ niệm cha chồng hồi cố quốc, thì bữa nay có thêm một lý do chánh đáng để vui mừng: Con trai thứ 9 của bả mới mua lại cái đầu karaoke của ai đó, nên nhậu chút đỉnh để khai trương, với lại cho lối xóm biết Bùm không nổ đâu nhé. Chỉ tiếc rằng, trong lúc rượu chè rủng rỉnh, chưa tới giờ hát cho bà con lối xóm lủng tai, thì Bủm con bả xỉa cái dĩa CD vô nghe đỡ. Chẳng biết tại điện đóm, hay tại cái máy không hạp chủ mà nó cứ rống lên, mùa xuân sang có hoa anh đào, mùa xuân sang có hoa anh đào, mùa xuân sang có hoa anh… làm con chó lấy làm lạ cũng ăng ẳng lên phụ họa, và cái con cắc kè quỷ quái cũng lợi dụng tình thế mà ngâm rằng, cọc cọc cọc mắc tè, mắc tè… làm thẳng Bủm bụm miệng cười rung đến nỗi gãy mẹ nó cái ghế đã xiêu vẹo từ bao mùa lá rụng!

Lỡ nhà hàng xóm mà có đám ma, là y như nhà bả có quây quần tiết canh tiết củng. Lũ thanh niên lý giải, nhà người ta có chuyện buồn thì mình làm cho họ đỡ buồn vậy mới là tình thương mến thương chớ! Rồi bọn chúng với dăm ba xị đế, mấy gói lạc rang, mấy bao snack con nít ăn… cũng đủ chúng lên hương, lên đồng tuốt tuồn tuột. Kệ đám ma, người ta khóc chớ bọn chúng cứ, em ơi có bao nhiêu, sáu mươi năm cuộc đời hoặc 5 anh em trên một chiếc xe tăng hay xe tang gì đó nghe không rõ. Nồi niêu xoong chảo đều được trưng dụng làm nhạc cụ rất ư là văn nghệ. Chương trình văn nghệ ấy được áp dụng cho đám ma lẫn đám cưới. Thôi nôi, thôi đời gì cũng vậy. Thi đậu hay thi rớt gì cũng đều là kỷ niệm chẳng phai. Thi càng rớt thì kỷ niệm càng sâu sắc và xâu xé, nên phải uống cho ly bì thì mới ly kỳ chớ!

Mỗi năm có 365 ngày thì nhà bà Bùm phải có 300 ngày kỷ niệm. Mấy ngày không có chắc là để lấy hơi để mai có sức mà kỷ niệm gấp ba gấp bốn. Cả cái xóm oải lắm. Nhà nó đông người, mình nói ra nói vào lỡ nó buồn lòng thì chỉ nội cái đại đội đó mà tè thôi thì có nước trôi cả xóm…

Mấy cụ già móc ngoéo: Ê! Con Bùm kia, lịch nhà mày còn chỗ không để tao còn xí chỗ, chắc mai tao chết vì các ngày kỷ niệm của nhà mày. Bà Bùm ti tỏe liền:

- Bác Ba ơi, bác nói gì thê lương vậy. Bác zô đây, zô đây, mai có đám hỏi con Búm, bác cháu mình làm vài ve nhá.

Rồi bả cười. Như điên!

LAMTRẦN 01.05.2014

TÂM SỰ

ĐÔI CHIM YẾN

Đầu cành… Yến hót… một mùa xuân

Rồi kết thành đôi

Kề bên… vũ khúc Nghê thường

Múa hát… đùa vui… không một chút bận lòng

Thật trớ trêu thay

Có… những ngày cuối Đông

Ta ôm mối hận tình đời

Cố muốn quên… cho lòng thảnh thơi

Một vết thương tâm

Tím… cả… máu tim

Ôi!!! Màu tím hoa sim

Tím cả mạch sầu

Cho một kiếp người buồn đau

Không thoát khỏi… lưới trời lồng lộng

Khúc ca từ nỗi niềm tang thương

Đã cạn lời tôi hàn huyên

Hát cho đời chút duyên


HẢI ĐĂNG: TRẦN VĂN HỮU


Kỷ niệm 8 năm ngày thành lập

CLB Sách Xưa & Nay

NƠI ẤY

Bạn có biết thành phố này có một nơi

Yên tĩnh, mát mẻ… và rất là lý thú

Nơi trí thức của mọi miền quy tụ

Nhà văn, nhà thơ, nhà giáo… đủ thứ nghề

Tuổi và nghề khác nhau, nhưng chung một đam mê

Cao thấp, giàu nghèo, sang hèn… không phân biệt

Giao lưu và xây lên tình thắm thiết

Anh, Chị… biết gì. Xin mời cứ diễn thuyết

Hay ngâm thơ, đàn hát… mọi người nghe

Hãy chính là mình chẳng câu nệ e dè

Và cứ sống hồn nhiên như con trẻ

Quên muộn phiền sống vui khỏe bạn ơi

Một sân chơi tao nhã thật uyệt vời

Ai chung đam mê… CLB xin mời

Mở tâm hồn như trời cao biển rộng

Bạn sẽ thấy

         thế giới này còn đẹp

                và cuộc đời đáng sống

LÊ MINH CHỬ


BỐN TÁM MÙA

Bốn tám mùa đắng ngọt gót phiêu phong
Đời hoang mã thảo nguyên vùng cỏ cháy
Sương bạc má gió lùa toang vó lộng
Giấc hải hà hý vọng rát trời sao

Bốn tám mùa nông nổi những khát khao
Hoa rã cánh tấc xanh lòng lại thắp
Không sắc hương không trái lành tươm mật
Xao xác mùa kiếp bạc vắt đồi sương

Bốn tám mùa cần mẫn những hạt gieo
Mầm chưa tách đã vội ngày giông gió
Sắc tím loang giữa hoàng hôn ráng đỏ
Khói cay nồng ươm mắt ướt ngày xa

Bốn tám mùa dài ngắn đã đi qua
Còn thêm nữa là bao mùa phía trước
Thôi riết róng những cuồng xoay mất được
Khẽ rung bờm thu vó gọi bình yên

ĐÀM LAN

Hội ngộ nàng Thơ

T rong u hoài ta gặp gỡ nàng thơ

R ất tình tứ ngọt ngào như nắng sớm

Ư ớp trăng ngọc dịu dàng thơm phấn bướm

Ơ i trái tim thổn thức chợt hồi sinh

N ợ duyên xưa chan chứa đọng hương tình

G iọt nước mắt hân hoan mừng hạnh ngộ

Q uên dĩ vãng bay qua vùng bão tố

U ẩn sầu khao khát vượt trùng khơi

 m thầm băng sa mạc lạnh chơi vơi

N iềm hy vọng dâng tràn – Xuân bất tận

NGÀN PHƯƠNG

Chạnh lòng

T ừ độ cánh hoa vùi bão tuyết

T R ời thu nhuộm tím gió tàn đông

Ch Ư a quen mà cảm hoài tha thiết

Trưc phút tương phùng chạnh ước mong

Quyê N nhớ nước sầu kêu khắc khoải

Thươn G nhà thao thức mỏi mòn trông

Q ua bao ghềnh thác con thuyền nhỏ

Q U yết vượt đắng cay – ghé bến lòng

Xu  n đến Xuân đi bao cách trở

Buồ N theo năm tháng chảy xuôi dòng.

                                  NGÀN PHƯƠNG

BA PHÁC THẢO

MÙA THU

1

Lửa trong bếp lò không ngủ, cứ rì rầm

Chuyện với mưa âm thầm gõ trên mái nhà gỗ…

Còn cây bạch dương già nua, như chính nước Nga cổ,

Đứng bên nếp nhà nguyện linh thiêng đã tàn hoang,

Toàn than rực một màu như cơn bão lửa hồng,

Gió thổi tới tán cành chới với,

Lên tiếng lao xao, rùng mình run rẩy,

Và những chiếc lá từ tán cành lả tả tung bay

Rơi phủ đầy những vũng nước quanh thân cây…

Khi trận bão điên cuồng tĩnh lặng,

Một bé gái tí him tìm đến,

Tùm hum trong chiếc khăn len ấm của người bà,

Cô bé dụt dè ngồi bên chiếc đu.

Dưới tán cành bạch dương chiếc đu đưa kẽo kẹt,

Lập tức trên đầu bé bạch dương lao xao đáp,

Hơi thở bạch dương đắng đót lẫn ngọt ngào,

Dường như bằng tiếng nói của con người cây muốn đổi trao

Một điều gì đó cho cô bé.

Cây với bé em chúng cần có nhau đến thế!

Nhưng chuyện riêng tư của đôi bạn bị tôi bỗng phá ngang,

Một lần thất thểu dạo quanh làng

Tôi bỗng buột mồm đùa cợt: “Này bé nhóc!

Hát gì thế?”. Bé em đầu quay ngoắt

Và trả lời: “Cháu có hát đâu, mà cháu khóc đây!”

Thế là chung quanh tôi tất cả bỗng buồn lây!

Nhưng ở tuổi chúng ta có thể nào cũng khóc,

Mỗi lần vậy, lại ép mình cho qua hết,

Và nhủ rằng: “Lại tốt đẹp cả mà thôi”

2

Chợt giữa cảnh hoang vu của mùa thu

Bỗng vang lên một giọng người sảng khoái:

- Thu năm nay trên đầm lầy nham lê đầy rẫy!

- Thu năm nay trên đầm lầy nham lê đầy rẫy!

Lập tức tiếng vọng vang lên khắp mọi nhà

**

*

Trong những điều diệu kỳ của trận đại hồng thủy

Chúng ta được hưởng một vùng đầm lầy bao la,

Hàng trăm dặm nham lê phủ kín,

Phảng phất bao nhiêu câu chuyện

cổ tích, hoang đường truyền miệng

Của các thế hệ nông dân đến đây sinh sống nối tiếp nhau.

Lên tiếng gọi, gọi hoài… Không ai đáp.

Và cái tri giác vạm vỡ bỗng nhiên ngủ thiếp,

Và bỗng nhiên ngủ thiếp những dục vọng đớn hèn,

Biến mất cả cái ký ức về chính bản thân mình,

Và trong giấc mơ những bức tranh cuộc sống

Bị bao phủ một tấm màn ảo ảnh

Của cái im lìm và quên lãng chẳng bến bờ,

Chen đẩy nhau,

bức tranh sau tiếp theo trước thêm mãi nhạt nhòa,

Chỉ một thân cây khô âm thầm rên rỉ…

“Thật là tốt! Thật là tuyệt!” - Tôi nghĩ

Rồi bỗng nhiên giật thót, dường như bỗng tỉnh ra

Chợt nghe thấy đâu đây một âm thanh khác lạ

Rắn! Phải rồi! Rắn lục đầm lầy đó

Suốt thời gian qua chúng dõi theo tôi,

Rình rập, phì phì, uốn éo chờ mồi…

Ảo ảnh biến bay. Cả người tôi lạnh toát.

Tôi vội vàng bỏ đi, run rẩy vì gớm ghiếc,

Nhưng ngay lúc này, như một đám mây đen,

Những con chim giận dữ kêu thét bay đến liền

Chúng bắt đầu lượn vòng xà xuống thấp

Ngay trên đỉnh đầu tôi, một thân cô độc,

Và tôi cũng lại thấy mình lo lắng không yên…

“Tại vì sao bầy chim lại bỗng phát cuồng?-

Tôi thầm nghĩ, và càng lo lắng-

Bởi vì sao lũ rắn lại bắt đầu phát ra thành tiếng?”

Và tôi hiểu ra, rằng chuyện không phải ngẫu nhiên,

Rằng mọi cái trên thế gian

nọc độc và nỗi kinh hoàng

Trắng trợn vây quanh anh tức khắc,

Khi bỗng nhận thấy anh một mình đơn độc,

Và tôi cũng hiểu ra đó là cảnh báo đề phòng:

Thế đủ rồi, chốn đầm lầy chớ có lang thang!

Đó là cảnh báo đề phòng, tôi hiểu rõ -

Tôi sẽ không bao giờ một mình trên đầm lầy tìm hái nham lê nữa…

3

Tháng Mười đã qua. Nhà hong lúa phía sau trống trải.

Bông tuyết ngân lên trong bụi cỏ giá băng.

Dưới bầu trời xám thiếc cuộc sống lặng dần,

Chỉ còn cỗ xe kéo chở thư là bận rộn,

Vừa bảnh mắt ra đã đây đó bò đi khắp chốn,

Biểu lộ với thu sâu kín tâm tư,

Tôi bước đi với mái đầu cúi xuống,

Thơ thẩn khắp các sườn non quê hương làng xóm,

Với ước ao mạnh nhất chỉ một điều,

Sao trong cái ngày thu phân rã cô liêu,

Cả trong cái ngày gần của bão tuyết nay mái rung chuyển,

Ngôi sao của lao động, thơ ca và yên tĩnh,

Sẽ mãi chiếu sáng chúng ta, không nản buồn,

Rằng cả khi về chúng ta ký ức sẽ lãng quên,

Sao vẫn sáng tưng bừng hoan hỉ.

Thúy Toàn dịch


Chờ mưa

Xin cho tôi chút mưa
Để tắm mát đường tình
Đang trên đèo chênh vênh
Cháy khô buồn hiu hắt

Cho tôi làm ong mật
Thêm vị ngọt cho đời
Thêm lãng mạn tình tôi
Đã lâu rồi hoang phế

Đừng bỏ tôi đi nhé
Vì đàn sẽ ngậm tăm
Vì trăng sẽ héo tàn
Theo câu thơ sầu muộn

Hãy dậy xem đêm sớm
Bát ngát những cô đơn
Chỉ có anh và em
Giữa trời nồng vị hạ

Hãy chờ giòng mưa lạ
Phả trên tóc của nhau
Có thể chẳng được lâu
Cũng đủ tình thức giấc...

LAMTRẦN 24.04.2014

CHIỀU MƯA CHỐN CŨ

Chớ nghĩ rằng anh vẫn nhớ em
Thật ra dáng cũ đã cố quên
Mà mộng rập rình từng đêm ngủ
Giật mình lại tiếc chuyện tình duyên

Nếu lỡ ngày xưa có đón đưa
Chẳng qua chỉ để giết thì giờ
Nháp xem đợi chờ vui hay chán
Thuốc đốt vàng tay giữa gió mưa!

Chớ nghĩ hồi ấy anh yêu em
Thật ra cũng có lúc muộn phiền
Khi em tíu tít cùng ai đó
Say mèm tự nhủ ấy mình điên!

Ngày tháng qua đi mà lối xưa
Trong anh vẫn có chút mập mờ
Rằng em từng lấy chồng chưa nhỉ
Chỉ để hôm nào đến... vẩn vơ!

Thế đấy rồi ta lại gặp nhau
Chiều nay trời bỗng trở mưa rào
Dưới chân ghế cũ đôi hoa dại
Cụng đầu trốn cánh bướm phiêu diêu

Có chút bụi mưa trên tóc xanh
Có mãi yêu kiều trong mắt nghiêng
Chẳng biết nói gì cho em rõ
Con tim lấn bấn vạn nỗi niềm...

lamtran

TƯỢNG ĐÀI

(Nhân Ngày Gia Đình Việt Nam 28/6.

Kính tặng những Tượng Đài bất đắc dĩ)

Người nhiều tuổi càng thấy mình cô lẻ

Con cái xa, bằng hữu cũng vơi dần

Đã một thời cống hiến tuổi thanh xuân

Cho sự nghiệp, nuôi đàn con khôn lớn.


Đám con giờ đã đầy lông, đủ cánh

Ai cũng lo cho mái ấm riêng tư

Tháng đôi lần vội vã tạt qua nhà

Gọi là để viếng thăm cho có lệ !


Ai thông cảm cho tuổi già, bóng xế

Nửa kia đi, lủi thủi sống một mình

Muốn tìm ai để kết bạn, tâm tình

Sợ mang tiếng: “Già mà còn ham hố”!


Con phản đối khi cha đòi cưới vợ

Ngại gia tài có kẻ nhảy vô chia

Mẹ muốn đi bước nữa với ai kia

Con xẵng giọng: “Đừng làm con ê mặt”!


Trải tim già không được quyền thổn thức ?

Nhiều tuổi rồi vô cảm với buồn vui ?

Phải lặng im nhìn cuộc sống dần trôi ?

- Không. Không đúng. Ai không mơ hạnh phúc ?


“Góc bếp nhỏ có lửa hồng nhảy nhót

Trên giường êm đôi gối để song song

Khi đi xa còn có kẻ đợi mong

Mùa Đông giá có người chia hơi ấm…”


Chút mơ ước nhỏ nhoi và chính đáng

Sao khó khăn hơn phá lũy, công thành ?

Để ai không can đảm “vượt chính mình”

Và xô ngã bức tường thành dư luận


Đành ngậm ngùi làm Tượng Đài câm nín

Bắt con tim hóa đá, nép bên đời

Cho đám con hãnh diện với mọi người:

Cha, mẹ nó không đi thêm bước nữa !

Tháng 5/2014

Tâm Nguyện


LÀNG TÔI THÀNH QUÁN…

Làng tôi thành quán hết rồi

Bún gà, lòng lợn… cứ xơi suốt ngày

Hàng Tàu cho đến hàng Tây

Hàng nào cũng có… phơi ngay ra đường

Chẳng ai bàn chuyện ruộng nương

Chỉ bàn xem ở Trung ương thế nào?

Nước này, nước nọ ra sao?

Nước nào là địch, nước nào là ta?…

Lu bù hội họp, xướng ca

Cháu con nhẩy múa như là choi choi…

Chỉ thương các Cụ chết rồi

Làm sao sướng được như tôi thế này!...

TRẦN NHUẬN MINH

MY VILLAGE IS TURNING INTO INNS

My whole village has turned into inns

Vermicelly and chicken soup, pork tripes…

people are eating them all day long

From Chinese goods to French goods

Everything is available and… exposed on streets

No one talks about ricefields

They just discuss about how things are going on

in the Central Committee

They wonder about how such or such country is?

Which one is our enemy and which one is our friend?

They unceasingly gather together to sing and dance.

Children dance and hop like sparrows…

I’ve pity of the dead old people

How can they be as happy as I’m now!...

TRẦN NHUẬN MINH

Translated by VŨ ANH TUẤN

HẠT LÚA

Canh nông cơ giới dễ như như chơi

Ba tháng gieo trồng chẳng mệt hơi
Nặng hạt đòng đòng khoe khắp chốn
Oằn bông lúa lúa trổ đầy nơi
Thương trường xuất khẩu làm giàu nước
Kinh tế thu ngân giúp ích đời
Cởi lớp vàng y bày vóc ngọc
Nuôi người muôn thuở, lúa ơn ơi ...!

Thanh Châu

TÂM SỰ NHÀ NÔNG

Làm vườn lựa giống trái cây ngon

Phục vụ người mua tiếng được còn

Tưới nước vô phân công cực khổ

Dầm mưa dãi nắng sức thon von

Con buôn ép giá luôn thao túng

Cái vốn đầu tư chực mỏi mòn

Bát gạo đồng tiền lo hạn chế

Nhà nông than vãn nỉ cùng non...!

Thanh Châu

NHỚ MỘT CÁNH HOA

Kỷ niệm vào hè hoa phượng đỏ

Vui chào gió ấm, lung linh tỏa

Cánh nhung mềm gợi cảm yêu thương

Sắc thắm tươi chiêu hiền gắn bó

Khiến lạc rừng hương hạnh phúc đây

Cho say biển mắt nồng nàn đó

Dư âm nuối tiếc giấc chiêm bao

Vẻ đẹp phai tàn, thu lộng gió

THANH CHÂU

Tìm mộng

Sân trường bóng nắng lá vàng bay
Đi tìm thoáng mộng vuột tầm tay
Tuổi hoa khép nép đôi tà áo
Tình thơ ngày ấy chẳng còn đây

Lá úa rơi rơi khắp lối đi
Ngậm ngùi nhung nhớ xót xa gì
Áo trắng đường xưa tung gió lộng
Môi hồng mắt biếc... tiếc xuân thì!

Ngôi trường yêu dấu vẫn là đây
Thay tên đổi chủ chẳng còn ai
Nắng vô tình quá soi trong mắt
Giọt lệ nào hoen mi xót cay...

Lạc lõng một mình có chờ ai
Tìm trong ký ức cõi mơ phai
Giọng nói tiếng cười vang đây đó
Lớp xưa còn đấy... đã bao ngày...

Nắng chiều phai nhạt ngẩn ngơ buồn
Tìm đâu thấy mộng thuở nồng hương
Lòng người như lá bay theo gió
Hờ hững cho tình mãi vấn vương...

Phạm Thị Minh-Hưng

Hoa Tím Yêu Kiều

Em cùng hoa thơ thẩn bên chiều

Cỏ mềm êm dịu dấu chân yêu

Nhè nhẹ kẻo đau cành Hoa Tím

Mây hồng đứng lặng nắng trong veo...

Hoa Tím thênh thang tận cuối trời

Mình Em dệt mộng tím chơi vơi

Áo dài trắng quá tình ngây ngất

Má lụa môi đào... Gió lả lơi...

Đẹp quá em ơi dáng diễm kiều

Lòng anh xao xuyến ước mơ theo

Bên em chiều tím hoàng hôn tím

Tình yêu màu tím mộng lòng ơi!

Nhớ nhé em yêu, hoa tím mơ

Vì em anh dệt mối tình thơ

Suốt đời yêu nhất loài hoa tím

Tím ngát không gian tím đợi chờ...

Phạm Thị Minh-Hưng


CUỘC ĐỜI TÌNH ÁI

CỦA ERNEST HEMINGWAY

BÍCH PHƯỢNG

Vào một đêm tháng 7 năm 1918, lúc ấy E.Hemingway mới 19 tuổi, ông đã gò lưng đạp xe chở một thùng quà gồm thuốc lá, kẹo chocolate, bánh… đến một toán binh sĩ Ý đóng ở làng Fossalta, phía Bắc nước Ý. Ông ở trong Hội Hồng thập tự quốc tế. Bỗng một tiếng nổ kinh hồn vang lên, quân Áo bỏ bom. Quả bom làm chết và bị thương khoảng hai mươi binh sĩ Ý. May mắn là Hemingway không hề hấn gì. Ông vội vàng cõng một người lính Ý bị thương nặng chạy về phía một đồn chỉ huy. Chỉ được mươi bước thì một loạt đạn của quân Áo lia trúng chân ông…

Khoảng hai giờ đồng hồ sau, các bác sĩ quân y ở mặt trận gắp trong người Hemingway ra 28 mảnh đạn đủ cỡ. Họ phải chuyển gấp anh về bệnh viện lớn ở thành phố Milan ngay trong đêm.

TIẾNG SÉT ÁI TÌNH ĐẦU TIÊN

Sáng hôm sau, mở mắt ra, Hemingway thấy mình nằm trong một căn phòng khá sạch. Đứng bên cạnh là một nữ y tá người Mỹ thật khả ái. Cô tên là Agnes Hannah von Kurowsky, hai mươi tám tuổi. Vậy là “tiếng sét ái tình” giáng xuống tâm hồn chàng trai to con và đẹp như thiên thần. Chính cô Agnes cũng thấy lòng xao động kỳ lạ.

Hemingway trở nên vui tươi, nói chuyện như sáo. Suốt hai tuần lễ trên giường bệnh, Hemingway viết hàng tá thư tình cho người đẹp. Sau này chúng ta dễ dàng thấy cô Agnes chính là nhân vật Catherine trong tác phẩm Giã từ vũ khí (A farewell to Arms) của Hemingway.

Hàng đêm hai người thường tâm tình ở hành lang bệnh viện. Hemingway yêu với tất cả say đắm của mối tình đầu. Nhưng Agnes lúc bấy giờ là y tá trưởng của bệnh viện Milan, nên khi Hemingway lành bệnh được chuyển về Mỹ cô không thể nào “theo chàng” được. Đành chia tay. Từ Mỹ Hemingway viết không biết bao nhiêu những bức thư nồng cháy cho Agnes. Nhưng hiểu rõ hoàn cảnh của mình, Agnes không trả lời.

Hemingway sinh ngày 21 tháng 7 năm 1899 ở Oak Park, gần Chicago. Là con thứ hai của bác sĩ Clarence E.Hemingway và bà Grace Hall. Ông có một chị gái và hai cô em gái. Là con trai duy nhất nên Hemingway được mẹ nuông chiều. Ông ít chịu học hành gì cả, chỉ ưa tập quyền Anh, bơi lội, chạy đua và chơi bóng nước. Phải nói Hemingway là một lực sĩ hơn là một con người văn chương. Ông thích người ta gọi ông là “tên đồ tể”, “tên hung bạo”! Thế mà thành phố Oak Park lại là một thành phố ngoan đạo, nhà thờ nhiều hơn quán rượu. Vì thế năm 18 tuổi Hemingway đã bỏ sang bang Kansas làm phóng viên cho báo Kansas City Star. Khi Mỹ tham gia Thế chiến thứ nhất, Hemingway xin vào làm cho Hội Hồng thập tự, vì mắt ông bị dị tật không vào quân đội được. Hội Hồng thập tự đưa ông qua chiến trường Ý để lái xe cứu thương và tiếp tế thuốc men…

Sau khi gặp Agnes von Kurowsky và thất vọng vì chẳng nhận được thư của người yêu, ông đâm ra uống rượu, la cà với các cô bán quán, đánh lộn với đủ hạng người ở Oak Park. Bà mẹ ông nản quá, cấm cửa. Ông đành đến Chicago (năm 1920) để làm cho một tờ báo địa phương.

MÊ CÔ NÀNG TÓC ĐỎ

Mùa thu năm 1920, Hemingway gặp một cô gái tóc đỏ tên là Elisabeth Hadley Richardson, lớn hơn ông tám tuổi, nhưng có dáng vẻ thanh tú và bộ ngực rất đẹp. Ông tả lại như sau: “Ngay lúc cô ấy bước vào phòng, một tình cảm kỳ lạ trào dâng trong lòng tôi. Trong tức khắc tôi biết là thế nào tôi cũng phải cưới cô ấy làm vợ”. Phần cô Hadley cũng rất mê “anh nhà báo” trẻ trung. Cô có một món tiền dành dụm làm của hồi môn là 8.000 đôla, và một lợi tức hàng năm là 3.000 đôla. Lúc bấy giờ đấy là cả một gia tài!

Hadley lấy Hemingway. Hai người bay qua Paris, Pháp, hưởng tuần trăng mật và dự định sống ở đấy luôn. Lúc này tờ báo Toronto Star ở Mỹ đồng ý nhận Hemingway làm thông tín viên cho họ ở Pháp. Hemingway viết rất nhiều. Ông viết phóng sự về La Mã, về Gènes, Lausanne, Constantinople… Ông gặp Mussolini, Clémenceau, và tham dự cả hòa hội quốc tế 1923 nữa… Rồi ông qua Tây Ban Nha. Hadley, lúc này đang mang thai đứa con đầu lòng, cũng đi theo ông. Đứa bé sinh tại Tây Ban Nha được đặt tên là John Hadley Nicanor Hemingway! Ông âu yếm gọi chú bé là “Bumby”!

Trong thời gian này ở Paris người ta xuất bản tác phẩm đầu tay của Hemingway: Ba truyện ngắn và mười bài thơ (Three stories and ten poems) chỉ bán được có 300 bản!

Khi ở Tây Ban Nha trở về Paris, Hemingway đưa vợ con đến ở cùng với thi sĩ Ezra Pound tại số 113 đường Notre-Dame-des-Champs. Nơi đây nhiều bạn bè quen lui tới. Nhà lại nhìn ra một xưởng cây khá lớn, khiến Hemingway thường nhớ đến mùi thơm của gỗ xẻ ở quê nhà…

CUỘC TÌNH TAY BA

Ngoài những lúc ở bàn viết, Hemingway lúc này ưa đến các phòng tập quyền Anh, các sân thể thao, các câu lạc bộ đua xe đạp… Ông gặp các nghệ sĩ ở Paris như Picasso, Matisse… và cũng thường khiêu vũ với Josephine Baker ở quán rượu “La Vénus d’Ebène”.

Năm 1926, ông cho in cuốn Mặt trời vẫn mọc (The Sun Also Rises). Lần này thì thành công vang dội. Ông rất vui mừng. Uống rượu liên miên. Và vì say nên ăn mặc lôi thôi…

Bấy giờ có một nhà báo nữ người Mỹ, đặc phái viên về thời trang của tờ Vogue, tại Pháp, tên là Pauline Pfeiffer, con một nhà cự phú Mỹ. Thấy Hemingway có vẻ nghệ sĩ, Pauline đâm ra mê ông, tuyên bố thẳng là yêu ông. Rồi sắm cho ông áo quần, mũ nón, đủ thứ!

Hadley, vợ Hemingway, tuy biết nhưng bà tự tin cho rằng chỉ cần Pauline trở về Mỹ 3 ngày là Hemingway quên khuấy cô ta cũng như cô ta sẽ chẳng còn nhớ gì đến ông… Bà tin tưởng đề nghị: “Nếu hai bạn rời nhau mà sau một trăm ngày vẫn yêu nhau, tôi sẽ lui cho hai người lấy nhau…”.

Nhưng bà đã lầm. Và chưa tới hạn một trăm ngày bà đã đồng ý ly dị. Hemingway tặng bà vĩnh viễn cuốn Mặt trời vẫn mọc, và cũng đồng ý cho bà giữ cậu con trai Bumby!

Ngày 10/5/1927, Hemingway cưới Pauline. Đám cưới rất lớn và vui. Nhưng về sau Hemingway có viết: “Tôi vẫn yêu Hadley. Tôi chỉ yêu có một mình người phụ nữ ấy. Lúc chúng tôi sống với nhau, cuộc đời thật tươi đẹp. Tôi làm việc được nhiều, chúng tôi đi du lịch đó đây thật hạnh phúc… Bây giờ thì không còn nữa. Paris không còn vẻ đẹp thuở đầu…”.

Khi Pauline có thai, Hemingway đề nghị cùng trở về Mỹ vì ông muốn đứa con thứ hai này sinh trên đất Mỹ. Bạn ông, nhà văn Dos Passos, khuyên hai người về ở vùng Key West bang Florida vì nơi đây cảnh quan rất đẹp. Và tại đây chú bé Patrick ra đời vào tháng 6 năm 1928. Sau đó một năm là chú bé Gregory. “Ông bố” Hemingway thì cho ra đời hai tác phẩm: Giã từ vũ khí (1929) và Cái chết buổi chiều (Death in The Afternoon) (1932), trở thành một nhà văn nổi tiếng khắp thế giới. “Ông bố” Hemingway tự cảm thấy mình như một người vĩ đại: một chiến sĩ vĩ đại, một võ sĩ quyền Anh vĩ đại, một nhà săn bắn vĩ đại, một nhà thám hiểm vĩ đại, và nhất là “một người tình vĩ đại”! Pauline còn quạt lửa thêm vào bằng cách gọi chồng là “người đàn ông vĩ đại của phụ nữ!”.

CUỘC TÌNH ĐEO ĐUỔI

Ở Key West, nơi vợ chồng Hemingway và 2 con đang ở, có một quán rượu nổi tiếng tên là “Sloppy Joe’s”, Hemingway thường la cà đến đấy say sưa rồi đánh lộn với bọn côn đồ, nói năng bạt mạng, chuốc lấy thương tật lung tung… Một bữa nổi hứng, ông bỏ ra 7.300 đôla mua một chiếc thuyền có tên là “Pilar”, một mình ra biển ngồi câu!

Năm 1936, ông cho in cuốn Tuyết trên đỉnh Kilimandjaro (The Snows of Kilimandjaro). Thành công khá lớn, tiếng tăm ông càng nổi. Bấy giờ có hai người phụ nữ từ Saint Louis đến Key West nghỉ hè. Đó là bà Edna Fishel Gellhorn và người con gái là nhà văn nữ Martha Gellhorn, mới 24 tuổi. Bà Edna giới thiệu con gái mình với Hemingway mà bà gọi là “ông nhà văn vĩ đại”.

Pauline nghe chuyện này thì biết là mình phải “chuẩn bị” mất chồng! Và quả vậy, khi Hemingway bay qua Tây Ban Nha để viết bài ủng hộ những người dân chủ, chống Franco, thì cô Martha cũng bay theo. Hemingway qua Paris, cũng có Martha đi theo. Và cả khi Hemingway về lại Florida cũng thế. Pauline biết là đã thực sự mất chồng, bà dọn sạch đồ đạc và ra đi ngay đêm Noël 1939, không để lại cho Hemingway bất cứ thứ gì!

Hemingway “đành” cưới Martha. Hết nhẵn tiền. Ông cho in cuốn Vì ai chuông báo tử (For Whom the Bell Tolls) cuối năm 1940. Thành công về thương mại rất lớn. Hai vợ chồng lại giàu có. Ông làm giấy để ngôi nhà ở Key West lại cho Pauline và 2 con trai. Ông qua Cuba mua nhà mới ở cùng Martha.

Trước khi đi Cuba, Hemingway và Martha có qua Trung Quốc một thời gian. Ở đấy ông đã gặp Tưởng Giới Thạch và nhiều quan chức của Quốc dân Đảng Trung Quốc.

Khi Mỹ tham gia Thế chiến thứ hai, Hemingway tình nguyện dùng chiếc thuyền “Pilar” của ông làm thuyền thám thính, đi dọ thám các tàu ngầm của Đức quốc xã lảng vảng quanh bở biển Cuba. Nhưng Martha thì không hào hứng lắm với việc này. Bà hay cự nự chuyện ông đi thám thính mà bảo là đi câu cá. Hemingway bực bội, bay qua London, Anh quốc, để viết về chiến tranh, vì lúc này cuộc đổ bộ của quân đồng minh lên Nozmandie sắp sửa thực hiện.

Đến London ông ở tại khách sạn sang trọng Dorchester. Nhưng phần ông thì rất lôi thôi, râu không cắt, áo quần xốc xếch, rượu chè suốt; thách đánh quyền Anh với bất cứ ai, dốc túi đi coi đấu bò, đua ngựa, đi săn bất cứ con vật gì…

MARY, NGƯỜI TÌNH BÊN GIƯỜNG BỆNH

Một buổi chiều, Hemingway say như chết và bị tai nạn xe hơi trầm trọng ở đầu. Người ta đưa ông vào bệnh viện. Bà Martha có qua thăm. Nhưng quá chán với tính “bông phèng” của ông, bà bỏ về. Bà có ngờ đâu, đúng lúc ấy một người phụ nữ, cũng là một nữ ký giả Mỹ, luôn túc trực bên giường bệnh săn sóc cho Hemingway. Họ quen nhau qua nhiều lần gặp gỡ viết tin, viết phóng sự.

Mary yêu Hemingway từ lúc lần gặp gỡ ban đầu, mặc dù nhỏ hơn ông tới mười tuổi. Nhưng lần này bà mới có dịp biểu lộ tình yêu, và quả nhiên sau khi lành bệnh, Hemingway cảm kích, đã cùng Mary bay qua Paris. Lúc này Paris đã được giải phóng. Ông cùng Mary trọ tại khách sạn Ritz, một trong những khách sạn sang trọng nhất của kinh thành hoa lệ. Ông tiếp xúc với nhiều tên tuổi lúc bấy giờ như Jean Paul Sartre, Simone de Beauvoir, nữ diễn viên Marlène Dietrich…

Tuy nhiên những nhân vật này cho rằng Hemingway không phải là người nghiêm túc, cho nên tỏ vẻ thờ ơ với ông. Tức giận, Hemingway cùng Mary trở lại Cuba mua một ngôi nhà và một mẫu vườn rộng 5 hecta, nuôi… ba chục con mèo và một con chó!

Bà Martha biết ông ở với Mary nên đồng ý ly dị. Hemingway viết một tác phẩm mới, gần chín trăm trang, có tựa đề là Vườn địa đàng (Eden Garden) nhưng tác phẩm này thất bại hoàn toàn. Hemingway như điên khùng. Ông bị bệnh mất trí nhớ và tăng huyết áp.

Để giúp ông khuây khỏa và nghỉ ngơi, bà Mary đề nghị nên đi du lịch xa một chuyến. Giữa năm 1948 họ đi Ý.

NGƯỜI ĐẸP THÀNH VENISE

Riêng nước Ý thì lại coi Hemingway là một nhà văn lớn, nên khi ông và Mary đến Gênes thì được tiếp đón rất nồng hậu. Nhiều tiệc tùng và những cuộc nói chuyện văn chương được tổ chức. Bà Mary rất sung sướng, nhưng mỗi khi Hemingway uống rượu say thì lại đối xử rất tệ hại với Mary. Bà vẫn nhẫn nại chịu đựng.

Bỗng xuất hiện một nhân vật mới, đó là Adriana Ivancich, một cô gái gốc Venise, mới 19 tuổi. Lúc này Hemingway đã suýt soát 50. Adriana gọi ông là “Papa”, nhưng đối xử với ông thì như một người tình lý tưởng. Ông nói với nàng: “Tôi sẽ viết cho cô một cuốn tiểu thuyết hay nhất” và ông viết cuốn Bên kia giòng sông dưới những rặng cây (Across the river and into the trees).

Bà Mary không phải không biết, nhưng chẳng nói gì. Điều này khiến cho Hemingway… hơi ngán, ông nói với cô Adriana: “Mary cứng rắn lắm!”

Khi hai vợ chồng về lại Cuba thì ông ngỏ lời mời Adriana cùng qau Havana chơi. Ông đưa cô đi thăm các nhà hàng ở đấy. cùng lúc ông viết cuốn Ông già và biển cả (The old man and the sea). Cuốn này đến năm 1952 bán được 5 triệu cuốn trong vòng có 2 ngày! Vợ chồng ông giàu to. Năm 1953 ông được giải thưởng Pulitzer. Ông cùng Mary đi du lịch Tây Ban Nha, Ý… Họ gặp nhiều nhân vật nổi tiếng thời ấy như Rossellini, Ava Gardner… Tuy nhiên tình hình sức khỏe của Hemingway xuống nhanh. Họ phải trở về Cuba ngay. Hemingway xuống sức nhanh đến nỗi năm 1954, ông được giải thưởng Nobel văn chương, mà không đến được Stockholm để nhận. Ông đau gan, xơ cứng động mạch, sưng tĩnh mạch… hậu quả của tật nát rượu.

Phần quá yếu, phần tình hình Cuba có biến chuyển, Hemingway trở về Mỹ mua nhà ở Ketchum, bang Idaho, sống tĩnh dưỡng. Được ít lâu sức khỏe ông hồi phục, trở lại vui vẻ, hăng hái. Ông lại cùng Mary đi du lịch Tây Ban Nha.

Nhân dịp sinh nhật thứ 60 của ông, bà Mary tổ chức một dạ tiệc đặc biệt có nhạc flamenco, đốt pháo bông và mời rất đông bạn bè quen thuộc. Nhưng trong bữa tiệc Hemingway trở chứng, la mắng bà Mary, chế diễu bạn bè, rồi cuối cùng lại vừa khóc vừa xin lỗi mọi người, chẳng ai hiểu ra làm sao.

NHỮNG NĂM CUỐI ĐỜI.

Giống như nhiều người nghiện rượu khác, càng lớn tuổi Hemingway càng trở nên khinh mạn, ích kỷ, nghi ngờ… một chứng bệnh mà y học gọi là “paranoia”. Ông nghĩ rằng người ta đã ăn hết tiền của ông, ông nghĩ rằng mật vụ FBI Mỹ luôn rình quanh ông, và những kẻ thù luôn bao vây ông! Các bác sĩ và nhà tâm lý học khuyên nên đưa ông vào một nhà an dưỡng để săn sóc đặc biệt cho ông.

Nhưng sau một thời gian ở nhà an dưỡng về, Hemingway chẳng những không khá hơn mà còn sa sút tinh thần nặng. Bà Mary vẫn ở cạnh ông. Bà là người nhẫn nại, dịu dàng chứ không “cứng rắn” như ông nghĩ. Bà rất lo lắng cho ông. Thấy ông quẫn trí, bà rất sợ, bao nhiêu súng ống của ông bà đều đem cất vào phòng riêng, khóa cửa cẩn thận.

Sáng ngày 2 tháng 7 năm 1961 Hemingway dậy rất sớm. Bà Mary còn ngủ. Ông tìm được xâu chìa khóa có chìa khóa mở cửa phòng để súng. Ông lấy khẩu súng hai nòng mà ông thích nhất, kê nòng súng vào trán và bóp cò. Bà Mary choàng dậy chạy đến nhưng đã quá muộn!

Người ta cho rằng sau khi Hemingway chết, thì “giấc mơ Mỹ” (American dream) dường như đi vào chỗ bế tắc: ngày 4/8/1962 cô đào Marilyn Monroe đẹp nhất của Mỹ cũng tự tử; ngày 23/11/1963 tổng thống Kennedy hào hoa nhất của Mỹ bị ám sát! Thời kỳ huyền thoại của “giấc mơ Mỹ” tan vỡ. Cô cháu gái Margaux của Hemingway về sau cũng nghiện rượu, bị đưa vào trại cai nghiện Betty Ford, nơi mà Shirley Mc Laine, Liz Taylor, Liza Mirnelli thường đến chữa nghiện. Còn cô Adriana, “người đẹp thành Venise” của Hemingway cũng treo cổ tự vẫn vì không thể nguôi ngoai sau cái chết của Hemingway. Còn bà Mary Welsh người vợ tận tụy nhất của Hemingway, từ ngày ông mất đã sống như một nữ thánh tại Ketchum và chết vào mùa thu năm 1986…

Tài liệu tham khảo :

- Ernest Hemingway, Jeffrey Meyers, nhà xuất bản Belfond.

- Hemingway, Kenneth S.Lynn, Nxb Payot.

- Ernest Hemingway, Peter Griffin, Nxb Gallimard.

- Papa, Grerory Hemingway, Nxb Denoel

ĐỖ THIÊN THƯ st














Đường Nguyễn Thị Minh Khai 100 năm trước

(thời Pháp thuộc là đường Chasseloup-Laubat)







Phụ Bản III

Ngụ ngôn Cáo và Rùa

Cáo và rùa là hàng xóm của nhau. Cáo rất thích ăn thịt rùa, nhưng khổ nỗi: cứ đụng đến rùa là rùa lại rụt đầu rụt cổ, bó tay bó chân, rút hết vào cái mai, cáo chẳng thể làm gì được. Thế là cáo ta bèn làm mọi cách để dụ rùa bán cái mai:

- Bác rùa à, cái mai của bác dạo này có giá lắm, người ta dùng để xem bói này. Bác có bao giờ nghe các thầy bói mù sờ mai rùa rồi phán chưa? Chính xác lắm nhá! Nhưng mà còn hơn thế, mai rùa mài ra làm thuốc còn cứu được biết bao nhiêu người. Chất liệu của nó giông giống sừng tê giác ấy chứ lị. Hàng hiếm đấy!

Bác bán mai cho tôi rồi lấy tiền đi du lịch nhé. Cuộc đời của bác chửa đi đâu xa mà phải không?

Rùa ta ngẫm nghĩ:

- Mình mà rời xa cái nhà di động này thì thằng cáo nó thịt mất, đây là tài sản quý giá nhất cha sinh mẹ đẻ ban tặng cho mình, mình chẳng thể nào bỏ được. Dứt khoát không nghe theo nó, thằng này xưa nay vẫn có tiếng là cáo già mà!

Nhưng… mà nó nói cũng có phần đúng. Mình chưa bao giờ đi đâu xa cả, chả biết du lịch là gì…

Và thế là rùa âm thầm điều tra về cáo. Bật TV lên xem, rồi xem báo, nghe đài,… đâu đâu cũng đều nói là dạo này cáo ăn chay không ăn thịt nữa; nhưng cũng chả tin được, ai chả biết quảng cáo luôn luôn là nói quá, thậm chí là nói láo nữa. Ví dụ như gói mì 2 con tôm, khi quảng cáo thì thấy tô mì kèm 2 con tôm thơm phức nhưng khi mua về nào có thấy tôm đâu? Để xem đã…

Ít hôm sau khi gặp lại rùa, cáo ranh ma chẳng hề đề cập đến việc mua bán mai rùa nữa; nhưng cáo ta lại hỏi thăm những đứa con của rùa, về nhu cầu của từng đứa và không quên khen bác rùa đã chịu thương chịu khó bỏ công, bỏ của chăm sóc cho chúng học hành đến nơi đến chốn.

Rùa ta ngẫm nghĩ:

- Chà! Còn phải nói, các con mình ăn học tốn quá nhiều đi chứ, hai vợ chồng mình nai lưng chịu cực chịu khổ, giật chỗ này vá chỗ kia thiếu tùm lum tè le ai mà biết.

Và rồi, lần này rùa ta lại nghe thấy TV và đài nói cáo ta đã vào chùa để tu rồi. Rùa ta tặc cái lưỡi vốn dĩ đã rất ngắn nhưng vẫn kêu “chóc” một cái:

- Cáo tu ư? Có mà tu hú!

Chẳng bao lâu sau rùa lại gặp cáo - lần này rùa thấy cáo mang một dáng vẻ đạo mạo (tu rồi mà!) - vừa thấy rùa cáo đã chào rùa rất ư là thân mật:

- Chào bác rùa, bác dạo này trông trẻ và khỏe quá, nhất là bác gái. Hai vợ chồng bác rất đẹp đôi khiến cho nhiều người khác phải thèm thuồng. Hàng xóm quanh đây nhiều chị phải đi nâng cấp phần này, sửa phần kia mới giữ được tuổi xuân đấy nhé.

Thật ra mỗi lần gặp rùa, cáo ta không ngăn được giòng nước rãi thèm thuồng; nhưng nó cố đon đả chào hỏi và cũng không quên chêm vào một câu cho rùa xót ruột… nào là du lịch, nào là ăn học của con cái, nào là sắc đẹp, chỗ ở vv…

Nghe cáo nói vậy, rùa ta tự nhủ:

- Vợ mình trước kia rất đẹp. Hoa khôi ấy chứ nhưng vì tần tảo lo cho chồng cho con – một taynuôi đủ năm con với một chồng” – nên nhan sắc đã tàn lụi theo năm tháng thế mà thằng cáo còn xỏ ngọt mình. Mình cũng muốn ‘tút’ lại cho vợ mình để trông không đến nỗi tệ quá nhưng…

Một hôm, lại có tờ giấy quảng cáo nhét qua khe cửa nhà rùa nói cáo ta đi làm từ thiện nữa. Rùa không khỏi ngạc nhiên:

- Chà chắc là nó đắc đạo thật rồi, nào là ăn chay, đi tu, làm từ thiện… mình có quá cố chấp với cáo chăng?

Sau bao nhiêu đêm suy nghĩ, đắn đo, trằn trọc rùa ta chủ động gọi cho cáo:

- Chào anh cáo, tôi đồng ý bán cái mai cho anh. Ngày mai anh ghé lấy vì tôi còn phải đánh bóng lại cái mai cho thật đẹp, anh nhớ tăng thêm giá tiền đấy nhé!

- Ồ chuyện nhỏ, tôi đảm bảo với số tiền bán mai, anh có thể sửa sang nhà cửa, chăm sóc chu đáo cho vợ con, đi du lịch thỏa thuê lại còn dư để cho vào ngân hàng ấy chứ lị.

Đọc đến đây thì tất cả chúng ta đều có thể đoán được phần kết của câu chuyện. Vâng, vào cái ngày mà rùa bán mai cho cáo cũng chính là ngày giỗ đầu của rùa vào năm sau. Chính cáo đã tìm cách tạo ra tất cả các thông tin cũng như cho người nhét tờ quảng cáo vào nhà rùa vì biết rùa thích xem và nghe quảng cáo. Rùa luôn khoe với mọi người cái gì cũng biết rồi nhưng thực ra rùa chẳng mấy khi đi đâu xa và cũng chẳng làm bạn cùng ai cả…

Chuyện ngày nay lặp lại chuyện của thời xưa:

Tăng Tử tên thật là Tăng Sâm (505 TCN - 435 TCN), người thành Nam Vũ, nước Lỗ (nay là huyện Bình Ấp, tỉnh Sơn Đông ), là học trò xuất sắc của Khổng Tử ; Tăng Sâm nhỏ hơn Khổng Tử 46 tuổi. Ông là một người chí hiếu với cha mẹ, người đời sau liệt ông vào một trong “ Nhị thập tứ hiếu ” (hai mươi tư tấm gương hiếu thảo mà các học sinh lớp đệ Thất trước kia vẫn được học) vì truyền thuyết mẹ ông khi cắn ngón tay mà ông động lòng.

Khi Tăng Sâm ở đất Phi, ở đấy có kẻ trùng tên với ông giết chết người.

Một người hớt hải chạy đến báo mẹ ông Tăng Sâm rằng:

- Tăng Sâm giết người.

Bà mẹ nói:

- Chẳng khi nào con ta lại giết người. Rồi bà điềm nhiên ngồi dệt cửi.

Một lúc, lại có người đến bảo:

- Tăng Sâm giết người. Bà mẹ không nói gì, cứ điềm nhiên dệt cửi.

Một lúc nữa lại có người đến bảo:

- Tăng Sâm giết người. Bà mẹ sợ cuống cuồng, quăng thoi, trèo qua tường chạy trốn.

Lời Bàn:

Tăng Sâm vốn là người hiền hậu, hiếu thảo, bà mẹ vốn là người trung tín, một bụng tin con. Thốt nhiên có kẻ bảo: “Tăng Sâm giết người”. Bà mẹ không tin, và người thứ hai bảo, còn chưa tin; nhưng đến người thứ ba bảo, thì bà cuống cuồng chạy trốn. Như thế mới hay cái dư luận của thiên hạ rất là mạnh. Một việc, dù cho sai lầm đến mười mươi, nhiều người đã cùng có một nghị luận đều như thế cả, thì cũng dễ khiến cho ta nghi nghi hoặc hoặc rồi đem bụng tin mà cho là phải, nom đỉa hóa ra rươi, trông con chó thành ra con cừu. Đến như giữa chợ, làm gì có cọp! Thế mà một người, hai người, đến ba người nói có cọp, thiên hạ cũng tin có cọp thật nữa là! Những bậc ra được ngoài vòng dư luận, giữ vững được bụng như cây giữa rừng, như kiềng ba chân rất là hiếm, nhưng có thế được mới cao. Một chân lý có chứng minh rõ ràng, mười phần chắc chắn, thì mới nên công nhận.

(Theo Cổ Học Tinh Hoa của Nguyễn Văn Ngọc và Trần Lê Nhân. NXB Tp HCM, 1988)

Chuyện cáo và rùa hay chuyện về thầy Tăng Sâm là những câu chuyện về những thông tin xấu, thông tin không chính xác. Nhưng đâu là thông tin chính xác? Thông tin nhiều quá, tin vào cái nào đây? Lên Internet, vào Facebook đa số chỉ là rác, chẳng ai chịu trách nhiệm trên thông tin mình đưa ra nhưng mọi người vẫn tin như tin kính. Tuy vậy, cũng có lúc “trong rác có vàng”, nhiều người đã từng làm được cái việc tìm ra vàng từ cái đống rác to đùng ấy đấy.

Thời nay là thời @ là thời của thông tin, kẻ nào nắm giữ thông tin nhiều kẻ đó sẽ dễ làm giàu: Biết được giải tỏa khu nào, con đường nào có giá, nhà nào ra mặt tiền, vàng đang chuẩn bị hạ giá, đô la tăng giá, chứng khoán lên…

Ngày qua ngày hết nghe quảng cáo trên TV, báo đài… mở cửa ra là đã thấy những tờ rơi, tờ quảng cáo nhét vào khe cửa, dừng xe tại ngã tư là có những sinh viên làm thêm phát những tờ quảng cáo nho nhỏ, có người lịch sự cất vào giỏ, có người vất ngay xuống đường chẳng thèm đọc.

Quảng cáo đã ăn sâu vào tiềm thức đến nỗi khi vào siêu thị ta tiện tay quăng vào xe chở hàng những sản phẩm mà ta đã từng nghe đi nghe lại “sạch 99%”, hay “sạch bay gàu”, “giai, dòn”… mặc dù vẫn biết quảng cáo luôn luôn là nói to nói lớn, phóng đại quá sự việc.

Trước thời đại của truyền thông mỗi người lại phải tự xử lý thông tin, chọn lựa thông tin, nhất là phải bàn hỏi cùng những người có trình độ hơn. Ai nên khôn không khốn một lần. Nhưng chỉ một lần là đủ cho bác rùa tội nghiệp. Cáo muôn đời vẫn là cáo, mọi sự quỷ quyệt xấu xa đều gán cho cáo, Tăng Sâm là người con chí hiếu, Tăng Sâm chẳng thể nào khác được cho dù người ta có báo là giết người. Chỉ tiếc là rùa ta không bàn hỏi với ai, cũng như mẹ của thầy Tăng Sâm không tin đủ vào tình yêu mẹ đã được chứng minh khi cắn ngón tay mình mà con đau lòng.

Hà Mạnh Đoàn

GIAI THOẠI VỀ SỰ RA ĐỜI

CỦA NHÂN VẬT FRANKENSTEIN

Tháng 3 năm 1818, công chúng Luân Đôn chứng kiến sự ra đời của một tác phẩm nghệ thuật độc đáo, đó là tập truyện Frankenstein của một phụ nữ ẩn danh chưa đầy 20 tuổi. Không bao lâu sau, tác phẩm vượt ra ngoài lãnh vực văn chương, thâm nhập vào thế giới kịch nghệ (1823) rồi điện ảnh (1910), từ đó nhân vật người máy Frankenstein chinh phục trái tim của hàng trăm triệu khán giả thuộc nhiều thế hệ khác nhau và đến nay vẫn còn được ưa chuộng. Tuy nhiên ít ai biết được rằng tác phẩm đó đã ra đời trong một tình huống đặc biệt có liên quan đến những nhân vật văn học nổi tiếng đương thời.

Tác giả ẩn danh của Frankenstein chính là Mary Godwin Wollstonecraft, chưa đầy 20 tuổi, có chồng là nhà thơ nổi tiếng Percy Bysshe Shelley nên người đời thường gọi bà là Mary Shelley. Tác phẩm của bà kể về câu chuyện một nhà bác học người Genève (Thụy Sĩ) tên Victor Frankenstein sáng chế được một người máy và dùng các xung điện làm cho nó trở nên sống thực. Sản phẩm có hình thù của một con quái vật, cao 2m, xấu xí kinh khủng, bỗng nhiên một bữa nọ muốn có tình yêu và cảm xúc, đòi Frankenstein kiếm cho y một phụ nữ cùng kích thước. Nhà bác học từ chối, sợ rằng mình sẽ khai sinh một giống quái vật con đàn cháu đống, có thể chế ngự loài người. Để trả thù người đã sinh thành mà không thỏa mãn yêu cầu của nó, con quái vật lồng lên giết chết vị hôn thê, người bạn thân và người anh ruột của Frankenstein. Trong đau đớn cùng cực, ông thề sẽ tự tay tiêu diệt con quái vật, liền truy đuổi nó đến tận Bắc cực, ở đó nó biến mất, còn nhà bác học thì nằm kiệt sức giữa bốn bề băng giá…

Khi tác phẩm vừa xuất hiện, giới phê bình nghệ thuật Anh hết sức ngạc nhiên về trường hợp một cây bút mới, mà họ nghe đồn là còn rất trẻ, lại có thể viết nên một kiệt tác trong thể loại văn học kinh dị vào thời đó còn bước những bước chập chững vào đời. Họ đi tìm nguyên nhân hình thành nhân vật Frankenstein trong khung cảnh ấm áp của mùa hè năm 1816, trên bờ hồ Genève thơ mộng, nơi đã in dấu chân của hai nhà thơ nổi tiếng đương thời là Huân tước George Gordon Byron và Percy Bysshe Shelley. Cả hai vừa trốn chạy khỏi nước Anh (theo Thanh giáo) đang phẫn nộ trước chủ nghĩa vô thần và lối sống phóng túng của họ. Bên cạnh họ còn có Mary Godwin Wollstonecraft và người em cùng cha khác mẹ của cô là Claire – Clairmont, tình nhân của Byron.

Năm ấy Shelley 24 tuổi, đã bị tống khứ khỏi Trường đại học Oxford vì đã công bố một bản văn đả kích có nhan đề “sự cần thiết của chủ nghĩa vô thần”. Vốn là người ăn chay và hiếu hòa, Shelley tin tưởng ở tình yêu tự do và ủng hộ lý tưởng giải phóng đất nước Ireland. Ngoài thi ca, ông đam mê khoa học, nhất là vật lý và hóa học. Ngay từ những năm trung học, ông rất ngưỡng mộ những người máy của giáo sư Adam Walker và đã biến căn phòng ở của mình thành một phòng thí nghiệm thực sự.

Sau khi rời Đại học Oxford, Shelley muốn trở thành bác sĩ nên đã theo học ngành giải phẫu học ở bệnh viện St.Bartholomev (Luân Đôn).

Mary là một thiếu nữ có sắc đẹp dịu dàng, một tính nhạy cảm sâu sắc và một đầu óc linh hoạt, ham hiểu biết. Mẹ ruột cô, bà Mary Wollstonecraft, một trong những người tiên phong trong cuộc đấu tranh bảo vệ quyền lợi giới phụ nữ, qua đời vào năm 1797, ngay sau khi sinh ra cô. Cha cô là nhà triết học William Godwin, được xem như một Voltaire của Anh quốc, đã tục huyền với Mary Jane Devereux (bà quả phụ Clairmont), mẹ của Claire – Clairmont. Không được bà mẹ kế dành cho tình thương yêu đúng mực, Mary sớm trở thành một cô bé mơ mộng và đãng trí, nơi trú ẩn thường xuyên của cô là ngôi nhà mồ của người mẹ ruột nằm trong nghĩa trang cạnh nhà thờ St.Pancras. Năm 1814, Mary gặp Shelley, lúc đó thường hay đến phòng đọc sách của cha cô, rồi nhanh chóng nhận lời trốn đi với nhà thơ, mặc dù khi ấy, Shelley đã có vợ và 2 con. Chuyến đi đầu tiên của họ đến lục địa châu Âu vào tháng 7/1814 là một trong những cuộc phiêu lưu thơ mộng nhất của thời kỳ đó. Trong vòng hai tháng, họ đã đi hơn 10.000km bằng đủ phương cách: đi bộ, xe ngựa, tàu thuyền… Sau Paris, họ đến Thụy Sĩ, dừng chân ở Neuchâtel, xứ sở của những người máy trưng bày trong Viện bảo tàng nghệ thuật và lịch sử, rồi đến Lucerne trước khi xuống tàu trên sông Rhin. Họ lưu trú ở Gernsheim, từ đó có thể nhìn toàn cảnh lâu đài Frankenstein xây dựng năm 1250. Cặp tình nhân trẻ có đủ thì giờ đến thăm di tích hoang phế này và nghe kể lại những câu chuyện về hiệp sĩ George Von Frankenstein được an táng vào năm 1531 tại một ngôi nhà thờ kế cận Nieder – Beerbach, sau khi giết chết một con rồng gieo kinh hoàng cho cư dân địa phương. Tòa lâu đài cũng từng là nơi hội họp của câu lạc bộ văn chương Darmstadt mà về sau thi hào Đưc Goethe đã nhắc lại với nhiều cảm xúc. Chính vì thế, trước khi Shelley và Mary đến thăm, lâu đài Frankenstein đã có tên trong các sách hướng dẫn du lịch và cả trong bộ Bách khoa tự điển Anh năm 1768.

Huân tước Byron cũng có một cuộc sống lạ thường. Năm 38 tuổi, ông được xem là thi hào vĩ đại nhất của nước Anh kể từ Milton, nhưng đồng thời cũng là người chống chủ nghĩa xu thời mạnh nhất. Ông đã làm cho cả nước Anh chóng mặt vì những chuyến phiêu lưu tình cảm và nhất là vì mối quan hệ loạn luân với cô em gái cùng cha khác mẹ là Augusta Leigh. Khi rời bỏ nước Anh, Byron kết thân với Shelley sau những câu chuyện dài dòng về triết học, văn chương và những chuyến dạo chơi bằng thuyền trên hồ Léman.

Tháng 6/1816, cả bốn người – Byron, Shelley và hai chị em Mary Shelley – đến sống tại làng Cologny, ở đó Byron đã thuê sẵn một ngôi biệt thự lộng lẫy có tên là Diodati. Đó là một thời khoảng vô cùng hanh khô, điểm xuyết bằng những cơn gió kéo dài, những trận bão bất chợt. Tối 16 tháng 6, khi sấm chớp còn vang rền bầu trời, Byron đề nghị các bạn đọc một tác phẩm Pháp mà ông vừa mua được, có nhan đề Fantasmagoriana hay Tuyển tập những truyện ma, trong đó có câu chuyện một người đàn ông ôm cô vợ trong đêm tân hôn và khám phá ra cô này chỉ còn là một xác chết.

Sau đó Byron đề nghị mỗi người viết một truyện ma. Chính lời thách thức này đã góp phần vào việc hình thành nhân vật Frankenstein, như sau này tác giả Mary Shelley đã trình bày trong lời tựa của ấn bản năm 1831: “Tôi vội nghĩ đến một câu chuyện – một câu chuyện đủ để tranh đua với những câu chuyện đã đẩy chúng tôi đến việc làm này… một câu chuyện đủ làm cho độc giả phải sợ hãi, nhìn quanh mình, máu của họ đóng băng và tim của họ đập dồn dập…”.

Những đêm sau đó, các câu chuyện dài tiếp tục về cùng một chủ đề và về nền văn chương “gothique” nhắc Mary nhớ đến chuyến du hành trên sông Rhin. Những chi tiết khoa học trong tác phẩm Frankenstein được Mary lấy từ các chất liệu do bác sĩ William Polidori, bác sĩ riêng của Byron, cung cấp nhân những lúc cùng đi dạo chung hay cùng trao đổi những câu chuyện tản mạn. Rồi Mary, Shelley và Claire đi thăm Cluse, Sallanches, Servoz và Chamonix, ở đó họ nhìn ngắm núi Mont – Blanc và những con sông băng trên dãy Alpes. Chuyến đi này đã tạo cảm hứng cho Mary miêu tả cảnh đẹp thiên nhiên trong tác phẩm. Quyển nhật ký của cô bắt đầu vào ngày 21 tháng 7 năm đó đầy rẫy những câu như: “Shelley với tôi bàn về truyện của tôi”. “Shelley sửa chữa bản thảo Frankenstein, tôi viết lời tựa…” (14/5/1817).

Như vậy là Mary Shelley hoàn thành tác phẩm Frankenstein vào năm 1817. Vấn đề còn lại là tìm một nhà xuất bản. Sau khi hai nhà xuất bản quen với Shelley và Byron từ chối in, cơ sở Allen & Co của Lackington chuyên phát hành các loại sách huyền bí chịu xuất bản Frankenstein. Tác phẩm ra mắt công chúng vào tháng 3 năm 1818 với bài tựa không ký tên của Shelley. Dù có một vài bài phê bình không mấy thiện cảm, ấn bản đầu tiên của tác phẩm đã gặt hái được nhiều thành quả về thương mại. Nhà văn tên tuổi Walter Scott đăng một bài viết trong tờ tạp chí Blackwood’s Edinburgh Magazine đầy uy tín, thú nhận là ông ưa thích Frankenstein hơn tất cả những gì ông đã viết ra. Điều này càng làm cho tác phẩm của Mary nổi tiếng thêm. Năm năm sau (1823), nó được dàn dựng tại Nhà hát kịch Anh quốc rồi tái bản lần thứ nhất, tái bản lần thứ hai vào năm 1831.

Năm 1910, Frankenstein được chuyển thể điện ảnh và con quái vật trong phim trở thành hình ảnh quen thuộc của xã hội đương thời. Vai diễn lần lượt do các diễn viên Boris Karloff, Bela Lugosi (nổi tiếng trong vai bá tước Dracula), Lon Chaney Jr, Christopher Lee và mới đây là Robert de Niro… đảm nhận.

Về phần Mary Shelley, trong giai đoạn cuối cùng của sự nghiệp văn chương, bà đã trải qua những tình huống bi thảm nhất. Sáu tuần lễ sau khi quay về Anh quốc, ngày 9/10/1816, Mary được tin người chị cùng mẹ khác cha Fanny Imlay (mẹ bà có với người chồng trước) tự tử chết trong một quán nước ở Swansea. Hai tháng sau – 10/12/1816, cảnh sát khám phá ra tại một cái hồ gần Luân Đôn thi thể của Harriet, vợ chính thức của Shelley, tự tử để lại hai đứa con. Đứa con đầu của Mary và Shelley tên William chết vào năm 1819; hai năm sau bác sĩ Polidori tự tử ở Luân Đôn. Allegra, con của Claire Clairmont và Byron, sinh vào tháng 1/1817 cũng chết vào tháng 4/1822. Cuối cùng, vào tháng 7/1822, chính Percy Shelley tử nạn ở vịnh Gênes, xác được thiêu trên bãi biển Viareggio trước sự chứng kiến của Byron và vài thân hữu. Ngày 16/8 năm đó, tro thi hài Shelley được chôn trong nghĩa địa Tin lành ở La Mã. Mary còn sống tiếp gần 30 năm nữa. bà mất tại nhà riêng ở Luân Đôn ngày 1/2/1851, ở tuổi 54. Chỉ cần một tác phẩm văn chương, bà đã đưa tên tuổi mình lên đỉnh cao của thế giới nghệ thuật và đem lại sự bất tử cho một nhân vật tiêu biểu của một thể loại văn học độc đáo.

MINH CHIẾM

(Theo L’histoire, 6/1996)

ĐÀO MINH DIỆU XUÂN st

MỘT NGÀY

CỦA HAI NGƯỜI CÔ ĐƠN

Chiếc xe đò chạy nhanh trên con đường quốc lộ đi về một tỉnh miền Đông, đưa Niệm về một vùng quê có những vườn cây ăn trái miệt vườn ngon ngọt như chôm chôm, sầu riêng, bưởi… cô đi vì một tiếng gọi, tiếng gọi khẩn thiết sầu thảm, cô ra đi với nỗi nôn nao bứt rứt, bất an. Chiếc xe lao nhanh, nhưng so với nỗi nôn nao trong lòng cô, dường như quá chậm. Chung quanh cô những hành khách đi xe rất bình thản, không ai dòm ngó đến ai, nhiều người tựa đầu vào ghế ngủ ngon lành, vài người trò chuyện với nhau nho nhỏ. Chỉ có tiếng động cơ xe rì rầm, tiếng gió phần phật từ bên ngoài cửa xe thổi vào làm cô choáng váng khó chịu. Hành trình còn xa quá, Niệm tựa đầu vào thành ghế, trí óc chìm trong suy nghĩ miên man về một thời quá khứ…

Niệm vẫn nhớ ngày đó nhóm bạn bốn người là sinh viên Đại học năm thứ hai, ở độ tuổi đôi mươi trẻ trung sôi nổi lãng mạn. Khang, Diệu, Niệm là con nhà giàu, lớn lên trong sung sướng, trong sự nuông chiều của gia đình, chỉ biết ăn học vui chơi, không lo nghĩ một điều gì, tương lai đối với họ là con đường trải hoa, họ mơ ước danh vọng, tìm kiếm tình yêu hạnh phúc. Riêng anh chàng Nhật là dân tỉnh lẻ có đôi chút mặc cảm tự ti trước bạn bè, mặc dù anh có ngoại hình cao to rắn rỏi, học lực, trí tuệ thông minh không thua kém ai. Trong những lúc chuyện phiếm Khang thường an ủi:

- Này cậu, học xong cầm tấm bằng cử nhân, còn ai dám phân biệt dân tỉnh hay thành phố.

Diệu tính tình vui vẻ bộc trực châm chọc:

- Anh thích gái Sài gòn không, chọn một cô rồi ở rể luôn.

Nhật đỏ mặt trả lời ỉu xìu:

- Thôi mà, đừng đùa tôi ở đâu về đó. Sài gòn là chốn phồn hoa, chắc tôi không có chỗ dung thân.

Diệu vẫn không tha:

- Lỡ có trái tim ai đó níu kéo, anh cũng dứt áo về quê à?

Nhật đứng lên bỏ đi chỗ khác. Khang nhún vai, nhìn Niệm ánh mắt như trêu chọc:

- Tội nghiệp, anh chàng thẳng thắn, thật thà chân chất, một trăm phần trăm là dân tỉnh lẻ. Nhưng có cá tính, dễ thương phải không Niệm?

Niệm biết Khang cố ý trêu chọc, cô nhìn thẳng Khang trả lời một cách ỡm ờ:

- Cũng dễ thương.

Diệu cười giòn giã:

- Một câu hết ý Nhật mà nghe được chắc mừng rơn…

Tình bạn vô tư như thế đó. Với Niệm hình như Nhật giữ một khoảng cách. Trong ánh mắt anh nhìn cô thật nồng nàn, rồi bất chợt quay đi khi bị Niệm bắt gặp. Đôi khi có những cử chỉ săn sóc ân cần để rồi ngượng ngùng cúi mặt lảng đi chỗ khác. Trong lòng anh hình như giằng co giữa tình cảm muốn tỏ bày và sự nín lặng. Sự giằng co giữa trái tim và lý trí. Anh nhận biết giữa anh và cô có nhiều điều bất tương xứng, như hai con đường song song không có điểm giao nhau. Niệm là con gái nhà giàu có nhan sắc, đối với nhiều thiếu nữ đó là điều kiện tất yếu tạo cho mình một vòng nguyệt quế ở vị trí cao sang kiêu kỳ hãnh tiến trong cuộc sống trong tình yêu. Niệm không như thế, cô giản dị chân thật với bạn bè. Cô quan niệm con gái cũng cần trau dồi kiến thức, nếu có điều kiện phát triển tài năng, bình đẳng với nam giới ngoài xã hội. Cô thường nói: “Không thích làm một cành hoa đẹp để người ta ngắm nhìn, không là người phụ nữ sống lệ thuộc vào phu quân”. Cô sống có hoài bão ước mơ của riêng mình. Cô dung hòa được giữa nhan sắc và trí thông minh, sự mềm mại dịu dàng của tính cách. Niệm khiến cho người ta mềm lòng đem lòng yêu thương. Giữa Niệm và Nhật có một tình bạn và một chút gì đó mơ hồ chưa định hình không tên gọi, cả hai người không phủ nhận cũng không xác nhận điều mơ hồ đó là điều gì.

Năm thứ ba đại học, thành phố Sài gòn giải phóng. Nhóm bạn bốn người chia xa. Sinh viên phải tham gia học tập chính trị tham gia lao động, đi đào kênh làm thủy lợi, một số gia nhập Thanh niên xung phong đi xây dựng nông trường. Trong thời buổi giao thời đầy khó khăn, bế tắc dù trong lòng có hối tiếc hay buông xuôi thì lớp trẻ như Niệm cũng thích nghi nhanh với cuộc sống mới, chế độ mới. Khang và Diệu tiếp tục học. Nhật từ biệt bạn bè về quê. Họ chia tay trong buồn bã. Chia tay với mùa hè rực nắng.

Dòng đời đưa đẩy, Niệm trở thành công nhân viên nhà nước. Với chút ít kiến thức và tính cách giản dị hòa đồng với mọi người, cô đã vượt qua những định kiến ban đầu là thành phần tiểu tư sản… và cả cái dáng dấp “tiểu thư”. Niệm không có chiếc áo bà ba đen, không có đôi dép lốp, ngày còn đi học cô ăn mặc rực rỡ sang trọng, trang điểm phấn son mỗi khi ra phố. Giờ đây cô chọn trang phục đơn giản quần tây đậm màu, áo ngắn trang nhã, khuôn mặt không phấn son. Cô tự hoàn chỉnh mình để thích nghi với cuộc sống với công việc. Con đường cô đến với cách mạng bằng chính nhân cách của mình, trong sáng tự tin. Cô đã chọn được con đường đi vào đời với một công việc có ý nghĩa. Niệm nghĩ không có gì thay đổi, cô vẫn là chính mình, cô sống cuộc đời của mình trong một thành phố vừa được đổi tên. Sự thay đổi được viết bằng cuộc trường kỳ kháng chiến với biết bao hy sinh mất mát của biết bao người. Trong gia tộc họ hàng xa nhiều cô chú trở về, giúp cô hiểu rõ hơn về cách mạng, về lý tưởng sự phấn đấu hy sinh. Đến nỗi lâu lâu gặp, Diệu trêu: “Ra dáng cán bộ”, Niệm cười đùa lại, nhũn nhặn: “Cán bộ gì, đầy tớ của nhân dân”.

Diệu và Khang vượt qua tất cả những biến cố của xã hội của gia đình, tình yêu của họ vững bền, tình đầu là duy nhất. Ngày cưới của họ, Niệm đi công tác xa không đến dự. Diệu giận trách: “Mi vô tình” Niệm không có gì để biện minh đành nói: “Xin lỗi, xin lỗi. Đừng trách nghe hai bạn”.

Có lẽ Diệu nói đúng. Niệm vô tình với bạn bè và cũng vô duyên với tình yêu. Một lần yêu là một lần chia tay, không hiểu vì sao, chẳng lẽ câu “hồng nhan gian truân” đã gắn vào đời cô. Sống một mình lặng lẽ trong công việc nhìn tuổi xuân trôi qua… không biết bao nhiêu lần cô ôm những đứa con của Diệu âu yếm hôn hít. Những đêm cô đơn cô nghĩ đến một hạnh phúc mong manh chưa tìm thấy, bạn bè nói: “Người phụ nữ sinh ra trên đời không biết đến hương vị tình yêu vợ chồng, không sinh con, làm mẹ giống như cây khô cạn kiệt héo tàn không kết hoa kết trái”. Họ khuyên Niệm lập gia đình. Đứa khác văn vẻ hơn:

- Người phụ nữ là bà Eve, bà Eve là cái xương sườn của ông Adam. Hãy tìm ông Adam, hãy yêu như ông Adam và bà Eve. Tình yêu là vườn địa đàng cám dỗ con người, là người phụ nữ đẹp không yêu tiếc quá.

Niệm cười buồn:

- Bà Eve có một vườn địa đàng, có ông Adam, có trái cấm, có con rắn cám dỗ để yêu. Ta không có gì cả, ta cô đơn, vô cảm, vô sinh.

Có những đêm mưa, thức giấc giữa khuya giữa chăn nêm ấm áp nhưng toàn thân Niệm lạnh lẽo, lạnh trong từng sớ thịt, lạnh buốt trong tim. Cô trải qua bao nhiêu đêm dài như thế, mắt mở trao tráo, đầu óc ráo hoảnh, thao thức. Sáng hôm sau soi gương mặt hốc hác, mắt thâm quầng. Thở dài một mình, đã gần bốn mươi, dung nhan chưa đến nỗi tàn tạ mà tự trong lòng cô, cô biết mình đã phí hoài tuổi thanh xuân. Trong cuộc đời của con người có những điều hối tiếc ân hận cũng không thể quay ngược trở lại. Như vài ngày trước, bỗng nhiên Diệu gọi điện thoại đến cơ quan hẹn đi ăn trưa, buổi trưa ấy với một tin tức khủng khiếp:

- Niệm ơi! Anh Nhật bị ung thư thời kỳ cuối, chắc không còn sống bao lâu nữa.

Niệm bất ngờ vì câu nói của Diệu, vẻ mặt Diệu u ám, ánh mắt như muốn nói nhiều điều. Niệm ấp úng:

- Tại sao mi biết tin, nói cho ta nghe đi.

Diệu nói ngắn gọn rõ ràng:

- Anh Nhật vẫn sống độc thân. Anh yêu mi. Mi có muốn gặp anh ấy lần cuối không?

Tim Niệm như thót lại. Yêu. Gặp lần cuối. Hiển hiện trước mắt cô khuôn mặt ấy, ánh mắt ấy. Bao nhiêu năm cô không hỏi không nhắc gì đến người bạn một thời thân thiết. Đến bấy giờ cô mới thấm thía lời trách của Diệu “Mi vô tình”. Diệu đưa cho cô tờ giấy ghi địa chỉ vẽ đường đi.

- Cũng dễ đi thôi, nhưng không về kịp trong ngày. Phải ở lại một đêm.

Niệm gật đầu.

Chiếc xe vẫn lao nhanh trên đường. Niệm vẫn đắm chìm trong suy tư. Chợt nghe tiếng la lớn:

- Ngừng đi bác tài. Cô gì đi đến lộ đất đỏ vào xã, xuống xe.

Niệm giật mình chưa kịp đứng lên, anh lơ xe cầm ngay giỏ xách để dưới chân cô nhảy xuống trước. Niệm bước xuống xe, anh ta đưa giỏ xách, căn dặn:

- Cô đứng đây chờ, có xe máy kéo, đón lại mà đi.

- Cảm ơn anh.

Anh lơ nhảy lên xe, chiếc xe rồ máy chạy đi thật nhanh. Niệm nhìn đồng hồ đeo tay, đã hơn mười một giờ trưa. Mặt trời ngay trên đỉnh đầu, nắng gay gắt, nắng chang chang. Con đường đất đỏ nhìn xa hút. Đầu óc Niệm nóng bừng bừng, cô nhìn ánh nắng chói chang trên màu đất đỏ của con đường, hai màu làm lóa mắt. Chờ đợi, chờ đợi. “Trời ơi! Sao mặt trời hôm nay nóng đến thế. Sao màu đất đỏ đỏ đến thế”. Niệm nghĩ thầm, lòng cô nôn nao quay quắt… Cô đã đi được nửa đoạn đường, nơi cô cần đến đã gần trong gang tấc… Một chiếc xe máy kéo rẽ vào con đường đất đỏ. Niệm vẫy tay, chiếc xe ngừng, cô nói: “Cho đi vào vườn nhà bà Hai Thật”. Anh tài xế gật đầu, cô leo lên ngồi ở thành xe thòng hai chân xuống đất. Con đường gồ ghề nhiều ổ gà, chiếc xe xốc lên xốc xuống, ì ạch trườn đi… Niệm nhìn cảnh vật hai bên đường, những vườn trái cây trĩu quả, màu xanh của lá, màu đỏ vàng của trái chín trông thật thích thú “đang nóng và khát được cắn một quả chôm chôm ngon ngọt hay một múi bưởi thơm chắc là tuyệt vời”. Nghĩ thế Niệm mỉm cười một mình. Từ sáng đến giờ cô mới thấy lòng nhẹ nhõm, cô đã đến nơi cô cần đến. Xe ngừng trước một cánh cổng nhỏ, hàng rào quanh vườn lá xanh um tùm. Niệm xuống xe, đưa người tài xế số tiền Diệu đã dặn, anh ta cầm tiền cũng không nói gì. Có lẽ do thói quen của người lao động không có chuyện gì để nói nên không nói. Chiếc xe máy kéo chạy đi.

Niệm nhìn vào bên trong cánh cổng. Một vườn trái cây rộng, xa khuất giữa vườn thấp thoáng một ngôi nhà, cô đứng im lặng chưa biết gọi như thế nào, có một người từ trong nhà đi ra. Khoảng cách cũng hơi xa. Niệm nhìn chăm chú, người đàn ông chậm chạp đi ra cổng. Người đàn ông dáng cao cao, gầy, tóc hoa râm. Người ấy đứng lại, ngăn cách giữa cổng rào, ánh mắt hai người gặp nhau. Vẫn ánh mắt ấy trên khuôn mặt gầy bệnh hoạn, khắc khổ. Niệm ấp úng không thành lời:

- Anh… anh Nhật.

Ông mở cánh cổng

- Niệm đã đến. Mời vào nhà.

Cái giây phút bối rối xúc động dường như đọng lại. Niệm hít thở sâu. Không khí mát dịu tạo cho cô cảm giác dễ chịu. Cô đã đến nơi đang đi bên ông trong khu vườn của ông thoang thoảng mùi hương của cây trái chín đầu mùa.

Không thể tưởng tượng thời gian bệnh tật đã biến đổi ông từ một thanh niên khỏe mạnh rắn rỏi trở thành một ông già ở độ tuổi trung niên. Không còn gì dáng vẻ của ngày trước chỉ trừ đôi mắt. Đôi mắt vẫn nhìn Niệm trìu mến ấm áp. Hoàn cảnh gia đình ông gồm ba anh em. Người anh lớn đã đi nước ngoài với gia đình bên vợ, cô em gái út có chồng ra riêng. Ông sống cùng mẹ già đã ngoài tám mươi tuổi. Ông là người phải gánh trách nhiệm chăm sóc mẹ già, thờ cúng tổ tiên. Ông không còn chọn lựa nào khác, nói đúng hơn ông không chọn lựa gì, không đòi hỏi một điều gì khác. Ông đã mất sự tự do lựa chọn. Từ bỏ tất cả để làm người con hiếu nghĩa. Từ bỏ tất cả về làm anh nông dân trồng cây làm vườn. Bằng giọng nói nhỏ nhẹ ông tâm sự:

- Mấy năm đầu anh rất hăng hái say sưa tìm tòi để hiểu biết thêm về kỹ thuật bón phân tưới nước để tăng năng suất. Đến mùa thu hoạch trái chín đầy vườn, vui lắm. Mùa thu lá vàng rụng khắp vườn, làm phu quét lá… từng mùa tiếp từng mùa cuộc sống nơi tỉnh lẻ đìu hiu không có bạn bè, không có thú tiêu khiển, lấy thuốc lá làm bạn. Đốt mãi, khói thuốc lá đốt cháy cuộc đời anh.

Giọng ông đang đều đều chợt sôi nổi lên:

- Năm nào mùa trái cây, vợ chồng con cái nhà Khang cũng lên chơi. Dù nhiều năm không gặp nhau, anh vẫn biết em thành đạt trong cuộc sống, sống bình yên. Khi em có người yêu, yêu rồi chia tay, anh xót xa trong lòng… Nói thật lòng, nếu ngày đám cưới của Khang và Diệu nếu gặp nhau, anh đã nói thật lòng mình…

Giọng ông chùng xuống thì thầm:

- Anh yêu em. Em có chấp nhận tình yêu và chia sẻ cuộc đời cùng anh không? Nhưng em không đến. Anh nghĩ có lẽ do số mệnh. Từ đó anh dặn Diệu đừng cho em biết tin tức gì của anh.

Ông húng hắng ho một tràng dài. Vẻ mặt chìm trong đau đớn. Niệm im lặng, biết nói lời gì trước một tấm chân tình, một tình yêu cao cả. Ông nhìn Niệm đăm đắm:

- Anh mãn nguyện hạnh phúc trong ngày hôm nay. Một ngày cho một đời người ngắn ngủi. Anh sẽ nhớ mãi mãi… Em vẫn là cô thiếu nữ Sài gòn dịu dàng làm trái tim anh đắm đuối. Anh mong em tìm được tình yêu, xây dựng gia đình, sống hạnh phúc… mong người ấy sẽ nâng niu chăm sóc em. Em nghe lời anh nhé! Em yêu!

Những lời ông nói làm tim Niệm nhói đau. Đêm đã chìm xuống trong khu vườn, ông và cô vẫn bước chầm chậm bên nhau. Trong khu vườn này, không gian này có một người nam, một người nữ và bóng đêm bao trùm. Có không sự cám dỗ của hoan lạc ái ân? Ông Adam và bà Eve có bị cám dỗ ăn trái cấm? Niệm suy nghĩ bâng khuâng. Cô dừng lại nắm tay ông, vòng tay ôm, ngã đầu vào ngực ông. Cô nghe hơi ấm từ ngực ông truyền sang. Ông do dự trong phút giây rồi vòng tay ôm chặt cô. Hai người đứng im thật lâu. Những giọt nước mắt rơi xuống môi cô mằn mặn. Cô ngước lên, khuôn mặt ông nhòe nhoẹt nước mắt. Giọng ông thì thầm:

- Cảm ơn em. Tình yêu của anh.

Niệm mỉm cười:

- Hãy hôn em đi.

Niệm khép mắt. Một cái hôn nhẹ trên trán, bờ môi ông thô ráp nóng bỏng. Niệm mở mắt nhìn gương mặt ông mờ mờ trong bóng đêm. Cô hôn ông. Nụ hôn tình yêu của bà Eve. Ông lặng người đi, đến khi cảm xúc dâng tràn, ông hôn Niệm mãnh liệt. Niệm buông thả đến tận cùng, hai thân xác cùng run rẩy, rạo rực… Vạn vật như chết lặng, cây cối đứng chơ vơ, gió đêm rì rào rì rào. Niệm chợt bừng tỉnh, hai bàn tay đang ôm ghì cô bỗng lỏng dần lạnh giá. Thân thể ông từ trạng thái nóng cũng lạnh dần. Cô sợ hãi, giây phút hoan lạc đã lụi tàn. Ông thều thào: “Dìu anh vào nhà”.

Đêm cô tịch. Đêm quạnh quẽ. Ánh đèn vàng héo hắt. Ông nằm đó thiêm thiếp. Đôi mắt khép, hơi thở nhè nhẹ không đều. Vầng trán cao như nhô cao hơn trên đôi má hóp rịn mồ hôi. Đôi môi khô mím lại cố chịu đựng nỗi đau đớn không rên rỉ. Hai bàn tay xuôi theo nếp chăn nắm chặt. Niệm ngồi bên ông nhìn ông, ông đã đi trọn cuộc hành trình của đời ông. Chặng cuối cùng đang đối mặt với cái chết. Cuộc hành trình của Niệm ngày hôm nay, cô đến với ông chia sẻ cùng ông nỗi khốn khổ của trái tim và thân xác. Cho ông sống một ngày trọn vẹn chính là ông. Cô đã trải qua một ngày dài trong trạng thái tinh thần không ổn định, lúc thì nôn nao choáng váng, xúc động bồi hồi, xót xa thương cảm và tận cùng những cảm xúc rạo rực của thân thể. Sự cảm xúc mà con người gọi tên là dục vọng đam mê… Giờ đây cô cũng không muốn suy nghĩ phân tích phán xét bản thân mình. Cô đã hành động theo bản năng. Nhân danh tình yêu. Nhân danh tình người. Cô thể hiện thiên chức của người nữ đáp lại tình yêu của ông. Cái khoảnh khắc đam mê đắm đuối bùng lên với gương mặt ông mang dáng dấp của sự hồi sinh và sự hủy diệt. Bởi lẽ tình yêu cũng mạnh như cái chết. Tình yêu sẽ đưa ông đến một thế giới khác huyền diệu, một thiên đường ở trên cao. Nếu tin vào triết lý tôn giáo ông sống kiếp này nhọc nhằn đau khổ khi chết đi sẽ đầu thai ở kiếp sau sung sướng hơn.

Nửa đêm. Ông mở mắt mấp môi như muốn nói điều gì đó, giọng yếu ớt không nghe rõ. Dường như tất cả sức lực trong người ông đã cạn kiệt. Niệm nắm tay ông vỗ về: “Ngủ đi anh, ngủ đi…”. Ông khép mắt lại nằm im. Niệm cũng mệt mỏi tựa đầu vào thành ghế nhắm mắt. Đêm trôi qua trong yên tĩnh. Gần sáng, Niệm thức giấc. Không gian im lặng, bàn tay ông trong tay cô lạnh ngắt, gương mặt ông như tượng đá. Khuôn mặt bình thản như đang ngủ. Một giấc ngủ nghìn thu.

Đêm đã khép. Bên ngoài khung cửa, khu vườn rực rỡ những tia nắng. Mặt trời tỏa sáng đón chào một ngày mới.

HUỲNH THIÊN KIM BỘI















Phụ Bản IV


LƯỢC TRĂNG

Như một vầng trăng khuyết bị ai xẻ thành nhiều sợi đều tăm tắp và biến ánh vàng lấp lánh, huyền bí kia thành màu nâu bóng, cái lược đồi mồi được tôi gọi trân trọng là Lược Trăng.

Đó là quà tặng của người chú hào hoa, trẻ trung. Sau lễ thành hôn, chú thím Út đi hưởng tuần trăng mật ở một vùng biển ấm. Lúc trở về, chú ghé thăm gia đình tôi. Ra vẻ bí mật, chú nói:

- Thẫm nè! Đêm nọ, khi chú thím đang ngồi ngắm biển khuya, vầng trăng bỗng dưng rơi xuống biển vỡ làm đôi. Chú vội vàng bơi ra vớt nó. Nửa mảnh chú tặng thím. Phần còn lại, chú đem về cho cháu.

Chú chìa cây lược ra trước mặt tôi. Tôi cầm lấy, ngắm nghía:

- Chú bịa tài ghê!

- Lược thần đó nhỏ. Nếu mỗi ngày nhỏ chải tóc một trăm lần, tóc sẽ dài và mượt như… tóc thím. Chất xám trong não nhỏ sẽ…

- Sẽ xám nhiều như não thím chứ gì!

Chú bật cười xoa đầu tôi. Mắt chú lúng liếng, tình tứ liếc sang đôi gò má đỏ bừng của vợ.

Dù biết chú nói đùa nhưng tôi vẫn một mực tin rằng tóc tôi sẽ đẹp hơn nếu tôi chải hoài chải mãi. Ngày nào tôi cũng làm theo lời chú dặn. Tôi xới tung những sợi tóc vừa chấm vai của mình ra phía trước rồi lật chúng lại sau lưng, hết rẽ ngôi bảy ba, lại chuyển sang bốn sáu rồi năm năm… Cứ thế đến lúc da đầu ê ẩm, tôi mới thôi.

Tôi rất quý lược trăng. Các bạn tôi cũng mê nó lắm nhưng không ai được tôi cho chải tóc. Tôi cất kỹ nó vào trong cái bóp nhung đỏ xinh xắn của mình với lời giải thích phóng đại:

- Chú tao mua tới mấy chục ngàn đồng lận đó. Đồi mồi trăng mà!

Tội nghiệp lũ bạn, chúng cứ tròn xoe mắt khi nghe tôi tán chuyện:

- Ngày xưa. Có con đồi mồi hiền như bụt. Nó ẩn kín trong hốc đá dưới hang sâu. Tôm cá bơi ngang, Đồi Mồi vẫn nhắm mắt làm ngơ. Nó sống nhờ bọt sóng, hải thảo và trầm tư trong cái mai to lớn, to cỡ này này…

Tôi khoác tay làm một vòng tròn trước mặt. Nhỏ Thuỷ gạt đi:

- Vô lý! Nếu nó “ăn chay” thì phải ốm và nhỏ xíu chứ!

- Mầy mà biết gì! Biển kỳ diệu lắm. Mầy không thấy nước biển có thể chữa bệnh sao?

Muối biển đem sinh lực đến cho con người và nếu mình có rơi xuống biển thì…

Thuỷ cướp lời tôi:

- Thì chết chìm phải không?

- Không! Lúc đó mình sẽ sống ở một thế giới khác và xác phàm sẽ to ra…

- Như chết sình chớ gì!

Tôi giả bộ giận dỗi:

- Mầy cứ chọt hoài, tao không kể nữa đâu!

Xuân Mai năn nỉ:

- Kể đi Thẫm, tao nghe nè!

Tôi mơ màng:

- Trăm năm trôi qua, Đồi mồi sắp thành Thần. Nhưng, bất ngờ biển động. San hô sụp đổ. Loài vật dưới biển bị vùi lấp rất nhiều. Đồi mồi bị hất tung lên mặt nước. Đúng lúc ấy, biển lặng hiền hòa. Đồi mồi trông thấy một mảnh vàng tròn vành vạnh trôi phía trước. Nó liền đuổi theo hớp lấy vầng sáng đó. Một lát sau, nó kinh hãi nhận ra bụng đã trương đầy nước mà trăng vẫn vẹn nguyên. Nó bỏ chạy, trăng đuổi theo. Sợ hãi đã giết chết Đồi Mồi. Người ta vớt nó lên…

Xuân Mai thắc mắc hỏi:

- Đồi mồi lớn như vậy thì phải nặng lắm. Sao lúc chết nó không bị chìm mà lại nổi lên cho người ta thấy?

Tôi từ từ giải thích:

- Nó chìm đó chứ bộ. Nhưng, ba bữa sau… nổi lên.

Xuân Mai sốt ruột giục:

- Rồi sao nữa?

- Người ta vớt lên định đem chôn nhưng thấy cái mai quá đẹp bèn lấy làm lược chải tóc.

Cây lược của tao là một mảnh lưng của nó.

Xuân Mai xuýt xoa:

- Phải chi tao cũng có một cái.

Đến lúc nầy, Thủy mới lên tiếng:

- Ối, ngoài chợ bán thiếu gì!

- Đó là lược thường. Còn đây là lược trăng, mầy biết không?

Cây lược trăng đã biến mất. Cái bóp nhung vẫn còn đó. Tôi quýnh quáng đi tìm kiếm khắp nhà, cùng lớp. Cô chủ nhiệm đã giúp tôi khám xét cặp da của các bạn nhưng chẳng thấy lược đâu. Cả tuần, tôi buồn rũ người, biếng ăn, biếng ngủ. Thấy vậy, mẹ mua cho tôi cây lược nhựa màu hồng tuyệt đẹp bù vào nhưng tôi vẫn không vui.

Chiều nay, lúc qua nhà Thủy mượn quyển sách Toán, tôi bỗng bắt gặp Thủy đang chải tóc bằng cây Lược Trăng của tôi. Nhác thấy bóng tôi, Thủy bối rối nhưng vội trấn tĩnh ngay:

- Ê Thẫm, ba tao mới mua cho tao cây lược nè! Đẹp không?

Tôi chụp lấy cây lược lật qua lật lại xem xét tỉ mỉ. Hàng chữ “mến tặng” y hệt nét khắc của chú tôi. Tôi nói lớn:

- Cây lược nầy của tao mà!

Thủy chồm tới giật lấy cây lược, giấu sau lưng:

- Nói bậy! Ba tao mua.

- Mầy nói láo! Mầy đã ăn cắp của tao.

Nghe chúng tôi cãi, dì Năm, mẹ Thủy chạy ra:

- Cái gì vậy hả?

Tôi lẹ miệng phân trần:

- Bạn Thủy ăn cắp cây lược của con.

- Nói bậy, ba tao mua.

Dì Năm bước tới chỉ tay vào mặt tôi:

- Nói bậy coi chừng tao à nghe! Nhà tao giàu thế nầy mà đi ăn cắp cây lược của mầy hả? Chỉ có mầy thấy lược quý nên nhìn bậy. Từ nay, tao cấm mầy bước chân vào nhà nầy nghe chưa!

Ngoài tình bạn láng giềng, tôi và Thủy còn là bạn cùng trường cùng lớp. Hai đứa chơi với nhau rất thân. Vì thế, tôi quên đi là nhà tôi rất nghèo, còn Thủy là con của một gia đình giàu có. Hôm nay, dì Năm đã dựng lên một bức tường phân chia giai cấp sang hèn giữa tôi và Thủy. Nhìn bà hồi lâu, tôi muốn nói thẳng với bà rằng:

- Tất nhiên là tôi sẽ không bao giờ đặt chân vào nhà nầy nữa. Và cả bà lẫn Thủy từ đây sẽ không còn chỗ đứng trong trái tim bé nhỏ, nghèo nàn của tôi.

Nhưng tôi đã kịp nuốt trôi những lời giận dữ vào lòng và lặng lẽ ra về.

Đến nhà, tôi sà vào lòng mẹ khóc nức nở, dù đang có mặt ba tôi, chú thím Út trong phòng khách. Mẹ tôi hốt hoảng hỏi:

- Gì vậy con?

Càng tủi thân, tôi càng khóc to hơn. Chú Út thì cười khanh khách:

- Già rồi còn nhõng nhẽo!

Tôi ngồi bật dậy, giận dỗi kể lể:

- Nhõng nhẽo hồi nào! Nhỏ Thủy ăn cắp cây lược trăng của con rồi!

Chú Út nhíu mày:

- Sao Thẫm biết bạn lấy cây lược của mình?

Tôi kể cho cả nhà nghe sự việc xảy ra. Chú Út nhận xét:

- Thẫm giống hệt chú hà! Vẽ vời lắm chuyện bảo sao bạn chẳng nổi máu tham. Bây giờ, chú bày cho cách lấy lại cây lược nhé!

Chú kề miệng nói nhỏ vào tai tôi. Thích quá, Tôi vỗ tay reo lên:

- Chú thật là tài!

Thím Út tươi cười:

- Thẫm nghe lời chú Út có ngày khổ đó!

Chú Út đùa:

- Vậy chứ có người mê tôi à!

Thím Út đỏ mặt:

- Không biết ai mê ai à!

Tôi liền chen vào:

- Có lẽ hai người đều mê nhau.

Cả nhà cười vang. Chú Út đưa nắm đấm về phía tôi, dọa dẫm.

Vào lớp, đến giờ ra chơi, tôi lấy cây lược mẹ mới mua ra khoe:

- Mẹ tao mới mua cho tao cây khác nè!

Xuân Mai hỏi ngay:

- Mất lược trăng, bác có rầy mầy không?

- Không! Mẹ tao bao giờ cũng quý tao hơn bất cứ thứ gì trên đời.

- Còn chú Út mầy?

- Chú tao còn mừng nữa là khác. Chú bảo hình như lược trăng chỉ mang lại những điều xui xẻo. Từ ngày có cây lược, thím cứ bị chú chọc giận hoài. Thím tao khóc sưng vù cặp mắt.

Xuân Mai gật gù:

- Chắc đúng rồi! Hỗm rày vì nó mà mầy với con Thủy giận nhau.

- Giận mà nhằm nhò gì! Nghe nói ai giữ Lược Trăng thì sẽ đánh mất một thứ quý giá hơn nhiều. Đó là…

Tôi định nói: “Đó là tình bạn” nhưng tôi kịp dừng lại để mặc cho Xuân Mai suy nghĩ thế nào cũng được.

Nhưng Xuân Mai vẫn chưa hết ý kiến:

- Biết vậy sao chú mầy còn mua?

- Chú tao đâu có biết. Tới chừng mua về mới hay. Bây giờ, nó biến mất, chú tao mừng quá.

Đúng như chú Út đã đoán, cây Lược Trăng tự nhiên bò về nằm ngoan trong cặp tôi. Có lẽ nhỏ Thủy tin vào những lời bóng gió ấy nên đâm ra lo sợ. Thừa lúc tôi xuống căn – tin ăn quà, Thủy trả Lược Trăng vào cặp cho tôi.

Tôi đem cây Lược Trăng về nhà và từ đó không mang vào lớp nữa

Tôi chờ Chú Út đến thăm sẽ đem ra khoe với chú.

Nhưng, chú tôi không bao giờ trở lại nữa.

Sau khi hết phép, chú về đơn vị và đã hy sinh ngoài mặt trận, tận nước bạn xa xôi. Người ta an táng chú trong một nghĩa trang. Chú đã vĩnh viễn nằm trên ngọn đồi dầy đặc thông già, quạnh hiu, thầm lặng.

Đêm đêm, có một vầng trăng khi tròn khi khuyết trên cao nhìn xuống ngậm ngùi!

NGUYỄN THỊ MÂY

NĂM TUẦN LỄ

TRÊN KHINH KHÍ CẦU

Cinq Semaines en Ballon

của Jules Verne

Lời Giới Thiệu:

Bác sĩ Samuel Fergusson toan tính vượt qua Châu Phi từ hướng đông sang hướng tây, và bay suốt tầm rộng của lục địa da đen dẫy đầy biến cố nguy hiểm, trên cái giỏ tàu mỏng manh, bằng đường hàng không, phó thác mặc tình cho những ngọn gió bất thường, vào thời Ông Jules Verne thì quả là một cuộc phiêu lưu cực kỳ táo bạo...

Ở đây, chúng tôi chỉ trích dịch những tình tiết gay cấn của ba thầy trò, họ đi phiêu lưu mà thôi, để quý vị độc giả nắm bắt được khái niệm tổng quát về quyển sách, và hào hứng trong việc giải trí...

...Bác sĩ Samuel Ferguson và hai người bạn, bồi bếp Joe, và thợ săn Dick Kennedy, đang du hành thám hiểm trên cái giỏ tàu khinh khí cầu tên là Khải Hoàn trong vòng năm tuần lễ, và họ đã gặp gỡ những nguy hiểm gì trên bước hành trình...

NHỮNG CON KHỈ

Xứ sở khô cằn của một vùng đất nứt nẻ bởi nắng cháy, cây cỏ thì hoang vu!... Đây đó còn lưu lại dấu vết của những đoàn lữ hành, xương người, xương thú vật, có phần mục nát nằm lẫn lút trong cát bụi!...

Sau nửa giờ lội bộ, Dick và Joe đã lọt vào rừng. Đôi mắt thì láo liên, ngón tay trên cò súng, người ta không biết sẽ có chuyện gì xảy ra với ai đây!... Tuy không phải là tay thiện xạ, nhưng Joe cũng sử dụng được súng dễ dàng...

Vừa vấp phải mấy cục đá nằm rải rác, Joe vội nói:

- Lội bộ thì đã thật, nhưng mà, đường đất thì không êm ái chút nào hết!

Kennedy ra dấu cho bạn đồng hành im lặng, và dừng lại... Trong lòng một dòng suối, còn đọng lại vài vũng nước, nơi mà một bầy dê rừng, cả chục con, đang giải khát. Những con thú hiền lành nầy ngửi được mùi nguy hiểm, nên tỏ ra lo lắng. Trong lúc uống nước chúng nó thường ngước đầu lên, hỉnh hỉnh cái mũi để ngửi mùi thợ săn!...

Gã thợ săn lẻn đi vòng quanh một vài khối đá, trong khi Joe vẫn đứng yên. Gã ngắm chừng con vật vào tầm súng và khai hỏa. Bầy dê biến mất trong nháy mắt, chỉ có con dê trúng đạn ở bả vai là té quỵ xuống đó!...

Đó là một con dê đẹp, màu xanh nhạt lẫn màu sám, với cái bụng màu trắng tuyết. Gã thợ săn nói:

- Một phát súng ngon lành. Đây là giống dê quý hiếm. Tôi sẽ xử lý bộ da nầy để đem theo.

- Có phải như vậy không đó?

- Phải rồi, bạn không thấy bộ lông nó đẹp sao?

- Nhưng mà bác sĩ thì không thích sự quá tải!

- Bạn nói đúng đó Joe! Thật là đáng tiếc! Phải bỏ nguyên con vật đẹp như vậy!...

- Không bỏ nguyên con đâu Dick ạ! Chúng ta sẽ thẻo ra những miếng ngon bổ dưỡng. Và nếu bạn cho phép, tôi sẽ làm ra các món ngon cũng như đầu bếp hạng sang ở Anh Quốc vậy!...

- Tùy ý bạn, tôi thì chỉ biết đi săn bắn thôi, chớ không biết làm mồi miếng gì cả.

- Vâng, nếu không phiền, thì bạn ra tay làm cái lò bằng ba cục đá, và củi khô thì thiếu gì đó. Tôi chỉ cần bạn làm cho ngay một đống than hồng!...

- À, cái đó thì không lâu lắc gì!...

Gã thợ săn thiết lập ngay một cái hỏa lò, mà lửa cháy phừng phừng trong chốc lát. Joe cũng đã thẻo xong cả chục miếng bẹ sườn và một mớ thịt nạc đùi. Joe đưa thịt vào lửa than để xoay xở thành những miếng mồi ram nướng rất ngon lành!...

- Bác sĩ Samuel ắt thích món nầy!...

- Bạn biết tôi nghĩ gì không bạn Dick?

- Thì về các món ăn ngon mà bạn đang làm đó.

- Không phải vậy! Tôi đang suy nghĩ về cái bộ mặt của chúng ta sẽ ra sao? Nếu khi trở về mà chúng ta không thấy khinh khí cầu ở đâu cả!...

- Bạn muốn nói là bác sĩ bỏ chúng ta sao?...

- Không, tôi muốn nói là cái neo nó tuột móc!

- Không bao giờ, ngoài ra bác sĩ còn biết cách hạ nó xuống mà...

- Nhưng gió vẫn cứ lôi ông đi, và ổng không trở lại được nữa!...

- Thôi đi! Dẹp qua cái lý luận của bạn đi, không vui tý nào cả!...

- Cái gì rồi cũng có thể xảy ra. Chúng ta phải biết mà tiên liệu.

Ngay lúc đó một phát súng vang lên. Joe buột miệng:

- Ái chà!...

- Tôi nhận ra tiếng nổ của cây súng carabine của tôi.

- Một báo hiệu nguy hiểm!

- Nguy hiểm cho bác sĩ đấy!

- Thôi lên đường!...

Họ gom góp các thành quả săn bắn, rồi theo đường cũ đã được đánh dấu mà trở về. Bề dày của cây cối ngăn cản tầm nhìn, cái khinh khí cầu.

Một phát đạn thứ nhì vang lên.

- Coi bộ khẩn trương nhé!

- Ô hay!, lại thêm một phát nữa!

- Một sự chống cự cá nhân!

- Nhanh chân lên nào!...

Và họ chạy vắt giò lên cổ để ra khỏi bìa rừng!... Thoạt tiên là họ nhìn thấy khinh khí cầu và vị bác sĩ còn đứng trong giỏ tàu!... Bạn Joe vội la lên:

- Ôi, trời đất ôi!...

- Cái gì vậy?

- Coi kìa, một lũ mọi đang tấn công khinh khí cầu!

Đúng vậy, cách một ngàn mét, khoảng ba mươi sinh vật đang nhảy nhót la ó dưới gốc cây!... Nguy hiểm thì vô cùng!... Joe nói:

- Ông thầy nguy rồi!...

- Nhanh lên Joe!...

Một phát súng lại nổ!... Một con vật trúng đạn, rớt từ nhánh cây nầy qua nhánh cây khác, rồi dính tòn ten, hai tay và hai chân đong đưa!...

Joe dừng lại nhận xét:

- Ê !, cái thằng quỷ đó mắc kẹt ở đâu vậy?

- Mặc kệ nó! Chạy nhanh, chạy nhanh!

- A!, nó bám lấy bằng cái đuôi. Một con khỉ... Chỉ toàn là khỉ thôi.

Joe cười !...

- Như vậy còn tốt hơn là con người!...

Gã thợ săn Kennedy vừa trả lời, vừa chạy xông tới.

Bầy khỉ nầy hung dữ và tàn bạo, cũng đáng lo ngại lắm. Đó là loài khỉ mỏ chó. Tuy vậy, chỉ cần vài phát súng là lấy lại lẽ phải ngay. Bầy khỉ nhăn nhó chạy tản đi, bỏ lại mấy con nằm dưới đất!...

Trong phút chốc, Kennedy leo thang lên tàu, còn Joe thì leo lên cây để gỡ mỏ neo. Cái giỏ tàu hạ xuống mà Joe bước vào dễ dàng. Liền đó khinh khí cầu bay vượt lên không gian. Ngọn gió đưa nó về hướng đông.

- Quả thật là một cuộc tấn công.

- Tôi cứ tưởng là bọn thổ dân sinh chuyện

Bác sĩ nói:

- Chỉ là bầy khỉ thôi. Từ xa sự cách biệt không mấy.

- Kể cả đến gần.

- Dẩu sao đi nữa, bác sĩ nói, cuộc tấn công này có thể gây hậu quả rất tai hại. Nếu cái neo sút ra do sự lay động của bầy khỉ, và gió thổi lôi tôi đi nơi khác!...

- Đấy, tôi nói với bạn thế đấy, Kennedy!...

- Vâng, bạn có lý! Nếu bạn dọn ra bữa ăn thịt dê nướng ngon lành thì càng có lý hơn.

- Phải rồi, bác sĩ nói, thịt dê là ngon lành nhất!

- Xin mời bác sĩ thưởng thức, bữa ăn đã dọn rồi.

- Theo tôi, Kennedy bảo, thịt thú rừng nầy có mùi hương hoang dại, không thể chê vào đâu được.

- Tốt, Joe nói, Tôi sẽ sống bằng thịt dê rừng trọn kiếp, nếu có một chút rượu cho dễ tiêu!

Thế rồi, Joe đi pha rượu, và nếm khoái trá.

Vị bác Sĩ nói:

- Đến bây giờ, thì mọi việc đều ổn thỏa!...

Kennedy trả lời:

- Rất ổn thỏa!...

- Thế thì, bạn có ân hận mà đã theo tôi không?

Gã thợ săn cương quyết trả lời:

- Tôi vẫn mong mỏi, người ta lôi tôi ra khỏi cuộc chơi nầy!...

Thanh Châu dịch thuật

VĂN HÓA ỨNG XỬ

TRONG HOÀNG TỘC

VÀ TRONG DÂN GIAN

 

A. Trong hoàng tộc

1. Cô vua: đại trưởng công chúa

2. Chị em gái vua: trưởng công chúa

3. Con gái vua: công chúa

4. Con gái thân vương: quận chúa

5. Con gái quận vương: huyện chúa

6. Cháu nội quân vương: quận quân

7. Cháu cố quận vương (gái): huyện quân

8. Chồng công chúa: phò mã đô úy

9. Chồng quận, huyện chúa: nghi tân

10. Vợ các vua chư hầu: tiểu quân

11. Xưng hô với các hoàng tử gọi: điện hạ

12. Xưng hô với các công chúa là công nương.

Về đối xưng thì vua thường khiêm xưng mình với người khác là “quả nhân” có nghĩa là “Kẻ ít nhân đức”, hoặc “cô”tức kẻ cô độc và gọi quần thần là “chư khanh”, còn nói riêng với người nào thân kính thì nêu họ của người ấy kèm theo chữ “Khanh Gia” như nói với Bao Chững (Bao Công) thì gọi “Bao Khanh gia”, nói với vua chư hầu thì gọi “Hiền hầu”. Thần dân nói chuyện với vua thì tung hô “Muôn tâu bệ hạ” (ý nói mình chỉ dám tâu với cái bực thềm ở dưới đất chứ không dám tâu trực tiếp với vua) hoặc “Tâu lịnh muôn năm”, “Muôn tâu lịnh cửu trùng”, “Muôn tâu thánh thượng”, “Muôn tâu hòang thượng”, “Muôn tâu đức thánh quân”, “Muôn tâu đức kim thượng” vv…

Sứ giả các nước chư hầu với nhau khi đến triều đình nước ngoài mà nói tới vua mình thì xưng khiêm tốn là: “(Thưa Hiền hầu), quả quân chúng tôi…”. Hoàng thái hậu nói chuyện với Thần liêu thì xưng là “Ai gia”. Thần liêu khi nói chuyện với hoàng hậu thì gọi là “Lịnh nương nương”. Thần liêu khi xưng mình với vua thì thường nói: “Kẻ hạ thần” hoặc “Thần đây”, còn gặp trường hợp sắp nói điều gì có thể nghịch ý vua hoặc không có chi nghịch ý cả mà do mình nịnh thì nhận tội trước như sau: “Kẻ hạ thần tội đáng muôn chết” hoặc nói trơn “Kẻ tội thần”.

Thần dân nói chuyện với các hoàng tử thì khiêm xưng “thưa Điện Hạ” tức ý nói mình chỉ dám nói với cái thềm điện mà hoàng tử ở chứ không dám nói thẳng với ngài. Các thái giám khi nói chuyện với vua, hoàng hậu gì đều xưng là “Kẻ nô tài”. Các quan gọi bọn thái giám bằng họ của chúng kèm theo hai chữ “công công”, như “Quách công công”.

B. Xưng hô trong dân gian:

1. Ông nội: nội tổ - nội tổ phụ

2. Bà nội: nội tổ mẫu

3. Ông nội vợ: thái nhạc trượng

4. Bà nội vợ: thái nhạc mẫu

5. Ông ngoại: ngoại tổ

6. Bà ngoại: ngoại tổ mẫu

7. Ông ngoại vợ ngoại: thái nhạc trượng

8. Bà ngoại vợ ngoại: thái nhạc mẫu

9. Cha: phụ thân, hay xuân đường, nghiêm đường

10. Mẹ: mẫu thân, huyên đường

11. Cha hờ (cha ghẻ): can gia

12. Mẹ hờ (mẹ ghẻ): can nương

13. Cha chồng: ông, gia ông, lão gia

14. Mẹ chồng: cô, gia cô

15. Cha vợ: nhạc trượng, nhạc phụ

16. Mẹ vợ: nhạc mẫu

17. Chồng: phu, phu tế, ngô tế, lang, lang quân

18. Vợ: phụ, thê, nội tướng, nội nhân, nội tử, nhụ nhân

19. Con trai: nhi

20. Con gái: nữ

21. Con dâu: tức, tức nữ, tức phụ

22. Con rể: nghĩa tế, nữ tế, lang

23. Cháu nội ngoại gái: tôn nữ

24. Cháu rể nội ngoại: tôn tế

25. Cháu trai (đối với chú bác cậu dì): diệt

26. Cháu gái (đối với chú bác cậu dì): diệt nữ

27. Cháu rể (đối với chú bác cậu dì): diệt tế

28. Anh trai: huynh

29. Anh chồng: bá bá

30. Anh vợ: đại cựu, thê cựu

31. Anh rể: tỉ phu, phu lang, lang

32. Em trai: đệ

33. Em trai của chồng: thúc thúc, tiểu thúc, thiếu gia, thiếu thúc

34. Em trai vợ: cựu tử, tiểu cựu

35. Em rể: muội phu

36. Chị ruột: tỉ, tỉ tỉ

37. Chị chồng: đại cô, cô nãi

38. Chị vợ: đại tỉ, thê tỉ

39. Chị dâu: tẩu tẩu

40. Chị dâu cả: khâu tẩu

41. Em gái: muội

42. Em gái chồng: cô cô, tiểu cô

43. Em gái vợ: di tử, tiểu di

44. Anh em con chú bác: đường huynh đệ

45. Chị em con chú bác: đường tỉ muội

46. Anh em con cô: cô biểu huynh đệ

47. Chị em con cô: cô biểu tỉ muội

48. Anh em con cậu: cựu biểu huynh đệ

49. Chị em con cậu: cựu biểu tỉ muội

50. Anh em con dì: di biểu huynh đệ

51. Chị em con dì: di biểu tỉ muội

52. Anh em bạn rể: khâm huynh đệ, liên khâm, liên kế

53. Chị em bạn dâu: trục lý, đại nãi, tiểu nãi

54. Anh em cùng chi tổ: đồng đường huynh đệ

55. Anh em cùng cụ tổ: tụng đường huynh đệ

56. Anh em cùng kỵ tổ: tái tụng đường huynh đệ

57. Bác: bá phụ

58. Bác gái: bá mẫu

59. Chú: thúc phụ

60. Thiếm: thẩm

61. Cô: cô mẫu

62. Dượng (chồng cô): cô trượng

63. Dì: di mẫu

64. Dượng (chồng dì): di trượng

65. Cậu: cựu phụ

66. Mợ: câm

67. Ông bác: bá công

68. Bà bác: bà bà

69. Ông chú: thúc công

70. Bà thím: thẩm bà

71. Ông cậu: cựu công

72. Bà mợ: cựu bà

73. Bà cô: cô tổ mẫu

74. Bà dì: di tổ mẫu

75. Ông dượng (chồng bà cô): cô trượng công

76. Ông dượng (chồng bà dì): di trượng công

BĐ st




Trái Cherry

Tên gọi và xuất xứ

Gọi Sơ-ri là nói theo cách phát âm theo tiếng Pháp của từ cerise. Còn cây Sơ-ri có tên khoa học là Malpighia glabra, là một loài cây bụi hay cây thân gỗ nhỏ có quả nằm trong họ Sơ-ri (Malpighiaceae), có nguồn gốc ở Tây Ấn và miền bắc Nam Mỹ. Nó có thể cao tới 3m, với tán lá dày, có gai. Lá xanh, dạng đơn hình trứng-hình mác, dài 5-10cm, với mép lá nhẵn. Các hoa mọc thành tán với 2-5 hoa cùng nhau, mỗi hoa có đường kính 1-1,5cm, với 5 cánh hoa màu hồng hay đỏ. Quả chín có màu đỏ tươi, đường kính 1cm, chứa 2-3 hạt cứng. Nó là loại quả mọng và có vị ngọt, chứa nhiều vitamin C và các chất dinh dưỡng khác. Mặc dù nó tương tự như quả anh đào, nhưng loài cây này không có quan hệ họ hàng gì với anh đào thực thụ (chi Prunus). Quả tương tự như quả chùm ruột (Vikipedia).

Cây Sơ-ri du nhập vào Việt Nam “theo chân” của người Pháp vào những năm đầu thế kỷ XX (tương tự như Cao su, Cà phê, Điều, Chuối... đều có nguồn gốc từ Nam Mỹ). Gốc của cây Sơ-ri là loại cây dại (như dâu rừng của Đà Lạt), so với “dân” bản xứ Nam Mỹ thì trái Sơ-ri Việt Nam nhỏ hơn nhưng vị ngọt thanh hơn và... có giá hơn.

Cho đến nay, chưa có tài liệu nào khẳng định chính xác thời điểm cây Sơ-ri được trồng ở Gò Công, nhưng có lẽ cây này có mặt ở vùng đất này đã khá lâu. Lúc đầu, Sơ-ri được trồng như một loại cây kiểng, bởi khi chín trái Sơ-ri có màu đỏ rất đẹp. Một số nơi trồng tập trung, hái trái bán như những loại cây trái thông thường khác. Về sau, người Gò Công phát hiện cây Sơ-ri thích hợp với vùng đất này với các đặc điểm như: phát triển tốt, trái lớn, nhiều nước…


Hiện nay, Sơ-ri được xem là thứ đặc sản của vùng đất Gò Công, tỉnh Tiền Giang và một số xã thuộc tỉnh Bến Tre . Đặc sản Sơ-ri Gò Công chủ yếu ở huyện Gò Công Đông với sản lượng lên đến 30.000 tấn quả/năm. Xã Tân Đông (Gò Công Đông) là vùng đất rất thích hợp với cây Sơ-ri nên cây phát triển nhanh và năng suất cao, năng suất khoảng 35 tấn quả/ha/năm 2006. Nhưng nếu trồng đúng kỹ thuật, sản lượng có thể lên đến 50.000 tấn quả/năm.

Theo khảo sát của Trung tâm nghiên cứu cây Sơ-ri trong năm 2012, diện tích trồng Sơ-ri của khu vực Gò Công là khoảng 276 ha, trong đó giống Sơ-ri chua truyền thống của Gò Công là 134 ha, giống Sơ-ri ngọt là 104 ha và giống Sơ-ri chua nhập nội là 38 ha (giống nầy được bắt đầu trồng thử nghiệm tại khu vực Gò Công từ năm 2007, được bà con nông dân gọi là: giống Sơ-ri chua mới, giống Sơ-ri chua Brazil...). Tại Bến Tre, giống Sơ-ri ngọt được trồng chủ yếu tại các phường Sơn Đông , Bình Phú , Phú Khương , Phú Nhuận ( thành phố Bến Tre ), Mỹ Thành , Sơn Hòa , Hữu Định , Tam Phước (thuộc huyện Châu Thành , tỉnh Bến Tre) và một ít ở xã Tân Lợi Thạnh thuộc huyện Giồng Trôm , tổng diện tích trồng Sơ-ri ngọt của tỉnh Bến Tre là 233 ha.

Vậy là hiện có hai loại Sơ-ri. Một loại có nhiều vị chua, thích hợp cho chế biến xuất khẩu, còn loại kia vị ngọt, dành cho thị trường ăn tươi. Quả Sơ-ri khi chín mọng có màu đỏ cam hoặc đỏ sậm, có thể ăn tươi hoặc chế biến thành nhiều món như: mứt, rượu, cocktail, nước ép... được thị trường rất ưa chuộng. Vì vậy, bà con Gò Công chuyển sang trồng cây Sơ-ri với quy mô lớn như hiện nay. Cây Sơ-ri đã được đưa vào chương trình ưu tiên phát triển 7 loại cây ăn trái chủ lực của tỉnh Tiền Giang, trong đó đặc biệt chú trọng mặt hàng Sơ-ri tươi xuất khẩu. Lượng trái còn lại phục vụ cho việc chế biến các sản phẩm như: rượu, mứt, si-rô,...

Trồng và sử dụng

Nhân giống cây Sơ-ri rất đơn giản. Chỉ cần chọn những cây khỏe mạnh, lá dầy, cho trái tốt, sau đó lựa cành khỏe mạnh thực hiện thao tác bó chiết cho đến khi cành đâm rễ non thì cắt đem trồng. Về chất lượng trái, theo các chuyên gia, trái Sơ-ri Gò Công lớn hơn những nơi khác không chỉ nhờ sự chăm sóc của nhà vườn mà chủ yếu còn nhờ thổ nhưỡng vùng này rất thích hợp với cây Sơ-ri.

Ngoài việc dùng Sơ-ri như một loại trái cây bình thường thì người ta còn lên men để làm rượu trái cây (tựa như rượu nho). Phương pháp giản đơn nhất là cho Sơ-ri chín (càng chín càng tốt, hơi dập 1 tí cũng được) vào trong 1 cái lọ (hũ, khạp... miễn sao đủ lượng Sơ-ri mà bà con chuẩn bị) theo công thức một lớp đường + một lớp trái Sơ-ri sau đó ủ trong vòng 2-3 ngày (tùy nhiệt độ môi trường) là có thể mang ra dùng được. Sơ-ri lên men thành rượu, uống ngon ngọt không kém gì rượu nho, nhưng không bảo quản được lâu. Rượu bị chua là do ảnh hưởng thời tiết nóng.

Phương pháp làm rượu công nghiệp: trái tươi ép lấy nước cấy men vi sinh, đường và nước máy. Màu rượu đỏ như rượu vang của Pháp và chất lượng ngon ngọt với nồng độ 11,5. Hiện nay, rượu Sơ-ri đóng chai đang có mặt trên thị trường là Rượu vang Sơ-ri Bình Phú và được cấp giấy chứng nhận vào tháng 4-2003, gồm hai loại chai: loại 750ml và loại 700ml. Trước đây ở Gò Công cũng có hãng rượu Sơ-ri nhưng đã ngừng sản xuất để xây dựng và nâng cấp nhà máy.

Giá trị và Tiềm năng cây sơ ri

Những năm gần đây, cây Sơ-ri được bà con nông dân ở Gò Công chọn làm cây trồng chính bởi giá trị kinh tế của nó. Tập trung chủ yếu ở vùng đất nhiễm mặn thuộc huyện Gò Công Đông và thị xã Gò Công. Hàng năm, Tiền Giang cung cấp cho thị trường nội địa và xuất khẩu trên 6.000 tấn Sơ-ri tươi. Loại trái cây này cũng đã được xác định là một trong 7 nhóm cây ăn quả đặc sản của tỉnh và định hướng đến năm 2015 sẽ mở rộng diện tích lên 500 ha. Qua quá trình triển khai đề tài, từ 8 cá thể Sơ-ri ngọt và 28 cá thể Sơ-ri chua tại địa phương, Viện Nghiên cứu Cây ăn quả Miền Nam đã chọn ra được 2 cá thể Sơ-ri ngọt mang ký hiệu NLT1, NBA2 và 3 cá thể Sơ-ri chua CTĐ11, CTĐ12, CTĐ13 có đặc tính sinh trưởng nhanh, chống chịu sâu bệnh, năng suất cao và chất lượng trái tốt để nhân rộng trong vùng chuyên canh.

Hiện nay, các công ty chế biến thực phẩm tại Gò Công ưu tiên cho nhà vườn áp dụng các tiêu chuẩn sản xuất an toàn, ít sử dụng thuốc bảo vệ thực vật. Lượng trái còn lại phần lớn được các thương lái thu mua với giá từ 700 - 1.500 đồng/kg để bán ở thị trường các tỉnh. Trái Sơ-ri đạt chuẩn mẫu mã và chất lượng xuất khẩu, được thu mua với giá cao, chỉ chiếm tỷ lệ từ 25 - 35% tổng sản lượng. Đây chính là nỗi trăn trở của bà con nhà vườn và các nhà quản lý kinh tế ở Gò Công.

Theo tài liệu dinh dưỡng học thì quả Sơ-ri có nguồn vitamin C rất lý tưởng cho người ăn kiêng. Hàm lượng Acid Ascorbic trong quả Sơ-ri đo được từ 1,5 - 3,5 trọng lượng tươi. Một ly nước ép Sơ-ri 180 ml có thể chứa một lượng vitamin C tương đương 14 lít nước cam ép. Vì vậy, trong công nghệ chế biến thực phẩm, nước ép Sơ-ri thường được sử dụng để làm tăng hàm lượng vitamin C cho nước ép của nhiều loại quả khác. Nhiều nước như Nhật, Singapore, Hồng Kông,... đều có nhu cầu nhập khẩu Sơ-ri dưới dạng tươi. Như vậy, nhu cầu tiêu thụ Sơ-ri ở thị trường trong và ngoài nước hiện nay là rất lớn, trong khi sản lượng trái đúng tiêu chuẩn xuất khẩu chỉ đạt khoảng 2.000 tấn/năm. Hiện nay, thị trường tiêu thụ trái Sơ-ri Gò Công đang rộng mở, nhưng muốn đáp ứng được thị trường này đòi hỏi phải có sự đầu tư của các nhà khoa học cũng như tâm huyết của bà con nhà vườn đối với những sản phẩm do chính tay mình làm ra.

Bs Nguyễn Lân-Đính st

CHUYỆN NGÀY XƯA

ĐÀM LAN

- Chào Bột Nếp.

Tôi ngớ người trước một gã đàn ông có dáng dấp khá dềnh dàng, xương bả vai như gồ cao hơn bởi hai cánh tay đang khuỳnh ra chống nạnh. Gương mặt đang nghênh nghênh với cặp kính nâu to sù choán mất đa phần diện mạo, đôi môi dày đang nhếch một nụ cười láu lỉnh, tươi tắn giữa hàng ria và lấm tấm râu cằm. Có đến mấy giây đã trôi qua mà tôi vẫn chưa nhận ra được người đã gọi đúng một “tiểu danh” rất đặc biệt, mà ngay chính tôi cũng không còn nhớ nữa. Đôi môi vẫn giữ nguyên nụ cười, nhưng một cánh tay thì rời khung xương hông đưa lên mắt gỡ cặp kính xuống. Một gương mặt cứng cáp, đầy vẻ phong trần hiện ra trước mắt tôi, vừa như rất lạ, lại vừa như rất quen. Linh giác tôi động đậy, một cái gì đó đang nhắc nhớ, nhắc nhớ về một thuở rất xa. Tôi vẫn không rời ánh mắt khỏi gương mặt ấy từ khi giật mình nghe câu chào. Đôi mắt kia đang nhấp nháy, cái nhấp nháy của sự thúc giục “nào nhận ra nhau đi chứ”. Một ánh mắt quen, rất quen. Tôi bỗng bật ra một tiếng gọi từ vô thức:

- Guốc Rách.

Một tràng cười bật ra ha hả, bật ra như vỡ oà một niềm mong đợi. Gã đàn ông có cái “tục danh” mà tôi vừa thốt ra ấy đang rất vui sướng. Gã vẫn cười, cái cười hết sức sảng khoái ấy đã làm vợi bớt nét phong trần, từng trải. Tôi cũng cười, cuời không thua gì tiếng cười kia, cùng với tiếng cười là bốn bàn tay chụp vào nhau lắc giật, lắc giật, nếu không vì sự tế nhị của giới tính thì chắc đã là một động thái đầy cảm xúc hơn nữa rồi. Quả tình, nếu không có hai biệt danh độc nhất vô nhị nhưng lại đong đầy kỷ niệm ấy thì chắc chúng tôi đã không nhận ra nhau. Thoắt một cái, cả hai chúng tôi vụt quay nguợc về hơn hai mươi năm:

- Ê Bột Nếp, còn bánh ế không?

- Hết rồi. Trả tiền hôm qua đi chứ, Guốc Rách.

Không bảo nhau mà ký ức vừa sống lại ấy khiến tôi đỏ hoe rân rấn mi mắt, và gương mặt trung niên đầy đặn kia cũng mần lên nỗi xúc động. Chúng tôi lặng đi trong hơi ấm của bốn bàn tay siết chặt, trong nôn nao ký ức của một thời niên thiếu nhọc nhằn.

Cả hai chúng tôi đều là những đứa trẻ thiếu may mắn, những đứa trẻ chưa có cơ hội được ngửi mùi giấy mực, thì đã phải lăn lóc trên những vỉa hè xó chợ, đã phải dấn thân vào những lấm láp để kiếm miếng ăn khi tuổi đời còn quá hồn nhiên trong trẻo. Cho dù sự trong trẻo ấy đã sớm nhuốm bụi bặm tháng ngày thì nó vẫn có một cái gì thật đáng yêu và đáng nhớ. Nguyên nhân thứ nhất của sự nghèo đói là cảnh nhà đông con mà lại thiếu điều kiện để sinh sống. Tôi sinh ra trong một gia đình như thế. Cha mẹ tôi gần như suốt đời cúi mặt làm thuê, bởi ngoài một xép nhà lụp xụp làm chỗ chui ra chui vào thì chẳng có thêm một tấc đất nào trong tay, và cũng không có một cái thứ nghề nghiệp gì khả dĩ cho ngày hai bữa. Cha mẹ tôi cứ lụi hụi được tí tiền nào là trút cả vào cái ăn cái mặc cho một bầy lau nhau. Thế nên cứ sáng ra là dúm một nắm đi đến tối sẫm mới về. Ở nhà lóc nhóc đứa lớn trông đứa bé. Đứa nào có chút sức vóc thì phải có nhiệm vụ tìm cho được thứ gì để góp vào bữa ăn gia đình. Thôi thì đủ các loại việc, chăn trâu chăn bò, bắt cua mò tép, mót lúa đào măng… nữa thì đi nhặt nhạnh những phế phẩm của người ta bỏ đi đem về dùng. Như một bầy ếch nhái sáng toé ra, tối cụm vào. Thế rồi cũng đến lượt tôi bước vào cái quy trình đời sống đó. Tôi còn nhớ rất rõ việc đầu tiên trong công cuộc mưu sinh của tôi là… đào trộm khoai.

Hôm ấy, sau câu lệnh ngắn ngủi của cha “Đi đi, chiều phải mang được một thứ gì về”. Mấy củ khoai luộc mà mẹ tôi dúm cho là tất cả gia tài tôi có. Lớn lên, tôi nghe người ta nói nhiều đến câu “trời sinh voi sinh cỏ”, thì hiểu rằng đó là khả năng tồn tại mà mỗi con người phải có khi đã được sinh ra. Chứ nếu hiểu theo nghĩa đơn thuần là cuộc sống sắp đặt sẵn cho sự tồn tại thì ắt sẽ trách móc rằng “trời sinh quá nhiều voi, nhưng thật ít cỏ”. Và ngay cái ngày đầu tiên tôi bước chân vào đời đã phải chạm trán ngay với lẽ nhiều voi ít cỏ này. Quý vị thử tưởng tượng xem, môt con bé tám tuổi, lơ ngơ lác ngác bên vệ đường với nỗi sợ hãi giữa bao điều lạ lẫm, với sự ngờ nghệch của một tâm hồn non nớt lần đầu tiên trong đời học cách lo toan miếng sống. Không dám mở miệng xin ăn, không dám thò tay lấy cắp, không đủ tự tin để hỏi xin một việc làm vừa với sức mình. Sức vóc nhỏn nhoi bằng cái nắm tay, ai mà thuê mướn cho dù với một công việc nhẹ nhàng nhất. Mấy củ khoai lang không chờ nổi đến trưa, chúng nhanh chóng tan biến trong cái dạ dày vốn không có đáy. Nỗi sợ hãi, ngại ngùng đã khống chế tôi cho đến tận chiều sẫm, càng lo sợ hơn khi trong tay không có một thứ gì gọi là kiếm được. Mà lệ nhà tôi rất ngặt, đứa nào mà ngày đầu tiên đã đem về được một thứ gì thì khẩu phần ăn sẽ được tăng thêm, nếu không thì phải chịu nhịn đói. Có lẽ đó là cách mà cha mẹ tôi đẩy các con vào đời, xem ra cũng khá hiệu quả, vì đói thì ai mà chả sợ. Khi không còn một tí hy vọng gì, tôi thẫn thờ lê bước về nhà, với cái bụng lép kẹp mà khả năng sẽ kéo dài đến sáng hôm sau. Ngang qua một vạt khoai, tôi ứa nước miếng khi hình dung đến miếng khoai sống giòn ngọt ấc nước, lại thêm cái đói thôi thúc, tôi nảy ra ý định táo bạo. Nhìn nhanh sau trước, con đường vắng vẻ trong bầu không gian tối sẫm, nếu có bóng người, thì họ cũng vội vã những bước chân. Tôi lủi nhanh xuống vạt khoai, hai bàn tay nhỏ bé lập bập bươi móc, được một củ be bé, tôi chùi nhanh đất rồi cho vào mồm ngấu nghiến. Rau ráu… rau ráu, ngon, phải nói là rất ngon (bây giờ nhớ lại, tôi vẫn còn cảm giác được cái ngon ấy), đỡ đói và cũng bớt sợ, tuy đôi mắt vẫn láo liên nhìn lên con đường, hai tay tôi bới nhanh hơn, được thêm mấy củ nhinh nhỉnh nữa, thì tôi gật thót mình khi một chú chó nhép từ đâu nhảy xổ ra sủa ong óng. Tôi hết hồn bụm vội mấy củ khoai rồi ù té chạy, không biết lúc ấy sức lực ở đâu ra mà tôi chạy được nhanh thế, chỉ biết khi về gần đến nhà, biết mình đã thoát, tôi ngồi sụp xuống gốc chuối, nghỉ cho đỡ mệt rồi mới bước vào với một cơ thể rã rời và gương mặt tái xanh. Nhìn qua thần sắc và hai bàn tay nhấm nhem đất với mấy củ khoai, cha mẹ tôi đã hiểu rõ nguồn cơn. Cha tôi không nói gì, chỉ lặng lẽ thở ra khói thuốc, mẹ tôi đưa cho tôi một bát nước rau luộc, tôi uống một hơi rồi ra rửa chân tay. Bữa tối ấy, khẩu phần ăn của tôi vẫn như mọi ngày. Ăn xong, tôi lăn ra ngủ ngay lập tức, cái cơ thể bé bỏng của tôi chỉ chờ có thế. Cho đến tận sáng hôm sau mẹ tôi lay gọi mãi tôi mới dậy nổi. Lũ ếch nhái nhà tôi đang chuẩn bị túa ra, mẹ tôi lại gói cho tôi mấy củ khoai, thêm một quả chuối. Ánh mắt mẹ buồn buồn nghiêm nghị:

- Con không được ăn cắp của ai cái gì nhé.

Một chút nhận thức giúp tôi hiểu ăn cắp là xấu. Con người ta thường dễ trưởng thành trong nghịch cảnh và thử thách. Ngày thứ hai đã khác hẳn, mọi sự trở nên tốt hơn nhiều, tôi tìm ngay được một việc phù hợp, tìm nhặt những mẩu rau củ thừa ở một cái chợ không xa nhà là mấy. Tuy không nhiều nhặn gì, nhưng cũng đã góp được công sức của mình vào bữa ăn gia đình một cách chính đáng. Nếu hỏi rằng “Bạn sẽ có những bước đi thế nào trên hành trình cuộc sống?”. Tôi dám chắc một trăm phần trăm không ai có thể trả lời một cách chính xác. Bởi mỗi một con người khi hé mắt vào đời, dường như đã có sẵn một lối đi cho riêng mình. Những lối đi ấy cũng năm cua bảy quẹo, cũng lắm sông sâu, lắm nẻo gập ghềnh. Và cứ mỗi khúc đoạn thì lại có một mũi tên chỉ đường. Và người ta cứ thế mà đi tới đi tới. Vào một ngày, tôi đang cắm cúi nhặt những mẩu khoai tây, su hào, cà rốt dưới gầm một sạp hàng thì thấy có một tờ tiền rơi xuống bên cạnh. Nhìn lên, tôi thấy một chị bán bánh nếp đang móc tiền ra trả lại tiền thừa cho khách đánh rơi. Tôi nhặt lên và gọi:

- Chị ơi ! Tiền của chị rơi này.

Chị ấy cầm lại tiền và rối rít khen tôi. Trò chuyện làm quen, thế rồi chị dắt tôi đến nơi làm bánh, bảo lãnh cho tôi lấy bánh đi bán. Tôi bắt đầu kiếm ra tiền nhờ vào công việc này, và cũng từ những chiếc bánh bột nếp mà tôi gặp “hắn”. Một chiều muộn, trên khay bánh của tôi còn ế một ít, tôi đang cố chào mời để bán cho hết thì một gã trai xuất hiện:

- Bao nhiêu một cái? Miệng gã hỏi thì tay gã bốc, bóc lá cho luôn vào miệng. Tôi hốt hoảng:

- Sao chưa trả tiền đã ăn rồi? Trả tiền đây.

- Không có tiền, bán thiếu được không?

Cũng như lần trước, gã lại bốc cái nữa, bóc lá cho vào miệng. Tôi vừa tức vừa sợ, thấy gã lớn hơn mình, không làm sao được nên ngồi phịch xuống đất òa ra khóc. Gã trai nuốt xong cái bánh thứ hai, thấy tôi khóc thì tần ngần:

- Đừng khóc nữa, mai trả thật mà. Ngày nào ấy cũng bán ở đây chứ?

Tôi không trả lời, cứ ngồi khóc, vì biết thế là mất toi hai cái bánh. Người người qua lại, chả ai để ý đến chuyện hai dứa trẻ. Dỗ dành tôi một lúc không được, gã bỏ đi. Bất lực, tôi nhếch nhải gom chỗ bánh ế đem về trả cho chủ bánh. Hôm ấy tôi thút thít đến đêm, vì không có tiền lời mang về, vì tức và cả vì sợ. Hôm sau đi bán, tôi cứ ngó ngược ngó xuôi, mặt la mày lét, nửa mong gã đến trả tiền, nửa sợ gã đến lấy mất bánh nữa. Rồi cũng vào lúc chiều muộn, gã xuất hiện. Tôi vội vàng ôm khay bánh vào lòng, miệng thét:

- Trả tiền đây.

Gã cười và giơ ra mấy tờ tiền.

- Trả tiền hôm qua nè, bán cho mấy cái nữa luôn đi.

Tôi ngơ ngẩn, cầm tiền vào tay, chìa khay bánh cho hắn lấy mà vẫn còn run, nhưng miệng thì đã nhoẻn cười. Từ đó, gã trở thành khách hàng quen thuộc của tôi, cứ mỗi chiều có bánh ế, tôi lại mong gã đến. Bánh bột nếp có nhân đậu xanh hoặc xác dừa, dễ ăn lại rẻ nên gã mặc nhiên coi như bữa tối. Ngày ấy tôi độ mười hai mười ba tuổi, gã nhỉnh hơn tôi vài tuổi, lứa tuổi thuần là trẻ con. Một thời gian mua mua bán bán trôi qua, một hôm gã hỏi:

- Ấy tên gì vậy? Cứ gọi ấy ấy hoài, kỳ quá.

Tôi lém lỉnh:

- Tên là Bột Nếp.

- Sao lại tên là Bột Nếp?

- Thì bán bánh Bột Nếp, người ta cứ gọi Bột Nếp ơi, quen rồi.

- Còn tên ấy là gì?

Nghe tôi hỏi, gã gãi đầu gãi tai, tôi đưa mắt nhìn từ đầu đến chân gã, nhìn thấy đôi guốc gã đang mang bị rách tưa lớp da. Tôi buộc miệng:

- Guốc rách kìa.

Gã cũng nhìn xuống chân, rồi bỗng bật cười ngặt nghẽo:

- Thôi, gọi tên mình là Guốc Rách cũng được. Nghe hay không?

Tôi cũng bật cười. Thế là thành tên. Hai cái tên vừa ngộ nghĩnh, khôi hài, vừa mang dáng dấp của một đoạn đời.

Khác tôi, Guốc Rách không có cha mẹ, hay nói đúng hơn, không biết cha mẹ mình là ai. Mới được vài ngày tuổi đã bị đem bỏ ở một cổng chùa. Sư ông chùa ấy đã lớn tuổi, lại là người đức độ bấy lâu, nên không mắc nỗi hàm oan Thị Kính. Nhờ cháo sữa của bà con quanh đó, đứa trẻ lạc loài cũng lớn dần lên. Không chịu được sự trầm mặc, khuôn khổ tu tịnh của chùa, Guốc Rách thường trốn chùa ra ngoài đi xin ăn. Biết đứa trẻ không có căn duyên, nên Sư ông cũng không ép buộc chuyện kinh kệ, chỉ ân cần dạy bảo những gì có thể. Năm lên mười thì Guốc Rách phải chịu tang Sư ông, một Sư thầy trẻ khác về thay, thế là Guốc Rách lặng lẽ bỏ đi. Lang thang với đủ cách thức để tồn tại, nhưng tuyệt nhiên không ăn cắp bất kỳ thứ gì của ai. Đó là nhờ sự giáo dục của Sư ông. Hôm ăn giật bánh của tôi, là Guốc Rách đang phụ bán hủ tiếu mì, ngày ngày bưng bê và thu dọn tô chén, cùng với hai thanh tre gõ lóc cóc thay tiếng rao. Khi bê hủ tiếu cho người ta, nóng quá làm đổ, bị phạt không được ăn, đói quá, thấy tôi bé hơn thì làm liều, bắt nạt. Sau đó một thời gian thì Guốc Rách cũng thôi phụ bán, mà quay ra làm bốc vác ở khu chợ. Được cái có chút sức vóc hơn tuổi, lại chẳng nề hà nên có việc gì lớn nhỏ người ta cũng kêu. Ban ngày lặt vặt cũng đủ lo cho cái dạ dày, tối đến thì quay lơ đại trên một sạp quán nào đó đánh một giấc. Vẫn thường xuyên là khách hàng bánh ế cho tôi, hôm nào có tiền trả ngay, hôm nào không có thì cho thiếu. Lật bật, tôi nhấp nhỉnh thành cô thiếu nữ, gã cũng tập tò thành một chàng trai. Bỗng một ngày, gã biến mất, mang theo một món tiền không lớn mà cũng không nhỏ của tôi.

Con nước thời gian xuôi dòng, bao chật vật lo toan, gian nan, mơ mộng trông chờ cũng xuôi theo. Từng trang ký ức gấp vào quên lãng, khi thực tế khắc nghiệt luôn buộc con người phải đương đầu với nó, và khi đã đặt chân lên trục chuyển động thì con người không được phép dừng lại. Dù vui buồn, thiếu đủ gì thì lũ ếch nhái nhà tôi cũng lục tục lớn lên, cũng lần lượt rời khỏi cái hốc mà kế tiếp vòng đời. Đến thuở đến thì, tôi cũng trở thành một phụ nữ trong vai trò làm vợ làm mẹ. Đã quá thấm thía cái cảnh nhôi nhai, lếch thếch bữa no bữa đói của chuyện đông con nhiều cháu, của ngược xuôi tất tả gánh gồng, không thể truyền lại cái ách đói nghèo cho con cháu, nên sau khi sinh được hai con, lại vừa hay một trai một gái, tôi triệt sản. Nhà cửa bắt đầu khấm khá dần, một tương lai tươi sáng cho con tôi khi việc học hành của chúng được chăm sóc chu đáo. Con gái tôi nhiều năm liền là học sinh giỏi. Những bất ngờ không bao giờ hẹn trước. Trong khi chờ đón con trước cổng trường thì tôi gặp lại cố nhân ngày nào.

Quán cà phê nho nhỏ vang nhè nhẹ một điệu nhạc trầm sâu lắng. Chúng tôi ngồi đối diện nhau, nhìn nhau mà vẫn chưa tin có một điều kỳ diệu đã xảy ra như thế. Theo tháng năm, những dáng nét tuổi thơ đã thay đổi đi nhiều, nhưng vẫn còn phảng phất những khuôn hình xưa cũ. Càng nhìn nhau, càng thấy rõ những gì từ năm tháng xa xưa hiện về. Chúng tôi chẳng khác một đôi tình nhân hội ngộ, cảm xúc cứ ngập tràn, mãi tôi mới hỏi được:

- Làm sao nhận ra được Bột Nếp?

- Nốt ruồi dưới thuỳ châu tai trái, và ánh nhìn xôn xao trong mắt.

Tôi nhướng mày ngạc nhiên, Guốc Rách cười giải thích thêm:

- Lúc mới chạm phải ánh mắt, tôi đã linh cảm đúng là người mình cần tìm, nhìn vào tai trái thì… đúng rồi.

Tôi bàng hoàng:

- Bấy nhiêu năm rồi còn nhớ kỹ vậy sao?

Giọng người đàn ông trung niên bỗng trầm hẳn lại:

- Con người ta thường có những quãng đời không thể nào quên, và trong quãng đời ấy có hình ảnh nào khắc ghi thì nỗi nhớ lại càng sâu. Không hiểu sao mỗi khi nhớ về thời niên thiếu của mình, thì trong ký ức tôi luôn hiện lên hình ảnh một cô bé khóc một cách bất lực trước khay bánh. Khi đã trưởng thành, tôi hiểu đó là những giọt nước mắt cay cực của một lứa tuổi, của một cảnh đời.

Tôi xúc động:

- Thôi anh ạ, mọi chuyện cũng qua rồi, ta gợi lại cũng chẳng vui gì. Anh kể cho tôi nghe đi, vì sao ngày đó anh đột ngột mất tăm thế?

- Với một món nợ nữa chứ.

Guốc Rách cười nhẹ khi nhắc lại, gương mặt anh chợt ánh lên một nét hồi tưởng:

- Hôm ấy tôi bị công an bắt, bắt lầm thôi. Có một tên móc túi chạy ngang tôi ném cái bóp để phi tang, tôi vừa nhặt lên mở ra xem thì mấy anh công an ập đến, chẳng thanh minh thế nào được, vả lại cái bộ dạng mình lúc ấy… Cũng may là tôi chưa đủ tuổi thành niên, nên được đưa vào trường giáo dưỡng. Không có tội mà bị bắt thì rất ức, nhưng khi vào đấy rồi, được sự chăm sóc, giáo dục của các cô chú, được học chữ, học nghề, tôi hiểu ra được nhiều điều. Trong đó, điều quan trọng nhất là tình thương. Nói thật, trong đời tôi, ngoài vị Sư Thầy đã cưu mang, thì tôi chỉ nhận được tình cảm từ những thấy cô trong trường giáo duỡng ấy. Sau một thời gian, thấy tôi chăm chỉ học và làm, không có biểu hiện hư hỏng gì, các cô chú đã rất quan tâm tạo điều kiện cho tôi trở lại cuộc sống tự do. Được sự giới thiệu của các cô chú, tôi về phụ việc trong một xưởng mộc. Tôi làm ở đó không lâu, vì bản tính hiếu động, không hợp với một công việc cần mẫn, cặm cụi. Có anh bạn rủ theo tàu đánh cá, tôi nhận lời ngay. Làm trai mà được thử sức, vẫy vùng nơi sóng to gió cả mới thấy mình thực sự trưởng thành.

Ngừng một chút, nhấp một ngụm cà phê, Guốc Rách chợt mỉm cười:

- Cuộc đời thật lạ, có những lúc không mơ mà được, không tưởng mà thành. Tôi đã có một điều như thế, bước ngoặt cuộc đời đến với tôi từ một giấc ngủ quên…

- Một giấc ngủ quên?

Tôi ngạc nhiên gặp lại, anh gật đầu:

- Quả thật con người ta thật sự có cái gọi là số mạng, có những đẩy đưa không thuộc quyền chủ động của mình. Tôi gọi đó là bước chân của định mệnh. Hôm đó, tàu về bến, sau bao công việc và ăn uống no say, mệt nhoài, tôi về tàu để tìm chỗ đánh một giấc. Chẳng ngờ, tôi lại xuống nhầm tàu, và con tàu ấy đang chuẩn bị cho một cuộc vượt biên. Mãi đến khi tàu ra ngoài hải phận, người ta mới phát hiện ra tôi, không còn cách nào khác là cho tôi đi theo. Năm đó tôi hai mươi ba tuổi, tôi hiểu cơ hội tốt không dễ đến hai lần, nhưng trước mắt thì bao nhiêu là khó khăn. Từ ngôn ngữ giao tiếp, thói quen sinh hoạt, trong tay lại không có một thứ gì để làm vốn. Ngay từ phút đầu tiên ở trại tị nạn, tôi đã phải đối mặt với những thách thức, một cuộc sống hoàn toàn khác chỉ trông chờ vào chính bản thân mình. Và khi đã dấn thân, thì sớm muộn gì cũng tìm ra cách thích ứng cho sự tồn tại.

Ngừng một chút, Guốc Rách nhìn tôi, ánh nhìn đầy cảm xúc:

- Thế mà đã hơn hai mươi năm rồi nhỉ?

Tôi gật đầu xác nhận. Hơn hai mươi năm, một con số thời gian đáng kể, đủ để đổi thay cả một cuộc đời. Nếu không nghe chính anh kể, thật khó mà tưởng tượng ra được. Chẳng ai biết trước được ngày mai của mình. Hanh thông hoạn lộ hay rủi ro trúc trắc, phần lớn đều tùy thuộc vào cái gọi là vận mệnh, có thể sắp xếp định liệu, nhưng khó mà khớp với diễn biến của thực tế.

- Vậy từ đó giờ anh về Việt Nam mấy lần rồi?

- Đây là lần đầu tiên. Tôi về đây để xây dựng một đề án.

- Một kế hoạch đầu tư kinh tế lâu dài à?

- Lâu dài thì có nhưng kinh tế thì không hẳn. Tôi muốn xây dựng một ngôi trường gọi là “Trường Gia Đình”.

- Trường Gia Đình. Nghe lạ quá.

- Những ngày ở trong trường giáo dưỡng, tôi thấy có rất nhiều cảnh ngộ đáng thương. Có nhiều em đang còn trong độ tuổi rất thơ ngây mà đã thành tội phạm. Các em phạm tội một cách hồn nhiên vì chưa thể phân biệt được thế nào là tốt xấu. Tất cả chỉ vì thiếu một điều quan trọng. Đó là “Tình thương”. Có quá nhiều lý do để bứt các em ra khỏi vòng tay gia đình. Vì thế mà các em không được hưởng sự yêu thương và những giáo dục căn bản trong những bước đầu tiên học làm người. Tôi nghĩ mình còn may mắn vì đã đuợc sự nuôi dạy của Sư Thầy ngày ấy. Nhiều lúc, nhìn những người lớn tuổi xung quanh tôi, tôi tự hỏi “Có khi nào trong số đó là cha tôi, mẹ tôi không? Và những người là cha mẹ tôi có biết tôi vẫn tồn tại trên cõi đời này, tự lớn lên như một loài cỏ dại?” Tôi nghĩ. Trường Gia Đình sẽ có vài điểm giống như trường Giáo dưỡng, nhưng là một ngôi trường tập trung các trẻ em lang thang, giáo dục các em ngày từ đầu, đừng để các em phạm tội rồi mới dạy dỗ. Những người thầy người cô nơi ấy thực sự là những người cha người mẹ, cho các em tình thương, sự ấm áp và tin cậy. Bởi tình thương là nền tảng của đạo đức. Hãy chăm sóc và rèn giũa cho các em những điều cần thiết cho sự hình thành nhân cách. Nếu làm được thế, không những giảm thiểu cho xã hội phần nhiều những mầm tai họa, mà còn tạo nên một chữ “Người” đúng nghĩa.

Tôi ngây người nghe anh nói, những suy tư chỉ có thể nảy ra từ những đoạn trường.

- Không ngờ anh lại có một ý tưởng độc đáo và thiết thực đến thế.

- Có gì đâu, khi chính bản thân mình là một thực nghiệm. Những va đập ngược đãi chỉ đẩy con người vào trạng thái hằn học, thù địch. Họ sẽ mất dần niềm tin và lòng yêu thương với đồng loại, để rồi khi bị đồn ép, họ sẽ không còn giữ được lương tri, nhân tính nữa, khi đó là một hiểm họa, một hệ lụy đáng buồn đáng tiếc biết bao. Tôi muốn góp phần để tránh bớt hậu quả, và cứu vãn những tuổi đời thơ ngây.

- Tôi chắc đề xuất của anh sẽ được nhiều người ủng hộ. Anh nên tiến hành ngay đi.

- Cũng chưa chắc, vì còn tùy thuộc vào nhiều yếu tố nữa. Mà thôi, ta tạm gác chuyện đó qua một bên. Tôi muốn nói “Niềm vui lớn nhất của tôi là gặp lại Bột Nếp” Xin lỗi, cái tên ấy bây giờ…

- Không sao anh ạ. Tôi rất vui khi nghe anh gọi lại cái tên đó.

- Tôi cũng vậy, tôi rất xúc động khi nghe lại cái tên Guốc Rách.

- Con người ta xấu tốt không ở cái tên, huống nữa là cái tên đã ghi dấu một thời niên thiếu của chúng ta, đã lưu giữ những hình ảnh kỷ niệm không thể nào quên. Điều đó đáng trân trọng lắm chứ.

Guốc Rách gật đầu, anh định nói thì đột ngột tiếng trống trường vang lên. Tôi sực nhớ:

- Cháu nó tan trường rồi, tôi sang đón cháu đây. Anh ở khách sạn nào?

- Tôi muốn đến thăm nhà Bột Nếp, nói thật, tôi thèm ăn bánh bột nếp ấy lắm.

- Được rồi, được rồi, tôi sẽ làm cho anh ăn. Bây giờ thì không phải ăn thiếu nữa rồi, phải không anh Guốc Rách?

Một tràng cười ha hả theo hai chúng tôi bước ra đường trong cái nắng ban trưa.

ĐÀM LAN

|  51 |
 52 |
 53 |
 54 |
 55 |
 56 |
 57 |
 58 |
 59 |
 60 |
 61 |
 62 |
 63 |
 64 |
 65 |
|  66 |
 67 |
 68 |
 69 |
 70 |
 71 |
 72 |
 73 |
 74 |
 75 |
 76 |
 77 |
 78 |
 79 |
 80 |
|  81 |
 82 |
 83 |
 84 |
 85 |
 86 |
 87 |
 88 |
 89 |
 90 |
 91 |
 92 |
 93 |
 94 |
 95 |
|  96 |
 97 |
 98 |
 99 |
 100 |
 
|  51 |
 52 |
 53 |
 54 |
 55 |
|  56 |
 57 |
 58 |
 59 |
 60 |
|  61 |
 62 |
 63 |
 64 |
 65 |
|  66 |
 67 |
 68 |
 69 |
 70 |
|  71 |
 72 |
 73 |
 74 |
 75 |
|  76 |
 77 |
 78 |
 79 |
 80 |
|  81 |
 82 |
 83 |
 84 |
 85 |
|  86 |
 87 |
 88 |
 89 |
 90 |
|  91 |
 92 |
 93 |
 94 |
 95 |
|  96 |
 97 |
 98 |
 99 |
 100 |
 
Netadong.com thiết kế