VÀI CHI TIẾT VỀ KỲ HỌP NGÀY 11/01/2014 CỦA CÂU LẠC BỘ SÁCH XƯA & NAY Như thường lệ, Dịch giả Vũ Anh Tuấn đã giới thiệu với các thành viên 3 cuốn sách, l cuốn sách cổ bằng Pháp văn và 2 cuốn sách mới bằng Việt văn. Cuốn sách cổ mang tựa đề là Nước Pháp và các Thuộc Địa của Pháp (La France et ses Colonies). Cuốn sách khổ 21x28cm, dày 586 trang được in năm 1889 (125 năm trước) là một cuốn sách mô tả các thuộc địa của Pháp vào thời đó, trong đó có phần nói tới Đông Dương, tức là có nói tới Việt Nam, nhưng chỉ có từ trang 441 tới trang 499 (58 trang), tuy nhiên có một số hình vẽ về Việt Nam bằng bút sắt khá đẹp. Chủ yếu cuốn này nói về Algérie, Soudan, Madagascar vv… Cuốn sách này chứng tỏ là vào năm sách được in, nước ta là một trong ba nước ở Đông Dương và chỉ là một thuộc địa không mấy quan trọng của Pháp. Từ thân phận đó cho tới địa vị hiện tại của chúng ta, khiến ta phải nhớ và biết ơn biết bao tiền nhân đã đấu tranh, đã hiến dâng xương máu cho quê hương để có ngày nay. Cuốn sách còn ở tình trạng rất tốt và có thể được chơi như một cổ thư vì đã 125 tuổi đời. Cuốn sách Việt thứ nhất được giới thiệu là một cuốn sách mà Dịch giả Vũ Anh Tuấn được tác giả Huệ Thiên tặng 10 năm trước vào năm 2004 và mang tựa đề là Những Tiếng Trống Qua Cửa Các Nhà Sấm. Tác giả Huệ Thiên chính là nhà báo An Chi, người phụ trách mục Chuyện Đông Chuyện Tây của tờ Kiến Thức Ngày Nay. Trong cuốn sách này tác giả giải đáp và đưa ý kiến về nhiều điều mà các độc giả thắc mắc và viết thơ hỏi ông trên tờ Kiến Thức Ngày Nay, ví dụ như Hùng Vương hay Lạc Vương, Từ nguyên của “bù nhìn”, Hợi và Heo vân… vân… Cuốn sách thứ ba là một cuốn sách của nhà nghiên cứu, nhà Kiều học Phạm Đan Quế, hôm nay cũng có mặt tham dự phiên họp, vừa tặng Dịch giả Vũ Anh Tuấn. Cuốn sách mang tựa đề là Thế Giới Nghệ Thuật Truyện Kiều. Sách khổ 17x25cm, dày 628 trang, bìa cứng được in thật trang nhã, với một nội dung rất phong phú, hấp dẫn. Tác giả nói về những đề tài như: Nghệ thuật kể chuyện của Nguyễn Du, Thiên Nhiên trong truyện Kiều, Điển Cố trong truyện Kiều, Hư từ trong truyện Kiều vân… vân… Nhìn cuốn sách người viết thấy mừng cho nhà Kiều học Phạm Đan Quế vì ông quả đã có những tác phẩm đáng kể để đánh dấu chuyến du hành 100 năm qua cuộc đời này, hơn hẳn nhiều kẻ tiền rừng bạc biển mà lại chẳng có gì để lại cho đời! Sau phần giới thiệu sách, nhà Kiều học Phạm Đan Quế đã giới thiệu cuốn sách của ông và kể về cách đọc một bài thơ Kiều bằng trên 1728 cách đọc, thật là độc đáo, tuy nhiên ai để tâm theo dõi cũng phải nói là… hơi mệt! Tiếp lời nhà Kiều học Phạm Đan Quế, ông Bá Khoát, chủ nhân Vườn Kiều cũng lên kể tiếp nhiều chuyện hấp dẫn liên quan tới Kiều. Thực là một sự tình cờ tuyệt vời khi nhà Kiều học Phạm Đan Quế lại gặp ông Chủ Vườn Kiều trong cùng một phiên họp tất niên của CLB Sách Xưa và Nay. Trong lúc ông Bá Khoát nói, nhà thơ Thiếu Khanh có thắc mắc về việc Cụ Nguyễn Du có thật là người tình của Hồ Xuân Hương không? Ông Bá Khoát trả lời là ông căn cứ vào một tài liệu của nhà nghiên cứu quá cố Hoàng Xuân Hãn. Kế đó anh Lê Nguyên ngâm tặng các thành viên bài thơ Tuổi Trốn Đâu Rồi? Nhà thơ Ngàn Phương cho biết là trong Truyện Kiều hai chữ Xuân và Hương được nhắc tới tới 60 lần. Kế đó anh Thanh Châu hát tặng các thành viên bài Đón Xuân của Phạm Đình Chương. Tiếp lời anh Thanh Châu, anh Phạm Vũ lên nói về bài thơ Đôi Mắt Người Sơn Tây của Quang Dũng Nữ sĩ Lan Hinh, ái nữ cụ Á Nam Trần Tuấn Khải lên ngâm tặng các thành viên bài thơ Trước Mùa Xuân của anh Lê Nguyên. Buổi họp kết thúc lúc 11 giờ 15 phút và toàn thể các thành viên ra ba bàn tiệc để cùng nhau ăn Tất Niên, qua một bữa tiệc kéo dài gần hai giờ đồng hồ, và sau đó mọi người vui vẻ ra về sau khi đã thân ái chúc Tết lẫn cho nhau… Vũ Thư Hữu ĐẦU NĂM LƯỢM ĐƯỢC VÀNG Sáng mùng 6 Tết, sau khi ăn điểm tâm, tôi muốn về thẳng nhà và không ghé tiệm sách của anh bạn tôi như mọi khi, nhưng trước khi tới cửa, tôi bỗng có linh cảm là rất có thể có cái gì hay hay đợi tôi ở quán sách, và rồi tôi lại thẳng tiến thêm 600 mét, để ghé tiệm sách mà tôi tự đặt tên cho là Mãn Nhãn Lâu, nằm trên đường Trần Huy Liệu. Tới nơi tôi thấy chị chủ tiệm đang ngồi giữa nhiều chồng sách để la liệt chung quanh. Thì ra chị đang dọn dẹp lại những thứ sách tầm thường, mà chị thường bày ở kệ dưới thấp. Cặp mắt chuyên “tầm thư” của tôi đụng ngay một cuốn sách nhỏ nằm ở trên cùng một chồng sách. Cuốn sách có cái bìa rất lạ: đó là một tượng đá có hai bàn tay chắp vào nhau một cách hời hợt, và ngay ở trên là tên một người Pháp mà tôi biết: Henri Guillot, một Giáo Sư dạy tại một Trường Thực Nghiệp ở Courbevoie bên Pháp. Nhìn cuốn sách tôi biết ngay là cái bìa là do chủ sách làm lấy, chứ làm gì có nhà xuất bản nào trình bày bìa kiểu kỳ cục như vậy. Cầm cuốn sách lên tôi thấy rõ là mình đã nghĩ đúng vì cái ảnh tượng đá được dán đè lên bìa cuốn sách, và trên gáy sách tôi thấy người chủ sách, có chữ viết rất đẹp, đã viết tên ba cuốn sách mà ông ta đóng dính vào nhau. Đó là ba cuốn: Tiểu Tự Điển Những Từ Khó (Petit Dictionnaire des Mots Difficiles), Những Câu Nên Nói – Những Câu Không Nên Nói (Ce qu’il faut dire – Ce qu’il ne faut pas dire), và Những Điều Cần Biết (Ce qu’il faut savoir). Cả ba cuốn đều được in năm 1937 (năm sinh trên giấy tờ của tôi), một sự trùng hợp tình cờ mà thích thú, và điều mà tôi thích nhất là đây chính là những cuốn sách tôi đã gặp tại nhà Bác Lê, trong một lần ghé thăm khi Bác ở đường Kỳ Đồng hồi trước 75. Và điều đáng thích hơn nữa là khi hỏi giá chị bạn tôi trả lời tỉnh bơ: “10 ngàn”; ôi, thực là trên cả tuyệt vời, và tôi bỗng cảm thấy như là mình vừa trúng số khi có cả một kho tàng trí thức liên quan tới thứ ngoại ngữ mà tôi được học từ bé và yêu thích, mà chỉ phải chi có 10 đô mít (bằng giá hai tờ báo ngày). Về đến nhà, tôi bỏ hết các việc khác và dành ngay những giờ phút đầu tiên cho ba cuốn sách. Chủ nhân có dán nhiều hình (mà chắc ông thích) và có ký tên là Lê Văn Lý. Tôi không được hân hạnh được biết ông là ai, ở đâu, làm gì, nhưng điều tôi biết chắc, và có thể đoan chắc với ông, là tôi sẽ săn sóc cuốn sách kỹ không kém ông, và cuốn sách của ông lưu lạc và đến với tôi là đến đúng chỗ nhất, là gặp người đáng thay ông giữ nó nhất. Tôi xin giới thiệu qua loa rơ măng về nội dung 3 cuốn sách: A.- Cuốn trên cùng là cuốn Tiểu Tự Điển Những Chữ Khó. Với cuốn này tôi tìm thấy những chữ không có trong một vài tự điển Pháp Việt mà tôi có như động từ Embobeliner có nghĩa là dụ dỗ bằng lời lẽ ngọt ngào (Tự Điển Pháp Việt của Thanh Nghị không có động từ này) – Từ Nautonier có nghĩa là người lái tàu nhưng phần lớn chỉ dùng trong thi ca (Tự điển Pháp-Việt của Viện Khoa Học Xã Hội là một cuốn thật hay, thật đủ, nhưng cũng không ghi chi tiết là từ này phần lớn chỉ dùng trong thi ca), tóm lại với một cuốn tự điển tốt thì những từ khó này hầu như đều được giải nghĩa cả tuy nhiên cuốn sách nhỏ bé này có cái hay là gom tất cả những từ khó đó lại một chỗ để người đọc, hay là người học, gặp được chúng. B.- Cuốn thứ nhì tôi thấy khoái hơn vì nó như một thứ sách dạy thêm cho người đọc những gì mà nhà trường không dạy để bổ túc cho những gì ta đã học được ở học đường. Xin nêu dưới đây một vài thí dụ: 1.- Nếu khi sang Pháp bạn hỏi một ai đó là anh ta học ở đâu, bạn có thể nghe thấy anh ta trả lời: “J’ai visité le Lycée Kléber”, hoặc bạn có thể nghe một người cha khoe con mình học ở Trường Thương Mại nói: “Mon fils visite l’École Pratique de Commerce”, động từ visiter là không đúng và không nên nói, vì động từ đúng và nên dùng là fréquenter, do đó những câu trả lời đúng phải là “J’ai fréquenté le Lycée Kléber” và “Mon fils fréquente l’École Pratique de Commerce”. 2.- Đừng nói là: “Mon frère est en Japon – en Maroc” mà phải nói là: “Mon frère est au Japon – au Maroc”. 3.- Đừng viết là: “Je m’éfforcerai...”(Tôi sẽ cố gắng…) mà phải viết đúng là: “Je m’efforcerai…” vì chữ e được theo sau bởi hai chữ f không bao giờ có dấu sắc. Đại khái là cuốn sách nhỏ này chỉ cho người học cách viết đúng tiếng Pháp qua 116 trường hợp, và nó thật là thích thú với người yêu thích Pháp văn như tôi. C.- Cuốn thứ ba “Những Điều Cần Biết” gồm 200 đặc ngữ và ngạn ngữ Pháp, ví dụ Kẻ không làm gì cả hoặc làm một việc vô bổ (Celui qui ne fait rien ou qui se livre à une vaine occupation) thì là Celui qui se tourne les pouces hoặc Kẻ giàu sụ và là nhân vật quan trọng thì được gọi là: “C’est un Pérou”, còn ngược lại kẻ không quan trọng thì được coi là: “Ce n’est pas le Pérou”… Tóm lại ba cuốn sách nhỏ này rất quý với những người yêu thích tiếng Pháp như tôi, và tôi đã tự cho là mình may mắn, vì đầu năm ra phố đã… lượm được vàng! Trích Hồi ký 60 năm chơi sách, chương VI Vũ Anh Tuấn
CÓ MỘT CUỐN SÁCH NHƯ THẾ ĐÓ QUYỂN HẠ (TAM TẬP) HƯƠNG THÁNH KINH (Tiếp theo) 9- Báo KTNN số 33 ngày 15/04/90, trang 78: Tín ngưỡng và vấn đề tiết dục – "Khi Kitô giáo xuất hiện, những tục lệ thờ cúng dã man ấy bị xóa bỏ dần (tục lệ xẻo, thiến để xứng đáng làm việc tế tự). Tuy vậy một số tín đồ Kitô giáo quá hăng với những giáo điều kêu gọi tiết dục đã vội tự thiến… đến nỗi Giáo Hội phải lên tiếng nhiều lần dọa dứt phép thông công những tu sĩ nào hiểu sai Thánh Kinh mà cố dứt bỏ cơ quan sinh dục của mình…" (Vũ Hạnh). § "Dứt phép thông công" là hình phạt loại trừ ra khỏi Giáo Hội. 10- Báo KTNN số 36 ngày 1/6/1990, trang 34-37: + Copernic người đã đặt địa cầu vào quỹ đạo. "Nicolas Copernic sinh tại Torun, Ba Lan ngày 19/2/1472, mất 24/5/1543. Nhà thiên văn học với 3 dụng cụ tự chế: một dụng cụ đo độ cho các ngôi sao, một để đo độ cho kinh tuyến mặt trời và một "cây gậy Jacop", loại thước có con trượt để ước chừng… (Robert Strother, Reader's digest – Minh Huy lược dịch). § "Abraham sinh Isaac, Isaac sinh Jacop" (Mt 1,2). 11- Báo KTNN số 43 tháng 8/1990: + Trang 50: Evà là người da đen? "Con người từ đâu đến, hiện đang ở đâu và sẽ đi về đâu? Câu hỏi vẫn còn treo lơ lửng và trở nên một thách đố đối với con người hiện tại… Con người đầu tiên có phải sinh ra ở châu Phi? Giáo sư Gérard Lucotte đã xác nhận điều đó trong cuốn sách vừa được xuất bản của ông… Người ta tìm thấy cái nôi của loài người – vườn Eden trong Kinh Thánh – nằm ở phía Tây của miền Trung châu Phi… (Nguyễn Thanh Liêm – theo Nouvel Obs, 6/90). § "Eden tức là vườn địa đàng" (St 2,8). + Vanessa Paradis sinh 22/12/1972, sự nghiệp lẫy lừng trong giới kinh doanh biểu diễn trẻ, không ai qua mặt được cô. 16 tuổi đã thành công với những ca khúc như Joe le Taxi, Marilyn et John, Mosquito… Cô đã đoạt giải thưởng được bình chọn là ca sĩ trẻ xuất sắc nhất năm 1989, giành giải thưởng chiến thắng của âm nhạc (Victores de la musique) tháng 2/1990. Chỉ với một vai trong phim đầu tiên Noces blanches cô đoạt giải điện ảnh Romy Schneider và giải César dành cho nữ diễn viên triển vọng nhất – Có lẽ vì tài nghệ tuyệt vời đó người ta đã thêm vào tên Vanessa từ đệm Paradis, nghĩa là Thiên đàng (Hồng Anh, theo Cool Graffili). § Paradis đồng nghĩa với Eden. 12- Báo KTNN số 46 ngày 15/10/90, trang 30-31: "Những bút tích vô giá": "… Người ta được gặp ở đây bài thơ cổ nhất viết bằng tiếng Pháp (thế kỷ IX) và Hồi ức của Louis XIV do chính tay nhà vua viết, cũng như các bản thảo của bà Sévigné, Chateaubriand, Hugo, Flaubert, Balzac, Jules Verne, bản nhạc Requiem của Berlioz, các ghi chép của Proust, Claudel, Camus, Malraux, Sartre, De Gaulle…" § Requiem là bản hát lễ Cầu hồn của đạo Công giáo. 13- Báo KTNN số 50 ngày 15/12/90, trang 16-20: "Tòa Thánh Vatican từ A đến Z" (Phạm Vũ Lửa Hạ, tổng hợp tài liệu nước ngoài). § Vatican là thủ đô của nước Vatican và là đầu não của Giáo Hội Công giáo hoàn vũ. 14- Báo KTNN số 51 ngày 1/1/1991: + Trang 16, truyện ngắn: Cô Bé Bán Diêm của Hans Christian Andersen (1805-1875), nhà văn Đan Mạch: "Cô bé đánh 1 que diêm khác và lần này cô thấy mình đang ngồi trước một cây Noël tuyệt đẹp. Cây Noël này lớn và lộng lẫy hơn cây Noël trong lễ Giáng Sinh năm ngoái… Bà cô kể cho cô rằng khi có một vì sao rơi ắt có một linh hồn bay lên thiên đàng… (cô bé chết cóng) đã cùng bà yêu dấu bước vào một năm mới tràn ngập hạnh phúc (trên thiên đàng) [Vương Trung Hiếu dịch]. + Trang 18-21: Nguồn gốc các phong tục Giáng Sinh ngày nay: Cây thông Giáng Sinh, Máng cỏ, Ông già Noël (Hà Lan). + Trang 37: Danh ngôn: "Thiên đàng đối với tôi cũng không phải Thiên đàng nữa, nếu tôi không gặp vợ tôi trên đó" (Andrew Jackson). 15- Báo KTNN số 53 ngày 1/2/1991, trang 84: "Những chàng Ađam ngày nay" (Nguyễn Hữu Đoàn lược dịch theo Fur Dich 23/90). 16- Báo KTNN số 69 ngày 1/10/91, trang 35: "Còn hơn cả tóc Samson" (Lê Tân dịch từ Weekly World News 18/6/1991). § Samson có sức mạnh vô địch Chúa ban nhờ bộ tóc dài (sách Thủ Lãnh đoạn 13-17). 17- Báo KTNN số 76 ngày 15/1/92, trang 40: "Tù nhân của một khu vườn Thiên đường", nói về đảo Siberut tây nam Sumatra, nơi đây có rừng nguyên sinh và đời sống hoang dã của những bộ tộc gần như nguyên thủy, hiện "Thiên đường" vẫn được nhà nước bảo vệ… (Diệu Ly theo "Vòng quanh thế giới"). 18- Báo KTNN số 89 ngày 1/8/1992, trang bìa 4: Tranh thánh Sébastien với câu hỏi : "Có đúng bức tranh thánh Sébastien đặt ở Bernadino là của Pinturisso (1454-1513)?". § Thánh Sébastien là sĩ quan Roma, sinh tại Narbonne, chịu tử vì đạo tại Roma vào thế kỷ 3. 19- Báo Phụ Nữ số 1 tháng 11/1993, trang 11: "Đàn ông đang là cái xương sườn của đàn bà?" (Ánh Xuân). § Gợi nhớ câu chuyện Đức Chúa lấy xương sườn cụt của ông Ađam để dựng nên bà Evà (St 2, 18-25). 20- Báo Phụ Nữ tháng 1/1994, trang 12: "Lời nguyện đầu năm…" (thơ của Phạm Vũ): "… Xin cho mái tóc em Đừng buông xõa Mảnh xô gai trắng xóa cuộc đời… Anh gởi em một đức tin Rồi sẽ có Ngu ngơ hoài Lời nguyện: Xin cho … § Đức tin là một trong ba nhân đức đối thần, đức trụ của Thiên Chúa giáo. 21- Báo KTNN số 154 ngày 20/10/1994: + Trang 47: chuyên mục Chuyện Đông Chuyện Tây An Chi đã trả lời Vũ Thiện Hảo về từ mạc khải và mặc khải (đặc ngữ của Thánh Kinh), và nhắc tới Ban Giáo sư Đại Chủng viện Bùi chu đã biên soạn quyển "Danh từ thần học và triết học" (Trí Đức Thư Xã Hà Nội, 1953) đã sử dụng: mạc khải. § Mạc khải: cụm từ đặc biệt của thần học Thánh Kinh, nghĩa là mở ra những điều huyền bí + Trang 84: "Bikini, hòn đảo thiên đàng biến thành địa ngục" – 1946 chính phủ Mỹ đã quyết định biến đảo Bikini (nằm ở khoảng giữa Hawai và Úc) thành địa điểm thử nghiệm bom nguyên tử (Ninh Luân). 22- Báo Phụ Nữ số 2/1994: + Trang 30 quảng cáo "Eden tourist", tổ chức các tuyến du lịch xuyên Việt, cho thuê xe và hướng dẫn dịch vụ visa, giữ chỗ và đặt phòng khách sạn. § Eden là vườn Địa Đàng trong Kinh Thánh Cựu Ước. + Trang 24, TT giới thiệu: Đặt bánh Bûche Noël ở đâu? 23- Báo Phụ Nữ số 12/1994, trang 8: + Mục nhìn ra thế giới: "Bangladesh – Án tử hình trung cổ dành cho phụ nữ đòi bình đẳng": Các thế lực thủ cựu đánh vào phụ nữ Bangladesh – "Hồi năm ngoái cô Noorjehan 22 tuổi đã bị chôn đến thắt lưng trong một cái hố và sau đó bị ném đá 101 lần… do vị giáo sĩ trong làng chống lại góa phụ này bằng phán quyết: Hôn nhân thứ hai của cô bất hợp pháp…" (Trương Hiền, theo AsiaWeek 26/10/1994). § Hình phạt ném đá xuất phát từ luật của Thánh Kinh Cựu Ước: Lv 24,14 (Chúa Giêsu đã bãi bỏ luật này). + Mục giới thiệu: Noël 94 bạn gái sẽ mặc gì? Thiệp Noël giá bao nhiêu? (Thu Hà). 24- Báo KTNN số 192 ngày 20/11/95, bìa 4: Thắng cảnh Na Uy – Hình một ngôi Nhà thờ cổ bằng gỗ có rất nhiều mái và có 3 tháp nhọn gắn Thánh giá. § Nhà thờ (Đền thánh, Thánh điện…): "Ta cùng trẩy lên Đền thánh Chúa" (Tv 121,1). § Thánh giá: dấu hiệu cứu chuộc của Chúa Giêsu: "Chúng điệu Người đi đóng đinh vào Thập giá" (Mt 27,31). 25- Báo Phụ Nữ số 20 từ 20/11 – 30/11/1995, mục quảng cáo mỹ phẩm cao cấp Angela (176 Lý Tự Trọng, quận 1, Tp.HCM): "Đến với Angêla các bạn sẽ có được một làn da tươi trẻ…". § Angela là Thiên thần. 26- Báo Phụ Nữ số 22 từ 10/12 – 20/12/1995, mục giới thiệu: "Vài món ăn cho đêm Giáng Sinh" – Bánh Noël, bánh trái bơm (Khánh Vương). 27- Người Đưa Tin UNESCO số 2/1994, trang 16: "Khi kể lại mẩu chuyện về tháp Babel trong Kinh Thánh, người viết Peter Muhlhausler muốn biến việc Chúa Trời trừng phạt bằng cách làm rối loạn tiếng nói chung thành một sự an bài tốt đẹp". § Tháp Babel: St 11. Lm. Jos.Nguyễn Hữu Triết (Còn tiếp) TẠI SAO ĐẠO PHẬT DÙNG HOA SEN LÀM BIỂU TƯỢNG?
Mọi người đã quá quen thuộc với hình ảnh PHẬT ngồi trên Đài Sen. Chùa chiền, Kinh sách thì hình ảnh trang trí cũng dùng Hoa Sen cách điệu. Thậm chí Ngài Ca Diếp sở dĩ được Truyền Y Bát cũng chỉ vì Ngài nở nụ cười khi nhìn thấy Cành Sen mà Đức Phật đưa lên trước chúng. Tại sao Đức Thích Ca không dùng những loài hoa khác, sang trọng hơn, quý phái hơn, đài các hơn để làm biểu tượng, mà lại dùng một loài hoa tầm thường, suốt kiếp sống trong bùn nhơ? Điều đó nói lên ý nghĩa nào mà người Phật Tử cần thực hành theo chăng? Có khi nào chúng ta thắc mắc hay cho là Đạo Phật đã được gọi là Chân Lý thì việc của Phật làm cái gì mà chẳng hay, chẳng đúng, ta cứ thế mà ngưỡng mộ, xưng tán thì cũng được phước rồi? Theo tôi, có lẽ việc gì hay câu nói nào của Đạo Phật cũng có điều để cho ta chiêm nghiệm - nhất là những người muốn tu hành, theo Đạo Phật - vì cho tới thời nay thì chúng ta đã bị “nhiễu thông tin” quá nhiều. Nếu không tự mình để chút thì giờ tìm hiểu thì có khi cái Đạo Phật mà ta đang tin tưởng, đang hành trì theo không còn phải là Đạo Phật chân chính, mà đã bị thời gian, bị những người do Tin mà không Hiểu, nên đã pha vào đó đủ thứ sắc màu của Dị Giáo, Thần Giáo, rồi cứ thế mà truyền từ đời nọ sang đời kia, để tới thời này, theo những gì mà chúng ta nhìn thấy, thì rõ ràng Đạo Phật không còn là CON ĐƯỜNG GIẢI THOÁT nữa, mà đã biến thành Thần Giáo tôn thờ đấng sáng lập. Tín đồ ngày ngày nhang khói van vái, cầu xin, nương tựa, không khác gì những tôn giáo khác. Như chúng ta đã biết, mỗi từ của Đạo Phật ngoài Ngữ còn có Nghĩa, như Xuất Gia, Cạo tóc, Đắp Y vv… đã đề cập nơi nhiều bài trước đây. Hình ảnh Phật ngự trên Đài Sen cũng vậy. Không chỉ đơn thuần là biểu tượng để chúng ta tạc lấy để thờ, mà đó là hình ảnh tượng trưng cho sự thành tựu của công việc Giải Thoát. Phật không phải là một vị Thần Linh, quyền phép vô song, cứu nhân độ thế, mà Kinh đã giải thích rõ: Đó là sự tổng hợp của những pháp lành mà mỗi công việc tượng trưng cho 1 bộ phận như: tay, chân, mắt, tóc, răng vv... họp thành 32 tướng tốt của Phật được ghi rõ trong Kinh ĐẠI PHƯƠNG TIỆN PHẬT BÁO ÂN. Kinh Kim Cang cũng viết rất rõ: “Phật là vô tướng, do vô lượng công đức mà thành”. Vì vậy, muốn “Đúc hình, tạc tượng” Phật đúng chánh pháp, thì Tổ Đạt Ma dạy: Nói “đúc hình tạc tượng”, tức đó là tất cả chúng sanh cầu Phật đạo cần tu các giác hạnh, phỏng theo chân dung diệu tướng của Như Lai, há phải đâu chỉ là việc đúc vàng tạc đồng tầm thường vậy thôi ru. Bởi vậy, người cầu đạo Giải Thoát phải lấy Thân Mình làm lò, lấy Pháp làm lửa, lấy Trí Huệ làm tay thợ khéo, lấy Ba Giới Tu Tịnh, Sáu Ba La Mật là khuôn phép, nấu chảy, và rèn đúc chất Chân Như Phật Tánh ở trong Tâm cho thấm nhập tất cả hình thức Giới Luật, y lời đó mà vâng làm, mỗi mỗi không hở sót, thì tự nhiên thành tựu hình tướng chân dung. Hình tướng đó đích thực là pháp thân thường trụ, vi diệu và cùng tột, há phải là pháp hữu vi hư đốn sao? Người cầu đạo mà không hiểu nghĩa việc đúc tạc chân dung như vậy thì còn bằng vào đâu mà mở miệng nói Công Đức?” Nhiều người cho rằng muốn tu Phật thì phải sang Ấn Độ, tìm đúng nơi Phật đã đắc đạo ngày xưa. Chí ít là phải vô Chùa, hoặc cất Am hay Cốc. Nhưng rõ ràng đó cũng là làm theo văn tự, vì dù ở Chùa hay Am, Cốc mà không biết đường lối tu hành thì cũng vô ích mà thôi. Mặt khác, dù ta có sang tận Ấn Độ hay đến Tây Tạng, nhưng đã chắc gì gặp được Chân Minh Sư? Bây giờ ở đâu cũng có thể gặp người thuyết pháp. Chỉ cần thuộc vài bài Kinh cũng có thể mang ra giảng được. Lại còn Đốn Giáo, Tiệm Giáo, ai cũng nói mình mới đúng là Chánh Đạo, người mới phát tâm làm sao phân biệt đúng, sai, chánh, tà? Trong khi đó, chúng ta đã có sẵn cả kho Chính Kinh, chỉ cần dò tìm nơi đó là chắc chắn nhất. Nếu có đọc Kinh, chúng ta thấy trong đó Phật dặn dò: Có hai nơi mà tất cả người tu cần biết để TU, SỬA. Không phải ở Chùa, ở Cốc, mà là ở chính THÂN và TÂM của mỗi người mà Kinh dạy là: THÂN GIỚI, TÂM HUỆ. Tu ở đó thì chắc chắn sẽ thành công. Đọc sáu Cửa Vào Động Thiếu Thất, ta thấy Tổ Đạt Ma dạy: Hỏi: Nếu có người dốc lòng cầu đạo thì nên tu theo pháp nào mới thực là cực kỳ tỉnh yếu? Đáp: Chỉ một pháp quán tâm thâu nhiếp trọn các pháp mới thực là cực kỳ tỉnh yếu. Hỏi: Sao một pháp nhiếp trọn các pháp được? Đáp: Tâm là gốc của muôn pháp. Tất cả các pháp duy một Tâm sanh. Nếu hiểu được Tâm ắt muôn pháp sẵn đủ trong đó, cũng ví như cây lớn có đủ cành nhánh, trái, bông, nhưng tất cả đều do một gốc sanh ra. Nếu chặt gốc ắt cây chết. Nếu hiểu Tâm tu đạo ắt được tỉnh lực nên dễ thành. Không hiểu Tâm mà tu đạo ắt nhọc công vô ích. Mới biết tất cả việc lành, dữ đều do tự Tâm. Cầu gì khác ở ngoài Tâm, rốt không đâu có được ”. Vì sao cần phải TU THÂN, TU TÂM. Liên quan gì đến Hoa Sen? Con người tạo Nghiệp, gây tội, rồi triền miên trong Sinh Tử Luân Hồi cũng ở nơi cái Thân này, Tâm này. Mà tu hành, Thành Phật cũng xuất phát từ cái THÂN HÔI NHƠ này. Gây Họa cũng ở đó, mà làm Phúc cũng ở đó. Vì thế, Phật so sánh nó như là Bùn, là dưỡng chất để nuôi dưỡng cho Hoa Sen. Không có Bùn thì Sen không thể sống, không thể đơm bông, cũng như không có cái Thân thì không thể học hỏi, tu hành được. Trong tất cả các loài hoa, không có loài nào có được tính cách như Hoa Sen, vì thế nên Đức Thích Ca dùng nó để làm biểu tượng. Cũng giống như Hoa Sen, cho đến khi tàn lụi cũng không rời Bùn. Người tu hành xuất phát từ trong cái Thân đầy tội lỗi, ô trược, nhưng khi thành tựu rồi, thì cũng vẫn sống chung với nó cho đến khi nó hết Duyên, hết Nghiệp, không rời bỏ nó. Điều đó phù hợp với Bài Kệ của Lục Tổ Huệ Năng: “Phật Pháp tại thế gian Bất ly thế gian giác Ly thế mịch Bồ Đề Cáp như cầm thố giác.” Có nghĩa là “Pháp Giải Thoát phải ở tại trần gian. Không thể rời trần gian mà giác ngộ. Rời trần gian để tìm Bồ Đề thì cũng như tìm sừng thỏ”. Trần gian không phải chỉ nói riêng về xã hội với muôn vàn người tốt có xấu có, vì thật ra, trần gian dù có xấu bao nhiêu đi nữa cũng không ảnh hưởng đến người tu, mà chính là cái THÂN với đầy dẫy đau khổ, phiền não, mà người nào chiều theo sự lôi cuốn của nó gọi là VÔ MINH thì sẽ triền miên trong vòng Sinh tử Luân Hồi. Người tu hành theo Đạo Phật, đi tìm cái TRÍ HUỆ để biết được con đường phải đi, những việc phải hành trì, để được trang bị khả năng Thoát Phiền Não ngay trong Phiền Não. Thoát Phàm ngay chính trong Phàm, không phải để trốn chạy vào non cao, động vắng, tránh tiếp xúc với thế nhân, hay xây tường rào che chắn cho phiền não không đụng tới. Thoát được Phiền Não có một nghĩa khác là Thành Phật. Thành Phật cũng chỉ có một nghĩa là Thoát Phiền Não mà thôi, không phải là thành một vị Thần Linh, như mục đích của Đạo Phật được nói rõ trong Phật Ngôn: “Nếu không vì cái Sanh, Cái Già, Bệnh, Chết, thì Đức Như Lai cũng chẳng giáng trần để làm gì, và Phật Pháp cũng không có cơ hội rải tủa ánh sáng chân lý đến với thế gian”. Và “Như biển cả chỉ có một vị mặn. Giáo pháp của ta cũng chỉ có một vị là Giải Thoát mà thôi”. Nhưng nếu tu hành gian khổ mà không được gì hết thì liệu có xứng cho ta bỏ cả một đời, chịu thiệt thòi đủ thứ, không được ăn, mặc, không được hưởng thụ, lại phải Giữ Giới, kềm cái Tâm, câu thúc cái Thân? Còn Tây Phương Cực Lạc, Đông Phương Tịnh Quốc, Niết Bàn vv... thì có nghĩa gì? Theo Đức Thích Ca quan sát, cái Thân mỗi người chỉ là một túi da, đựng đống xương, thịt, tim, gan, phèo, phổi, lông, tóc… hôi nhơ, tồn tại tối đa là trăm năm. Trong đó, đối phó với bệnh hoạn, với nghịch cảnh cũng đã mỏi mòn. Đã có THÂN là có những nỗi Khổ kèm theo đó: Nào là SINH, LÃO, BỆNH, TỬ, nào là người thương thì phải xa, kẻ oán ghét cứ phải gặp, cầu mong không được… làm cho Thân, Tâm không lúc nào được an vui. Đã vậy mà con người cũng chưa chịu dừng lại. Còn đi tranh giành, tàn sát lẫn nhau. Cuộc đời sở dĩ hỗn loạn. Nước này tranh chấp với nước kia. Láng giềng xô xát với nhau. Gia đình bất hòa. Anh em nồi da nấu thịt, cũng chỉ vì chút vật chất cho cái Thân hưởng thụ! Nhưng đôi khi đấu tranh chật vật như thế, giành được chút tiền của, vật chất rồi, chưa kịp hưởng thụ thì thần chết đã lù lù đứng bên giường. Có hối cũng không còn kịp. Do đó, những ai có chút suy nghĩ, thấy lời Phật dạy là hữu lý thì thử theo hướng dẫn mà quan sát tất cả các pháp, từ Thân, đến Tâm của mình, kể cả ngoại cảnh, xem Đạo Phật nói nó là giả tạm có đúng hay không? Nếu thấy đúng thì dùng những phương tiện của Đức Thích Ca hướng dẫn mà thực hành theo đó, thì sẽ có kết quả là được Thoát Khổ như lời Phật đã hứa. Niết Bàn hay các Nước Phật Đông Phương, Tây Phương có nghĩa như sau: Sở dĩ con người lao tâm, khổ trí là cũng vì quá ham muốn, tìm cầu. Có rồi muốn có thêm. Bao nhiêu cũng không đủ. Do đó, muốn được an vui, hạnh phúc thì phải ngừng tìm cầu. Nhưng vật chất quá hấp dẫn, dễ gì chì vì tin lời Phật mà chịu ngưng suông nếu không có một viễn cảnh nào đó tốt đẹp hơn hiện tại. Do vậy mà Đức Thích Ca phải dùng phương tiện. Người đời thường tranh nhau những món quý là: vàng, ngọc, châu báu… gọi là Bảy Báu. Họ sẵn sàng giết nhau, lừa nhau để đạt được, đôi khi bất chấp nhân nghĩa, đạo lý! Muốn cho họ bớt đi tham đắm vật chất rồi cuộc sống bất ổn, Đức Thích Ca đã mô tả một cõi Tây Phương Cực Lạc với “Vàng, bạc, pha lê trải thành thềm, đường ở bốn bên ao. Trên thềm đường có lầu, gác cũng đều nghiêm sức bằng vàng, bạc, lưu ly, pha lê, xa cừ, Xích châu, mã não. Trong cõi Cực Lạc có Bảy từng bao lơn. Bảy từng hàng cây, đều bằng bốn chất báu bao bọc giáp vòng”. Mục đích là dùng một cảnh khác tốt đẹp hơn, để con người mơ về đó mà rời bỏ những thứ giả tạm, không còn tranh giành nhau, để cuộc sống tất cả được an vui. Thế rồi nhiều người dừng ở đó, bám lấy đoạn Kinh đó, cho đó là thật, rồi bỏ hết mọi thứ trần gian. Bỏ cả trách nhiệm của một kiếp làm người, ngày đêm chỉ mơ màng về Tây Phương Cực Lạc, không đọc tiếp Kinh để thấy đó là Phương Tiện của Phật. (Xin mở một ngoặc nhỏ để giải thích tại sao “Cõi Cực Lạc lại có Bảy từng bao lơn, Bảy từng hàng cây. Ao nước chứa Tám công đức”. Phật dùng con số 7, vì là trong Thân mọi người thường tạo 7 Nghiệp. Ba Nghiệp của Thân là THAN, SÂN và SI. 4 Nghiệp của Khẩu là Nói dối. Nói lưỡi hai chiều. Nói để hại người. Nói để kiêu mạn. Bỏ đi những Nghiệp xấu này thì Phật ví như tích lũy được Bảy Món Báu. “Ao nước chứa Tám Công Đức” đó là Bát Chánh Đạo mà người tu nào cũng phải đi trong đó. Thực hành đủ 8 con đường Chánh này thì gọi là có Tám công đức). Nhưng như thế chẳng lẽ Đức Phật Thích Ca dối gạt mọi người? Đức Thích Ca không hề dối gạt chúng ta, bởi cuộc sống giàu sang, vàng bạc đầy nhà mà làm gì nếu không có hạnh phúc, an vui? Nghĩa của NIẾT BÀN là “Ra khỏi rừng mê”, hay là “ra khỏi rừng phiền não”. Người sống giữa các pháp mà không bị làm cho đau khổ, phiền não thì người đó đã đạt tới cảnh Niết Bàn tại thế, gọi là Hữu Dư Y Niết Bàn. Người dừng lại, không chạy theo danh vọng, vật chất, không còn hại nhau, tàn sát nhau, mà cái Tâm luôn an vui, hạnh phúc, không còn tìm cầu, khao khát, Phật gọi là tìm được viên NHƯ Ý BỬU CHÂU. Khắp nơi không còn cảnh chiến tranh chết chóc, ly tán, đau thương. Gia đình được an ổn. Vợ chồng, con cái sum vầy bên nhau, cùng chung lưng để chia sẻ những buồn vui của cuộc sống. Mọi người cũng nhau sản xuất, xây dựng, để cho cuộc sống thêm sung túc. Xã hội thịnh vượng. Đất nước giàu đẹp, thanh bình. Một thế giới hòa đồng, trong đó mọi người yêu thương, đùm bọc, san sẻ với nhau thì đó chẳng là một cuộc sống Cực Lạc rồi sao? Việc gì phải mơ màng ở cõi nào, thế giới nào khác? Đương nhiên, với nếp sống thuần thiện thì dù có tái sinh cũng sẽ được đến cảnh tốt đẹp, bởi không hại người, không gây tội ác thì địa ngục nào lôi ta xuống được. Một cuộc sống nhẹ nhàng thì khi bỏ cái thân, những dòng pháp nào cùng tầng số sẽ đến với nhau. Đó là quy luật đương nhiên, đâu cần Phật nào phải cứu, phải dắt ta lên, bởi vì Đức Thích Ca hay Chư Tổ cũng có cái Thân như ta, cũng tu hành như ta. Do đó, nếu ta cũng sống thuần thiện như các Ngài thì sẽ cùng về một nơi không khác. Điều đó là chắc chắn. Còn lúc sống mà làm ác, tạo nghiệp, rồi khi chết con cháu mời thầy tụng để Cầu Siêu, hy vọng Phật rước thì đã trễ. Phật đâu có quyền rước ai, mà chính những việc làm của mỗi người lúc sinh thời đã quyết định theo Luật Nhân Quả, không thể thay đổi. Những người cổ súy cho việc cầu xin đó là Tà Sư. Người tin như thế là tin tà pháp, không phải là Đạo Phật chân chính. Cảnh trần, theo Đạo Phật thì đó là GIẢ CẢNH. Nhưng dù Giả, nó vẫn theo sự hiện diện của ta mà tồn tại, vì vậy, ít ra nó cũng kéo dài cả 100 năm. Con người sở dĩ KHỔ vì CHẤP những cái TƯỚNG HỮU VI. Thấy đó là Thật, nên đấu tranh, giành giật nhau. Phật dạy người tu quán sát, để thấy cuối cùng nó cũng sẽ về KHÔNG. Nhưng nhiều người không hiểu hết, lại dừng ở cái KHÔNG, trở thành mâu thuẫn với cuộc đời. Bởi nói KHÔNG, mà hành CÓ. Từ cái Thân, cho đến cơm, áo, vật dụng, thuốc men, nếu Không thì làm sao con người tồn tại? Do đó, Phật nói Các Pháp là KHÔNG để ta KHÔNG CÒN CHẤP LẤY NÓ nữa, mà chuyển cái Thấy cõi đời từ THẬT CÓ, trở thành TẠM CÓ. Biến các pháp CÓ từ hành hạ, làm cho con người phải Khổ, trở thành DIỆU HỮU, để bản thân người tu và những người chung quanh được cuộc sống yên vui, tốt đẹp. Ta đang sống trong cuộc đời. Đang nương nhờ hột cơm, bát nước, y phục, vật dụng của cõi trần. Những vật này có được là do sức lao động của nhiều thành phần trong xã hội. Do đó, người thụ hưởng có trách nhiệm phải đóng góp mới không mang nợ, vì Nhân Quả công minh. Sống ở trần gian mà không chạy theo danh vọng, vật chất, chèn ép người khác, đánh mất tình người. Trái lại, theo sức của mình mà đóng góp, dựng xây cuộc đời. Mọi người sống đúng với tính cách của một con người: Kính trên, nhường dưới, yêu thương ông bà, cha, mẹ, giúp đỡ bạn bè, người kém may mắn hơn. Chỉ cần như thế là ta đã sống đúng theo tinh thần của Đạo Phật rồi. Chẳng cần phải vô Chùa, Cạo tóc, đắp Y. Bởi suy cho cùng, người tu ở Chùa cũng chỉ cần làm một việc: Điều phục Lục Căn không cho chạy theo Lục Trần. Như thế gọi là Tu hành. Còn những việc khác chỉ là trợ đạo mà thôi. Do đó, nếu ta muốn tu mà chưa biết cách thì Học. Biết rồi thì Hành. Làm xong thì giúp người khác, gọi là “Mồi ngọn Vô Tận Đăng” để tất cả đều được hạnh phúc, an vui, gọi là người sống giữa trần gian mà không bị trần gian làm cho điên đảo. Người như vậy Đạo Phật gọi là đã được Giải Thoát. Đó là hình ảnh HOA SEN đã vươn lên từ Bùn. Đó là con người đã thành tựu con đường Giải Thoát cho bản thân, và đó cũng là mục đích của Đức Thích Ca khi mang Đạo Phật vào đời vậy. Tháng 1/2014 Tâm Nguyện
Phụ Bản I MÙA XUÂN TỰ HÀO VỚI TƯỢNG PHẬT HOÀNG TRẦN NHÂN TÔNG KHU DU LỊCH YÊN TỬ- TÙNG LÂM DỰNG TƯỢNG PHẬT HOÀNG VIỆT NAM Trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước, vua Trần Nhân Tông là một trong những lãnh tụ thiên tài, anh hùng của dân tộc. Đối với đạo pháp, vua Trần Nhân Tông là vị vua duy nhất trên thế giới từ bỏ ngôi vua để đi tu và đắc đạo, thống nhất được Phật giáo VN bấy giờ và thành lập tổ chức giáo hội Trúc Lâm mang đậm nét VN. Qua những cống hiến của vua Trần Nhân Tông đối với dân tộc và đạo pháp, nhân dân, tăng ni, phật tử đã tôn vinh Ngài là vị Phật hoàng VN. Phối cảnh khu đất tượng. Để ghi nhớ công ơn của vị vua Phật VN, Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Ninh đã quyết định cho Tỉnh hội Phật giáo Quảng Ninh dựng tượng đồng Phật hoàng Trần Nhân Tông. Theo thiết kế, tượng cao 15 mét, nặng 100 tấn với kinh phí gần 80 tỉ đồng. Ngày 16/12/2009 (1/11 âm lịch) khởi công công trình này nhân Đại lễ kỷ niệm lần thứ 701 ngày Đức vua - Phật hoàng Trần Nhân Tông nhập Niết bàn (3/11/1308). Tượng được dựng tại khu vực tượng đá An Kỳ Sinh lên chùa Đồng, khu di tích Yên Tử. Khu vực xây dựng tượng Trần Nhân Tông có vị trí khá thuận lợi về giao thông với cảnh quan thiên nhiên đẹp. Từ lâu nơi đây đã là điểm dừng chân thú vị nhất trong tuyến hành hương Yên Tử của du khách. Theo thiết kế, tượng được làm bằng đồng đúc liền khối, nguyên liệu nhập từ Úc, nặng 100 tấn, cao 9,9 mét. Bệ tượng được làm bằng bê tông cốt thép ốp đá điêu khắc cao 2,7 mét, rộng 7,25 mét, đài sen cao hơn 2 mét. Pho tượng Trần Nhân Tông sẽ được đúc ở tư thế ngồi tĩnh tại với vẻ ung dung, thư thái. Mẫu tượng được mô phỏng bản gốc bức tượng đá đang thờ tại Tháp tổ chùa Hoa Yên. Đây là bức tượng do con trai nhà vua là Trần Anh Tông tạc cha vào năm 1039. Công trình dự kiến hoàn thành vào 12/2010 và đưa vào khai thác sử dụng đầu năm 2011. Được biết Bộ Văn hóa, Du lịch, Thể thao sẽ phối hợp với Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Ninh làm hồ sơ đề nghị Unesco công nhận Phật hoàng Trần Nhân Tông là Danh nhân văn hóa thế giới. Khánh thành tượng Phật hoàng Trần Nhân Tông Sáng ngày 03/12/2013, UBND tỉnh Quảng Ninh phối hợp với Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam long trọng tổ chức Đại lễ tưởng niệm lần thứ 705 ngày Phật hoàng Trần Nhân Tông nhập Niết bàn (1308 – 2013) và khánh thành Bảo tượng Phật hoàng tại Khu di tích – danh thắng Yên Tử. Tượng Phật hoàng Trần Nhân Tông tĩnh tọa trên tòa sen được đặt trang trọng tại khu vực An Kỳ Sinh, trên độ cao hơn 1.000m so với mực nước biển . Tượng nặng 150 tấn, cao 15m, được đúc bằng đồng liền khối theo phương pháp thủ công với tổng số vốn đầu tư trên 72 tỷ đồng. Đây là bức tượng đồng liền khối lớn nhất ở Việt Nam hiện nay. Phát biểu tại Đại lễ, Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam nhấn mạnh: Đại lễ là dịp để bày tỏ tấm lòng kính ngưỡng Đức vua - Phật hoàng Trần Nhân Tông, qua đó mỗi người soi tỏ mình, sống tốt đời đẹp đạo, cùng chung tay góp sức xây dựng đất nước Việt Nam hùng cường, xứng đáng với công đức vô lượng của cha ông. Đại lễ đồng thời cũng thể hiện chính sách nhất quán về tự do tôn giáo, tín ngưỡng. Trước đó, trong đêm 02/12, ông Vũ Đức Đam đã dự khóa lễ đặc biệt nguyện cầu quốc thái dân an và đích thân gõ búa khai chuông, khai khánh dưới Bảo tượng Phật hoàng. NGẠC NHIÊN VỚI “TRẦN NHÂN TÔNG ACADEMY” TẠI HOA KỲ! Mấy ai biết rằng, cách xa nửa vòng trái đất, tên tuổi của vị vua anh minh Trần Nhân Tông của nước ta đã được đặt tên cho một Viện Nghiên cứu đặt tại Đại học Harvard, Boston, Thủ đô kháng chiến của Mỹ, tiểu bang Massachusetts (MA) Viện Trần Nhân Tông được thành lập do một nhóm nhà nghiên cứu tại trường Đại học Harvard, một trong những cái nôi của trí tuệ nổi danh nhất của Mỹ, và do giáo sư Thomas Patterson làm Chủ tịch. Điều gì khiến vị giáo sư này quyết định trở thành Chủ tịch Viện Trần Nhân Tông, ông cho biết: “Khi tôi được mời giữ vai trò lãnh đạo tại Viện, tôi đã chấp nhận với tất cả sự nhún nhường. Nhiều năm trước, tôi là một người lính Mỹ tới Việt Nam và tôi đã đem lòng yêu đất nước, con người và lịch sử của Việt Nam. Đó là thời điểm lần đầu tiên tôi nhận biết về Trần Nhân Tông, vị vua đã hoàn thành được điều mà nhiều người không làm được: Chiến thắng quân Mông Cổ trong thế kỷ 13. Tuy nhiên mãi đến năm 2010 tôi mới có được sự hiểu biết đầy đủ về tầm vóc của Nhà Vua khi tôi cùng vợ đến viếng Yên Tử ở Quảng Ninh. Chính vào thời điểm này, tôi bắt đầu ngưỡng mộ sự hy sinh lớn lao của Nhà Vua đối với đất nước. Tôi rất vinh dự khi được đóng góp một phần nhỏ trong việc thúc đẩy di sản Trần Nhân Tông để lại, thu hút sư quan tâm của mọi người trong nước cũng như trên thế giới”. Giáo sư Patterson hiện là Giám đốc nghiên cứu Trung tâm Shorenstien thuộc Đại học Harvard, một trung tâm nghiên cứu báo chí, chính trị và chính sách công uy tín. Trước mắt, trong giai đoạn từ 2012-2017, Viện Trần Nhân Tông dự kiến tổ chức “Giải thưởng Quốc tế Trần Nhân Tông về Hòa giải và Yêu thương” hàng năm. Nhân dịp công bố Giải thưởng này, dự kiến vào tháng 9 tới đây, sẽ tổ chức Hội nghị Quốc tế Trần Nhân Tông tại Boston, MA. GIẢI THƯỞNG TRẦN NHÂN TÔNG: GIẢI QUỐC TẾ MANG TÊN VỊ VUA VIỆT NAM Ngày 19-6-2012, Viện Trần Nhân Tông chính thức công bố Giải thưởng Quốc tế và Hội nghị Trần Nhân Tông về Hòa giải và Yêu thương tại trang web Trannhantongprize.org. Sự kiện này sẽ được tổ chức vào ngày 22-9 tại Đại học Harvard, giáo sư Patterson làm Chủ tịch Giải thưởng này. Giải thưởng sẽ được xét chọn hàng năm, cho những người bằng hành động, ảnh hưởng của mình, có những đóng góp nổi bật cho sự nghiệp Hòa giải và Yêu thương nhân loại, xây dựng tình hữu nghị giữa những quốc gia, dân tộc, tôn giáo, giải quyết các mối xung đột, chấm dứt chiến tranh; những người đóng góp to lớn trong việc gìn giữ và bảo vệ môi trường sinh thái thế giới. Nói về Ý nghĩa của Giải thưởng Trần Nhân Tông, giáo sư D. Shapiro của trường Luật Harvard so sánh: “Một năm thế giới mất đi 3.000 tỉ USD để giải quyết các vấn đề như chiến tranh, bạo loạn, xung đột, thiên tai. Nếu thế giới ngăn chặn được thì sẽ tiết kiệm được một khoản tiền lớn để đầu tư vào kinh tế và giải quyết được những vấn đề lâu dài của nhân loại”. Nhạc trưởng Charles Ansbacher của Đoàn nhạc giao hưởng Landmark Boston cũng đã nhiệt tình tham gia vận động, ủng hộ Giải thưởng này, mà cụ thể là tổ chức các buổi hòa nhạc “Hòa giải và Yêu thương” và mời nhạc trưởng nổi tiếng ở châu Âu D. Barenboim làm Đại sứ Giải thưởng Trần Nhân Tông. Hiện nay địa chỉ Trannhantong. Net đã được rất nhiều người trong cũng như ngoài nước truy cập, đây vừa là cổng thông tin hoạt động của Viện Trần Nhân Tông, vừa là một diễn đàn giữa những người muốn đến với Viện. Tại cổng điện tử này, bước đầu đã có những tư liệu giới thiệu các nghiên cứu, các thành quả trong việc ứng dụng Tư tưởng, giá trị cao quý của Nhà Vua vào cuộc sống, những sáng tác văn hóa, nghệ thuật về Nhà Vua. Đây cũng là cổng tích hợp, kết nối tất cả những tư liệu về vua Trần Nhân Tông. PHẬT HOÀNG VIỆT NAM TRẦN NHÂN TÔNG CHỦ TRƯƠNG “HÒA GIẢI VÀ YÊU THƯƠNG” Sang thế kỷ 13, Mông Cổ trở thành một đế quốc hùng mạnh, lãnh thổ rộng lớn vắt ngang địa cầu, từ bờ Thái Bình Dương đến bờ Hắc Hải, gây bao nỗi kinh hoàng cho các dân tộc trên thế giới, - xâm chiếm nước Tầu, thiết lập nhà Nguyên. Chính trong thời gian đó, vua Trần Thái Tông, vua Thánh Tông và vua Nhân Tông lãnh đạo, do tướng Trần Hưng Đạo chỉ huy quân dân Đại Việt đã đánh thắng 3 lần xâm lược của Mông Cổ. Đặc biệt, Trần Nhân Tông là một hiện tượng độc nhất vô nhị trong lịch sử Tiên Rồng. - Với tầm vóc Danh nhân văn hóa, Trần Nhân Tông (1258-1308) tỏa sáng trong tư cách một vị hoàng đế anh minh, vị tổ của Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử và để lại những áng thi ca thấm đượm lẽ đạo tình đời. Thời gian sinh sống nửa thế kỷ trên cõi đời, Trần Nhân Tông đã có những đóng góp xuất sắc vào lịch sử chống ngoại xâm, xây dựng đất nước, phát triển tư tưởng Phật giáo dân tộc và để lại nhiều thơ phú bằng chữ Hán và chữ Nôm có giá trị. - Trên thực tế, có thể nhận diện Trần Nhân Tông như một nhân vật lịch sử, một mẫu hình Hoàng đế phương Đông gắn với vị thế Thiền sư – nhà Truyền giáo và Thi nhân – người kiến tạo những giá trị văn hóa. Ở đây, chúng ta xác định Trần Nhân Tông như một tác gia văn học, trên cơ sở đó soi chiếu trở lại vị thế Hoàng đế - Danh nhân văn hóa dân tộc... - Trần Nhân Tông không chỉ cứu một người mà còn cứu cả dân tộc, cứu cả sự vĩnh hằng của giang sơn, Tổ quốc Việt Nam. Ông chỉ có một người con gái duy nhất, vậy mà vì vùng phên dậu phương Nam quan trọng tới bờ cõi nước nhà, vì xã tắc muôn đời, ông sẵn sàng chịu để cho người đời chê trách. Ông có nghe câu: Tiếc thay cây Quế giữa rừng Để cho thằng Mán, thằng Mường nó leo? Ông biết nhưng ông tin cuộc đời sẽ hiểu, con cháu sau này sẽ mãi tri ân. Chính nhờ Huyền Trân Công chúa gả cho Chế Mân, chúa Chiêm Thành, mà bờ cõi nước Nam có thêm 2 châu: châu Ô, Châu Lý - sau đổi là châu Thuận, châu Hóa chạy dài tới tận đèo Hải Vân. “Giang sơn ngàn thuở vững âu vàng” Là câu thơ được tinh chiết từ khí núi, hồn sông. “Tịch hiệp thiên hà tẩy chiến trần” Là nỗi khắc khoải dài lâu nhất của dân tộc Việt Nam. Và: “Gia trung hữu bảo vưu tầm mịch” (trong nhà có của báu chớ tìm kiếm) là lời nhắn nhủ tâm huyết sâu xa, ý vị đến muôn đời của Trần Nhân Tông - vị Phật Hoàng Việt Nam vậy. TỔNG THỐNG HOA KỲ LINCOLN CŨNG “HÒA GIẢI VÀ YÊU THƯƠNG” Việc “Hòa giải và Yêu thương” này thật là hiếm hoi trong lịch sử Việt Nam thế mà đã xảy ra dưới thời vua Trần Nhân Tông và việc làm cũng hơi kỳ lạ của Tổng thống Lincoln tái xuất hiện trong cuộc Nội chiến Hoa Kỳ (1861 – 1865). Đây chính là tiếp nối sự việc mà Trần Nhân Tông đã làm, 600 năm sau, có thể dẫn chứng như sau: Trận chiến nổi tiếng nhất là ở Gettysburg vào tháng 4-1863, đã làm 7000 người chết trận của cả hai phe miền Bắc (có 22 tiểu bang, có cờ “Stars & Stripes – cờ sao & sọc) và phe miền Nam (11 tiểu bang, có cờ “Stars & Bars- cờ sao & thanh lớn, có nô lệ da đen). Sau trận chiến này, chiến tranh giữa miền Bắc của Lincoln và miền Nam ly khai chưa kết thúc, nhưng chiến tuyến đã bị đẩy xa về phía Nam, Gettysburg trở thành hậu phương. Không thể để thi thể quân lính tử trận được chôn cất sơ sài, nghĩa trang mới Gettysburg được xây dựng. Trong lễ khánh thành nghĩa trang này, Tổng thống Lincoln chỉ nói trong 2 phút, bài diễn văn Gettysburg chỉ có 10 câu, 272 từ, nhưng tràng pháo tay đã kéo dài không ngớt trong 10 phút. Bài diễn văn có đoạn: “…những điều tôi nói hôm nay, thế giới hẳn sẽ mau chóng để rơi vào quên lãng; nhưng những điều mà các chiến sĩ của chúng ta đã làm nên trên mảnh đất tự do này, cả thế giới sẽ không bao giờ quên. Chúng ta, những người còn sống, có trách nhiệm phụng hiến cho sự nghiệp mà các chiến sĩ chưa hoàn thành…”. Cuối cùng, Tổng thống Lincoln kết luận: “Chúng ta phải hồi sinh Đất nước dưới sự che chở của Thượng đế, khiến một Chính phủ Của Dân, Do Dân, Vì Dân (The government of the people, by the people, for the people) mãi mãi trường tồn”. Câu danh ngôn nổi tiếng này đã nổi tiếng toàn cầu. Khắc ở Đài Tưởng niệm Lincoln ở thủ đô Washington và được trang trọng ghi trong bản Tuyên ngôn Độc lập 2-9-1945 của Việt Nam. Vùng lân cận Gettysburg nay đã được xây dựng thành Công viên Quân sự Quốc gia, trở thành di tích chiến trường xưa lớn nhất ở Hoa Kỳ. Trung tâm công viên có “Bia Hòa bình”, trên bia có ngọn đèn được thắp sáng liên tục từ khi xây bia đến giờ. Nơi xưa kia Tổng thống Lincoln từng đọc diễn văn có đặt tượng bán thân của ông, dưới đế khắc toàn văn bài diễn văn bất hủ. Công viên do chính phủ Liên bang xây dựng, nhưng trong công viên, ngoài cờ Liên bang tung bay, có cả cờ của chính phủ Hợp bang miền Nam. Người Mỹ không tuân thủ luật chơi “được làm vua, thua làm giặc”, kẻ chiến thắng cũng như người chiến bại đều hưởng chung một sự đãi ngộ, cùng chia sẻ một bầu trời xanh. Các tiểu bang Nam, Bắc đều dựng bia tưởng niệm các tử sĩ của mình; gần bia tưởng niệm của tiểu bang Bắc Carolina (miền Bắc) có dựng tượng đồng cưỡi ngựa oai vệ của tướng Lee, (miền Nam). Tồng thống Lincoln của miền Bắc chiến thắng - đã làm điều chưa hề có trong lịch sử là ông cho chiêu tập thi hài của cả hai phe để xây dựng thành Nghĩa trang Quốc gia. Xét về tổng thể của lịch sử nhân loại, việc làm của Lincoln là tiếp nối sự việc mà Trần Nhân Tông đã làm! Tống thống Mỹ đã tha thứ cho tất cả mọi lỗi lầm của những kẻ lầm lạc phe miền Nam, và ông còn ra lệnh tha bổng cho 20 vạn tù binh miền Nam đầu hàng – nhất là ông không cho binh sĩ miền Bắc tổ chức ăn mừng chiến thắng, vì “những người bại trận là đồng bào của chúng ta đó”. Lý do chính là ông biết đó là cách tốt nhất để xóa bỏ hận thù, hàn gắn những vết thương chiến tranh, bãi bỏ chế độ nô lệ, vì mục tiêu thống nhất hai miền Bắc và Nam. TÓM TẮT Cách nhau 600 năm sống cách nửa vòng địa cầu, Phật hoàng Việt Nam và Tổng thống Mỹ lại tìm được “sự đồng cảm sâu sắc” trong chính sách “Hòa giải và Yêu thương”. Chính sự khoan hồng của Nhà Vua và Tổng thống, vết thương chiến tranh đã mau chóng được hàn gắn, từ đó tái thiết Đất nước hòa bình và thịnh vượng, mưu cầu hạnh phúc cho Nhân dân Việt Nam và Hoa Kỳ. Tổng thống Abraham Lincoln là một trong những vị tổng thống vĩ đại được dân Mỹ thương yêu nhất. Phật hoàng Trần Nhân Tông cũng là một vị hoàng đế anh minh được hết sức kính trọng, không những tại Việt Nam mà còn trên thế giới với việc thành lập Viện Trần Nhân Tông và Giải thưởng Trần Nhân Tông về “Hòa giải và Yêu thương” – đúng với chủ trương ái quốc của vị Phật hoàng Việt Nam và vị Tổng thống thứ 16 của Hoa Kỳ vậy. Chính vì công đức vĩ đại của Phật hoàng Việt Nam và Tổng thống Hoa Kỳ - Khu du lịch Yên Tử vừa khánh thành tưọng Trần Nhân Tông trong tư thế ngồi an nhiên tự tại (cao 15m) trên ngọn núi khu An Kỳ Sinh, cao hơn 1.000m. - Tổng thống Lincoln cũng được vinh dự - cùng với ba Tổng thống Mỹ khác là: George Washington, Thomas Jefferson và Theodore Roosevelt - tạc tưọng bốn đầu khổng lồ (cao 18m) trên núi Rushmore hùng vĩ cao 1.889m, nằm trong Đài kỷ niệm Núi Rushmore, tiểu bang South Dakota (do G. Borglum thiết kế và tạc tưọng từ 1867-1941). Trong khi đó, - Toà nhà Burj Khalifa (UAR) cao 828m cao nhất thế giới - Tưọng Chúa Cứu thế (cao 39,62m) đứng trên đỉnh núi cao 701.04m, tại Rio de Janeiro (Brazil) - Đại tượng Phật La Sơn, tư thế ngồi ngoài trời, cao 71m, vĩ đại nhất khắc trong núi đá ở Tứ Xuyên, Trung Quốc - Đại Tượng Phật Thiên Tân, tư thế ngồi ngoài trời, cao 34m tại Hong Kong. Sau khi so sánh, chúng ta hãnh diện vì pho tượng Trần Nhân Tông tại Quảng Ninh, Việt Nam hiện nay toạ lạc trên độ cao thứ hai trên thế giới, chỉ đứng sau Núi Rushmore với tượng đầu khổng lồ của Tổng thống Lincoln tại Hoa Kỳ.
PHẠM VŨ ( Tham khảo: Tài liệu trong Sách báo & Internet)
CHỢ PHIÊN &
CHỢ PHIÊN Lai lịch chợ phiên Chợ phiên, tiếng Pháp gọi là Kermesse, có từ thời cổ, vào năm nào người ta không biết đích xác. Kermesse (hay Karmesse) nguyên ở chữ Kerkmisse tiếng xứ Flamand biến tướng ra. Kerkmisse, theo ngữ-nguyên thì gồm hai chữ Kerk nghĩa là nhà thờ misse nghĩa cũng như chữ messe của Pháp, là lễ dâng bánh dâng rượu tại nhà thờ. Coi vậy, thì ban sơ Kermesse tức Kerkmisse chỉ là có nghĩa là một lễ thuộc về tôn giáo cử-hành tại các nhà thờ xứ Flandres tức là miền Flandres và nước Hà-lan ngày nay. Thời gian làm biến đổi mọi vật, mọi chế độ, mọi phong tục. Dần dần Kermesse có thêm một nghĩa ngoài cái nghĩa chính, hiểu theo ngữ-nguyên. Kermesse hay Kerkmisse còn dùng để chỉ bất cứ những hội hè đình đám nào đệ niên cử hành tại Hà-lan, với đủ những cuộc vui, đại-loại như những ngày hội hè đình đám của ta vậy. Ngày nay, nghĩa ấy lại rộng hơn, và mất hẳn cái nghĩa tôn-giáo và cái nghĩa hội đệ-niên ban đầu. Ngày nay Kermesse là một cuộc chợ phiên bất thường, người ta tổ chức ra hầu hết để làm việc nghĩa, việc phúc. Trong chợ phiên, không còn sót lại một li một tý ý-nghĩa gì thuộc về tôn giáo, chỉ có một ý nghĩa duy nhất là vui chơi giải-trí, phóng-khoáng tự-do, để ném tiền bạc ra làm việc nghĩa. Cái nghĩa cố-hữu của Kermesse mất đi, và cái nghĩa như chúng ta hiểu ngày nay, sở dĩ mà có không phải bắt đầu từ hôm qua đâu. Từ lâu rồi! Cứ coi bức họa của nhà danh-họa Rubens (1577-1640) quán xứ Flandres thì rõ. Bức họa chợ phiên, một trong những bức họa tuyệt-tác của Rubens, hiện trưng bày tại viện tàng-cổ Le Louvre tại Paris, hình dung một buổi chợ phiên cử-hành tại một khu đất trống một làng quê thuộc xứ Flandres, núi đồi trùng điệp. Ta hãy nhìn kỹ bức tranh Bên tả, trước cửa một nhà quê, có kê mấy dẫy bàn dài, xung quanh xúm xít những người. Người nào người nấy đều say khướt, người thì say quá gục đầu xuống bàn mà ngủ, người thì ngồi ngây ra như phỗng, trố cặp mắt lừ-đừ ra, mơ-mộng bâng khuâng; người thì giơ chân giơ tay, gân cổ hát hổng; có mấy người đang truyện trò tri-kỷ với nhau; có người thì ngã bò lê bò càng ra mặt đất. Tất cả bọn đồ đệ Lưu Linh đó được hình dung ra bằng những nét bút đầy sinh-khí, đầy thú-vị, coi vui tươi linh-động vô cùng. Đó, trong khoảng từ nửa thế-kỷ thứ 16 sang nửa thế-kỷ thứ 17, quang cảnh một buổi chợ phiên chỉ còn có thế. Ngoài chè rượu và các cuộc vui chơi phóng khoáng ra, tuyệt không còn một ý nghĩa gì về cuộc lễ nhà thờ. Kermesse đã mất nghĩa hình như từ hồi trung cổ. Tiếc rằng chúng ta không được nhìn các tranh của hai phụ tử nhà danh họa Teniers (1582-1649, con 1610-1694) cũng quán ở xứ Flandres, là hai nhà chuyên họa chợ phiên, để biết quang cảnh chợ phiên biến hóa như thế nào, sau thời nhà danh họa Rubens. Dù sao, thì cái nguyên nghĩa của Kermesse đã mất, và ta phải hiểu Kermesse theo cái nghĩa mới thông dụng ngày nay; một phiên chợ mở ra để công chúng tự-do vui chơi, lấy tiền làm một việc nghĩa gì đó. Chợ phiên Tàu Nếu hiểu chợ phiên theo nghĩa cổ-sơ, thì tại nước Tàu và tại nước Ta hằng năm có không biết bao nhiêu chợ phiên mà kể. Mỗi ngày đình đám việc làng là một chợ phiên. Mỗi ngày hội chùa như chùa Hương, chùa Thầy,… là một chợ phiên. Mỗi ngày lễ kỷ-niệm danh nhân như lễ Giỗ trận Đống-đa đền Kiếp-bạc hội Lộ, hội Phủ-giầy… là một chợ phiên. Vậy ta chỉ liệt những hội-hè đình-đám nào, không có tính cách tôn-giáo, chỉ có tính cách vui chơi, làm chợ phiên mà thôi. Hiểu chợ phiên theo nghĩa đó, tại nước Tàu nước Ta, cũng còn vô số ngày đáng gọi là chợ phiên, nhắc ra không hết. Ở đây, chúng ta chỉ thuật những ngày chợ phiên nào có danh tiếng nhất, cốt cho mọi người hiểu rằng khác tên gọi, chứ Kermesse chẳng phải là một chuyện lạ lùng gì đối với người phương Đông thời xưa và thời nay. Chợ đèn và tết đèn Theo bài tựa sách “Thạch-Hồ nhạc-phủ” thì đất Ngô-trung tức là đất Giang-tô, xưa có tục này: Cách đêm nguyên-tiêu (rằm tháng giêng) một tháng, tức là ngày rằm tháng chạp, người ta mang đèn ra bán chật cả phố xá trong thành, nhất là mấy phố Ngô-su-phừng, Thân-nha-lý, và chợ Kiều-trung. Trên thì trời, dưới thì đèn. Xanh, đỏ, tím, vàng, trắng, đủ ngũ sắc. Nhân vật, hoa quả, đủ kiểu đèn. Đèn hình người thì như: kiểu ông lão cõng con, ông lão câu cá, cô đào đi thuyền dưới trăng, Tây-thi hái sen, Trương-sinh trèo tường, kiểu chiêu tài tiến bảo v.v… Đèn hình hoa quả thì có đèn hoa sen, đèn hình dung quả nho, đèn quả dưa, quả khế v.v… Đèn hình giống vật thì đủ giống như hạc, phượng, kỳ-lân, cá, tôm, cua, ốc, ngựa, dê, thỏ v.v… Lại có những thứ đèn lạ kiểu như đèn chạy ngựa, đèn lưu-li-cầu, đèn phất lượt, đèn thuyền rồng, đèn chiến đấu… Mỗi kiểu đẹp một lối, mỗi lối khéo một cách, thật là mỹ-thuật và tinh xảo. Khỏi phải nói, ai cũng biết là người ta bán đèn tất bán ban đêm, gọi là phiên chợ Đèn; phiên chợ tưng-bừng náo nhiệt hết sức. Người bán đèn đã đông, người mua đèn lại đông hơn. Và người đi xem chợ đèn lại đông hơn nữa. Ông già bà cả, trai thanh gái lịch đều đua nhau dạo chợ coi đèn, lũ năm lũ bảy tấp nập như một ngày hội. Đây một hàng nước, kia một tiệm bánh, đó một quán rượu, nơi nào cũng chật nẻ những người nhân đi xem đèn vào nghỉ chân uống rượu, giải khát hoặc ăn quà bánh. Nhân phiên chợ, những thầy xem tướng xem bói, những hát xẩm hát chèo rong đều tới chợ để bán tài nghệ kiếm tiền mua đèn và tiêu Tết. Những người bán đèn nhiều khi bán ế không có người mua, tụ họp nhau lại đánh bạc với nhau bằng đèn. Thành ra chợ đã ồn-ào lại càng ồn-ào thêm. Đứng xa xa mà nhìn, quang cảnh chợ thật là có vẻ thần tiên huyền-ảo. Muôn ngàn kiểu đèn đốt lên, lấp lánh như sao sa, nam thanh nữ tú tấp-nập diễu đi, không khác gì quần tiên tụ-hội. Phiên chợ đèn họp tới lúc mặt trời mọc mới bớt vẻ tưng-bừng để đến tối hôm sau lại trở nên náo-nhiệt vui vẻ như cũ. Vì chợ đèn họp luôn ba đêm, đến hết đêm 18 mới tan. Người ta mua đèn để làm gì! Để trang hoàng nhà cửa ngày Tết và để sang năm mới, đên nguyên-tiêu tức là đêm rằm tháng giêng đem treo la liệt khắp trong nhà ngoài cửa. Vì đêm đó gọi là Đăng-tiết nghĩa là Tết đèn. Theo sách “Côn-tân hợp-chí” thì đêm ấy các đình chùa miếu mạo, người ta trồng nêu cao vót, thắp đèn ở trên, hoặc làm những cây tháp, đốt đèn la-liệt từ trên xuống dưới gọi là tháp đăng. Các nhà thành phố nhà nào nhà nấy đèn nến đốt sáng trưng, trước nhà thắp hàng trăm ngàn kiểu đèn. Có kiểu đèn lớn đường kính tới ba, bốn thước, làm thuần bằng thủy tinh ngũ sắc mà hình dung đủ sơn thủy nhân vật rất là kỳ diệu tài tình nghiễm nhiên như thật vậy. Có kiểu đèn hình cái cầu, hình cái thuyền thật lớn, có kiểu đèn hình rồng rắn rất cầu kỳ. Người ta bầy tiệc rượu, họa đàn hát rất vui vẻ, gọi là Đăng yến nghĩa là yến đèn. Ngoài đường phố, trẻ già trai gái đi lại lũ lượt nói là đi xem đèn. Các cầu, các đền, các miếu, chỗ nào người cũng đông như xem hội. Các hàng trà, quán rượu không còn chỗ và chen chân. Trong các nhà, ngoài các phố, quang cảnh náo nhiệt tưng bừng kéo dài ra mãi tận sáng bạch nhật mới tàn dần. Đó là quang cảnh thành phố Giang-tô nổi tiếng là nơi ăn chơi phồn hoa đệ nhất miền Hoa-nam vậy. Tết đèn ở nơi kinh-đô mới lại càng náo nhiệt hơn. Sách “Đường-thi” chép rằng: “Nhân đêm nguyên-tiêu, vua Duệ-Tôn sai làm một cây đèn cao hai mươi trượng, trên thắp tất cả tám vạn ngọn đèn, gọi là hỏa thụ nghĩa là cây lửa. Nhân dân trong nước kéo tới kinh-đô xem hội Cây lửa đông như mắc cửi”. Theo sách “Đông-kinh hoa-mộng lục” thì đêm ấy, trước cửa Đại-Nội có làm rạp lớn, khách du tấp nập chật cả đường phố, các phường hát múa diễn đủ thứ trò vui, lô-nhô như nấm mọc; tiếng hát, tiếng nhạc đưa đi xa hơn mười dậm đường. Bởi thế, nên cụ Nguyễn-Du đã nói: … ngày ngày nguyên-tiêu. Khi cụ muốn tả một cửa hàng đông khách. Du xuân ngoạn cảnh Truyện Kiều có câu Đêm đêm hàn-thực, ngày ngày nguyên-tiêu Ngày ngày nguyên-tiêu, ý nói ngày nào cũng đông khách như tết đèn đêm rằm tháng giêng, như trên ta đã nói. Còn đêm đêm hàn-thực, là đêm đêm đông khách như tết Hàn-thực. Nói là tết Hàn-thực, chứ thật ra tết Hàn-thực chẳng có gì là náo-nhiệt cả. Sở dĩ nói vậy là tết Hàn-thực ăn vào ngày mồng ba tháng ba, mà ngày ấy, ở đất Ngô-việt có tục “du xuân ngoạn cảnh” rất là vui vẻ náo-nhiệt. Ngày xưa tục ấy vào ngày thượng-tị nghĩa là vào ngày tị ở thượng tuần (từ mồng một đến mồng mười) tháng ba, sau ấn định hẳn vào ngày mồng ba tháng ba cho tiện. Ngày ấy, tiết xuân đầm ấm, hoa cỏ đua tươi, già, trẻ, gái, trai đua nhau thắng bộ đi chơi xuân, đông chật cả đồng áng, đồi núi và mặt sông. Truyện Kiều nói: Lễ là tảo mộ, hội là Đạp-thanh Xong lễ tảo mộ, người ta đi du xuân ngoạn cảnh, tức là hội Đạp-thanh vậy. Người thì rủ nhau lên rừng lên núi hái hoa, uống rượu ngâm thơ; kẻ thì ngả ra ăn chè uống rượu ở ngay trên các gò đống, ở cánh đồng; kẻ thì thuê thuyền đem bạn, rượu và con hát xuống du xuân hành lạc. Tài tử giai nhân nam thanh nữ tú, không một ai là không lấy ngày ấy là ngày hò hẹn đưa duyên. Hàng quán bầy ra la liệt để tiếp khách suốt ngày nườm nượp. (Chính Kim-Trọng và hai chị em cô Kiều cũng gặp gỡ nhau bắt đầu từ buổi “chợ phiên” này). Xạ hương sực nức, là lượt thướt tha hồng tía, đua tươi trên bộ dưới thuyền, quang cảnh đượm một phong vị xuân tình đầm ấm; tiếng cười nói, tiếng chào mời, tiếng đàn hát, tưng bừng mãi tới lúc mặt trời gác núi, vẫn chưa lặng tàn. Thật là một ngày vui tươi phóng-khoáng hoàn-toàn ở ngoài trời bát ngát thơm tho của ngày xuân ấm. Chợ thuyền rồng hoa Từ ngày mồng năm tháng năm tới ngày rằm tháng năm, nghĩa là trong mười ngày trời, đất Ngô-việt có hội thi thuyền rồng có lẽ tưng bừng gấp mấy những ngày chợ phiên lớn phương Tây. Người ta thả thuyền xuống sông, hồ bơi thi. Thuyền nào cũng trang hoàng lộng lẫy, hầu hết đều kết hoa lá, dán giấy căng vải thành những hình con rồng, xanh, đỏ, màu sắc khác nhau, gọi là thuyền rồng. Chân sào tức là những phu chèo thuyền, người nào người nấy bận áo mã tiên, quấn xà cạp xanh đỏ, đội mũ sì mẩu, mỗi người một sắc, ngồi ở hai bên mạn thuyền. Hàng trăm chiếc thuyền rồng xếp hàng đều nhau, phô ra hàng ngàn trai tráng chèo thuyền, phục sức rực rỡ, coi đẹp mắt vô cùng. Một hiệu lệnh phát ra, bằng ấy chiếc thuyền cùng một lúc veo veo chèo đi, vùn vụt như hàng mấy trăm con rồng ngũ sắc bay lượn trên mặt nước. Trên bờ, đen đỏ những người xem là người xem. Hàng quán la liệt, chật ních những khách. Thôi thì đủ hạng người, giàu nghèo sang hèn, gái trai già trẻ. Trên sông, ngoài khu vực đua thuyền, thuyền khách đóng coi cũng đông như lá tre rụng. Nhất là ban đêm thì quang cảnh lại càng tưng bừng huyền ảo. Thuyền nào thuyền ấy đèn thắp đủ kiểu sáng như sao sa; ánh sáng phản chiếu xuống nước sông diễn nên cảnh thần tiên vô hạn. Tiếng cười nói, đàn, hát làm lây cái vui vẻ hoạt động lên khắp mặt sông và trên các hàng quán trên bờ. Hội đua thuyền ban ngày gọi là “Hoa long thuyền thị” nghĩa là hội chợ thuyền rồng hoa, ban đêm gọi là “Đăng hoa long thuyền” nghĩa là hội thuyền rồng kết hoa treo đèn. Cái quang cảnh tưng bừng náo nhiệt ban ngày, và thần tiên huyền ảo ban đêm đó, kéo dài mãi ra mười ngày mười đêm, hấp dẫn hàng vạn khách du ở bốn phương đưa lại. Chợ phiên ta Ngoài những ngày hội đình đám có tính cách tôn giáo, tại nước ta xưa nay cũng có nhiều hội hè có tính cách như chợ phiên Tàu và chợ phiên Tây. Chợ Thánh Ngày 8 tháng giêng, ăn lễ khai hạ xong, tại đền Thánh mẫu làng Tiên hương (tức là Phủ Chính hay Phủ giầy) từ sân đền kéo dài suốt dọc đường ra tới đường quan lộ, có họp một ngày phiên chợ. Chỗ này nguyên không phải là một cái chợ. Suốt năm trời chỉ có một ngày 8 tháng giêng là có họp chợ, nên gọi là phiên chọ Thánh, có ý nói họp chợ để Thánh hiển linh về chợ du xuân và sắm sửa. Cho nên, những hàng hóa đem tới phiên chợ này đủ mặt hàng, thường bán một giá rất hạ, người bán chỉ vụ bán được chạy hàng, chứ không cốt kiếm lời, tin rằng hễ bán được chạy hàng thì suốt năm sẽ buôn may bán đắt. Chợ họp vào ngày người ta còn nhàn rỗi, ngày mà Tết còn phảng phất chút dư hương. Vả biết rằng, tại chợ Thánh cái gì cũng bán nới giá, nên chẳng những người quanh vùng mà người ở khắp nơi xa cũng nhiều người đánh ô tô về tận nơi chơi chợ và mua sắm. Trẻ, già, trai, gái ở các làng xung quanh kéo nhau lũ lượt tới chợ chơi, đông không kém gì ngày hội. Quán rượu, tiệm trà nhiều khi không đủ chỗ ngồi cho khách chơi chợ. Gặp những ngày nắng ráo đẹp trời, cái quang cảnh “giai nhân tài tử rập rìu, áo quần như nêm, ngựa xe như nước” diễn ra từ sáng cho tới chiều tối mới thôi. Chợ phiên Đồng-mỏ Đệ niên cứ ngày 11 tháng giêng, dân Thổ Đồng-mỏ và các miền phụ-cận kéo nhau tới chợ Đồng-mỏ ở chân núi Cai-kinh thuộc tỉnh Lạng-sơn để họp phiên chợ đầu năm. Gọi là họp chợ, nhưng thật ra các công-tử tiểu-thư Thổ, Mán, Mèo, Nùng đến đấy chỉ cốt để du xuân và kén bạn… trăm năm bằng những câu hát lượn ngây thơ và tình tứ! Phải, tại chợ phiên hôm ấy, ngoài những hàng bán rượu chè quà bánh, chỉ còn những đám hát lượn – hoặc cũng gọi là hát đúm – mà thôi. Trai chưa vợ, gái chưa chồng họp thành từng bọn, rồi cất tiếng lanh-lảnh ngân-nga những câu hát tình tứ chứa-chan, xướng họa với nhau. Cuộc hát có khi nồng-nàn đến cực điểm, kéo dài ra hàng mấy giờ mới tạm tan, người thì đi uống rượu, kẻ đi ăn bánh, để lát sau lại tiếp-tục cuộc hát bỏ dở, cho tới lúc mặt trời gác núi. Trên đường về, người ta còn nghe thấy văng-vẳng những giọng hát đưa duyên chất phác mà đượm xuân-tình thầm kín. Sau phiên chợ đó, tại nhiều chóm xóm thấy cử-hành nhiều lễ kết-hôn; đó là kết-quả cuộc chợ-phiên “cầu duyên” của nam-nữ thanh-niên miền sơn cước. Chợ phiên Đồi Lim Ngày 13 tháng giêng, tại mấy ngọn đồi làng Lim thuộc tỉnh Bắc-ninh, cũng có họp chợ phiên mục-đích và ý-nghĩa có lẽ cũng không khác chợ-phiên Đồng-mỏ. Đỉnh đồi, sườn đồi, chân đồi và tại các cánh đồng, trai thanh gái lịch vừa quê vừa tỉnh kéo nhau lũ-lượt, người nào người nấy vui tươi sung sướng. Té ra chẳng có gì cả. Chỉ thấy những trai gái họp nhau lại truyện trò tri-kỷ, hoặc hát những bài hát quan-họ, giọng ngân ra dài, buồn như trời mưa dầm. Nhưng trong cái giọng buồn-buồn đó chan-chứa những tình-ý nồng-nàn khả-dĩ làm say-sưa bỏng cháy được những trái tim chất-phác chỗ đồng quê, đang hồi-hộp mong cầu trái tim đồng một điệu. Những đám hát quan-họ như vậy, tản-mác khắp nơi chỗ nào cũng có, nhiều khi tới trống canh một vẫn còn văng vẳng tiếng ngân-nga. Ngoài những cuộc chợ-phiên có tiếng kể trên, những cuộc múa xòe của dân Mường Hòa-bình, dân Thái Lai-châu cùng những cuộc uống rượu cần của họ đều có thể gọi là chợ-phiên theo như ý-nghĩa bức tranh của Rubens, đã tả. Còn những đêm áp phiên chợ Sắt Haiphong, chợ Nghệ Sơn-tây, chợ Rồng Thanh-hóa, chợ Đông-ba Huế và ba phiên chợ Tết họp đêm tại chợ Bến-thành Saigon, nếu liệt vào những chợ-phiên, thì không đúng nghĩa. Vì dù sao, thì tại phiên chợ đó, các cuộc rượu chè vui chơi vẫn phải nhường chỗ cho các cuộc mua bán. VĂN HÒE HOÀNG KIM THƯ st CÂU HÒ VÂN TIÊN
NGUYỄN VĂN SÂM Chiếc ghe chài bành ky lững lờ trôi theo con nước lớn. Cả tháng nay, chưa khi nào công chuyện của những người bạn ghe nhẹ nhàng như bữa nay. Sông lớn, nước chảy chậm, tư bề ít ghe xuôi ngược, chuyện chèo chống chỉ giao cho hai người cầm sào đi dọc từ trước mũi ra sau lái rồi từ lái tới trước mũi sửa hướng cho ngay dòng. Chẳng bù với mấy bữa qua Vàm Nao, phá Đại Ngãi nước xoáy như thác đổ, bạn ghe người nào người nấy vật lộn với sóng, mồ hôi mồ kê như tắm, mệt té ho mà cái ghe cứ xà ninh xà nang lắc la lắc lư như ông tướng thầy ba lúc thầy pháp lên đàn. Khỏi chợ Bến Lức đâu độ chừng ăn dập bã trầu, tới khoảng chợ Đệm Bình Điền thì trời chập tối. Lác đác trên trời mấy vì sao hôm thập thò nhấp nháy. Trời sập tối tựa như tấm màn đen được giăng sẵn đâu đó tuốt luốt trên trời đợi tới giờ rũ xuống để che phủ trần gian. Trăng hạ huyền đã mọc từ lâu phết một bệt sáng óng ánh. Cảnh vật êm đềm trong gió hiu hiu mát lạnh gợi nhớ người thân thuộc ở quê nhà. Phải lấy hết can đảm Lành mới theo má bước lên chiếc ghe bự xộn này để xin quá giang. Chuyện quá giang của đàn bà con gái trên ghe thương hồ chủ ghe đại kỵ. Đất có Thổ Công, sông có Hà Bá, trên ghe trên tàu thiếu gì người khuất mày khuất mặt. Chuyện đàn bà ngày tháng có thể làm cho người ta xúi quẩy mất nghiệp như chơi. Nhưng may quá, nhờ tiếng thơm của tía từ trước, ông bà chủ ghe đã vui vẻ nhận lời. Bây giờ mình chờ đợi những gì xảy ra ở xứ văn minh sẽ tới. Một mình mình. Ghe càng đi xa phong cảnh càng lạ, càng thấy nao nao nhớ nhà. Nhớ đám mía trước sân xào xạc tận bờ sông mỗi ngày giặt giũ, nhớ hàng lu nái im lìm giữa hai gian nhà, nước mưa chứa lâu ngày ngậm một ngụm cũng đủ mát rượi cổ họng mấy lúc trưa trời nắng chang chang. Nhớ má ưa lúc thúc dưới bếp làm chuyện này chuyện kia không hở tay. Nhớ những buổi tối má con hủ hỉ dưới yến sáng lờ mờ của cái đèn con cóc dầu mù u nho nhỏ. Bây giờ những thứ thân thiết đó mỗi lúc một biền biệt, biết bao giờ mới được gặp. Còn anh Hai nữa, cả tháng nay đi làm xâu vét kinh Ông Đốc đâu miệt Tân Châu – Hồng Ngự mà chớ hề nghe nhắn nhe tin tức gì về. Nghe nói mỗi ngày nhà nước cho lãnh hai vắt cơm, mấy hột muối cục với lại một miếng khô mực nhỏ bằng hai ngón tay tréo, trả có xu rưỡi không đủ mua một bánh thuốc rê mà phải hụp lặn dưới nước giầm mình múc sình xắn đất. Ở đó muỗi mòng, đỉa vắt. Mình đi đây kể như anh em cách biệt. Cực chẳng đã bỏ làng chứ thuở tía chưa bị bắt thì nhà đâu đến đỗi. Mắt Lành rưng rưng, muốn thút thít khóc như ở nhà mà sợ bạn ghe chộ nên phải dằn, phải nén. Nhưng sao như có cái gì trong lòng đẩy ra làm Lành buồn man mác như lúc nhỏ bị rầy oan. Lành ngó vô góc, chỗ lườn ghe được phân khoang chứa chén dĩa kiểu. Hàng hàng lớp lớp, chén dĩa nhận giữa đống trấu đầy ắp. Được vài chục dĩa Càn Long chia chắc đỡ khổ. Thứ này dân chợ họ chuộng lắm. Chánh cống bên Tàu. Mua về chưng trong tủ kiếng để thiên hạ trầm trồ cũng mát mày mát mặt. Bao nhiêu họ lại không thảy tiền ra bưng về. Lành chép miệng quay về thực tế. Nhưng mà người giàu nứt vách đổ tường, kẻ không có đồng xu dính túi. Họ cho đặt chưn lên ghe là may rồi. Nếu không biết đâu bây giờ mình còn lụi đụi đâu đó dưới miệt dưới. Quá giang từng chặng mệt hơn nhiều. Chắc sáng mai tới bến. Rồi lại còn chuyện lạ nước lạ cái, hỏng biết có gặp người bà con hông. Chỉ biết họ ở chỗ xóm Đạo Chợ Đũi, gần trường con gái Chợ Đũi, mà không biết chắc ở đâu. Để nữa lên đó cất công kiếm coi. Kiếm hỏng ra là phận gái bơ vơ quê người xứ lạ đó. Lành tặc lưỡi như thấy má mình vô lý kỳ cục. Khi khổng khi không cái bắt người ta đi khơi khơi. Rồi biết chuyện gì sẽ xảy ra. Ở quê nhà bữa rau bữa cháo nhưng hủ hỉ có mẹ có con. Lo gì mấy chuyện lặt vặt ăn uống. Có mắm ăn mắm, có muối ăn muối. Với lại chim trời cá nước thiếu gì, lấy lộp, lấy nò đặt một ăn cả ngày hỏng hết. Rau cỏ mọc lu bù sau vườn, lền khên thiếu điều muốn nhổ bỏ. Đói đâu mà sợ? Có lẽ má sợ tụi đầu trâu mặt ngựa trong xóm trong làng đang được thế được thần làm trời làm đất. Rồi Lành sụt sùi ngang, khóc ngon khóc ngọt. Nhớ tới lời dặn lúc chia tay càng thấy chuyện má con gặp lại mong manh như cánh chuồn chuồn. Chắc con biết chuyện người đàn bà có chồng con bị cọp ăn mà vẫn không dọn nhà đi nơi khác? Tại vì chỗ đó không có quan lại khắc nghiệt đó con. Hương chức hội tề địa phương ác độc nhũng lạm còn ác hơn cọp dữ. Bởi vậy ông bà mình mới nói: Tàn chính mãnh ư hổ. Con phải đi khỏi chỗ này để bảo vệ thân... Giọng má run run trong nước mắt. Thân gái xa nhà hiểm nguy nhưng đi được cứ đi. Ai cũng muốn xa chốn này. Thời cuộc làm mấy thứ lộn tùng phèo hết. Làng nước bây giờ có thuộc về mình nữa đâu. Thuộc về tụi nó. Mà tụi nó móc ngoéo nhau rễ chùm rễ mớ. Người dân như mình đành chịu cảnh thờn bơn thôi. Lép một bề. Sống tới ngày nào hay ngày nấy. Đợi chờ. Mấy cây rơm trước sân kia nếu biết đi đã đi mất từ lâu rồi... Bây giờ mình ra khỏi vòng tay của má, tự đối phó với đời. May nhờ rủi chịu. Phải quyết định lấy, không còn chuyện mỗi chút mỗi “má ơi.” Tiếng hai người bạn ghe kéo Lành ra khỏi giòng suy nghĩ triền miên. - Tới Ba Cụm rồi đó. Anh biết bối Ba Cụm mà, lơ mơ nó cuỗm hàng hết bị nạo tróc da đầu đó. Với lại hai gói áo quần của tụi mình. Có bề gì có nước bận xà lỏn ra chợ. - Biết rồi, đừng làm tài khôn. Tụi nó thường đi trên ghe cui hay ghe vàm. Để cho thiên hạ tưởng đâu làm ăn chơn chất. Tụi bán vàm, bán rồi đi xuồng nhỏ xẹt qua xẹt lợi, coi trời ơi đất hỡi trái lại thiệt thà... Ở đời thiệt khó. Đâu ngờ. - Ừ. Cũng tại bị không ngờ mà hồi nẵm có chiếc ghe chài chở lúa, tụi bối xông nhang mê xúc cha nó gần hết ghe. Tom góp quần áo vàng vòng của bà chủ bộn bàng... - Xuỵt. Xuỵt. Kìa cái ghe cui ở đàng sau đương cặp theo ghe mình cà. Dám mấy chả lắm chứ hổng chơi đâu. Coi bộ dạng sanh nghi quá, cứ xôm xôm tới hoài. Lành lấy ống tay áo dụi nước mắt ngó về phía sau. Một chiếc ghe cui cũng đi theo dòng. Ghe bự bề ngang mà cụt đòn, coi quê kệt, loại ghe chở củi, chở tràm. Trong bóng tối, cái mui lở ngoài sau lái như một bệt đen in trên nền trời thưa thớt sao khuya. Trên đó thấp thoáng bóng hai người. Một điếu thuốc lâu lâu lóe sáng rực quơ lên quơ xuống, một cái đầu tóc khắc rõ nét trên nền trời mờ mờ tỏ tỏ xa xa. Trong bóng đêm, một giọng hò ngọt lịm lan truyền qua không khí tĩnh mịch đi thẳng vô từng lỗ chân lông người nghe. Ngọt hơn đường cát, mát hơn đường phèn. Lành rùng mình, chân tay nổi da gà. Tiếng hò quí phái như công tử ngày xưa dạo chợ, dịu nhĩu như con gái giã gạo chày đôi, chày ba hát hò dưới trăng. Hò ơ... Có gió đông hung mới biết tùng bá cứng Có ngọn lửa hồng mới biết thức vàng cao Thuyền quyên sánh với anh hào Đây không thả lá gieo đào như ai Hò ơi... Trúc kia đã lợp cùng mai Như chàng họ Lục sánh vai với chị Hai họ Kiều Xin nàng giữ dạ đừng xiêu Nếu một mai (hò ơ...) thuyền anh ra biển Bắc, ruột đau như thắc, nước mắt dầm dề, xa cách hương quê, giáp vòng Lục Tỉnh, anh cũng liều (mà... hò... ơ) trở về thăm e... m... Lành khớp ngang như lúc nhỏ đứng trước cây roi mây cật dài sọc của ông thầy già chi hồ giả dã. Muốn lên tiếng mà miệng cứ như quíu lại. Mở đầu nói chí mình, khuyến dụ là chuyện bình thường, cách buông vần câu thúc ở trên, phóng túng ở dưới, tỏ rằng đã lăn lóc nhiều trong câu hát điệu hò. Điệu này mình chỉ có nước vảnh tai nghe chứ không thể nào đối đáp được. Hai cái ghe tiếp tục trôi. Không gian im lặng nặng nề, âm thanh e...m… e...em... vẫn còn bao quát đâu đây trong gió đêm lành lạnh, quấn quít trong làn da chéo áo mọi người. Lâu lắm mới có tiếng hò đáp của giọng con gái trong trẻo, quyến rũ, nhưng ngắn gọn như bất cần lời ong tiếng ve: Hò ơ... Gá duyên thì phải lựa (mà) xem, Hò ơ... Coi thử (hò ơ...) đó là thằng Bùi Kiệm hay anh Vân Tiên (hò ơ...) em mới trao lời... Tiếng hò dứt mà Lành vẫn còn bàng hoàng chưa tỉnh. Giọng người ta trong vắt như nước nhìn thấy sâu dưới đáy, cao như nhạn lượn chín từng mây. Giọng của mình cũng có tiếng ở chòm xóm đó, nhưng mà so với người thì có nên thân nên hình gì đâu. Bất quá như mới biết múa quọt quẹt trước thầy võ vậy thôi. Đi xa mới biết trời cao đất rộng. Cao nhơn tất hữu cao nhơn trị. Hò ơ... Lên xe (mà) nhường chỗ bạn ngồi, nhường nơi (mà) bạn dựa, (hò ơ...) nhường lời (mà) bạn phân... Hò ơ... Anh đây cũng muốn (mà) kết nghĩa giao ân Hò ờ... Anh không phải là thằng Bùi Kiệm, sao chín mười phần (mà) bạn lại ngại nghi... Lành đã hiểu, họ hò giao tình, buông ong thả lá, giả đò như họ không đi chung ghe, giả đò như không quen biết. Cũng vui. Họ mở thắt bằng ý thơ Vân Tiên, để coi đi xa tới đâu. Người con gái bắt quàng thiệt đẹp. Vừa dẫn sách, vừa nói chí mình. Hò ơ... Thể Loan là đứa vô nghì…. khinh bần phụ khó, (hò ơ...) người đời (mà) được mấy kẻ ưa... Như vậy là quá rõ, còn đánh tiếng mình đã có nơi. Mọi chuyện đổi thay đều không hợp với luân thường đạo lý. Thường mở đầu cách này khó cho phe nam. Cánh cửa đã đóng, ván đã đóng thuyền. Nhưng giọng nam vẫn cất lên vừa tha thiết dụ dỗ, vừa khinh thường ngạo mạn: Em ơi, gái kiếm chồng nơi giàu sang nương dựa, đặng sáng với chiều lên ngựa xuống xe, đừng lấy thằng ghe chài, sáng ngồi lườn tối nằm be, để thân con gái má phấn không kẻ chở che, uổng đời... Hai người bạn ghe cười với nhau. Tụi nó xách mé mình rõ ràng. Có chọc ghẹo ai đâu? Nói gì thì nói, sao mạt sát ghe chài. Tức quá. Phải mình biết hò! Họ ngó Lành như hỏi ý, như cầu hiền. Lành bối rối. Lên tiếng hay không? Mẹ dạy con gái phải ít ăn ít nói. Miệng bằng tay, tay bằng miệng đâu tốt lành gì. Thôi nhắm mắt bịt tai, ngày mai tới chỗ. Cuộc đời mới trước mặt đáng lo hơn. Vui gì mà hát với hò. Quan trọng gì mà tranh hơn thua lời ăn tiếng nói. Xa trong đêm vắng, tiếng người con gái cất lên buộc tội: Chuyện nợ duyên ông Tơ bà Nguyệt định bởi Trời Anh ơi đừng giở thói bốc rời, ví như thằng Bùi Kiệm để tiếng đời hậu lai... Rồi bắt qua giọng khác: Lọng che dương dầu sườn cũng lọng, ô bịt vàng dầu trọng cũng ô. Trai như anh mù văn dốt võ, gái như em vẽ phụng thêu rồng, phải chi anh là con trai của Lục Ông thì em gắng công chờ đợi chứ lấy chồng làm chi... Lành cười. Hay quá. Câu trả lời gián tiếp. Đáng đời. Ai biểu chọc gái. Bây giờ có nhiều chuyện không biết đâu mà nói. Lắm kẻ tình tào khang tấm mẳn bỏ lửng để vui với bọn hương chủ, hương kiểm, hương tuần dốt nát. Nhiều người bấm bụng trao duyên cùng người mình khinh bỉ, hy vọng gỡ rối cho gia đình. Chuyện đó thiếu gì. Mấy tiếng “Theo nghĩa quân chống lại Đại Pháp” như lưỡi gươm kề cổ ai ai cũng sợ. Mấy tiếng “tàn dư ngụy đảng, tay chưn bộ hạ cựu trào” như một thứ thuốc nổ làm bay cửa bay nhà. Bọn hương chức hội tề được dịp là làm tới có thương ai, có xúc động vì ai bao giờ. Chúng rải cùng đường một lũ chó săn rình mò, nay phao vu đặt rượu lậu, mốt tố cáo bán sớt lúa trốn thuế. Đẩy xô đàn ông vào tù ngục để giở thói bóc rời đàn bà. Chúng ví như thằng Bùi Kiệm để tiếng đời hậu lai, lền khên trong làng, trong xóm, khen Đại Pháp anh hùng không ngượng miệng, hoan hô Pháp Lang Sa vĩ đại không tiếc lời. Chúng sung sướng được làm chim cú nhưng muốn đậu cành mai, hãnh diện làm khỉ rừng xanh, nhưng trong bụng muốn vin cành quế. Quên câu dầu sườn cũng lọng dầu trọng cũng ô. Phận mình ra đi một phần cũng vì lẽ đó. Chúng lấp ló ngoài ngõ, rồi sẽ bước vô nhà. Ở xứ văn minh này thì khỏi đi, thiếu gì người tài. Lành cười mắc cở với mình. Nếu có gì, mình sẽ tự nguyện như Nguyệt Nga, ôm bức tượng đợi chờ dầu da nhăn, má hóp, dầu chân run, tóc bạc cũng được. Đời người mấy ai được gặp Vân Tiên, đâu phải ai ai cũng có thể thủ tiết như nàng Nguyệt Nga? Duyên may một đời người chưa dễ gặp... Trên sông đêm, tiếng hò vẫn tiếp tục, đang biến dạng tới một hình thức cao hơn, gần với bản vọng cổ hoài lang điệu Bạc Liêu... Bớ em ơi, em đừng thấy ăn bận quần dài áo rộng, gấm nhiễu, khăn điều, lược đồi mồi giắt tóc, giầy da bóng chưn mang, em kiến là người quân tử. Em đừng thấy ăn bận quần rách áo rưới, vải thô vải đũi nón nỉ lủng đội đầu, chân không trần sình đất, em chê là kẻ tiểu nhơn. Chớ em không quên chuyện Thạch Sanh đóng khố gẩy đờn, bắt con chim đại bàng cứu nàng công chúa, về sau có ai hơn được chàng... Bớ em ơi, em đừng học thói Thể Loan, ham nơi vinh hiển, bỏ đàng (đã) hứa duyên. Em ơi cũng đừng học thói Điêu Thuyền, sớm mơi ôm Lữ Bố, chiều về tựa kề người nó gọi bằng cha, em hãy ở sao như Kiều Nguyệt Nga, giữ niềm chung thủy sang qua kết nguyền, về sau gặp lại Vân Tiên... Lành chập chờn trong giấc ngủ giữa tư bề sao rơi, bên tai văng vẳng câu hò trộn với những câu thơ Vân Tiên vẫn thường nghe hồi thuở nào xa xăm lắm. Trong giấc mơ, Lành sung sướng mỉm cười với hình ảnh Vân Tiên đầu đội kim khôi, tay cầm thương bạc, mình ngồi ngựa ô lẫn lộn với một tình cảm thẹn thùng bỡ ngỡ của bước đầu gặp người tình, khoan khoan ngồi đó chớ ra, nàng là phận gái ta là phận trai... Nước sông vẫn chảy lững lờ, chiếc ghe cui xa dần khoảng cách, trong đêm vắng mơ hồ đâu đó có tiếng người chùi xuống nước. Nhẹ nhàng, thiệt nhẹ nhàng... Mấy ngày giáp Tết như một đám tang trong lòng Lành. Bộ mặt âm u của ông bà chủ làm áy náy mọi người. Tiếng hò được trả bằng giá cắt cổ mổ họng thắt hầu bao. Tiếng hò đu đẩy mọi người vào cảnh phiêu bồng dọn đường cho bọn bối. Gói quần áo bay bổng theo hình ảnh Vân Tiên. Cái ô nữ trang, tiền bạc của chủ ghe mất hút theo những lời lý hò huê tình ngọt lịm. Mình khổ đã đành, vì quá thờ ơ, vì không đoán trước được chuyện xảy ra. Dân chúng nghèo khổ vì sưu thuế, phải bóc lột nhau để sống. Làm gì có chuyện hát hò suông được. Họ bê bối để sinh tồn, thông minh vặt để khỏi bị hủy diệt. Mấy năm trước đâu có cảnh này. Thiên hạ hiếu khách, thích mời mọc đưa đón chiêu đãi người phương xa. Nhưng sự mất mát của vợ chồng người chủ ghe bị hiểu như một sự xui xẻo do mình mang tới. Người ta không chịu nhìn thực tế vì đâu có bối. Người ta cằn nhằn những người gần gũi. Trông mong tìm gặp bà con để rời khỏi chỗ này. Nếu hình ảnh cha mình không quá lớn trong lòng họ thì chắc mình đã cù bơ cù bất, lang thang đầu đường xó chợ rồi. Biết chuyện gì đã xảy ra. Rồi chuyện cái kiềng vàng nữa. Tên anh chị ở Cầu Ông Lãnh đã giựt ngay trên cổ mình mấy ngày trước làm mình thiếu điều muốn lọi cần cổ. Nếu không nhờ anh Nam. Phải anh Nam không? Lúc đó mình vừa mừng vừa sợ, nghe được tiếng được tiếng mất, không biết trúng tên không – bắt thằng đó phải trả lại ngay chiều hôm đó, bây giờ mình không còn đồng xu dính túi. Người sao vô tình thi ơn bất cầu báo. Từ đó tới nay cả tuần mà cũng không lảng vảng đâu đây để mình nói một tiếng cám ơn. Mình còn ở đây có bao lâu nữa đâu? Rồi chân trời góc biển, biết đời đưa đẩy đi đâu! Lành bỗng nhiên ngượng nghịu ngó xuống hàng nút bóp của cái áo bà ba mới hồ dương giấy hiệu Nhảy Đầm hồi hôm qua. Mình phải lòng rồi. Nhớ nhung, trau chuốt. Nguyệt Nga đã gặp Vân Tiên. Nhưng mà kết tuồng có chăng như ý? Ngó lên bờ, mọi người như đã rút hết vô nhà để sửa soạn cúng ông bà, chờ giờ tốt xuất hành đón Xuân hái lộc. Từng đống dưa hấu tràn đường, cao nghều nghệu như núi, mấy trăm cần xé cam quít, cả dọc ghe chuối, cả đoàn ghe hàng bông mấy bữa trước, tưởng chừng không thể nào tiêu thụ hết, bây giờ chỉ còn trơ trọi mấy đống rác rến ngút ngàn. Bữa tiệc thịnh soạn cho bầy ruồi xanh vu vu khó chịu. Như bãi chiến trường sau cơn giặc và chiến sĩ không may của cả hai phe... Lành nao nao với sự so sánh bi quan vừa hiện ra trong trí. Có lẽ mình chịu ảnh hưởng của cuộc hành trình vừa qua. Có sóng gió, có trộm cắp, có hình ảnh Nguyệt Nga tự trầm. Không nên. Có gì đâu? Còn cái kiềng vàng. Người còn thì của cũng còn. Mấy bộ đồ vạt của bà chủ cũng tạm đỡ mấy ngày Xuân. Tìm được nhà bà con rồi thì mọi chuyện sẽ đương nhiên giải quyết. Bữa nay mồng một Tết mình cú xụ nữa thì sanh giặc. Lành sửa soạn cái cười thiệt tươi chào hai vợ chồng khi họ từ tấm bửng sửa soạn bước lên ghe sau khi đi xin xâm về. Người đàn bà tươi cười nói với Lành, chỉ về phía chỗ đoàn múa lân đang tụ tập, chỗ có tấm bia ông cọp trước đình Cầu Muối. - Lành, em lên bộ coi lân Sài Gòn kìa. Vui lắm, mấy thuở lên đây gặp dịp Tết... Rồi như đoán trước được lòng Lành, bà ta nói thêm: - Ối, hơi sức đâu mà buồn. Chuyện năm cũ hao tài khỏi tán mạng, nó lấy gói quần áo của em, như gánh cái xui xẻo của em. Sang năm mới sẽ khá hơn. Coi lân đi. Để ghe cộ đó dì coi cho. Ngày tư ngày Tết mà. Nếu có thì giờ ghé chùa Bà xin lá xâm đầu năm. Bà linh lắm. Đi dọc theo mé sông tới đầu chỗ đường Bồ Rệt thì thấy liền... Để vui lòng người, Lành dạ dạ rồi bước lên tấm bửng lên bờ, nhập vào đám đông đang bắt đầu lũ lượt. Từ xa nhạc trống lân dồn dập, tiếng trống tùng tùng, tùng cắc có sức hấp dẫn kỳ diệu. Lành nhập vào đoàn người thưởng ngoạn hồi nào hổng hay. Giữa vòng khán giả, đoàn người múa lân ăn bận quần áo võ sĩ gọn ghẽ tề chỉnh giống như tấm hình vẽ trên tờ giấy bản mục nát, mối ăn lỗ chỗ được cuộn tròn nhét phía sau trang thờ mà Lành thường được coi trong mấy ngày giỗ lớn của gia đình. Lành nao nức và tự thấy mình lạ lùng. Họ múa lân, họ đánh võ, họ biểu diễn thương, đao; chuyện này thường quá, có gì đâu? Mọi năm đoàn lân Phụng Hiệp bắt đầu múa riết từ xế chiều ba mươi tới hết ngày mùng năm, coi đà mãn nhãn rồi. Nhưng lân Lục Tỉnh quê mùa rẫy bái thế nào cũng thua lân chợ, chánh cống Sài Gòn. Quần áo bình thường bà ba vải ú đen, chưn quen đạp sình đất, nứt nẻ, múa hay thì có hay đó nhưng mà thấy nó kỳ kỳ. Quần áo của đoàn lân này xao xuyến lòng Lành. Ống quần cột túm bằng dây cao su ràng rịt lên tới ống quyển. Áo chẽn, thắt đằng chỗ bụng, có vẽ cái đầu lân đỏ chói phía sau lưng. Nón lá nhỏ vành, sơn đỏ, trên chóp có đính một cái ngù nhọn lễu. Giống hệt như chú lính thú ngày xưa trên Cao Man, Cần Giọt, chỉ có điều họ không có đầu tóc. Họ cũng không để râu. Nhưng bao nhiêu đó cũng đủ để kỷ niệm hồi còn nhỏ hiện về. Cặp mắt thành kính, mấy ngón tay run run trân trọng của tía trước mấy cây bạch lạp lung linh, khi vuốt tấm hình: - Ông con đó. Người lãnh chức Cai Đội trong đoàn nghĩa quân của Trương Công, chịu trách nhiệm từ bờ sông bên này Cần Giuộc tới cửa Gò Công, ra mút tới mấy Hòn Đất, Hòn Cu ngoài biển. Sau này, Trương Công bị phản, quy thần, nghĩa quân tan nát. Người dắt dìu tía về đây, giờ thì mọi sự đổi thay, cơ trời chuyển dịch, lòng người ly tán. Tía chỉ mong giữ gìn tiết tháo, hốt thuốc giúp đời, đợi ngày theo ông bà. Chuyện đội đá vá trời để người tài đức... Cặp mắt tía long lanh, mơ màng. Chút hãnh diện về dòng dõi lâu lâu mới được nhắc tới pha với sự an phận thủ thường của một cuộc sống tránh né lâu ngày chầy tháng thấp thoáng trong ánh mắt nhìn mông lung đó. Hai tía con ngồi ngó ra cửa hèn lâu, mọi người theo dòng suy gẫm của riêng mình... Trời càng xế trưa, càng nhiều người túa ra từ mấy căn nhà xa xa trong xóm, theo tiếng trống thúc giục. Con lân có hàm râu bạc dài ngót gang tay đang quay bên này, nghinh bên kia chờn vờn như hí cầu, múa sừng như tranh châu trước căn nhà có treo tiền. Cặp mắt lồi nhúc nhích, trợn dọc trợn ngang. Cái miệng lớn tổ chảng hoác ra quặp lại như sẵn sàng nuốt trọng ai đó trong đám người bu quanh. Cái sừng chiếc đen thui, cong queo, mỗi lần chồm tới như muốn rạch bụng người coi. Ghê thiệt. Nghề này mình đâu có phải tay mơ. Múa đầu lân bằng hai tay đã đành mà múa luôn hai cẳng với những cái đá, cái co chưn, cái thủ bộ lẹ làng gọn ghẽ, dòm sơ qua cũng biết tay nghề. Mười mấy phong pháo nối với nhau rũ từ mái nhà xuống gần sát đất, được châm ngòi. Tiếng nổ lốp bốp đùng đùng làm tai ai tai nấy đều kêu vo vo. Con lân, lạy thụt lùi ba lạy trước ngạch cửa. Nó ngước lên ngó cái cờ đỏ thêu mấy chữ vàng “Cầu Ông Lãnh Hoa Việt Thanh Niên Lân Hội” lòng thòng mấy cây cải “xà lách” và một dọc giấy “ngẩu” mới tinh được treo chót vót trên nóc nhà rồi múa loạn xạ như giận dữ. Những tiếng chắc lưỡi hít hà nổi lên đây đó. Đã thiệt. Nặng bộn chớ bộ chơi đa. Múa coi nhẹ hổng, như Hạng Võ cử đỉnh. Cả giờ rồi coi bộ có thấm thía gì đâu. Một nhúm năm người lo dựng lên một cây tre tầm vong già, bự bằng bắp tay, cao nghều nghệu. Họ lấy thế kềm cứng vây tre. Con lân múa một vòng, ngó lên, ngó xuống như ước lượng trước khi leo. Trò này Lành đã được coi một lần ở chợ Cần Thơ lúc nhỏ. Người múa lân máng cái đầu lân vô một cánh tay, leo lên cây tre thẳng tắp, trơn lu. Tuốt trên chót vót có xỏ ngang một thanh tre nhỏ, anh ta sẽ nhào lộn trên đó, trong tiếng trống. Chòm râu trắng phất phơ theo chiều gió, oai phong lẫm liệt như lão tướng xung trận. Thình lình tiếng trống gò lại nhỏ hơn, rời rạc hơn, con lân bỗng nhẩy phóc đứng trên một cái ghế đẩu múa may một đổi rồi đưa ra một chưn thẳng tắp. Từ trong đám võ sĩ đứng đàng sau, một con lân râu muối tiêu nhỏ thó, mặt mày cũng vằn vện vậy, nhưng có vẻ nhu mì hơn, chầm chậm bước ra. Cách đi đứng múa may, chờn vờn cũng nhẹ nhàng phong nhã, phiêu hốt. Nó lạy con lân râu bạc ba lạy rồi chun qua dưới chưn chầm chậm, khép nép như sợ sệt. Lành ngạc nhiên. Thói thường chỉ có lân lạ mới lạy chạy mặt nhau thôi. Còn đây hai con lân cùng đoàn mà. Họ làm ăn cái gì kỳ cục vậy? Có tiếng oang oang của một người muốn cho thiên hạ biết mình ta đây thông thạo: - Lân Cầu Muối lạy tôn lân Cầu Ông Lãnh làm đại ca đó. Nó chịu nhục lòn trôn giữa chợ. Như Hàn Tín lúc thất thời. Tám năm rồi, năm nào nó cũng phải làm cái mửng này. Có năm còn bị phun nước miếng lên sừng. Có năm bị giựt râu... Người khác kể rành rọt lớp lang ý chừng là dân cố cựu, nhau rún ở đây: - Từ hồi có trận chém lộn ở xóm họ đạo Chợ Đũi gần chỗ mả của Á Thánh Gẫm vì chuyện giành múa cho nhà thông gia của Bá hộ Xường, Sáu Tiết, anh chị của lân Cầu Muối, bị chém chết, đoàn lân rã đám. Nhưng Út Hồng, anh chị bự của lân Cầu Ông Lãnh, cứ cho làm chuyện kỳ cục này hoài. Mỗi lần coi là mỗi lần tức muốn bể bụng, nhứt là nhà mình ở xóm Cầu Muối. Tuy hổng ăn nhập gì tới mình, nhưng mà khó chịu... - Anh biết tại sao không? Út Hồng thấy một vùng nhỏ híu bằng bụm tay mà có hai anh hùng. Như nước có hai vua vậy mà... Làm sao anh ta chịu được nên bắt tay với đám “mã thầu dậu” ở Chợ Lớn, đám Tây u xếp tụi bồi bếp ở Bồn Kèn lừa dịp chém lén Sáu Tiết trong khi hai đàng đã hứa với nhau là bất tương xâm, chỗ ai nấy ở, đường ai nấy đi... Ngừng một lúc như để lấy hơi, ông ta nói thêm, có dây có nhợ: - Tội nghiệp đám em út, lớp bị mua chuộc, lớp giải nghệ, tứ tán hết. Đã vậy mà Út Hồng còn chưa bằng bụng nên diễn tích nầy để làm nhục mấy tay anh chị còn sót lại của lân Cầu Muối chơi. Thêm nữa, để dằn mặt mấy người muốn làm sống lại đoàn lân cũ. Bây giờ họ một mình một chợ, muốn làm mưa làm gió gì hổng được? Ai vô đó mà cản họ? Nhưng mà... làm vừa vừa chứ. Làm quá ai mà nhịn... Lành nghe hết câu chuyện. Cô lắc đầu. Thiệt hết chỗ nói. Chết rồi mà cũng không yên. Người ta giải tán rồi còn kéo ra làm xấu làm hổ. Vậy cũng mang tiếng anh chị một khúc sông, một bến chợ. Người theo mình trùng trùng điệp điệp đâu cũng ngót nghét cả trăm có ai tranh cãi gì đâu? Làm chi chuyện thù vơ oán chạ. Nhẹ thể mà thêm mất lòng mất bề? Tiếng trống vẫn tiếp tục nhẹ nhàng, lơi nhịp. Con lân râu muối tiêu vẫn kiên nhẫn lòn tới lòn lui dưới chưn con lân râu bạc vênh vang. Những giọng cười thinh thích hăng hắc chen giữa những cái nhăn mặt xốn xang trong đoàn võ sĩ. Một vài tên anh chị đâu đây xì xào mấy tiếng chửi thề bất bằng “đ. họ” và những cái háy nguýt nháng lửa. Không khí căng thẳng như bữa dàn trận chém lộn hồi năm ngoái ở Lăng Tô giữa đám anh chị bên Khánh Hội với mấy tay tổ xóm Cầu Kiệu mà Tây Tà phải trầy vi tróc vẩy mới giải tán được... Nghe chuyện, mình là đàn bà con gái mà cũng giận tím gan, cũng bứt rứt khó chịu. Như bến mình đậu ghe thiếu mặt anh hùng. Như đã lầm trao thân gởi phận nhằm anh chồng bị thịt, giá áo túi cơm...
Phụ Bản II Nhưng Lành không phải bực bội gì lâu. Chuyện tức nước bể bờ trước sau phải có... Con chó dồn nó vô chưn tường nó còn quay lại cắn, huống chi người. Một tiếng hét muốn bể lỗ nhĩ từ trong đám võ sĩ rồi một người hai tay cầm hai thanh mã tấu bự bản, đưa thẳng lên trời nói trong nước mắt: - Đại ca ơi... Em chết bữa nay. Em chịu hết nổi rồi. Tụi nó làm ô nhục mình quá. Em chết thiệt đẹp, thiệt ngọt để rửa nhục cho anh em mình nè đại ca...” Anh ta hươi đôi mã tấu sáng loáng a thần phù vô chém con lân Cầu Ông Lãnh. Anh chàng múa lân hết hồn lật đật đưa đầu lân ra đỡ. Hai thanh mã tấu phụp xuống ngọt như thể lướt qua thân cây chuối non. Cái đầu lân bị xả làm ba miếng lủng lẳng trên nan tre. Một tiếng ra lệnh bằng giọng Việt Nam trại trại nhưng sắc như dao thét lên từ đám người bận đồ xá xẩu đứng lu bu chỗ ông địa làm trò. - Chém nó. Chém chết nó đi, thằng phá đám, thằng phản thùng..” Đoàn người đi chợ Tết coi lân kinh hoàng chạy túa như ong bể ổ. Tiếng hét, tiếng la, tiếng dao chặt vô thịt, tiếng người ngã, cả thảy hợp thành một âm thanh khiếp đảm, chết chóc như trận giặc chòm. Lành bụm mặt chạy thục mạng để khỏi phải thấy loạn đao trên thân thể một người. Trong cơn hoảng hốt bất chợt Lành mơ hồ thấy người anh chị yên hùng đó có gương mặt phảng phất anh Nam... Ngày Tết qua lâu như cả chục năm dài. Câu chuyện thằng Nam Cầu Muối chém lân Cầu Ông Lãnh để chịu chết chuyền từ miệng người này sang người kh ác. Nhiều người thán phục, lắm kẻ chê bai, ai cũng có lý riêng: Anh hùng! Xuẩn động! Nhưng ai cũng là người đứng ngoài. Bàng quan mạnh miệng. Riêng Lành đau thấu tim gan. Người chết xuất hiện trong đời một lần thôi, nhưng như từng nối kết thân thuộc từ muôn trùng thời gian của thời Bàn Cổ. Việc ghi ơn giờ đây trở thành nhỏ nhoi so với hành động yên hùng. Câu nói, chết để rửa nhục cho anh em nhảy múa trong đầu Lành khi ăn khi ngủ, vang dội trong trí lúc đi chợ, nấu cơm. Nó kéo hồn Lành ra khỏi thân xác, nhập vô cảnh giới nào đó mù xa trên chín từng trời. Nó giở hổng Lành lên khỏi mặt đất, lửng lơ, tách khỏi thế giới trần tục bợn nhơ. Lành trở thành xa vắng trong khi có mặt, ngủ say trong khi đi đứng bình thường. Nhiều lần bà chủ ghe liếc Lành chắc lưỡi nói với chồng: - Tội nghiệp. Con nhỏ sao mà như mất hồn. Nó lơ ngơ láo ngáo cả ngày. Điệu này làm sao nó kiếm cho được nhà bà con. Hổng biết rồi mình giải quyết làm sao. Bỏ thì thương, vương thì tội... Lành bắt gặp tiếng thở dài chấm câu sau câu nói. Tiếng thở dài thương hại đặc biệt đàn bà. Nàng nghĩ mau về Nam. Về Vân Tiên. Về Nguyệt Nga. Về trường hợp mình. Sao lại tự nối kết đời mình với một người chưa chắc đã biết tên mình, chưa tỏ một chút gì tình ý, hơn nữa đã chết rồi. Chắc mình bị oan hồn xui ghẹo. Hồn người chết đâm chết chém vất vưởng không siêu độ được phải tìm chỗ nào đó tạm trú. Làm cô hồn. Làm một thứ ma đưa lối quỷ đưa đường. Phải đi ra Một Hình van vái mới được. M ình thề sẽ thương yêu kính mến anh ấy trọn đời và cầu vong hồn anh được siêu độ. Vừa thề vừa vái. Một công hai ba chuyện. Bộ đồ bà ba cổ bà lai bà chủ cho hôm Tết được lấy ra mặc. Cái áo hơi rộng, nhưng coi bộ còn tốt, cái quần vừa vặn. Lành vắt ngang cái khăn rằn quanh cổ, buông lòng thòng hai đầu xuống, đong đưa trước ngực, xăm xoi ngó vô kiếng, mỉm cười với mình, rồi đon đả lên bờ. Trời xê xế, đèn đường bắt đầu được thắp. Trên đường Lò Heo, mấy con heo bị dồn trên xe cá chở vô lò kêu eng éc buồn thảm đến nhức đầu. Phía gần Đường Giữa chỗ hẻm nhỏ nối với đường Boresse, xóm Lồng Đèn Kỹ Nữ, đã bắt đầu thắp sáng đỏ xanh. Lành bước mau, đỏ mắt vì mấy cái nhìn sàm sỡ của khách tìm hoa. Mấy cái xe kiếng lộp bộp móng ngựa trên đường chen với tiếng ken két ê răng của niền bánh nghiến trên mặt đường đá. Từ xa, xe lửa điển Sài Gòn – Chợ Lớn xẹt lửa trên nóc, in một đóm lửa tua tủa ra như pháo bông trong đêm càng lúc càng rõ, tới gần, qua mặt Lành rồi ngưng ở nhà ga Cuniac. Lành vui vui với xứ văn minh về đêm. Đèn đuốc sáng trưng, người ta đi lại dập dìu. Chẳng bù với xứ khỉ ho cò gáy quê mình, mới sụp mặt trời ai ở nhà nấy, buồn thỉu, buồn thiu … Từ Một Hình, Lành thả dài theo bờ sông, về lại ghe, kiểng nhà thờ Nhà Nước rềnh rang đổ tám giờ. Nam thanh nữ tú dập dìu chỗ vườn bông Đô Đốc. Mấy thầy thông thầy ký mang giầy “ăn phón” da bóng ướt sức giở lê n làm kiếng soi mặt nhổ râu được, áo bành tô vải ka ki bốn túi, đầu chải bảy ba, cặp tay mấy cô tân thời, đầu tóc lòng thòng khỏi vai, có cái đuôi bánh lái, coi thiên hạ bằng nửa con mắt. Thấy xốn mắt. Đánh đôi đánh đọ cũng có khi có thì, có nơi có chốn, sao lại đem ra chỗ thập mục sở thị. Mấy ông mấy ngài còn theo nếp xưa, áo dài nhiễu đại đóa dài tới gối, quần the rộng ống, chân mang giày Canavaggio, đội nón cối trắng, râu ngạnh trê vuốt sáp nhọn lễu, đề huề dạo với vợ con, nói năng nhỏ nhẹ, cử chỉ từ tốn. Mấy thầy chú ngó Lành lườm lườm như ngạc nhiên, như muốn nuốt sống. Con gái sao một mình lang thang chỗ này. Lăng Tô là chỗ của những cặp tình nhân, những người có gia đình. Lành thẹn thùng ngó xuống đất, rảo bước thẳng. Xứ gì kỳ cục, đàn ông, đàn bà cặp kè. Cột cờ Thủ Ngữ cao nghệu, Tây Tà rượu chè ồn ào thấy sợ. Phía cầu Quây, khúc giữa giòng sông đương được quây xuôi theo dòng nước nhường chỗ cho tàu đò chạy qua. Mấy người đi chơi đứng hai bên cái cầu thiếu đó cười cười nói nói, chỉ chỏ vui vẻ. Chuyện lạ lùng. Chừng nào về quê phải kể cho má nghe mới được. Cầu Quây đương là cầu biến thành sông. Từ bến Khánh Hội, mấy tay anh chị bến tàu thả xe đạp Alcyon trắng nõn qua dốc cầu Móng dài dằng dặc. Coi vui vui. Tiếng người nào đó bên tai Lành nhột nhột khi Lành qua chỗ nhà băng xây bằng đá cao nghều nghệu. ‘Xin lỗi cô Hai... dám nào cô dừng chân cho hỏi...’ Mắc cở đỏ mặt. Lành ngúng nguẩy bỏ đi. Chuyện chưa có gì hết nhưng mà thấy có tang lòng. Mấy lời van vái trước ông Một Hình làm mình nhẹ nhõm hơn. Bây giờ trên tinh thần mình thuộc về hương hồn anh ấy. Phải xứng đáng với người chết anh hùng. Chết rửa nhục. Chết để khỏi cúi gầm mặt cho chúng bôi tro trét trấu. Thiệt thòi phận gái một chút cũng không sao. Thiên hạ có ai xứng đáng hơn đâu. Cuộc đời lạ lùng. Câu hò trên sông của tụi bối Ba Cụm ứng như lời thầy bói linh. Rồi đây cuộc đời mình tuy buồn thiệt nhưng đẹp, thơm như hoa dạ lý tỏa hương, như tiểu thơ họ Kiều kia thề không để tiếng chê cười, như người bội bạc: Dầu ai buông tiếng ngọc, Dầu ai đọc lời vàng bông sen hết nhụy bông sen tàn em đây giữ tiết như nàng Nguyệt Nga....
chẳng thà em chịu đói, chịu rách theo cách bà Mạnh, bà Khương…... chớ không như Võ Hậu đời Đường làm cho bại hoại cang thường nhơ danh, chẳng thà nghèo khó ở túp lều tranh chớ không đành bội nghĩa như cha con Võ Công tham tài... Anh Nam đã thắp một ngọn đèn cho bạn hữu để họ thấy cái nhục. Rồi sẽ có những ngọn đèn khác. Rồi sẽ có người nhờ yến sáng đó mà mở mắt ra. Rồi những người trai trẻ đang rèn tập võ nghệ mỗi chiều ở đường Lò Heo sẽ thấy lại được cái nghĩa sống. Mình có đớn đau trong dạ cũng có nhằm nhò gì đâu đối với cái chết của người anh hùng. Lành nói với mình chắc như đinh đóng cột: “Mình sẽ thủ tiết. Phải thủ tiết. Có gió đông hung mới biết tùng bá cứng, có ngọn lửa hồng mới biết thức vàng cao. Mình sẽ ở vậy. Hay ít ra chờ đến khi gặp được một anh Nam khác.” Nụ cười sung sướng nở trên môi Lành. Bên kia sông mấy ngọn đèn lù mù trước mặt Sở Nhà Rồng bỗng nhiên sáng rực như nhà đèn Chợ Quán vừa đổ thêm than vô lò. Lành bước mau về phía Cầu Chong. Gần tới chỗ ghe đậu rồi. Phải thắp cho anh ấy mấy cọng nhang. Gió sông Quai de Belgique thổi lên phơi phới, mát rượi. Chỗ ga Cuniac, ban nhạc kèn đồng vẫn say sưa biểu diễn, âm thanh xập xình vang dội xuống mé sông làm bập bềnh mấy chiếc ghe thương hồ đương triền miên trong giấc ngủ. Lành mỉm cười, bước mau, trong trí vang dội mấy câu thơ Vân Tiên vừa chợt hiện: Trai thời trung hiếu làm đầu Gái thời tiết hạnh là câu trau mình...
NGUYỄN VĂN SÂM San Marcos, Texas tháng 9/83 ĐI TRƯỚC MÙA XUÂN
Trời vào xuân ta cũng đang xuân Chẳng đợi đến giao thừa mồng một Em có thấy bước chân mình đi trước Cùng ngọn lửa nào đang thiêu đốt con tim
Ta đi trước thời gian đi trước mùa xuân Vào tiệc tâm hồn nâng ly khai vị Men rượu nào làm ta say thế Nghe trào dâng dòng nhựa cây đời Nắng mới lên rồi lấp lánh niềm vui Ta trao cho nhau lẵng hoa đẹp nhất Mang sắc hương cội nguồn của đất Nụ môi thơm anh nhận em trao Giữa vườn xuân bừng nở thắm mai đào
Hạnh phúc giản đơn trong tay ta đó Xin lửa mặt trời chia đều cho hoa cỏ Và một phần nhỏ cho ta Để sắc xuân mãi chẳng phôi pha! LÊ NGUYÊN Trước Tết GIÁP NGỌ 2014 XUÂN 2014
Ồ… đẹp quá, vườn chiều mai óng ả Nắng nhuộm hoa hay hoa nhả nắng vàng Ta ngây ngất giữa vàng tươi hoa nắng Bỗng giật mình, nghe tiếng gió kéo Xuân sang
Từ đâu đến lả lơi theo chiều gió Mùa cạn dần Xuân lặng lẽ ra đi Đời cũng thế trào tuôn như thác lũ Chỉ còn ta ngơ ngẩn mấy vần thơ. Hải Đăng: Trần văn Hữu BÓI QUẺ ĐẦU NĂM Cụ già râu bạc bạc Thiếu nữ má hồng hồng Mời cụ xem cho quẻ Sang năm mới có chồng. Hải Đăng: Trần văn Hữu THĂNG HOA Đón mừng hương sắc thắm tươi hoa Mừng rước Tân niên đến mọi nhà Hương Tết ngàn năm luôn tỏa sáng Sắc Xuân muôn thuở vẫn không nhòa Thắm tình non nước, gương hào hiệp Tươi nghĩa quê hương ý hợp hòa Hoa đẹp thi nhau bừng khắp chốn Việt Nam hưng thịnh tiếng vang xa XUÂN VÂN DẠO KHÚC XUÂN ĐẦU Ngàn hoa rực rỡ nét tân trang Lộc trổ đầy sân, phúc ngập tràn Phe phẩy cành xanh, mời cánh bướm Khẽ khàng lá thắm rủ ong sang Phòng văn rạng rỡ chào mai thắm Áng sách tươi vui đón nắng vàng Ngày mới hương lòng thêm ấm áp Xuân tình, xuân mộng: mở phong quang XUÂN VÂN XUÂN GIẢ - BUỒN THẬT Cuối năm, thôn vắng, thiếu Hoa Mai Én trốn đâu rồi, chẳng vảng lai Ra vào, chỉ có ta và bóng Tết đến, làm ngơ thấy cũng hoài !
Thế là…
Ra vườn nhặt lấy một cành cây Mua bịch Mai giả, gắn cho đầy Chùm thì nở rộ, chùm phong nhụy Xem ra… cũng giống Tết rồi đây!
Thêm chút trà thơm, dăm món Mứt Mãng Cầu, chưng với Đủ, Dừa, Xoài Bày đôi Vạn Thọ hai bên cửa Thế là nhà có Tết về ngay!
ooo
Hương trầm phảng phất lúc Giao Thừa Bỗng lòng chùng xuống, nhớ Xuân xưa Quanh ta: Cha, Mẹ, anh, em, bạn… Họ ở nơi đâu cả, bây giờ?
Mấy chục Xuân qua như bóng mây Tóc bạc bao giờ, đâu có hay! Ga đời quạnh vắng, ngày đơn lẻ Xuân Giả - mà Buồn Thật, mới cay! Tâm Nguyện (Tháng 1/2014) PHÚT XAO LÒNG
Mình hẹn chờ nhau ở kiếp sau Sông Ngân ngày ấy khóc biệt nhau Thế rồi, trần cảnh mênh mông quá Biết đợi chờ anh ở bến nào !
Lang thang trăm bến, anh tìm mãi Em ngóng tin anh đến mỏi mòn Mấy chục năm dài, mong thắt dạ Gặp nhau, tóc đã điểm màu sương !
Tình hỡi, duyên xưa thôi đã lỡ Thuyền ai cũng có bến neo rồi ! Khơi lời hẹn cũ chi thêm tủi Ngậm ngùi giã biệt, tiếc khôn nguôi ! Tâm Nguyện (Tháng 1/2014) CHÚC MỪNG NĂM MỚI
Chào xuân đẹp đến tưng bừng Rộn ràng đón Tết vang lừng tiếng ca Nhân dân vui hưởng thái hòa Tám ba tuổi Đảng trẻ già ấm no
Việt Nam độc lập tự do Đồng xanh lộng gió bài thơ dịu dàng Chúc nhau hạnh phúc an khang Vươn cao thịnh vượng giàu sang đậm đà
Dồi dào sức khỏe thêm ra An tâm thỏa trí nhà nhà phồn vinh Vui tươi vững chãi gia đình Ấm êm sung túc nghĩa tình bền lâu
Trẻ trung ý hợp tâm đầu Giỏi giang tài đức đẹp câu phỉ nguyền Thành công hiển đạt bình yên Vẹn toàn hoàn hảo hữu duyên sum vầy NGÀN PHƯƠNG LỜI CHO EM CUỐI NĂM Như loài chim di trú Thêm một lần bay theo mùa xuân Về miền thánh cư hồng xanh giấc ngủ Xin em đừng mang theo về đôi cánh bâng khuâng
Xin ngàn năm thần thoại Trên bình yên môi má hồng đơn Trong bỡ ngỡ hồn em đồng tiền mừng tuổi Xin cho em nụ cười tròn Như chiếc khuyên vàng cổ áo tân hôn
Lời nguyện cầu về một tương lai gần gũi Như trong ngày mai ngày mốt Gần như một giờ sắp đến Hay một ngày sắp đi Mùa xuân thức dậy trên trời Niềm vui không rách nát tả tơi Em rời bục gỗ nhà trường bảng đen cô giáo Trở về làm học trò Cho những xót xa cay đắng trong đời Dễ thương như tiếng khóc trẻ thơ
Xin cho em mùa xuân tuổi dại Mắt khóc môi cười không dấu mặt che tay Xin cho em thôi cuộc du trình đày ải Thôi truyền thần lên hồn thủy tinh Những ấn tượng cuộc đời tủi nhục đen đúa hôm nay. Thiếu Khanh (Trong Cơn Thao Thức Nxb Da Vàng, Đà Nẳng, 1971) NÀY XUÂN Lại thêm một khắc giao thời Lại thêm nữa một phần đời đi qua Lại thêm tàn những cánh hoa Lại thêm câu hát gọi là mùa xuân
Chúc ngày thanh thản Chúc tháng thênh thang Chúc năm rỡ ràng Chúc đời suôn sẻ
Thật nhiều mới mẻ Thật lắm xôn xao Thật đẫy hồng hao Thật dồi dào tâm ý
Xuân sẽ đầy thi vị Xuân sẽ ngát hương hoa Xuân sẽ rất an hòa Cho muôn người Xuân nhé
Nghe thư thả gió bên trời đang vẽ Chiếc áo xuân vẫy lượn giữa từng mây Ai đắm tình và ai nữa đang say Trong nắng hát và trong ngày đang mới ĐÀM LAN Xuân phai Hai ông già tóc bạc Đứng ngơ ngẩn nhìn nhau Mùa Xuân đi qua ngõ Sương sớm lạnh mái đầu...
Hôm nay Mùng Bẩy Tết Nàng Xuân đã đi đâu Cháu con giờ xa tít Hoa Xuân vẫn tươi màu
Tóc bạc trắng phau phau Bên đường nắng hồng đào Hỏi han vài câu chuyện Xuân nay nhớ xuân nào...
Đã biết bao mùa Xuân Bao đổi thay trầm luân Đời trắng đen dâu bể Lòng đắm nỗi tái tê...
Bụi thời gian trắng đầu Nhớ hoài ngày xưa sau Con cháu mới xôn xao Ngày vui sao quá mau...
Nắng rực rỡ Cúc Mai Đào e ấp nụ hồng Tình Xuân như thoáng phai Nỗi nhớ nhung dâng đầy...
Bâng khuâng Xuân nhạt màu Tường Vi buồn bên cửa Gió lạnh lùng cánh lụa Xuân phai màu xanh xao! Phạm Thị Minh-Hưng TÌNH XUÂN GỬI GIÓ MÂY Mây trắng ơi bay về phía nao Xin cho nhắn gởi chút xôn xao Chút tình hư ảo bay theo gió Về ngả trời Xuân có nắng đào
Xin gởi Nàng Xuân chút ngất ngây Cánh hoa hồng đỏ, má hây hây Mảnh tình sao sáng, tình say đắm Mộng chẳng vơi, tình ăm ắp đầy.
Xin gởi làn mây trắng bay cao Trời xanh biêng biếc, chút hư hao Và chút bâng khuâng về nẻo ấy Tình có là mơ, có khát khao?
Gởi nhé! Mây ơi chút ngọt ngào Nương theo cánh gió nắng xuân đào Ngan ngát hương thơm, tình vời vợi Tình xuân nồng thắm, mộng xinh sao! Phạm Thị Minh-Hưng SÁNG MỒNG MỘT Nàng bọ rùa vươn vai định bay lên không gian xanh biếc Lại ngẩn ngơ bám lại ở nhành mai Nơi sắc vàng làm cô bé ngất ngây Thử so sánh có đẹp hơn những chấm màu trên cánh… Vuốt vuốt chiếc miệng xinh, chàng bướm lém Khẽ tỏ tình với cách đó không xa Nàng bướm mun, những chấm trắng chói lòa Khoe trên lá mùa xuân xanh mơn mởn. Bầy ong ruồi, thấy hoa là lởn vởn Rồi bạo gan mở hẳn đóa xuân thì; Thật vội vàng và rất đỗi đê mê Hút cho hết vị cùng hương ngọt mật! Gã chích chòe với giọng ca khao khát Mắt ngả nghiêng chao cánh lượn vườn tình Rồi véo von cho khúc hát thật duyên Chắc gã mới chấm nàng nào vừa ý. Chị em nhà lan với tia nhìn ngạo nghễ Khẽ mỉm cười đáp lại tiếng gió qua Hỏi lan à! Ai đẹp nhất làng hoa? Chị em nhà ta, dĩ nhiên là khôn sánh! Phía bên kia, chàng hướng dương tròn vạnh Cười, chàng luôn cười với ánh mắt thật vui Bụng thầm nghĩ, so trong cả đất trời Nào có ai huy hoàng hơn ta nữa? Chú sâu đo đu đưa theo võng gió Sau bữa trời cho những nhú lộc ngạt ngào Chú tuênh huênh với chúng bạn trên cao Theo điệu vũ, và suýt thì ngã xuống!
Chiếc gương soi, sáng nay tay bóp trán Chẳng hiểu sao tiểu chủ cứ loay hoay Soi rồi lại soi, thỉnh thoảng mỉm cười Cô mình sáng xuân hôm nay, sao đẹp lạ. Cô nhìn cô bỗng nhiên cười bỡ ngỡ Cô nhìn gương, má ửng nhẹ sắc hồng Trong mắt như có chút vị đợi trông Lan vào cả chiếc áo dài thật mới… LAM TRẦN 25.01.2014 XUÂN TÂY BẮC Hoa Ban nở là báo mùa Xuân đến Cánh hoa cười bên mắt lá hình tim Mê mẩn say bao du khách đi tìm Nguồn cảm hứng cho thi, ca, nhạc, họa
Ấm áp nhà sàn khói lam lan tỏa Dẻo mềm thon thả, thoăn thoắt đôi tay Cô Thái trắng ửng hồng đôi má Lòng rộn ràng bên khung cửi mê say
Sợi chỉ dọc dệt thêm nỗi nhớ Sợi chỉ ngang nảy nở tình thương “Sấp đôi bàn tay đã thành hoa văn Ngửa đôi bàn tay đã thành hoa lá” (1)
Tiếng thoi đưa nhịp nhàng vui bản nhỏ Hương Xuân thơm trong thổ cẩm đượm tình Cô gái nõn nà, ngón tay cong uyển chuyển Ánh mắt nồng nàn thầm kín trao duyên
Đêm hội xòe phô tài cô gái Thái Khèn nghiêng chao quấn quýt với gió đông Quả còn giao tình nâng đôi chân trai gái Thiếu nữ Mông e thẹn cánh môi hồng
Bên bìa rừng tiếng chim họa mi hót Giọng thiết tha như tìm bạn cặp đôi Tín hiệu vui cuộc sống đã đổi đời Niềm hạnh phúc rạng ngời đôi mắt trẻ
Vách núi cao dòng suối ngọc phun trào Ào ào đổ tung bọt bay trắng xóa Ta hoa mắt trước bao điều mới lạ Trong nắng Xuân rực rỡ sắc cầu vồng
Ruộng bậc thang trập trùng gợn sóng Lớp lớp xanh xô về phía chân trời Như sóng nhạc tình yêu cuộc sống Giai điệu thiên nhiên tươi đẹp tuyệt vời
Đêm bản nhỏ lung linh điện sáng Nghe âm vang tiếng trẻ nhỏ học bài Tiếng đàn môi gọi mời tha thiết Khúc tình ca ngọt lịm đôi môi
Tiếng cồng trầm như tiếng gọi ngàn xưa Quá khứ đau buồn của người Khơ-Mú Kiếp nô lệ tủi hờn cuộn dòng suối lũ Như hạt nảy mầm khao khát mưa Xuân
Tây Bắc Xuân mưa, ôi đẹp vô ngần Mưa rắc bạc trên lá cây ngọn cỏ Mặt đất như tỉnh bừng sau giấc ngủ Cũng phập phồng chờ đợi bâng khuâng
Mưa dát ngọc khăn Piêu cô gái Mưa Xuân tươi cây cối mới trồng Nắng xuân mềm vạn vật hanh thông Mang bao điều tốt lành về cho bản LÊ MINH CHỬ (1) Tình ca Thái CHÍNH THỨC VINH DANH NGUYỄN DU LÀ DANH NHÂN VĂN HÓA THẾ GIỚI
Đại thi hào Nguyễn Du vừa chính thức được vinh danh là Danh nhân văn hóa thế giới tại kỳ họp Đại hội đồng lần thứ 37 (ngày 05 – 20.11) của Tổ chức Khoa học, Giáo dục và Văn hóa của Liên Hiệp Quốc (UNESCO) đang diễn ra tại Paris (Pháp). Tổ chức UNESCO đặc biệt đánh giá cao hồ sơ về đại thi hào Nguyễn Du vì sụ ảnh hưởng của ông trong lịch sử văn hóa Việt Nam và cả khu vực. Tác phẩm Truyện Kiều của Nguyễn Du đã được dịch ra hơn 20 thứ tiếng, đặc biệt phổ biến tại Pháp và Mỹ. Nguyễn Du sinh ngày 03 tháng 01 năm 1766 tức ngày 23 tháng 11 năm Ất Dậu. Ông mất 1820, quê làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, phủ Đức Quang, trấn Nghệ An (nay thuộc Hà Tĩnh), nhưng sinh ra ở quê mẹ - làng Kim Thiều, xã Hương Mặc, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh và trải qua thời thơ ấu ở Thăng Long. Ông thuộc dòng dõi trâm anh thế phiệt: cha là Xuân Quận Công Nguyễn Nghiễm làm tới tể tướng dưới triều Lê; mẹ là bà Trần Thị Tần, vợ thứ ba của Nguyễn Nghiễm, người xứ Kinh Bắc (Nguyễn Nghiễm có 8 vợ, 21 người con). Anh khác mẹ (con bà chính) của ông là Toàn Quận Công Nguyễn Khản làm tới Tham Tụng, Thái Bảo trong triều. Bố vợ là Đoàn Nguyễn thục, cũng đỗ Hoàng Giáp, làm quan Đông các. Do là con thứ bảy nên Nguyễn Du còn được gọi là cậu Chiêu Bảy. Các tác phẩm của ông như “Thanh hiên thi tập”, “Nam trung tạp ngâm”, “Bắc hành tạp lục” (chữ Hán) và đặc biệt là Truyện Kiều chan chứa nỗi đau nhân thế, mang khát vọng hạnh phúc, tình yêu, tự do và công lý đồng thời tố cáo sâu sắc sự tàn bạo của chế độ phong kiến. Truyện Kiều, đỉnh cao của nền thi ca Việt Nam, chứa đựng những tư tưởng nhân văn lớn, đạt tới sự hoàn mỹ về nghệ thuật ngôn từ. Ông được xem như là một nhà thơ lớn nhất Việt Nam từ trước đến nay, người Việt kính trọng gọi ông là “Đại thi hào dân tộc”. Năm 1965, ông được UNESCO tôn vinh là danh nhân văn hóa thế giới. TRUYỆN KIỀU – MỘT DI SẢN CỦA NHÂN LOẠI Bộ “Từ điển các tác phẩm của tất cả các thời đại và các xứ sở” của Hiệp hội biên soạn Từ điển và Bách khoa toàn thư, xuất bản ở Paris năm 1953 (Dictionnaire des oeuvres de tous les temps et de tous les pays – Société d’édition de dictionnaires et encyclopédies, Paris 1953) Bộ Từ điển gồm 4 tập, dày hơn 3000 trang (khổ sách 22x30cm), với 16.000 tác phẩm (tiểu thuyết, thơ ca, kịch, triết, luật, khoa học, nghệ thuật và âm nhạc…), từ những tác phẩm xưa nhất của Ai Cập và Trung Hoa cho đến những kiệt tác thời hiện đại. Bộ Từ điển cung cấp rất nhiều ảnh tư liệu về các tác phẩm nghệ thuật, hội họa, kiến trúc, điêu khắc… nổi tiếng thế giới qua các thời đại, có thể bổ sung hiệu quả cho các bộ Bách khoa toàn thư. Giới thiệu bộ Từ điển này, André Maurois (Viện sĩ Viện hàn lâm Pháp) viết: “Đây là một công trình biên soạn công phu, kiên trì trải qua nhiều năm, là kết quả xuất phát từ ý tưởng hợp tác Pháp – Ý, với một tập thể các chuyên gia, các nhà nghiên cứu, các nhà dịch thuật…, tập hợp xung quanh Valentino Bompiani, chủ nhiệm một nhà xuất bản lớn của nước Ý”. Trong số 16.000 tác phẩm các loại, bộ Từ điển giới thiệu hơn 10 tác giả Việt Nam, chủ yếu từ cuối thế kỷ XIX trở về trước(1) Dưới đây, chúng tôi xin được trích mục từ “Kim Vân Kiều” trong bộ Từ điển này (Tập III, tr.147-178) KIM – VÂN – KIỀU “Tác phẩm thơ của Nguyễn Du, một quan chức và nhà thơ Việt Nam (1765-1820). Tác phẩm gồm 3.254 câu thơ theo thể lục bát, là kiệt tác của nền thơ ca cổ điển Việt Nam. Tên tác phẩm cũng là tên các nhân vật chính (Kim Trọng, Thúy Vân, Thúy Kiều). Tác phẩm còn được xuất bản với những tên khác (Truyện Thúy Kiều, Đoạn Trường Tân Thanh…). “KIM VÂN KIỀU dựa theo một tiểu thuyết Trung Hoa, nhưng với thiên tài, nghệ thuật kỳ diệu và ngôn ngữ xuất chúng, Nguyễn Du đã biến cải hoàn toàn tác phẩm gốc và tái tạo một tác phẩm khác với một linh hồn mới, một bản sắc riêng. “Ở vào thời kỳ người Việt Nam đang thoát dần ra khỏi sự lệ thuộc ngôn ngữ (Hán) để trở về với tiếng mẹ đẻ, thì công lao vĩ đại của Nguyễn Du là ông đã biết phát huy bí quyết nghệ thuật chỉ riêng ông có. Ngôn ngữ dân tộc vốn đã phong phú, giàu chất nhạc, được Nguyễn Du nâng lên tột đỉnh của nghệ thuật, mà trước đó và cả đến hôm nay, chưa có tác giả nào vươn tới được(2). “Với KIM VÂN KIỀU, Nguyễn Du muốn thử chứng minh một luận đề do chính tác giả đặt ra: những con người cao thượng, siêu phàm, tài sắc… thường là nạn nhân của số mệnh nghiệt ngã và hình như đó cũng là lẽ đương nhiên của trời đất: “Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen…”. “Người ta muốn nghĩ rằng kiệt tác của Nguyễn Du bắt nguồn từ thân thế của ông: hồi đầu, ông bị ràng buộc với triều Lê thời mạt vận, sau đó ông lại phải phục vụ triều đại mới (triều Nguyễn). Ông có mặc cảm tội lỗi, trái với truyền thống “trung quân”; cũng như Thúy Kiều đã trót nặng thề với Kim Trọng, cuối cùng đành khuất phục số phận, tan nát mối tình đầu… “Một sự xác tín như vậy có phần nào hàm chứa sự thật hay không? Chỉ biết rằng Nguyễn Du đã gửi gấm trọn vẹn trái tim, nhiệt huyết, kỳ tài vào tác phẩm của mình và đạt đến thành công trước nay chưa từng có…” (Tiếp theo là phần tóm lược nội dung Truyện Kiều) “(…) KIM VÂN KIỀU được sáng tác từ đầu thế kỷ trước (thế kỷ XIX), vậy mà đến nay vẫn nguyên vẹn chất tươi mát kỳ lạ, vẫn là kiệt tác ở đỉnh điểm của nền văn học Việt Nam. Nghệ thuật tuyệt vời của Nguyễn Du đã khắc họa được những nhân vật điển hình có giá trị vĩnh cửu (Tú Bà, Sở Khanh…), với ngôn từ đặc biệt trong sáng và dáng dấp tuyệt mỹ của từng câu thơ. “Tùy theo từng hoàn cảnh, từng số phận, người ta dễ dàng tìm được một câu Kiều hay một đoạn Kiều để bình giải, cho dù đó là một người bình dân hay một nhà trí thức… “Hẳn rằng trong kho tàng ngôn ngữ của nhân loại, chưa hề có hoặc hiếm có một tác phẩm nào lại rất đỗi thân quen và sống mãi với dân gian như KIM VÂN KIỀU của Nguyễn Du. Bất cứ người Việt Nam nào cũng thuộc lòng nhiều câu lục bát, thậm chí nhiều chương đoạn KIM VÂN KIỀU, và trên thực tế nhiều câu Kiều đã trở thành ngạn ngữ(3). Có thể nói, đến bây giờ - ở thời điểm hiện tại, những nhận xét đánh giá trong bộ Từ điển chúng tôi giới thiệu trên đây không có gì quá bất ngờ để gây sửng sốt đối với bạn đọc. Nhưng tính khách quan và ý nghĩa thời điểm xuất bản của bộ Từ điển thì vẫn còn nguyên vẹn, rất đáng để “khen cho con mắt tinh đời” của một tập thể tác giả ở tận bên trời Âu, hơn nửa thế kỷ trước. Xin được lưu ý: bộ Dictionnaire des oeuvres de tous les temps et de tous les pays hoàn thành và xuất bản năm 1953, ở thời điểm mà chỉ trước đó bốn năm (1949) trong tác phẩm “Quyền sống của con người qua Truyện Kiều của Nguyễn Du”, nhà phê bình tài danh và nhạy cảm Hoài Thanh đã phải “mời” Nguyễn Du vào “Mặt trận Liên Việt” để giúp ông né tránh một vài suy nghĩ cực đoan nào đó. Và cả một thời gian dài sau này, có không ít học giả Trung Hoa đã không chịu công nhận nghệ thuật sáng tạo đặc sắc của Nguyễn Du, muốn xem Truyện Kiều chẳng qua chỉ là một cuốn sách phóng tác từ gia tài văn chương Thanh tâm tài nhân. Ấy vậy mà ngay giữa lòng nước Pháp, nước Ý, chúng ta bắt gặp một nhận định công bằng, trân trọng: “Với thiên tài, nghệ thuật kỳ diệu và ngôn ngữ xuất chúng, Nguyễn Du đã biến cải hoàn toàn tác phẩm gốc và tái tạo một tác phẩm khác với một linh hồn mới, một bản sắc riêng”. Quý giá biết nhường nào một nhận định hiếm hoi từ thế giới phương Tây, ở cái thời kỳ văn nghệ của ngay chúng ta đang sôi nổi tranh luận về “hiện thực xã hội chủ nghĩa” trong văn học nghệ thuật. Điều bất ngờ thú vị là trong số hơn 10 tác giả văn học nghệ thuật Việt Nam được giới thiệu trong bộ Từ điển, thì Nguyễn Du được ưu ái đặc biệt… Những mục từ Hải Thượng Lãn Ông, Nguyễn Án, Nguyễn Bỉnh Khiêm, hay ngay cả các bậc thi hào thi bá Nguyễn Trãi, Nguyễn Đình Chiểu chỉ được dành một dung lượng vừa phải thì với Nguyễn Du, Từ điển đã dành hơn một trang khổ lớn với gần 2.500 từ để giới thiệu, tóm tắt, nhận định và đánh giá Truyện Kiều (xin xem các bản sao chụp kèm theo). Cũng không có quá nhiều tác giả văn hóa nghệ thuật thế giới được “ưu tiên” như thế, nếu so với khuôn khổ và quy cách biên soạn của bộ từ điển. Nhận định sau đây cũng thật hàm súc, đặt Truyện Kiều ở vị trí xứng đáng trong di ản văn hóa, văn học tầm cỡ thế giới: “Vào thời kỳ người Việt Nam đang thoát dần ra khỏi sự lệ thuộc ngôn ngữ (Hán) để trở về với tiếng mẹ đẻ, thì công lao vĩ đại của Nguyễn Du là ông đã biết phát huy bí quyết nghệ thuật chỉ riêng ông có. Ngôn ngữ dân tộc vốn đã phong phú, giàu chất nhạc, được Nguyễn Du nâng lên tột đỉnh của nghệ thuật, mà trước đó và cả đến hôm nay, chưa có tác giả nào vươn tới được”(2) Một thời gian dài trước đây, xu hướng nghiên cứu phê bình văn học theo quan điểm xã hội học rất phổ biến trong chúng ta. Do cách suy nghĩ ít nhiều ảnh hưởng điều kiện lịch sử và hoàn cảnh khách quan, nên cũng đã có người nhìn hình ảnh Từ Hải là hồi quang của những phong trào nông dân hoặc của “người hùng” áo vải cờ đào Nguyễn Huệ. Lại có khi người ta quá nhấn mạnh thân thế Nguyễn Du (hoài cựu, không chấp nhận thực tại…), do vậy đã phần nào làm giảm giá trị thẩm mỹ, tính nghệ thuật của thi phẩm. Cách nhìn trong từ mục KIM VÂN KIỀU hẳn rằng cận nhân tình hơn, chừng mực hơn: “Người ta muốn nghĩ rằng kiệt tác của Nguyễn Du bắt nguồn từ thân thế của ông: hồi đầu, ông bị ràng buộc với triều Lê thời mạt vận, sau đó ông lại phải phục vụ triều đại mới (triều Nguyễn). Ông có mặc cảm tội lỗi, trái với truyền thống “trung quân”; cũng như Thúy Kiều đã trót nặng thề với Kim Trọng, cuối cùng đành khuất phục số phận, tan nát mối tình đầu… Một sự xác tín như vậy có phần nào hàm chứa sự thật hay không? Chỉ biết rằng Nguyễn Du đã gửi gấm trọn vẹn trái tim, nhiệt huyết, kỳ tài vào tác phẩm của mình và đạt đến thành công trước nay chưa từng có…” Và đọc đến những đoạn văn cuối của mục từ KIM VÂN KIỀU thì thiết tưởng những nhận định trong bộ Từ điển rất đáng được chúng ta cảm phục: “Nghệ thuật tuyệt vời của Nguyễn Du đã khắc họa được những nhân vật điển hình có giá trị vĩnh cửu (Tú Bà, Sở Khanh…), với ngôn từ đặc biệt trong sáng và dáng dấp tuyệt mỹ của từng câu thơ. Tùy theo từng hoàn cảnh, từng số phận, người ta dễ dàng tìm được một câu Kiều hay một đoạn Kiều để bình giải, cho dù đó là một người bình dân hay một nhà trí thức… “Hẳn rằng trong kho tàng ngôn ngữ của nhân loại, chưa hề có hoặc hiếm có một tác phẩm nào lại rất đỗi thân quen và sống mãi với dân gian như KIM VÂN KIỀU của Nguyễn Du. Bất cứ người Việt Nam nào cũng thuộc lòng nhiều câu lục bát, thậm chí nhiều chương đoạn KIM VÂN KIỀU, và trên thực tế nhiều câu Kiều đã trở thành ngạn ngữ…”(3) Có lẽ không thể có một nhận định nào chính xác hơn về Nguyễn Du và Truyện Kiều. Bộ Từ điển đã quá “hiểu” Tố Như, quá hiểu Truyện Kiều cũng như vị trí của tác giả - tác phẩm này trong đời sống văn hóa, tinh thần của người Việt Nam. Năm 2010, năm kỷ niệm lần thứ 245 ngày sinh Nguyễn Du (1765-2010) và Truyện Kiều bất hủ, chúng tôi xin giới thiệu mục từ KIM VÂN KIỀU trong Dictionnaire des oeuvres de tous les temps et de tous les pays để thấy rằng sức sống của những tài năng lớn, của những tác phẩm vĩ đại bao giờ cũng vượt không gian và thời gian, trở thành tài sản chung của nhân loại. BÙI ĐẸP (1) Theo thứ tự A, B, C: Hải Thượng Lãn Ông, Nguyễn Án, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Đình Chiểu, Nguyễn Du, Nguyễn Gia Thiều, Nguyễn Huy Tự, Nguyễn Phan Chánh, Nguyễn Trãi, Phạm Đình Hổ, Phan Huy Chú, Trần Hưng Đạo… (2) “C’est le mérite de Nguyễn Du d’avoir su, par un art dont il possédait seul le secret, donner à la langue nationale une richesse et une musicalité inconnues…, et s’élever d’emblée à des sommets jamais encore atteints, même de nos jours”. (3) “Il n’est pas ou peu d’exemple, dans aucune, langue, d’une oeuvre aussi connue et aussi populaire (…). Par une langue extrêmement pure et la forme impeccable des vers, à tel point que des distiques et même des strophes entières du Kim Vân Kiều sont sur les lèvres de tous les Vietnamiens…, et que beaucoup des vers en sont passés à l’état de proverbes". Nhiều bản dịch Kim Vân Kiều ra tiếng Pháp đã được xuất bản. Vài ví dụ: - Histoire de Kim, Vân et Kiều của Edmond Nordemann – Leroux, 1904. - Poème du Kim-Vân-Kiều của Trương Vĩnh Ký. - Histoire de Kim-Vân-Kiều của Abel des Michels – Ernest Leroux, Paris 1884-1885. - Kim Vân Kiều của Nguyễn Văn Vĩnh – Alexandre de Rhodes, Hanoi 1942. - Kim Vân Kiều, le célèbre poème annamite de Nguyễn Du của Réne Crayssac, Hanoi 1927 v.v… NHỮNG SỐ LIỆU VIẾT VỀ TRUYỆN KIỀU I. Trước tác không có một nhan đề duy nhất (nhiều nhan đề) Trong quyển Truyện Kiều của Hà Huy Giáp và Nguyễn Thạch Giang NXB ĐH và THCN HN 1976 có: 1. Bản kinh và bản phường (Đoạn trường tân thanh) 2. Các bản Kiều Nôm: Liên Văn Đường, Thịnh Mỹ Đường, Quan Văn Đường, Phúc Văn Đường. 3. Bản Quan Văn Đường Thành Thái Bình Ngọ (1906): Kim Vân Kiều Tân tập. 4. Bản Kiều Oánh Mậu Thành Thái, Nhâm Dần (1902): Đoạn Trường Tân Thanh. 5. Bản Kiều Nôm chép tay – Bản Tiên Điền, bản gia đình cụ Nghè Nguyễn Mai – cháu xa đời Nguyễn Du. 6. Bản Kiều Quốc ngữ – Trương Vĩnh Ký (1875). 7. Bản Aben de Misen – Kim Vân Kiều Tân Truyện. 8. Bản Phạm Kim Chi – Kim Tùy Tình Tứ. 9. Bản Bùi Kỷ – Trần trọng Kim – Truyện Thúy Kiều (Đoạn Trường Tân Thanh). 10. Bản Tản Đà – Vương Thúy Kiều chú giải tân truyện. II. Ngoài ra Nguyễn Du còn có các tác phẩm: 1. Văn Tế thập loại chúng sinh. 2. Thanh Hiên thi tập (1786-1804) 3. Nam trung tập ngâm (1804-1813) 4. Bắc hành tạp lục (1813-1814) III. Kiều dịch ra tiếng nước ngoài : 10 lần ra tiếng Pháp, 4 lần tiếng Trung Quốc, 1 lần tiếng Nhật, 2 lần tiếng Đức, 1 lần tiếng Tiệp Khắc, 3 lần tiếng Anh, 1 lần tiếng Tây Ban Nha,…
Phụ Bản III NHỮNG KỶ NIỆM VỚI THẾ LỮ (1907-1989) MỘT DỊCH GIẢ - NGHỆ SĨ LỚN
Lại như mọi lần, đi đến đoạn cuối phố Nguyễn Bỉnh Khiêm, quãng có trụ sở Bộ Nội vụ nhìn sang dãy phải với những số nhà chẵn, tôi lại cố tìm ra ngôi nhà mà mấy chục năm trước đã có lần với tư cách một biên tập viên Nhà xuất bản Văn học tôi lui tới làm việc với một dịch giả nghệ sĩ – đó chính là nhà thơ, nhà văn, nhà hoạt động sân khấu lừng danh Thế Lữ. Lần này tôi nhận ra bên cạnh cổng vào nhà số 50, căn phòng sát mặt đường, vách mới trổ ra để bán hàng. Phố vắng, chỉ có bà chủ ngồi trông hàng. Tôi dừng xe ghé vào hỏi thăm: “Bà làm ơn cho hỏi, không biết trước đây ông bà Thế Lữ – Song Kim từng sống ở nhà nào quãng này?”. Thì ra chính trong nhà số 50 đây. Ngôi nhà hai tầng, nằm ngang cắt góc với đường phố, mặt trông về hướng Nam, đằng Vân Hồ và đường Đại Cồ Việt, dải sân hẹp chạy dài từ cổng đi hết mặt nhà sâu vào trong. Từ bấy đến tận bây giờ đây vẫn là nhà tập thể của mấy hộ văn nghệ sĩ ngành sân khấu thuộc Bộ Văn hóa – Thông tin. Ngoài gia đình nghệ sĩ nhân dân Thế Lữ – Song Kim, còn có gia đình các nghệ sĩ Đào Mộng Long, Dương Viết Bát, Chu Văn Thức, Hoàng Linh,… Căn buồng của gia đình ông bà Thế Lữ –Song Kim ở trên gác hai, bên trái về phía đường phố, sát vách căn buồng của gia đình nghệ sĩ Đào Mộng Long, bên phải sát cầu thang, phân cách với buồng của gia đình nghệ sĩ Dương Viết Bát. Sau khi đất nước thống nhất, nhà văn Thế Lữ rời nơi đây vào Nam sống nốt những năm tháng cuối đời, rồi mất tại thành phố Hồ Chí Minh (năm 1989). Bà Song Kim vẫn ở lại căn phòng cũ, có điều bà đã già yếu, nghễnh ngãng, thường nằm suốt ngày trong nhà… Vào những năm 60 thế kỷ trước, cả nước đang có chiến tranh, Hà Nội đi sơ tán cả. Các hộ trong căn nhà số 50 này cũng vậy – đều theo cơ quan đi về các địa phương, thỉnh thoảng mới đảo về thăm nhà. Theo hẹn trước, từ nơi sơ tán tôi mang theo bản thảo đến và dịch giả cũng về, gặp nhau trao đổi tại nhà. Tới lúc đó Thế Lữ đối với tôi vẫn còn khá xa cách. Từ bé tôi đã thuộc thơ của ông, đặc biệt là bài Nhớ rừng, tôi đã từng được nghe anh chị trong nhà đọc rồi kể cho nghe đôi câu chuyện “đường rừng” của ông. Về công tác tại Nhà xuất bản Văn học, nhiều lần tham gia các sinh hoạt của Hội Liên hiệp Văn học nghệ thuật có trụ sở ở sát ngay bên cạnh Nhà xuất bản, tôi cũng đã từng gặp mặt nhà văn, thậm chí đôi lần còn nghe ông phát biểu… nhưng đối với tôi ông vẫn là “thi sĩ có những câu thơ mà tôi cho là trác việt, kỳ lạ”: “Mây hồng ngưng lại sau đèo Mình cây nắng nhuộm bóng chiều không đi” hay “Cao như thông vút buồn như liễu Nước lặng mây ngừng ta đứng yên” là thi sĩ đi đầu phong trào “Thơ mới”, cây bút trinh thám, chuyện đường rừng “số một của Việt Nam”, “đạo diễn kiêm diễn viên và nhà biên kịch nổi tiếng – Chủ tịch Hội sân khấu Việt Nam”… Tôi kính trọng ông, đứng cách xa ngưỡng vọng, chưa giáp mặt trò chuyện bao giờ. Vậy mà lại được đến làm việc tại nhà ông! Ông tiếp tôi tại căn buồng hình như vẻn vẹn chỉ trên dưới hai mươi mét vuông, chỉ rộng hơn nhà tôi một chút. Tôi không nhớ rõ căn buồng nhà ông có bày biện những gì, chẳng có gì đặc biệt thì phải, chỉ nhớ là giữa nhà có kê chiếc phản mộc sát trên mặt sàn… Đương là mùa hè, ông mặc quần nâu gụ rộng ống, áo may ô ba lỗ, ngồi ở mép phản, vừa chuyện trò, thỉnh thoảng lại với cái ống điếu cày để trong cái sọt tre đan, mồi thuốc vào nõ điếu, châm lửa ở cái đèn dầu hỏa để dưới sàn rồi hút sòng sọc, rít một thôi dài, khoan khoái nhả khói mù mịt. Ông trở nên một người đã khá gần gũi và chúng tôi chuyện trò thật thoải mái. Lần này tôi được giao biên tập bản dịch bộ ba vở kịch của nhà văn Nga Xôviết N. Pogodin: Người cầm súng, Đồng hồ điện Kremli đã được ông dịch từ năm 1959 và đã được dàn dựng. Cùng dịch với ông lần này còn có một người giỏi tiếng Nga. Tuy vậy, nghiêm túc đối chiếu và nghiên cứu kỹ bản dịch để chuẩn bị ra sách, tôi thấy cũng còn một số điều cần trao đổi thêm với dịch giả. Ông đã chăm chú nghe tôi trình bày, không hề cắt ngang. Thực ra cũng do trước đó được xem bản góp ý của các anh Trịnh Như Lương, Hướng Minh cho bản dịch Vinhem Tell cũng của ông và được xem bản thảo ấy sau khi tiếp thu ý kiến, ông sửa chữa lại, mà tôi rút ra được kinh nghiệm để đánh giá một bản dịch. Về những chỗ không chính xác tôi nêu ra đã đành, riêng một ý kiến có phần “hơi liều”, đụng đến chuyên môn của ông. Theo tôi, tính cách nhân vật trong kịch được thể hiện rõ trong lời thoại. Vậy mà ở một màn có ba bốn anh lính chuyện trò với nhau, người dịch hình như chưa chú ý đến việc thể hiện tính cách của mỗi anh lính trong số đó. Có người lính xuất thân là thợ thủ công, người khác là nông dân, còn người nữa lại nguyên là một ông giáo thì phải – một tiểu trí thức… Tôi nêu ý kiến ấy ra. Ông Thế Lữ cầm lấy bản thảo đọc to lên thành tiếng, cố vào vai thể hiện tính cách các nhân vật khác nhau. Và ông thừa nhận ngay, đúng là đoạn dịch này chưa đạt. Tôi được cùng ông dừng lại trao đổi để sửa từng câu thoại của mỗi nhân vật. Những buổi làm việc tiếp theo, quan hệ hai bên dần trở nên không còn ngăn cách bởi chức phận cũng như tuổi tác. Có bữa ông hứng lên đã kể lại cho nghe về chuyện dịch của thế hệ các ông ngày xưa. Ông rất khen Tản Đà và Nhượng Tống dịch thơ cổ Trung Quốc. Nhưng một lần nhớ đến bài Tương tiến tửu ông lại đọc thuộc lòng cho tôi nghe một bản dịch mà ông bảo không nhớ là của ai nhưng ông lại thật sự tâm đắc: Há chẳng thấy từ trời cao tuôn xuống Nước Hoàng Hà cuồn cuộn trôi xuôi Một đi đi mãi không thôi Có bao giờ lại phản hồi nữa đâu Lại chẳng thấy trên đầu gương tỏ Mái tóc còn soi rõ màu sương Sớm như tơ chứa khum vàng Chiều đà như tuyết xót thương tuổi già… Đến cái đoạn đem cả áo cừu bán để mua rượu, ông khoái chí vén quần vỗ đùi đen đét: Bớ cu, đổi lấy rượu nồng, Cùng người cùng giải sầu trong vạn đời. Theo ông, dịch là phải truyền đạt được cái hồn của nguyên tác, bản dịch phải tác động đến người nghe cũng ngang như nguyên bản đối với người nghe qua ngôn ngữ nguồn. Thế Lữ làm thơ và cũng có lần dịch đôi bài thơ. Nhưng sau những bài thơ sáng tác để lại dấu ấn trên thi đàn Việt Nam, ông chuyển sang viết văn. Và viết truyện trinh thám, viết truyện rùng rợn “đường rừng” cũng nổi đình đám, Thế Lữ lại dành cả phần đời còn lại cho sân khấu. Ông viết kịch, dàn dựng vở, vừa làm đạo diễn vừa sắm vai như một diễn viên. Thế Lữ thành lập đoàn kịch, đưa đoàn đi biểu diễn lưu động… Nghĩa là ông dồn hết tâm huyết để xây dựng nền sân khấu kịch Việt Nam. Cùng với mục đích ấy, ông sớm nghĩ đến việc đào tạo các thế hệ diễn viên, viết kịch, các nhà hoạt động sân khấu nói chung. Chính vì thế mà trên tạp chí Văn nghệ của Hội Văn nghệ Việt Nam vừa ra đời vào năm 1948, ông đã tham gia viết bài bàn về kịch trường, giới thiệu kinh nghiệm của các nước cùng với việc dịch nhiều vở kịch của nước bạn. Loạt kịch đầu tiên ông dịch là Các vở kịch sáng tác tập thể của Trung Quốc, đã được Nhà xuất bản Văn nghệ ấn hành ngay từ năm 1951. Loạt kịch dịch những năm này của ông đã nhận được giải ba Văn nghệ những năm 1951-1952. Bây giờ nhắc lại ông không đánh giá cao về việc dịch thời kỳ ấy của mình. Ông tự coi đấy mới chỉ là những thử nghiệm bước đầu trong lĩnh vực sáng tạo mới mà ông đi vào ở giai đoạn cuối đời của mình. Tiếp theo, sau hòa bình 1954, ông liên tiếp dịch và xuất bản nhiều tác phẩm dịch kịch khác: - Hàng ngũ hòa bình, kịch của A. Phushin, Nhà xuất bản Văn nghệ, 1955. - Ba vở kịch châm biếm của M. Livina và V. Dikhovichni, Nhà xuất bản Văn nghệ, 1955. - Đồng hồ điện Kremli, N. Pogodin, Nhà xuất bản Văn học, 1959. - Cửa cuối cùng, kịch của V. Dikhovichni, Nhà xuất bản Văn học, 1959-1960. Nhưng phải đến khi bắt tay vào dịch vở kịch thơ của nhà soạn kịch cổ điển Đức F. Sille, Thế Lữ mới thực sự đi vào công việc dịch thuật. Lúc này sân khấu Việt Nam đã trưởng thành, bước tới giai đoạn thử nghiệm dàn dựng những vở lớn, kinh điển của kịch trường thế giới. Trước đó đã có một vở kịch của F. Sille – vở Âm mưu và ái tình, sớm được dịch và một trích đoạn đã được dàn dựng trình diễn thử. Đến vở Vinhem Tell, Thế Lữ thấy “gặp phải một số vấn đề khúc mắc hơn nhiều, mà việc khó đầu tiên là việc dịch”. Vinhem Tell, theo ông, là vở kịch thơ. Kịch thơ thì phải dịch ra thơ. “Kịch thơ dịch ra văn xuôi… dù sao cũng khó trung thực được với nguyên ý thiết tha nhà thơ gửi gắm vào tác phẩm. Mặc dầu kịch thơ có thể phóng khoáng (có khi mộc mạc nữa) hơn các thi phẩm khác, những ý nghĩa của lời kịch thường được chứa gọn trong những từ ngữ chọn lọc, xếp sắp theo một nhịp điệu nhằm làm cho ý nghĩa đó mạnh mẽ, sắc sảo và tươi đẹp thêm. Câu thơ trong Vinhem Tell cũng chú trọng vào sự gieo vần, vần không quá khe khắt như ở các nhà thơ cổ điển Âu châu khác, nhưng trong sự thoải mái của điệu nói tự nhiên, vẫn làm cho lời đối thoại giữ một nhịp nhàng đáng quý, có một vang hưởng đáng yêu của những phương ngôn ngạn ngữ, vẫn còn giúp cho sự diễn ý trong thơ thêm mạch lạc, uyển chuyển, đôi khi thêm đột ngột tài tình. Ở kịch thơ, cái hay của lời thơ với nhịp thơ, vần thơ, gắn bó mật thiết với cái hay của nội dung tư tưởng và nghệ thuật tác phẩm. vậy đối với vở Vinhem Tell, chúng tôi thấy cần phải dịch ra lời thơ” – Thế Lữ đã viết trong lời nói đầu bản dịch như vậy. Và ông đã quyết tâm thực hiện được một bản dịch thành công… Vì nguyên bản viết bằng tiếng Đức, không có các bản dịch sang các thứ tiếng khác để có thể tham khảo, nên dịch giả đã giải quyết vấn đề khúc mắc thứ hai này bằng cách dựa vào sự hợp tác của một người am hiểu tiếng Đức. Trong khi dịch, ông còn gặp một trở ngại nữa là nguyên bản có từ thế kỷ XIX, viết về giai đoạn phong kiến phân quyền Âu châu, nên có nhiều từ ngữ cổ. Thế Lữ đã giải quyết vấn đề này một cách khéo léo: Ông cố truyền đạt cái không khí thời đại trong khi dịch những đoạn đối thoại giữa các nhân vật, bằng cách dùng từ ngữ cổ với một độ vừa phải, không lạm dụng… Từ kinh nghiệm dịch Vinhem Tell, Thê Lữ tiếp tục dịch kịch của nhà soạn kịch nổi tiếng người Anh W. Sêchxpia: Ông đã dịch thành công Xêda, Vua Lia (Nhà xuất bản Văn học, 1969) cùng với các bản dịch của Dương Tường, Đặng Thế Bính… về các tác phẩm khác của Sêchxpia, góp phần tạo ra nền móng của mảng dịch Sêchxpia ở Việt Nam. Đến bộ ba kịch của N. Pogodin, bản dịch của Thế Lữ đã được sử dụng đem dàn dựng và trình diễn thành công trên sân khấu Thủ đô cũng như các tỉnh trong cả nước. Công trình dịch cuối cùng của Thế Lữ: Cùng Đỗ Ngoạn ông đã dịch và xuất bản quyển I vở kịch Faoxtơ của thi hào Goethe. Quyển II vở kịch đồ sộ này, Thế Lữ mang theo vào thành phố Hồ Chí Minh, dự định hoàn thành nốt. Lần cuối cùng tôi được gặp lại ông trong chuyến tôi đi công tác vào chi nhánh Nhà xuất bản Văn học trong Thành phố Hồ Chí Minh vào cuối những năm 1980. Gọi điện cho tôi hẹn trước, ông đi xích lô đến chi nhánh Nhà xuất bản, nằm trên phố Nam Kỳ Khởi Nghĩa, gần chùa Vĩnh Nghiêm. Hàn huyên, nhắc đến bản dịch quyển II Faoxtơ, Thế Lữ vẫn hăng hái nhận hoàn thiện. Nhưng bấy giờ ông đã yếu lắm rồi. Sau lần gặp này, tôi trở ra Hà Nội và chẳng bao lâu sau thì được tin ông qua đời. HOÀNG THÚY TOÀN (Tạp chí Văn học nước ngoài số 3/2007) NƯỚC TA CÓ SỬ TỪ ĐỜI NÀO? AI VIẾT VIỆT-SỬ TRƯỚC TIÊN?
Đáp câu hỏi đó, trước giờ nhiều người vẫn cho rằng nước ta có sử từ đời Trần (1225-1399) và ông Lê-văn-Hưu (1230-?) là người vâng mạng vua Trần Thái-Tông (1225-1258) đầu tiên đứng biên soạn bộ “Đại Việt Sử Ký”. Nhưng thật ra, trước bộ “Đại Việt Sử Ký” ấy, nước ta chắc cũng đã có những bản biên-niên (annales) ghi chép mọi việc đại yếu trong nước rồi. Chứng cớ? Thì từ đời Triệu-Đà (207-137 tr. J.C.) đã có chức nội sử. Trong bức thư của Triệu-Đà gửi cho Hán-Văn-Đế có nói đến nội sử Phan(1). Vậy Phan (chắc là họ) đó là một sử quan đời Triệu, không còn phải ngờ nữa. Đến đời Lý (1010-1224) đã có ít sách về loại hiến-chương như “Ngọc-điệp”, “Hình-thư” v.v., thì Lý chắc cũng đã có sử-thần làm việc biên chép những sách ấy. Chẳng qua vì đời xưa sinh-hoạt đơn-giản, ít khi có những sự-biến hằng xảy cần phải ghi chép, nên dấu có sử-thần cầm bút nhưng trên trang “biên-niên” cũng chỉ lưa thưa ít nét, chứ lấy đâu được có những bộ sử giày-giặn và to-tát như đời sau. Lại vì cuộc thế biến-thiên “thẻ” cũ, “là” xưa đã bị gặm mòn dưới “răng” thời-gian và tản mát sau những cơn binh-lửa nên, về sau, không thể biết rõ “sử” của nội-sử Phan ở đời Triệu và “Ngọc-điệp” (chừng là phả-ký của hoàng-gia) của đời Lý ra sao. Còn Lê-văn-Hưu? Phải chăng ông là người làm sử đầu tiên ở đời Trần? Không phải! trước ông, đã có Trần-Tấn. Trong An-nam chí lược, quyển XV, tờ 6b, tác-giả Lê-Tắc chép: “Trần-Tấn, được vua Trần Thái Tông (nguyên văn nói là Thái-Vương) dùng làm Tả-tàng, rồi thăng lên chức Hàn-trưởng, có làm (tác) Việt-Chí”. Cùng tờ sách trên, dưới việc Trần-Tấn, Lê-Tắc nói đến Lê-văn-Hưu: “Lê-văn-Hưu tu (sửa) Việt-Chí”. Xét thứ tự trong sách trên, ta thấy tác-giả An-nam chí lược nói việc Trần-Tấn trước, rồi đến việc Lê-văn-Hưu sau. (Hai nhà sử thần ấy đều là người đồng thời với nhau, cùng sống dưới triều vua Trần-Thái 1225-1258). So sánh tác với tu, ta thấy công việc của Trần-Tấn là khởi đầu làm ra; còn việc làm của Lê-văn-Hưu là sửa sang vậy. Như thế, trước Văn-Hưu, còn có Trần-Tấn, một sử thần đời Trần, đã đứng làm Việt-Chí, tức là Việt-Sử rồi. Bộ sử do Lê-văn-Hưu đứng làm đây, theo lời tựa của Ngô-sĩ-Liên trong bộ “Đại-Việt Sử-ký toàn-thư”, thì chỉ là công việc trùng-tu (refonte). Khi làm bộ “Đại-Việt Sử-ký” ấy, sử thần Lê-văn-Hưu, một tay đại thủ bút đời Trần, tìm nhặt tài liệu ở các sử cũ và trong mọi sách vở, biên thành 30 quyển: trên kể từ đời Triệu Vũ-Đế, dưới chép đến đời Lý-Chiêu-Hoàng (207 tr. J.C. – 1224 s. J.C.). Mãi đến tháng giêng năm Trần Thánh Thiệu long thứ 15 (Février 1272) bộ sử ấy của Nhân Uyên hầu (tước của Lê-văn-Hưu) mới nên trọn. Sở dĩ Ngô-sĩ-Liên gọi việc làm sử của Văn-Hưu là “trùng tu”, có lẽ là vì trước đó đã có những bản “biên niên” cũ, thưa thớt lặt vặt, mỏng mảnh, sơ sài, chưa thể gọi được là sử, bây giờ Văn-Hưu mới thâu nhặt tài liệu trong những bản cũ ấy và tham khảo trong các sách vở nhất là của Tàu mà làm thành một bộ sử đầy đủ, giày giặn, có đầu mối, có thứ tự, có lời bàn, tức là bộ “Đại-Việt Sử-ký” làm căn cứ cho các sử thần sau này đấy. Vậy nay có thể kết luận: Nước ta, từ đời Triệu-Đà đã có chức Nội-sử, đời Lý đã có những sách thuộc loại hiến chương; còn sử thì đến đời Trần Thái-Tông đã có bộ Việt-Chí mà nhà sử thần Trần-Tấn chính là người lính tiên phong trong đội quân sử ký nam-Việt. Tiếc rằng bộ Việt-Chí do Trần-Tấn làm đó không truyền, nên về sau người ta chỉ thấy có bộ “Đại-Việt Sử-ký” của Lê-văn-Hưu, là người có công lớn với sử học giới nam-việt(2). HOA BĂNG ĐỖ THIÊN THƯ st (1) Bức thư này có in trong Đại-Việt Sử-Ký Toàn-Thư Ngoại-Kỷ, quyển 2, tờ 3,4,… (2) Một kỳ khác, chúng tôi sẽ có bài nói đến những bộ Nam-sử viết bằng chữ Hán. ÔNG NỘI
Bà mất sớm, và ông ở vậy suốt quãng đời còn lại. Bố tôi là người con duy nhất của ông, nên ông không “chỉ” là ông thôi, mà còn là người cha của lũ chúng tôi nữa, nhất là, cả một đoạn đời dài của ba là ở trong quân ngũ. Gia đình nghèo, bố mẹ tôi phải thuê nhà ở suốt 26 năm ròng để làm nơi trú ngụ cho cả nhà. Cho đến ngày tôi tạm có tí hiểu biết về gia đình, thì ngoài bố là người thường xuyên xa nhà, mẹ là người tảo tần buôn thúng bán bưng lo cho chúng tôi ăn học như mọi gia đình. Và ông tôi là người thay thế bố tôi dạy dỗ những điều hay lẽ phải. Tôi còn nhớ mãi những buổi sáng tinh mơ ông dắt đi học. Ngày nào cũng thế, ông ghé vào cái quán be bé bên đường làng, mua cho tôi cái bánh đa lổn ngổn đậu phộng vàng ươm nước đường, món mà tôi nghĩ đến tận bây giờ, chả có món gì ngon hơn đối với chú bé học trò là tôi lúc ấy. Chiều về, ông lại bắt tôi ngồi ngoài bàn và “thực đơn” cố hữu mà ông cho tôi ăn suốt, ấy là làm toán, viết văn. Nhiều lúc, canh ông quay đi, là tôi lén xem bài giải in sẵn trong sách, vì sợ lát nữa ông sẽ “cốc” cho tôi mấy cái đau điếng vì cái tội không làm được bài. Cũng chính nhờ ông nghiêm khắc mà những tháng ngày ấu thơ của tôi luôn có bảng danh dự về “trình” ông, và khoe mẹ. Thỉnh thoảng, ông dắt tôi đi bộ xa ơi là xa, chỉ để đến nhà ga xem xe lửa, hay ra mãi nhà thờ lớn dự lễ. Không hiểu sao, lúc ấy tuy còn rất bé, mà tôi đã có thể lết đi cả quãng đường dằng dặc như vậy. Tôi nghĩ, âu cũng là tiền đề cho cuộc đời tôi phải bươn chải sau này. Năm tôi lên 10, bố tôi thu xếp cho cả nhà vào Sài gòn. Dĩ nhiên là làm gì có nhà mà ở, nên bà thím dâu của ba tôi cho cả nhà ở nhờ. Bà quả là người tốt bụng. Bà cũng nghèo xác xơ, các con bà, là vai chú, cô của anh em tôi, còn phải vác bao bánh mì mà ơi ới rao “bánh mì mới ra lò, ai mua đơ..ơ..i…!”. Vậy mà bà ngăn nửa cái nhà cho ông anh chồng và con cháu tá túc nhiều năm trời. Mẹ tôi, quảy gánh bánh mì đi bán rong từ sớm tinh mơ. Bố tôi vẫn triền miên đời lính xa nhà. Dĩ nhiên, ông nội tôi lãnh phần cơm nước cho con dâu và các cháu. Cũng dĩ nhiên, ông vẫn cốc vào đầu tôi đau điếng mỗi khi tôi đem học bạ về nhà mà thứ hạng từ 4 trở xuống. Có lần, học tếu táo sao đó mà tôi tuột xuống hạng 10, sợ quá, tôi không dám đem học bạ về nhà cho ông ký. Tôi dậy sớm, lẽo đẽo theo chân mẹ, xin mẹ ký cho con, kẻo ông không ký thì chết. Tội nghiệp mẹ tôi! Chữ nghĩa bà có là bao, nên bà bảo, mẹ không biết ký. Rồi bà vời thằng bạn học cùng lớp với tôi, nó đang mua ổ bánh mì thịt của mẹ. Bà bảo nó, hay bác nhờ mày ký dùm cho thằng L. nhé. Bạn tôi tần ngần một lúc rồi cũng… hạ bút ký. Tất nhiên, sau lần ấy, với một trận lôi đình, ông tôi còn nghiêm ngặt hơn với tôi về chuyện học hành của thằng cháu. Mẹ tôi lại dời nhà. Lúc này, mọi “giao dịch” là nơi mẹ. Lo tiền thuê nhà, tiền đi chợ, tiền học mà thoắt cái đã đến kỳ đóng cho nhà trường… đều do mẹ tôi cả. Dĩ nhiên, bố tôi cũng có lương vậy, nhưng lương lính thì làm sao đủ cho bằng ấy miệng ăn! Mẹ tôi không còn gánh rong bánh mì nữa, mà “tậu” một cái xe be bé để ngay “ngã tư quốc tế”, và suốt ngày mà ở đấy mà kiếm mấy đồng tiền lẻ cho cái gia đình nghèo rớt này. Ông tôi vẫn vậy, sáng sớm ra, sau khi đi lễ về, ông đun ấm nước để pha trà. Rồi loay hoay việc nọ kia trong nhà, trưa đến, ông lại lo cơm nước như từ bao giờ. Mấy anh em tôi lo dệt chiếu để kiếm tiền phụ với bố mẹ vốn đã nghèo. Nhà ở thuê thật khổ. Mỗi mùa mưa, gian nhà dưới ngập nước ngấm từ ngoài vào. Nhà vệ sinh không dùng được, phải “đi” nhờ nơi khác. Có khi đi học thì “đi” ở trường, hoặc ra ruộng rau… Có lúc phải năn nỉ cô con gái chủ nhà, mở cái cửa thông sang gian bếp của họ để… Mỗi lần dệt chiếu, anh em tôi phải tát nước qua ô cửa sổ cũ kỹ, nhà tạm ráo, em tôi kê cái dép nhỏ rồi ngồi lên, “văng” những sợi cói vào khung dệt; Còn tôi ngồi trên ghế phía dưới khung dệt, có phận sự kéo “go” và “bắt biên”. Công việc không lấy gì làm nặng nhọc, nên chúng tôi vừa làm vừa có thể học bài, lại vừa nghe nhạc nữa chứ! Chả là tôi xin được cái loa rách người ta vất đi, dán tạm lại cái màng; Rồi lấy cái thùng giấy đựng sữa, khoét ở 1 cạnh cái lỗ tròn 20 cm, bắt vít “cái loa còn kêu” ấy; lại còn cẩn thận kiếm miếng vải che cái màng loa lại, sợ…rách! Thế là nghe nhạc được rồi! Nào là Hùng Cường-Mai Lệ Huyền, nào là Elvis Phương, nào Chế Linh, nào Thanh Lan… nghĩ lại thấy mình cũng… tài đấy chứ! Vừa làm, vừa học, vừa nghe nhạc, vừa bị ông la “nghe gì mà lắm thế, yêu với ủng!” Một trưa, ông tôi làm bữa. Ông “kéo” nước ở giếng lên để rửa rau, vo gạo. Rồi mồi lửa vào cái bếp dầu để chuẩn bị nấu cơm. Hôm nay bố tôi về phép, nên cơm nấu nhiều hơn mọi khi. Sáng nay, ba tôi múc nước trong cái “phi” đựng nước mưa để dành, rồi pha cà phê cho ông và bố uống. Giờ, ông cũng dùng nước ấy để nấu cơm. Ông kéo tấm gỗ đậy, thò gáo định múc, thì giật mình vì lềnh bềnh trong phi nước, có cái gì…Vâng đúng vậy, ai đó đã bỏ vào phi nước gia đình tôi mấy cục phân, chả biết của người hay của chó! Nhưng kẻ làm việc này, chắc chắn là người chứ chó thì đâu có “chó” như vậy được! Cả nhà tôi đoán là chủ nhà cho thuê đã ra tay chứ chẳng ai. Vì lẽ, tối hôm qua, con họ tổ chức nhảy nhót gì đó ồn ào quá thể, và mẹ tôi vì cả ngày đã mệt mỏi ngoài đường, nên nói qua nói lại với họ, mà ra chuyện! Mẹ tôi lại dời nhà rất nhiều lần. Anh em chúng tôi đã lớn, nên việc gia đình chúng tôi cáng đáng cho bố mẹ. Ông đã già nên chỉ lo đi lễ. Ngoài bữa ăn và giấc ngủ, ông bó gối trên giường, tay lần chuỗi, miệng lâm râm đọc kinh. Tôi nghĩ, chắc là ông buồn lắm. Không phải vì con cháu ông đã không lo cho ông được yên ấm trong lúc tuổi già, mà vì thấy con cháu còn quá cơ cực trong giòng đời mù mịt. Tôi đã vào đại học. Để có tiền theo học 2 đại học, tôi dạy kèm cho con hàng xóm. Vì tôi có tiếng học giỏi nên chả bao giờ tôi thất nghiệp, dù tiền công cũng chỉ cho mẹ tôi bớt đi phần nào lo lắng thôi. Rồi biến cố 1975. Bố tôi về đạp xích lô. Có khi bố con tôi lui về ruộng rẫy chả ra làm sao cả. Gia đình nghèo vẫn hoàn nghèo. Tương lai tăm tối. Tôi phải bỏ học giữa chừng. Các em tôi, đứa lấy chồng cho mẹ “bớt phải lo cho 1 đứa”. Còn mấy đứa đi học thì bố mẹ cũng ráng lo. Ông vẫn thầm thĩ ngày đêm kêu cầu Thượng Đế. Tôi xuôi ngược đường đời mà không chút vốn lận lưng. Ngày tháng vẫn quay quắt với lo lắng không nguôi. Bà cô ruột của mẹ tôi cho bố mẹ tôi tiền mua căn nhà giữa hẻm. Năm ấy, tôi 26 tuổi. Tôi mua bán linh tinh ngoài đường. Bố và thằng em bỏ dòng tu phụ trách cái xích lô. Mẹ vẫn cái xe bánh mì có khi hơn 12g đêm mới về. Ôi! Khổ cho bố mẹ quá. Và khổ cho ông nữa! Ngày ngày, mẹ dúi cho ông tí tiền để mua rượu uống đỡ buồn. Ông hay cất tiền mẹ “cho” vào những bao diêm be bé, để trong cái ngăn bàn màu nhà binh. Rồi ông bệnh! Bao nhiêu năm qua ông không hề bệnh. Cứ sáng tinh mơ, có khi mới 3g30 sáng, ông đã ra ngồi cuối sân nhà thờ, chờ giờ lễ. Vị Linh mục phó hỏi sao cụ ra sớm vậy. Dạ, tại không ngủ được nữa. Thế cụ có sợ chết không? Không, con không sợ chết đâu! Mà chắc chắn vào lễ Thánh Quan Thầy của con, Ngài sẽ rước con về với Chúa. Vị Linh mục mỉm cười hiền lành, rồi rảo bước vào nhà thờ. Ông bệnh, rồi ông lại khỏe. Chúng tôi lại đi chơi với nhau, vì thấy ông không có biểu hiện gì phải lo lắng. Chia tay người bạn gái mà sau này là bạn đời, tôi về nhà thì mới hay là ông đã qua đời trên tay chính con duy nhất của ông là bố tôi, vào đúng ngày mà ông đã báo trước cho vị Linh mục phó: Ngày lễ kính thánh Phêrô, Bổn Mạng của ông, 29.6! Lúc ấy, một người bạn trả tôi món nợ 4 chỉ vàng qua việc anh mua thiếu của tôi cặp loa. Tôi đưa bố để ông lo đám cho ông. Mẹ tôi khóc quá trời. Mẹ dọn ngăn tủ, nơi ông cất chăn màn và mấy hộp diêm đựng tiền mẹ đưa cho ông mua rượu. Bà nói với tôi rất nhiều lần: Ông để tiền ấy lại cho mẹ con ơi! Còn bố tôi có một hạnh phúc vô cùng là được bế bố đẻ trên tay mình khi ông xuôi tay nhắm mắt. Còn tôi, tôi nghĩ chắc ở trên Thiên Đàng hẳn ông vui vì chúng tôi đã làm hết mình cho ông. Ngày qua tháng lại, mỗi năm tôi vẫn đều đặn đến nghĩa trang viếng ông, không chỉ với trách nhiệm của người còn sống đối với người quá cố, mà chính vì ông là một nhân vật lớn lao trong cuộc đời mình. Rồi bố mẹ tôi cũng quyết định hỏa thiêu xương cốt ông, để mang về Nhà Chờ Phục Sinh tại Giáo xứ nhà cho tiện việc thăm viếng ông. Tôi gửi bố 500 ngàn để phụ trang trải chi phí. Lúc đầu tôi định không tháp tùng bố, vì bận công việc. Nhưng sau, vì công việc ấy đã giải quyết xong, nên tôi vội ra nghĩa trang. Đến nơi thì mọi việc đã gần xong. Bố tôi nói, bố “nghe” thấy mùi thơm! Tôi chẳng ngửi thấy gì, nhưng tôi tin bố tôi, và nghĩ rằng, chắc Chúa chỉ cho bố tôi hưởng mùi hương đó thôi. Vừa lúc có cậu bé bán vé số đi qua, mời chúng tôi mua vé số. Chú em rể tôi mượn giấy kết quả của cậu để dò vé của chú ấy. Trật! Tôi có 1 tấm chưa dò. Vì vậy, tôi định mượn tờ kết quả thì chú em tôi nói: - Để em dò cho. Tôi đưa cho chú tấm vé số mà nếu hôm nay không dò, có thể tôi sẽ quên nó như thường như thế. - Anh trúng rồi nhé! 250 ngàn… - Vậy à! Tôi định đổi số trúng lấy tiền. Nhưng cậu bé không có tiền. Tôi mua ít tấm mới, chia cho mỗi người có mặt… cho vui. Rồi tôi về Ngã Ba Ông Tạ, đến hàng vé số: - Em đổi dùm anh tấm vé này nhé! - Dạ! Chàng ta cầm tấm vé số của tôi, dò dò chi đó, rồi nói: - 500 phải không anh ? Tôi ngạc nhiên, nhưng chẳng nói gì ngoài chữ “ừ”. Tôi nghĩ anh chàng này không lộn đâu. Chỉ có chú em rể tôi lộn thì có. Tiền trúng số chẳng là bao nhưng tôi nhớ mãi vì nó khớp với số tiền tôi đưa cho bố để lo việc “đưa ông về” Trưa nay, đang định ăn cơm thì có người quen đến nhờ tôi chỉ dẫn cho chút việc mà anh chưa rành. Tôi vui vẻ giúp anh như thói quen vốn có về những việc thuộc lãnh vực chuyên môn của mình. Mãi đến 12g30 anh ta mới ra về. Chỉ có một mình ở nhà, nên tôi xúc tô cơm lên lầu vừa ăn vừa xem TV, đang ăn dở dang, có người gọi cửa, đòi xem cái TV cũ mà tôi treo bảng rao bán từ Chúa Nhật đến nay. Nhìn người mua dữ tướng quá, nhưng tôi vẫn tiếp vì nghĩ bụng “mình có cái mẹ gì mà sợ!” Thật ra, chỉ sợ bàn tay nhám nhúa chôm vớ vẩn thôi. Mà vậy cũng đủ mệt! Họ xem xong, hỏi giá. Tôi nói 800 ngàn. Kỳ kèo. Tôi nhất định thế. Rồi họ cũng mua. Nhẹ gánh, có thêm tí tiền tiêu, lại rộng nhà được tí chút, có chỗ cho cháu chơi là được rồi! Tôi thầm nghĩ. Chúa hay thật! Ngài chẳng cho tôi giàu, nhưng không để tôi phải lo lắng! Ngài luôn để tôi lo liệu sao cho mọi việc thuận buồm xuôi gió. Đó! Mới giúp anh bạn kia có tí việc, thì mình đã bán được thứ cần bán. Rồi tôi lẩn thẩn nghĩ, chắc là ông nội tôi luôn phù trợ cho tôi, luôn cầu cùng Chúa cho tôi trong bất cứ việc gì và bất cứ khi nào. Thao thức như thế, chẳng ngủ được, và viết là thượng sách! LAM TRẦN 17.01.2013 Phụ Bản IV Tác giả: Dương Lêh Cuối cùng rồi anh cũng quen được một cô gái đang làm việc tại một công ty khách hàng nhỏ hơn anh đến năm tuổi. Thật ra anh đã quen cô bạn này từ hồi năm ngoái khi cô đến công ty làm một hợp đồng nghiên cứu thị trường dưới hình thức thảo luận nhóm khách hàng tiêu dùng. Anh đã được cấp trên chỉ đạo đứng ra điều khiển các cuộc thảo luận để lấy thông tin dựa trên những yêu cầu từ phía công ty của cô bạn này. Trong vòng mười ngày anh đã phải đi từ Nam ra Bắc để tổ chức và thực hiện các cuộc thảo luận. Cùng với lộ trình của anh, cô bạn và người sếp trực tiếp cũng đi theo để giám sát việc tiếp xúc với khách hàng tiêu dùng. Sau cùng, hợp đồng đã được thực hiện một cách hoàn hảo và anh với tư cách là người đảm trách công việc đã được hai bên công ty đánh giá rất cao. Đặc biệt sau khi kết thúc hợp đồng này anh thấy muốn kéo dài mối quan hệ với cô gái này và anh đã mời nàng đi uống nước một cách riêng tư sau giờ làm việc. Mối quan hệ dần dần đi đến chỗ thắm thiết. Một buổi sáng, trong khi Oanh đang ngồi trước máy vi tính, một cô thư ký mang đến tập báo cáo về công việc nghiên cứu thị trường vừa qua. Nhìn vào dòng tên và chữ ký của người thực hiện, cô thây có một rung cảm nhè nhẹ trong lòng, và rồi một ý nghĩ hài hước lóe lên trong đầu “không biết có phải mình… tới số rồi chăng?”. Cô mỉm cười rồi bắt đầu đọc nội dung báo cáo. Khi bước vào năm cuối ở trường đại học, Oanh phát hiện ra cô chưa có anh bạn trai nào… “bỏ túi” cả. Những đứa con trai cùng lớp hay ở các lớp đàn anh quen biết trong những lần sinh hoạt toàn trường dần dần gặp gỡ một cách thưa thớt. Các mối quan hệ tuy không hẳn là lạnh nhạt nhưng mức độ dồn dập, niềm nở thì không có tí tẹo nào hết. Thời gian trôi qua, ngày cô mặc áo mão lãnh bằng tốt nghiệp đã lùi vào quá khứ. Khi cô có công việc với mức lương tốt và ổn định, cô thấy đã đạt được một trăm phần trăm về mục tiêu công danh sự nghiệp, nhưng còn cái mặt tình cảm, hạnh phúc lứa đôi, sao chưa thấy tăm hơi gì cả. Hồi mới đậu vào đại học, ba cô mừng rỡ nói cho cả nhà nghe: “Rồi, sau này tui sẽ có thằng rể cũng phải có bằng đại học trở lên”. Không lẽ bây giời cô đi hỏi lại ông già: “Ở đâu kiếm vậy ba?”. Cô rất đồng ý với ông già ở cái quan niệm con gái phải có được học vị đại học để có một ông chồng ít nhất ngang cơ ngang sức về trình độ văn hóa. Cô không có cái ý nghĩ là nếu con gái không có học vị đại học sẽ khó có ông chồng không tốt. Không phải như vậy đâu. Nhưng trong thực tế đã có xảy ra trường hợp hơi tréo ngoe của bà chị họ. Chị này tốt nghiệp đại học, tìm được việc làm tốt nhưng duyên phận thì chậm rì. Mãi đến năm ba mươi tuổi, bằng tuổi cô bây giờ, mới gặp một anh chàng “cò” xe máy, chữ nghĩa thường thường bậc trung… cấp. Tuổi tác cũng xuýt xoát với nhau. Nhờ có nghề cò nên anh ta dễ dàng thuyết phục được cô này và cuối cùng hai người quyết định làm đám cưới. Rồi một đứa con trai ra đời xinh xắn, nhưng lại không đủ sức đem lại hạnh phúc cho hai người mà trái lại đã nảy sinh sự rạn nứt lớn dần theo ngày tháng, vì người vợ đã phát hiện ông chồng quá kém cỏi về kiến thức cũng như kinh nghiệm sống. Hố phân cách giữa hai người lên đến cực điểm khi bà vợ phát hiện ông chồng đã ăn cắp tiền của vợ để đánh bạc và cá độ bóng đá. Cuối cùng, khi đứa bé lâm bệnh, và giọt nước đã làm tràn ly khi ông chồng chểnh mảng trong việc chăm sóc để đứa bé bị tai biến và qua đời. Hai người đã phải chia tay một cách ngọt sớt. Quan niệm sống của cha mẹ có khi làm hại cho con cái. Một ông bố đã chia tay với người vợ, nhưng vẫn ở vậy và nuôi đứa con gái lớn khôn. Ông kiếm sống bằng việc bán hàng bách hóa ngoài chợ. Khi con gái vừa tốt ngiệp phổ thông trung học, ông bắt con gái không được tiếp tục vào đại học để theo ông ra chợ bán hàng. Có người hỏi: “Sao không cho nó tiếp tục học lên đại học?”. Ông trả lời tỉnh queo. “Thôi, cho nó học lên sau này ra trường đi làm sẽ bị lệ thuộc người ta, không khỏi mang cái tiếng đi làm thuê, làm mướn. Buôn bán như vầy tự do không sướng hơn sao?”. Ông có vẻ tâm đắc và hãnh diện với ý nghĩ này. Có người ái ngại không hiều tương lai của cô bé này sẽ ra sao? Đường chồng con như thế nào? Chắc là cô sẽ gặp một ông chồng từ cái môi trường nhỏ bé của căn nhà lồng chợ, đúng theo ý nghĩa của cái câu “nồi nào sẽ có cái vung đó”. Nói cho ngay cũng có một số người con gái tuy rằng học hành kém nhưng cũng tìm được những ông chồng có học vị cao hơn và vẫn sống hạnh phúc tới già. Trong thời buổi hiện tại, ở những vùng quê xa xôi đã có quá nhiều người con gái với duyên phận hẩm hiu muốn đổi đời, muốn giàu sang, nên nghe nghe lời dụ dỗ để được bán qua mấy nước châu Á láng giềng làm vợ những ông chồng ngoại quốc với giá rẻ như bèo. Báo chí cũng nói nhiều nhưng nhiều người vẫn quyết chí ra đi với ước vọng xóa tan thân phận nghèo khó. Thực sự đổi đời đâu không thấy mà chỉ thấy nhiều người phải trốn chạy trở về với tấm thân tàn tạ, thê lương. Nhiều người cho rằng chuyện vợ chồng đều do “số mạng”. Không phải cô nào muốn lấy chồng là có được theo ý mình muốn. Tất cả đều do cái “duyên”. “Hữu duyên thiên lý năng tương ngộ, vô duyên đối diện bất tương phùng”. Câu này ai cũng đã từng nghe từ cái thời đệ nhứt đệ nhị thế chiến nhưng vẫn có độ chính xác rất cao ngay cả trong cái thời đại “a còng” này. Oanh ngồi nghiệm lại thấy từ trước đến giờ cái duyên của cô chạy đi đâu “trớt quớt”, nay bất ngờ qua công việc, cô quen được anh chàng làm công tác marketing này, cô thấy có vẻ như là cái duyên của cô đã bắt đầu hé lộ, như ánh mặt trời đang từ từ lóe sáng sau đám mấy đen kịt của quá khứ. Cô thấy anh chàng này có vẻ vẫn còn nhút nhát khi đứng trước mặt một người phụ nữ mặc dù đã ba mươi mấy tuổi rồi và ở trong môi trường làm việc phải tiếp xúc nhiều loại khách hàng. Qua những lần đi uống cà phê, ăn sáng cô thấy anh có kiến thức rất rộng chứng tỏ là một người đọc sách rất nhiều. Trong khi nói chuyện anh thường hỏi cô có đọc cuốn sách này, cuốn sách nọ hay không. Anh cũng hay lên mạng để đọc sách, đọc báo, cho nên khi Oanh hỏi một vấn đề gì đó anh đều biết và giải thích lại rõ ràng. Oanh ngả lưng ra ghế lẩm bẩm: - Ừ, tới đâu thì tới, thử coi như thế nào. Đột nhiên Oanh lại nói: - Uý, “thiệt” chứ sao lại “thử”? Mấy lần Oanh tâm sự với cô bạn thân bằng tuổi, nhưng đã có chồng và có con từ đời… “tám hoánh”. Cô bạn này thường khuyến khích Oanh: - Mày ráng “chộp” cho dính, không thì lại “trụi lũi” bây giờ. Tự nhiên Oanh thấy ấm áp trong lòng, rồi cô với tay vào “con chuột” rê đọc một bài báo cáo… … Thịnh đứng dậy xoay chốt cho tấm màng nhựa bật lên che ánh mặt trời chiều đang chiếu vào chỗ anh ngồi. Tự nhiên anh bật cười với ý nghĩ: “Chà, ông trời ngó lại rồi đây”. Chắc là ông Trời đang sắp xếp cho anh bước vào chuyện tình cảm với người con gái hơi có phần cao số này. Anh đoán Oanh hơi bị cao số nên đến giờ bước qua tuổi “băm” rồi mà vẫn còn “ở không”. Trong công ty anh có nhiều cô trẻ hơn, xinh xắn, đều đã tốt nghiệp đại học, nhưng anh chưa hề phát sinh tình cảm với cô nào cả. Có cả vài cô hình như đang chờ đợi người con trai nào đó đến rước đi nhưng không hề có ý để anh vào tầm ngắm. Anh nghĩ có lẽ mấy cô đó chê anh già. Anh cho rằng cũng được thôi, và anh cũng không “kết” một ai hết. Tuy vậy, anh đã bỏ ra rất nhiều thời gian âm thầm lặng lẽ tìm hiểu từng cô và thấy rằng mỗi cô một cá tính và khó mà có cô nào hợp với cá tính của anh. Nói cho cùng thì chính anh cũng không thấy mình có cá tính gì rõ rệt. Qua những câu chuyện phiếm giữa anh và các cô bạn trẻ đó, rõ ràng họ có vẻ kiêu hãnh tự cho rằng trong tương lai các cô sẽ có những anh bồ “bảnh” hơn anh chàng Thịnh này nhiều. Trong thâm tâm hình như họ cho Thịnh có vẻ dở hơi, già không già, trẻ không trẻ. Các cô cho Thịnh ra “ngoài vòng phủ sóng”. Có thật như vậy không? Thịnh tự hỏi. Mấy cô làm ra vẻ họ là “hàng hiệu”, các chàng trai trẻ có bổn phận phải đeo bám. Thịnh biết rõ tâm lý mấy cô đang bắt đầu bước vào giai đoạn “nắng hạn chờ mưa” nhưng cũng còn đang “làm giá”. Cái mặc cảm tự ti, sợ không ai để ý đến mình, bị thoái hóa biến thành tự tôn, làm cao để các chàng trai trẻ phải đeo bám như một hậu vệ bóng đá. Trong nhóm này có một cô coi như trẻ nhất, đã tốt nghiệp và đi làm việc được vài năm thường tự cho rằng đang có giá nhất. Cô thường biểu diễn cái duyên dáng của mình khi nói chuyện điện thoại với các chàng trai trẻ ở các công ty bạn. Cứ mỗi lần cô nói chuyện điện thoại, mọi người lén lén lắng nghe để được nổi… da gà vì cái nước “điệu” của cô ấy. Giọng nói có lúc giãn ra giống như cuộn băng cassette sử dụng lâu ngày làm cho giọng hát của ca sĩ chảy nhão ra như tiếng đàn violon kéo dài, giống hệt một anh chàng ca sĩ đám cưới vừa hát vừa uốn éo cái giọng bán nam bán nữ. Giọng nói của cô này cũng vậy, nó uyển chuyển làm cho người nghe cảm thấy nhột ở sóng lưng. Thịnh tính để thử xem thử cô này nhão cho tới khi nào cô sẽ tìm được một đức lang quân. Trong một cuốn sách về tướng số Thịnh đã đọc trước đây, người ta nói âm thanh của người con gái phát ra rất quan trọng khi xét đoán về cuộc đời. Câu nói “nhất thanh nhì sắc” Thịnh thấy có vẻ chính xác. Những người phụ nữ quyền cao chức trọng thường có giọng nói mang đầy uy lực. Giống như một câu chuyện bên Tàu ngày xưa. Một ông quan trong triều đình có đứa con trai đến tuổi cưới vợ. Ông quan này nhờ người mai mối khắp nơi. Sau cùng người ta giới thiệu ông đến gia đình một ông viên ngoại. Lúc bấy giờ trời đã về chiều, nông dân đã nghỉ tay cày chuẩn bị dắt trâu ra về. Đang ngồi hàn huyên với ông viên ngoại, vị quan kia đột nhiên nhìn thấy một cô gái trẻ không biết từ đâu xuất hiện, đứng trước một đám người có vẻ là gia nhân trong nhà. Cô gái tuổi độ mười bẩy mười tám, cô phân chia công tác cho gia nhân đi dọn dẹp chuồng trại, sắp xếp chỗ ở cho trâu, bò, gà, vịt, vận chuyển lúa gạo vào kho. Nghe giọng nói của cô gái, vị quan vừa ngạc nhiên vừa mừng rỡ, vì cô gái tuy chỉ có nhan sắc bình thường nhưng giọng nói của cô rất có uy lực, đám gia nhân rắm rắp tuân lệnh với vẻ kính nể.Vị quan hỏi thăm về người con gái. Thì ra đó là cô con gái thứ ba của ông viên ngoại. Cô này cũng làu thông kinh sử thường xuyên thay cha mẹ chăm sóc mọi công việc trong gia đình, sẵn sàng chia sẻ những công việc nặng nhọc với gia nhân. Sau đó, vị quan kia đã lên tiếng xin hỏi cưới người con gái đó cho con trai, và chỉ trong một thời gian ngắn, cô con gái của ông viên ngoại đã thành con dâu của vị quan có mắt tinh đời đó. Về nhà chồng người phụ nữ đó đã nhanh chóng sinh hạ một đứa con trai và anh cu này sau đó vài chục năm trở thành một trong những nhà lãnh đạo nước Tàu. Qua câu chuyện về “tướng mệnh” ở giọng nói của người phụ nữ , Thịnh thường chú ý đến cách nói chuyện của những người con gái anh đã gặp. Anh phát hiện có một số cô gái trẻ có lối nói chuyện “tay bằng miệng, miệng bằng tay”. Một câu nói họ thường xài nhiều lần hai từ “á hả” giống hệt lối diễn tấu hài dung tục trên sân khấu. Thịnh còn thấy nhiều cô gái trẻ hiện nay thích làm một người đứng trước đám đông. Các cô hay bắt chước những “em-xi” trên sân khấu, trên TV quảng cáo hoặc ở các đám cưới. Cứ sau mỗi lẫn biểu diễn vài câu giải thích gì đó trước những người chung quanh, các cô thường tỏ ra hả hê tự cho mình là một nhà hùng biện đại tài. Có cô khi nhắn tin qua điện thoại hay viết trên những trang blog xã hội thường dùng một thứ ngôn ngữ tiếng Việt quái dị như là “wá trời” thay vì “quá trời”, “không bít” thay vì “không biết”. Nhìn lại Oanh, cô bạn gái mà anh đang có cảm tình, Thịnh thấy cô có nhiều điểm hợp với anh. Quan niệm về cuộc sống của cô rất giản dị. Qua những lần đi uống cà phê, hai người thường trao đổi với nhau nhiều vấn đề mang tính xã hội. Điều làm Thịnh thích nhất là cô ham đọc sách và những câu chuyện thường xoay quanh những cuốn sách mà hai người đã cùng đọc. Hai người gần gũi nhau thường xuyên, nếu không đi uống cà phê, họ liên lạc với nhau bằng điện thoại, nhắn tin, bằng email và cuối cùng sau gần một năm quen biết, tìm hiểu hai người thấy hình như cần phải ở bên cạnh nhau suốt cuộc đời. Thế là một đám cưới đơn giản đã diễn ra sau đó không lâu… Dương Lêh NHÀ TỪ ĐIỂN HỌC PIERRE LAROUSSE
1817 - 1875 Là một nhà giáo vùng Bourgogne (phía đông nước Pháp) ông đến Paris để hoàn thiện kiến thức vốn đã bao la của mình. Năm 1863, Pierre Larousse bắt tay vào thực hiện cuốn “Từ điển lớn”: tất cả tri thức của thế kỷ 19 được thâu tóm trong 15 tập sách! Công trình đồ sộ đó ngày nay đã nổi tiếng trên toàn thế giới, nhưng tác giả của nó vẫn ít được biết đến… Được phát hành vào năm 1863, công trình của Pierre Larousse bị thất bại ngay từ đầu: lần đầu tiên kể từ Diderot (nhà văn, triết gia Pháp, người biên soạn cuốn Bách khoa toàn thư vào thế kỷ 18, 1713-1784 – ND), dám xuất bản cuốn “Từ điển lớn” phổ cập. Là người kế nghiệp Diderot, nhưng tác phẩm của Pierre Larousse nói với “tất cả mọi người”, chứ không chỉ cho những nhà bác học như cuốn bách khoa toàn thư của Diderot. Tập đầu tiên, mãi tới ngày 27/12/1863, mới được in ra. Quả thật, ông Pierre Larousse gặp rất nhiều khó khăn trong việc thu thập tiền nong của 200 người đóng tiền mua sách. Trong khi đó ông Émile Littré, nhà bác học nổi tiếng, một trong những cha đẻ về chủ nghĩa thực chứng, được nhà sách Hachette ủng hộ, đã bắt đầu in cuốn “Từ điển ngôn ngữ Pháp” và hoàn tất vào năm 1870. Khi ông Émile Littré được bầu vào Hàn lâm viện Pháp năm 1872, ông Pierre Larousse mới bắt đầu đưa in những từ đầu tiên của phần “E”. Trong khi kiệt sức với công việc, ông đã để lại cho những người kế vị ông các chất liệu đủ để soạn thảo tất cả phần cuối của cuốn “Từ điển lớn”, để hoàn thành vào năm 1876, 20 tháng sau khi ông qua đời. Ngày nay, từ Larousse đã trở nên quen thuộc trên toàn thế giới. Nó đã trở thành đồng nghĩa với danh từ từ điển, trong khi tác phẩm của ông Littré chỉ là một kiểu mẫu về chuyên luận từ nguyên học, chỉ gắn với công việc nghiên cứu của một nhà bác học. Nhưng một người thì mờ nhạt sau công trình của mình, còn người kia vẫn ở đỉnh cao của tiếng tăm đến mức năm nay, người ta kỷ niệm 300 năm ra đời của cuốn “Bách khoa toàn thư” của Diderot ở nước Pháp, nhưng lại không đả động gì đến ông Pierre Larousse! Thường được giới thiệu như một người tự học, Pierre Larousse đúng là một sản phẩm của thế kỷ 19, khi mà nền học vấn đại học chẳng đưa đến một cái gì, ngoại trừ khoa luật và khoa y. Ra đời ở Toucy, vùng Yonne vào năm 1817, có người cha làm nghề thợ rèn và đóng xe ngựa, mẹ làm chủ quán trọ, ông đã qua trường tiểu học ở làng. Nhờ có một học bổng của tỉnh Auxerre, ông đã được theo học trường sư phạm ở Versailles vào năm 1834. Tốt nghiệp năm 1838, ông về quê day học. Hai năm sau, ông từ bỏ nghề giáo, trở lại Paris nhằm thực hiện dự định lớn của mình. Trong 10 năm đầu ở Paris, người ta không biết một tí gì ngoài những điều ông đã viết trong lời tựa của cuốn “Từ điển lớn”. Là độc giả chuyên cần nhất của các thư viện, ông lui tới thường xuyên những nơi này. Là thính giả không biết mệt mỏi của các lớp học tiếng Hy Lạp, La tinh, Pháp, văn học nước ngoài, ngôn ngữ học, Phạn ngữ và cả tiếng Trung quốc, ông hầu như không rời trường đại học Sorbonne. Khi rảnh rỗi, ông lui tới Nhạc viện quốc gia, Đài thiên văn hay Viện bảo tàng vạn vật học… Nhờ sự giúp đỡ tài chính của gia đình nên Pierre Larousse đã có thể tiếp tục cuộc sống như thế. Vào cái thời mà thợ thủ công và dân buôn bán tỉnh lẻ còn ít tôn trọng các trường đại học, việc mở mang trí tuệ của con cái xem ra thật khác thường, đối với cha mẹ Pierre Larousse. Sau khi gom góp một kho báu về tất cả các đề tài, từ 1848 đến 1851, Pierre Larousse trở thành giám học ở trường trung học Jauffret. Cũng ở thời kỳ này, ông đã gặp Suzanne Caubet, sau trở thành vợ ông. Và ông cũng quan hệ với Augustin Boyer, một đồng hương để cùng hợp tác mở ra một hiệu sách ở Paris. Boyer là người quản lý, còn Pierre Larousse chuyên chú vào việc biên soạn sách giáo khoa và cả một cuốn từ điển dùng cho các lớp học. Có tiền rồi, ông đã có điều kiện tiếp tục dự án lớn. Nhà soạn thảo từ điển đã có quanh mình nhiều cộng sự viên, và chỉ việc chăm chú theo dõi chất lượng bản sao và những tiểu dẫn soạn thảo theo sự chỉ đạo của ông. Tới năm 1869, ông không cộng tác với Boyer nữa vì lo nghại cho cung cách quản lý của ông bạn đồng hương. Từ đó, ông cùng vợ giam mình trong nhà in riêng, tiếp tục chạy đua chống lại bệnh tật và cái chết – năm 1869, ông đã lên cơn cấp phát lần đầu, tới năm 1872, chứng xung huyết não đã đánh gục ông. Tổng cộng tác phẩm cần tới 524 tay, mỗi tay 40 trang, gồm 15 tập đóng lại tức 483 triệu dấu in máy. Tất cả thế kỷ 19 từ nay được chứa đựng trong một tập hợp những từ. Như Adam đã nói ở một trong những lời dẫn mở đầu cho tập đầu. “Đây là xương, máu của xương máu tôi”. Pierre Larousse đã biểu lộ toàn vẹn trong yêu sách về tư cách tác giả này. Với công lao động mỗi ngày từ 15 đến 16 tiếng đồng hồ, ông đã thắng cuộc. Nhưng tác giả – chủ nhà in – chủ nhà xuất bản trước hết đã đặt nền móng cho một thế lực xuất bản gắn liền với tính hiện đại. Ông đã ký giao kèo với một tay cho vay chuyên nghiệp, Abel Pilon, nhằm kinh doanh hóa công trình của ông. Những người đi chào hàng của ông đã mời khách hàng mua toàn tập (với giá 600 franc 15 tập) trả dần mỗi tháng 20 franc. Sau khi ông Pierre Larousse qua đời, sáng tạo cách mạng này đã cứu được công trình và cho phép một con người yêu từ điển đơn độc giữa Paris cạnh tranh được với tập đoàn xuất bản hùng mạnh là Hachette và công ty. Pierre Larousse không biết là mình đã sáng tạo ra một thể thức của tương lai. Thị hiếu về các từ điển từ đó đã phổ cập trên toàn thế giới. Nhà giáo nhỏ bé vùng Bourgogne đã mơ ước trở thành Diderot trong thời đại của ông. Và ông đã trở thành người thầy chân chính của nước Pháp. Năm 1905, Claude Augé, người kế tục sự nghiệp của ông, đã tung ra cuốn “Từ điển nhỏ Larousse có minh họa” để tấn công vào các trường học và các thư viện. Khẩu hiệu của nhà xuất bản Larousse sẽ mãi mãi trung thành với người sáng lập ra nó: “Tôi gieo khắp mọi chiều gió”. JEAN-YVES MOLLIER HOÀNG HƯNG lược dịch (theo tạp chí L’Histoire số 165/94) ĐÀO MINH DIỆU XUÂN st N Ụ C Ư Ờ I X U Â N
VỢ CHỒNG VIỆT KIỀU GÂY LỘN Có hai vợ chồng Việt Kiều về thăm quê. Anh chồng có tính hảo ngọt cứ thấy gái đẹp là tít mắt, liếc ngang liếc dọc, tán lên tán xuống làm bà vợ chịu không nổi. Đem nhau về phòng khách sạn nổi trận lôi đình cãi nhau một trận to tiếng toàn bằng tiếng Mỹ. Bồi phòng, thấy trong phòng 2 ông bà lộn xộn to tiếng đến rình ngoài cửa nghe ngóng, ghi lại nhưng không hiểu họ nói gì. May là cu Tèo chịu khó đã tra hết 2 cuốn tự điển thì đây là bản dịch chính xác nhất. Anh chồng: - Sugar you you go, sugar me me go. - Đường cô cô đi, đường tôi tôi đi. Cô vợ: - You think you tasty? - Anh nghĩ anh ngon lắm hả? Anh chồng: - I love toilet you go go. -Tôi yêu cầu cô đi đi. Cô vợ: - You think you are belly button of dance pole? You live a place monkey cough flaming crow, clothes house country! - Anh nghĩ anh là cái rốn của vũ trụ hả? Anh sống nơi khỉ ho cò gáy, đồ nhà quê! Anh chồng đáp lại: - You onion summer me three down seven up. That is enough listen. - Cô hành hạ tôi ba chìm bẩy nổi. Thôi đủ rồi nghe. Cô vợ mếu máo: - Me take you, you poor fall spinach, two table hand white! - Tôi lấy anh, anh nghèo rớt mùng tơi, hai bàn tay trắng! Anh chồng thấy vậy tội nghiệp: - You eat criminal too much, no star where, we can do again from head. - Em ăn gian quá, không sao đâu, mình có thể làm lại từ đầu. Cô vợ nguôi giận: - I no want salad again! - Em không muốn "cải" (cãi) với anh nữa! Cả hai: "Ok, Ok…" RẺ MÀ HIỆU QUẢ Ba bà sồn sồn gặp nhau. Một bà than thở: - Tui cắt mắt, sửa mũi hết gần 4 ngàn, mà ông chồng vẫn bảo chưa đẹp. - Sao bằng tui, độn ngực $5,000, mông $2,500 mà ổng chưa vừa ý! - Tui tốn có $10 mà ổng khen nức nở. - Sao hay vậy? - Mua cho ổng chai Cognac. CÓ TÀI Một cậu bé khoe với bạn: - Anh tao vừa tốt nghiệp Mỹ thuật là được Viện Hàn Lâm Nghệ Thuật ở New York đặt hàng đó mậy! - Giỏi quá hen. Tranh treo ở đâu? - Ngay đại sảnh, đi vào là thấy liền. - Ngầu hen. Tên bức tranh là gì? - “Nhà vệ sinh, quẹo trái”. VẬT NGUY HIỂM Đứa bé 5 tuổi dẫn bạn đi thăm nhà: - Đây là phòng tớ, phòng này của chị tớ... Đến phòng mẹ, đứa kia nhìn thấy một cái cân điện tử, bèn hỏi: - Cái gì đây? - Ấy, đừng đụng vào, đau lắm đấy! Tớ thấy mỗi lần mẹ tớ giẫm lên đấy, bà la như cháy nhà!!!!! ĐỨNG ĐẦU Ông nọ khoe với khách: - Thằng con tôi mới đi học mà toàn đứng đầu lớp đấy! - Giỏi vậy à! Vừa lúc đó thằng bé về đến, ông bố hỏi: - Hôm nay con đứng thứ mấy nào? - Hôm nay trời mưa, cô giáo bảo khỏi xếp hàng ạ.
CON LỪA Chàng nọ đi thám hiểm, bị lạc vào một bản làng. Trời tối, chàng ghé một căn nhà xin ngủ nhờ... Chủ nhà vui vẻ Sáng hôm sau, anh chàng đến cảm ơn chủ nhà, ở cầu thang gặp hai cô gái xinh như mộng - Các cô là ai? - Chúng em là con gái chủ nhà. Thế còn anh là ai? - Tôi là… con lừa. KẾT QUẢ Bà Tám hỏi cô Hai: - Nghe nói hôm qua cô đi nghe nhạc cổ điển. Thế nghe những gì? - Đủ cả! Con Hoa sắp sửa bỏ chồng, Bà Tư mới mua được bộ tóc giả ngoại, ông Năm vừa mới đụng xe. TAI HỌA Một nữ ngôi sao điện ảnh đang ngồi ăn trong nhà hàng thì một anh chàng tiến đến: - Xin lỗi cô, hình như tôi đã gặp cô ở đâu rồi thì phải, có lẽ là ở một sân quần vợt gần đây. - Tôi không bao giờ chơi tennis. - Hay là tôi gặp cô ở bãi biển nhỉ? - Tôi không có thời gian đi biển đâu. Anh băn khoăn: - Vậy thì gặp ở đâu nhỉ? Cô mỉm cười: - Chắc anh gặp tôi ở rạp chiếu phim. - A, phải rồi. Cô bán đậu phụng rang ở mé bên phải cửa rạp phải không? RỂ QUÝ Cô gái dắt người yêu lần đầu về nhà. Chàng trai gặp bố cô gái, mở đầu câu chuyện: - Bác có thuốc lá không, cho cháu điếu. - Anh hút thuốc hả? - Bố cô gái hơi ngạc nhiên. - Dạ, cũng ít! Chỉ khi nào uống rượu, nhậu nhẹt thôi. - Uống rượu, nhậu nhẹt? - Dạ thì nhiều khi đánh bài bạc, thua cháy túi nên uống rượu giải sầu vậy - Lại còn bài bạc? - Dạ! Thì ở tù biết làm gì hơn? - Tại sao vô tù? - Ông bố bật ngửa - Tại lần trước, người yêu cũ cháu dắt cháu về nhà chơi mà ba cô ấy không đồng ý.
CHUYỆN ÔNG KHIẾM THÍNH Một ông lão bị khiếm thính rất nặng trong nhiều năm. Cuối cùng cũng chịu đi Bác Sĩ và được cung cấp một thiết bị trợ thính rất hợp với ông . Một tháng sau ông tới tái khám, Bác sĩ nói : - Xem ra dụng cụ này rất hợp với ông, không cần phải thay thế cái khác. Chắc là gia đình rất vui khi ông có thể nghe được bình thường như trước đây ? Ông lão bèn trả lời : - Tui vẫn giữ im lặng, chưa báo cho ai biết chuyện này, Nhưng sau khi nghe nhiều mẩu đối thoại của người trong gia đình, tui đã thay đổi di chúc 3 lần trong tháng qua...từ vợ sang con trai, sau đó là con gái và cuối cùng là con chó của tui! CHUYỆN HÀNG XÓM Thiếu phụ đang làm cơm trong bếp. Có tiếng gõ cửa.Bà bỏ dở việc bếp núc chạy ra. Một người đàn ông gật đầu chào lễ phép rồi hỏi: - Thưa bà, bà có nghĩ rằng bà có một thân hình rất đẹp và khêu gợi hay không? Bị hỏi một câu quá bất ngờ, người đàn bà sững sờ trong giây lát. Khi đã bình tĩnh bà liền đóng sập cửa lại không thèm trả lời. Chiều hôm sau lại có tiếng gõ cửa. Vẫn người đàn ông hôm trước, vẫn câu hỏi cũ. Thiếu phụ lại trả lời bằng thái độ lặng thinh. Câu chuyện đó diễn ra suốt một tuần lễ liền. Người đàn bà không chịu nổi nữa bèn kể đầu đuôi với chồng để tìm cách đối phó. Người chồng hôm sau bèn nấp sau cánh cửa khi nghe tiếng gõ cửa. Người vợ mở cửa.Cũng người đàn ông đó: - Chào bà, bà có nghĩ rằng bà có một thân hình rất đẹp và khêu gợi hay không? Yên chí có chồng đứng sau cánh cửa, người đàn bà trả lời mạnh bạo: - Đúng, như vậy thì có sao không? - Thưa, nếu vậy xin bà nói với ông nhà là hãy dùng đồ nhà chứ đừng sang ve vãn vợ tôi nữa. Nguồn: Nguoibanduong (Nga) Hà Mạnh Đoàn st Đàn Ông & Tình Yêu Đã có bài về Phụ nữ và Tình yêu thì phải có Đàn ông và Tình yêu cho công bằng, kẻo lại bảo mình thỉên vị. Nhưng bàn về đàn ông ở góc nhìn của phụ nữ không khéo cũng thiên vị võ đoán thật. Thôi thì cứ ngẫm sao nói vậy, đúng thì càng tốt, mà có sai chắc cũng chẳng sai nhiều lắm đâu. Bởi sự thẩm định về tình yêu của đàn ông tốt nhất không phải là phụ nữ sao? Hãy thử xem. Điều đầu tiên để nói là thế này: Với đàn ông, phụ nữ có thể chia làm bốn cấp: - Cấp thứ nhất để lấy làm vợ. - Cấp thứ hai để làm người yêu - Cấp thứ ba để làm bạn - Cấp thứ tư là ăn bánh trả tiền. Mới chừng đó đã thấy góc độ tình cảm của đàn ông “giàu có” đến thế nào rồi. Giàu có là bởi họ nhiều tham vọng, lắm nhu cầu. Họ không chỉ có gia đình mà họ sống nhiều hơn là xã hội. Gia đình là một nơi cho họ đi về, cho họ xả trút, cho họ nghỉ ngơi. Vì vậy mà người phụ nữ để họ quyết định lấy làm vợ không chỉ vì họ yêu, mà họ còn phải thấy được tiềm năng làm mẹ cho các con của họ, làm một kế toán viên xuất sắc cho hầu bao của họ, (mợ nào mà chỉ biết làm thủ quỹ mà không có kỹ năng kế toán hợp lý thì lại là tai họa), chưa hết, còn phải là một nội ứng giỏi trong các quyết sách với anh em họ hàng, bạn bè, kể cả đối tác của họ, bên cạnh đó là người giúp việc kiêm bảo mẫu cho họ, không những thế lại còn là một tri kỷ đáng yêu nữa thì hết sức tuyệt. Nếu người đàn ông nào có được một người vợ hội đủ các yếu tố như thế thì cho dù họ có tung tẩy đâu đâu nữa thì cũng chẳng bao giờ họ nghĩ đến chuyện bỏ vợ. Với một người phụ nữ như thế, thì trong tình yêu họ còn có thương, nể, trọng, quý. Nhưng chẳng dễ gì có được một người vợ như thế cả. Vì vậy, đàn ông luôn đi tìm những gì mình còn thiếu. Cái máu tham của tạo hóa chỉ muốn thêm chứ không muốn bớt, ngoại trừ càng thêm càng rầy rà rách việc thì buộc phải bớt. Nên khi họ có thêm một người phụ nữ khả dĩ bù lấp được vài phần mà người vợ còn thiếu ấy thì họ xếp người này vào cái cấp là người yêu. Với người yêu, họ không cần phải nhiều trách nhiệm, miễn là cô ấy bằng lòng. Đặt lên bàn cân, có thể tình cảm với vợ và người yêu là không chênh nhau, cái khó là dung hòa và liều lượng. Bởi phụ nữ cũng luôn có nhu cầu và tham vọng, chẳng mấy ai chịu cái cảnh chông chênh thân phận nếu không bị rơi vào hoàn cảnh bất đắc dĩ. Nên những mối quan hệ này thường không thể bền lâu, hoặc đổi cấp hoặc tan rã. Thông thường, khi để mắt đến một người phụ nữ, trong đàn ông dậy lên cảm xúc tình dục. Và họ luôn thực hiện điều này khi có cơ hội. Đây là cái phần bản năng tất yếu của đàn ông, còn được xem như phần căn bản khi xưng danh một đấng nam tử. Nhưng vẫn có sai số, vẫn không phải là tất cả phụ nữ đều đi qua họ trong lăng kính này, rất ít, có khi chỉ một, hai người phụ nữ mà họ không thấy dậy lên cảm xúc gần gũi, mà họ lại có phần thân thiện quý mến, tin tưởng và cả nương dựa nữa. Đó là Bạn. Người đời hay nói không có tình bạn giữa nam và nữ. Không đúng. Vẫn có. Chỉ có điều không phổ biến, vì đa số ban đầu là bạn, nhưng rồi có một cái đẩy hay hoàn cảnh bị động gì đó mà chuyển thể. Nhưng vẫn có những tình bạn nam nữ rất bền. Với người bạn nữ này, người đàn ông có thể bày giãi khúc nôi tất tật, nhất là khi có chuyện vướng mắc với vợ hay bạn gái, họ thường tâm sự và tìm lời khuyên chí lý và thật lòng. Với những tình bạn này rất có thể bền mãi đến già. Như đã nói, với đàn ông, bản năng giới tính là một vấn đề quan thiết. Bất kể cấp hàm địa vị trí tuệ hay bình dân đều không phân biệt trong góc độ này. Với những người sinh cường thì hầu như không bao giờ là đủ là chán với chuyện nam nữ. Ngoại trừ một số có sự cố nặng nhẹ về sức khoẻ thì phải chịu. Vậy nên nhu cầu của họ gần như núp sẵn, nhiều khi không hẳn họ có chủ định trước, nhưng bất kỳ trong một hoàn cảnh thuận tiện thì họ không thể kềm chế được. Vì thế mà đã xảy ra không biết bao dở khóc dở mếu cho cả hai phía. Cũng vì họ luôn có một khả năng thường trực nên khi người phụ nữ của họ vì bất kỳ lý do gì đó không thể đáp ứng, hay không đủ thỏa mãn, họ thường tìm cách để giải toả. Và cách hay nhất tiện nhất êm ả nhất gọn gàng nhất là: ăn bánh trả tiền. Bởi thế mà trên khắp thế giới, không ở đâu là không có loại hình mua bán cảm xúc này.Nói một cách thẳng thắn thì đó không phải là điều tội lỗi, tội lỗi nếu có là do người đàn ông vì dục vọng của mình mà đem lại bất hạnh cho người phụ nữ khi họ chưa đủ kinh nghiệm sống hoặc không hiểu rõ hậu quả là gì. Có lẽ, một số nhà khoa học hiểu rõ đây là một nhu cầu không thể hạn chế, mà có chăng là hạn chế hậu quả cho phụ nữ, rộng hơn là cho xã hội, nên họ đã phát kiến ra một số công cụ hỗ trợ, để đàn ông có thể dễ dàng hơn trong việc cá nhân. Một phần là tùy theo nền giáo dục của mỗi dân tộc. Văn hóa phương Đông và văn hóa phương Tây quan niệm khác nhau trong lĩnh vực này. Xét cho cùng mọi bản năng sống đều do tạo hóa xếp đặt, chỉ là con người nên tùy dụng trong những phạm vi vô hại một cách tốt nhất mà thôi. Tạm điểm qua bốn thang bậc của phụ nữ theo góc nhìn của đàn ông, để thấy phần nào những cái gút trong các mối quan hệ tình cảm. Với phụ nữ, khi đặt một câu chuyện tình cảm là lập tức gói theo nó rất nhiều liên quan khác, mà không hề hiểu rõ, trong mắt người đàn ông ấy mình thuộc thành phần nào. Để rồi khi gãy đổ đâm ra oán thán bi thương. Thực sự người đàn ông họ có đa mang mấy đi nữa, nhưng khi họ đã xác định tình cảm thật với một người phụ nữ nào đó, thì tình yêu ấy cũng là một tình yêu cắn chết trong họ. Nhưng họ khác phụ nữ ở chỗ, phụ nữ yêu ai thì mới gần gũi người ấy, đàn ông thì không chỉ gần gũi với người họ yêu, và không phải họ gần gũi ai cũng vì tình yêu. Khi một người phụ nữ yêu họ, yêu mê say, yêu cuồng nhiệt thì dù họ không yêu một chút nào họ cũng không hề từ chối. · Lý do thứ nhất: Không thể đánh phụ nữ dù chỉ bằng hoa hồng. · Lý do thứ hai: Em thương tôi thì em tự nguyện, tôi có ép em đâu, mà cũng chẳng hứa hẹn gì với em cả. · Lý do thứ ba: Đàn ông như cái gậy thằng mù, đàn bà dại thì ráng chịu. Vì vậy mà khi tan chuyện, mặc cho người phụ nữ đớn đau tan nát họ cũng không cảm thấy có lỗi. Cho dù vẫn phải dùng đến câu “Không vơ đũa cả nắm”, nhưng phần lớn đàn ông có chung tâm lý này. Nhất là những người đàn ông có ưu thế về ngoại hình. Đàn ông yêu thích phụ nữ đẹp, thì phụ nữ cũng yêu thích đàn ông đẹp. Nhất là những nét đẹp góc cạnh đầy nam tính. Chưa cần tán tỉnh gì, chỉ mới một cái nhìn bâng quơ đã đủ làm người phụ nữ chao đảo. Cái chết của phụ nữ là khi yêu một cách mê dại không toan tính thì bao nhiêu hậu quả thuộc về mình, và đàn ông thì được sự ưu đãi của tạo hóa và quan niệm xã hội lại tha hồ nhởn nhơ. Chính vì vậy mà một số đàn ông vẫn có thói quen xem phụ nữ như một thú vui và ra vẻ khinh miệt người đàn bà vừa qua tay mình ngay lập tức. Đây mới là điều đáng trách nhất của đàn ông. Họ vừa được ăn vừa được nói, mà không hề bận tâm rằng, người đàn bà sẵn sàng lao đến với họ bằng tất cả tình yêu chứ không phải vì đó là sự hư hỏng dễ dãi. Đành rằng, chẳng hay ho gì một phụ nữ dễ dàng chung đụng luôn tuồng, giá trị của phụ nữ vẫn là sự đoan chính và phẩm hạnh. Nhưng trong một số tình huống thì không thể quy ghép vào góc nhìn định kiến mà xem nhẹ phụ nữ. Vẫn còn một góc độ nữa cần soi đến, đó là đàn ông mạnh như thế nhưng cũng là yếu bởi chính như thế. Không ít đàn ông sập bẫy mỹ nhân kế mà công tàn danh hoại, không ít đàn ông chỉ vì một vài phút thỏa mãn mà đánh đổi cả một cuộc đời, không ít đàn ông giỏi giang xoay chuyển thủ đoạn khôn khéo để đạt được những giá trị vật chất đáng kể, xong lại đem những thành quả của mình phục vụ cho không chỉ một phụ nữ. Vậy xét cho cùng, đàn ông cũng có khôn hơn phụ nữ đâu, và cũng chẳng được nhiều hơn phụ nữ là mấy, bởi trên đời cái gì mà chẳng có một cái giá, khác nhau là giá hời hay giá cắt cổ mà thôi. Lạm bàn thì cứ lạm bàn cho vui vậy. Mọi sự trên đời đã được thiết kế từ bàn tay tạo hóa. Có chăng là con người ta chỉ thực sự hạnh phúc khi đặt được tình cảm của mình vào đúng chỗ. Nhưng thế nào là đúng chỗ thì chịu, chẳng có câu trả lời nào đủ khôn ngoan tỉnh táo tận tường cho Tình yêu cả. ĐÀM LAN
|