VÀI CHI TIẾT VỀ KỲ HỌP NGÀY 12/4/2014 CỦA CÂU LẠC BỘ SÁCH XƯA & NAY Mở đầu phiên họp, như thường lệ, Dịch giả Vũ Anh Tuấn đã mời ba vị khách mới lên nói vài lời vắn tắt tự giới thiệu mình với các thành viên, sau đó ông đã giới thiệu với các thành viên 2 cuốn sách bằng Pháp văn, một cuốn 102 tuổi (1912) và một cuốn 63 tuổi (1951). Cuốn 102 tuổi mang tựa đề là Những Con Châu Chấu (Les Sauterelles) của tác giả Émile Fabre. Đây là một vở kịch lịch sử 5 hồi mà nhiều năm trước, khi mua được, Dịch giả Vũ Anh Tuấn đã nhầm tưởng là mình mua được một vở kịch lịch sử nói về Giặc Châu Chấu là chuyện một cuộc nổi dậy hồi thế kỷ thứ 19 mà Lê Duy Cự làm Minh Chủ và Cao Bá Quát (1808-1855) làm Quốc Sư. Ai ngờ ông đã nhầm vì tác giả chỉ nhắc tới cuộc nổi dậy đó có một chút khi viết vở kịch 5 hồi này để chỉ trích bọn Tây thực dân, và vào năm 1911, vở kịch này được đăng trong tờ báo nổi tiếng của Pháp là tờ Báo Ảnh (L’Illustration), và được trình diễn có một lần duy nhất vào ngày 13 tháng 12 năm 1911 tại nhà hát Vaudeville ở Pháp. Và năm 1912 thì được in thành sách, nhưng hình như ngay sau đó liền bị cấm lưu hành. Tuy bị nhầm nhưng Dịch giả Vũ Anh Tuấn rất lấy làm thích thú khi ông khám phá ra 2 cái triện (lúc này đã mờ gần hoàn toàn) và chữ ký (vẫn còn rất rõ) của người chủ sách cũ là Cụ Trần Trọng Kim, vị Thủ Tướng đầu tiên của Việt Nam, sinh năm 1883 ở Hà Tĩnh và mất năm 1953 ở Đà Lạt, và ông kính trọng Cụ Kim không phải với tư cách Thủ Tướng mà là với tư cách một học giả danh tiếng, tác giả bộ Việt Nam Sử Lược, bộ Nho Giáo, và một cuốn Hồi Ký là cuốn Một Cơn Gió Bụi, và ông tin chắc như bắp là vài chục năm sau, sẽ chẳng còn ai nhắc tới chức vụ Cựu Thủ Tướng của Cụ, nhưng chắc chắn sẽ không ai quên Cụ Lệ Thần Trần Trọng Kim tác giả Việt Nam Sử Lược và bộ Nho Giáo! Cuốn sách thứ hai Dịch giả Vũ Anh Tuấn giới thiệu là một cuốn sách thuộc loại sách đẹp dành cho người chơi sách mang tựa đề là Tình Yêu: Thủ Phủ Paris (Amour: Chef-Lieu Paris), và là một tập thơ, không phải là của một nhà thơ, mà là của tác giả R. A. Guesdon là một Luật Sư Tòa Thượng Thẩm viết để ca tụng các danh lam thắng cảnh của Thủ Đô Pháp. Sách thuộc loại sách đẹp, được in trên giấy thật đẹp, và đặc biệt là được minh họa bởi một họa sĩ minh họa nổi tiếng tên là Touchagues và được Viện Sĩ Edouard Herriot của Hàn Lâm Viện Pháp giới thiệu. Sách có 12 phụ bản (planches) nguyên trang được in màu cực đẹp. Sau khi giới thiệu một vài thành viên đã mượn xem một cách thích thú. Sau khi giới thiệu hai cuốn cổ thư, Dịch giả Vũ Anh Tuấn đã giới thiệu tiếp cuốn sách thứ ba sắp được cho ra lò là tập thơ của các thành viên, với sự góp mặt của hai nhà thơ bạn của CLB là nhà thơ Trần Nhuận Minh và nhà thơ Lê Nguyên. Tập thơ dự tính sẽ được xuất bản trong vòng tối đa là 3 tháng nữa. Sau phần giới thiệu sách, anh Phạm Vũ đã có một bài nói chuyện về tác giả Pháp danh tiếng Jules Verne và có giới thiệu vắn tắt tác phẩm thời danh Hai Mươi Ngàn Dậm Dưới Đáy Biển (Vingt mille lieues sous les mers). Tiếp lời anh Phạm Vũ, anh Thanh Châu lên hát tặng các thành viên bằng giọng ca rất ư là hùng dũng của anh bài ca Lối Về Xóm Nhỏ. Sau anh Thanh Châu, anh Hữu lên kể chuyện đi công tác ở Hàn Quốc và ngâm tặng các thành viên bài Màu Tím Hoa Sim của Hữu Loan. Tiếp lời anh Hữu, anh Chử lên hát thơ tặng các thành viên bài Hạnh Phúc Trăm Năm. Sau anh Chử, anh Nhựt Thanh, một vị khách mời, lên nói chuyện về thể thơ Haiku của Nhật Bản, và đọc tặng các thành viên một số bài thơ Haiku biến thể theo các thể thơ lục bát, song thất lục bát, và thậm chí thể thơ tự do của chính anh sáng tác. Sau khi anh Nhựt Thanh nói xong, anh Thanh Châu lại lên ca tặng các thành viên thêm bài Cuộc Đời Vẫn Đẹp Sao vẫn với giọng ca hùng dũng mặc định của anh. Cuối cùng nhà thơ nữ Minh Hưng ngâm tặng các thành viên bài thơ Hương Đời, và cuộc họp kết thúc lúc 11 giờ 15 phút cùng ngày.
Vũ Thư Hữu
KỶ NIỆM 8 NĂM RA MẮT CÂU LẠC BỘ SÁCH XƯA & NAY Quý độc giả thân mến, 8 năm là một khoảng thời gian không dài nhưng cũng không phải là ngắn đối với Câu lạc bộ Sách Xưa Và Nay, vì để duy trì sinh hoạt đều đặn hàng tháng kéo dài 8 năm trời có nghĩa là 96 lần họp, cung cấp 96 bản tin (lưu hành nội bộ), không phải nhóm nào, CLB nào cũng dễ dàng thực hiện được. Sau 8 năm bươn chải, bản tin số 96 này ra mắt bạn đọc như một kỷ niệm, một cột mốc thời gian để có dịp nhìn lại quãng đường đã qua và lấy đà cho hành trình sắp tới. Câu lạc bộ Sách Xưa & Nay xin thành thật thưa với quý độc giả về những cái được và những cái chưa được: 1. Những cái được: Trong thư ngỏ gửi Bạn Yêu Sách (Bản tin số 1, trang 1) có đoạn: "Đã từ lâu những người yêu sách sưu tầm sách chúng ta đều mong muốn có một nơi để chúng ta có thể gặp gỡ, trao đổi mọi thông tin về sách, đặc biệt là sách cổ, sách quý hiếm. Việc ra đời CLB Sách Xưa & Nay chính là để đáp ứng nguyện vọng thiết tha đó. Bên cạnh sự ra đời của CLB, việc cho lưu hành một bản tin chuyên đề về sách và sưu tầm sách cũng hết sức là cần thiết. Đây là nơi mọi người có thể đóng góp những kiến thức của mình về sách và cũng là nguồn cung cấp thông tin bổ ích cho mọi người…". Nơi gặp gỡ thì đã có địa chỉ 387 Lê Văn Sỹ, phường 2, quận Tân Bình, Tp.HCM – một địa chỉ rất quen thuộc với các thành viên, một không gian mở thoáng đãng và thân thiện. Bản tin thì đã có mặt liên tục từ số 1 tới số 96. Không một lần "lỡ hẹn" mặc dù phải khắc phục muôn vàn khó khăn về bài viết, đề tài, về nhân sự thực hiện dàn trang, in ấn, phát hành và kể cả ngân quỹ nữa. Đại đa số thành viên đều thuộc lớp "cổ lai hy", một số anh chị em "U-60, U-50" thì lại tất bật lo toan cuộc sống, không thể dành nhiều thời gian cho Câu lạc bộ được. Vậy mà bản tin có thể nói là "linh hồn CLB" vẫn "đúng hẹn là lên" với nội dung được nhiều bạn đọc gần xa, trong và ngoài nước ưa thích. Cái được thứ hai là hai phòng đọc sách dành cho đại chúng đã được mở ra mà chủ nhân là những thành viên của CLB Sách Xưa Và Nay : - Phòng đọc sách tại tư gia ông Phạm Thế Cường (quận Gò Vấp) với trên 20.000 đầu sách. - Phòng đọc sách tại Nhà thờ Tân Sa Châu (quận Tân Bình) với 4.000 đầu sách. Cái được thứ ba là các thành viên nói chung đã sưu tầm được những cuốn sách cổ, xưa, cũ và hiếm. Bằng chứng là trong những kỳ thi "Những Cuốn Sách Vàng", nhiều giải thưởng đã "bay" về với các hội viên CLB. Cái được thứ tư là một số thành viên CLB đã tích cực tham gia những cuộc trưng bày sách báo xưa và những tác phẩm dịch thuật cả ngoài Bắc lẫn trong Nam. Cái được thứ năm là gần đây đa số thành viên đã đóng góp những bài thơ "nghề tay trái" của mình như một món quà lưu niệm. Tập thơ có nhan đề "Mây Bạc" đang chờ giấy phép xuất bản. Cái được cuối cùng là trong vòng 8 năm nay các thành viên CLB Sách Xưa và Nay đã tới thăm viếng được mộ phần và nhà lưu niệm các danh nhân văn hóa như các cụ Lê Văn Trương, Hồ Biểu Chánh, Lưu Trọng Lư, Phạm Phú Thứ, Nguyễn Bính… và sẽ còn tiếp tục viếng thăm các nơi khác khi có điều kiện. 2. Những cái chưa được: Điều 5 của bản Điều lệ CLB có ghi: - Xây dựng 1 website riêng của CLB, nhưng cho tới nay do thiếu nhân sự và một vài điều kiện khách quan khác nên chưa thực hiện được, chỉ nhờ website riêng "Sách và Tranh" của ông Vũ Anh Tuấn – Chủ nhiệm CLB. - Các dịch vụ CLB mời gọi mọi người đặt hàng như: sửa morat, toát yếu tác phẩm, đấu giá, tư vấn thư viện, cung cấp bản sao… cho tới bây giờ vẫn chưa nhận được "đơn đặt hàng" nào. *** Trên đây là mấy điểm "được" và "chưa được" của CLB Sách Xưa & Nay, chúng tôi ước mong có nhiều sáng kiến đóng góp để "cái được" càng tăng và cái "chưa được" càng giảm. Tân Sa Châu, ngày 02 tháng 05 năm 2014 Lm. Jos. Nguyễn Hữu Triết Cố Vấn CLB Sách Xưa và Nay Các thành viên CLB tại Hội thi sách Tp. HCM lần thứ V - 2008 CUỐN CỔ THƯ 156 NĂM TUỔI VÀ TÔI Cuốn cổ thư này được xuất bản năm 1858 và mang tựa đề là Hội Truyền Giáo ở Nam Kỳ và Bắc Kỳ (Mission de la Cochinchine et du Tonkin), và tôi đã có được nó là vì một anh bạn đã mang nó từ Pháp về, và nhường lại cho tôi. Cuốn này khổ 14x22cm và dày 412 trang. Cầm cuốn cổ thư trong tay, tôi mơ màng nghĩ đến cơ duyên đã khiến nó đến với tôi, vì thật vậy, nếu không phải là do một cơ duyên, thì làm sao tôi lại có thể gặp được nó khi nó ra đời 156 năm trước, khi tôi chưa tới với cuộc đời này và còn mang tên là Hư văn Vô (Nothingness)… Nó được in năm 1858 và đương nhiên là đã phải được đem tặng hoặc đem bày bán 156 năm trước, và trong khoảng thời gian đó nó chắc đã phải qua tay một, hoặc nhiều người đã mua nó, đã cầm nó trên tay, đã giữ nó, và những người chủ trước của nó là những ai thì chỉ có Trời biết Đất biết. Điều duy nhất tôi biết chắc là ngay giờ phút này tôi đang đích thực là chủ nhân của nó, và nó đã may mắn lọt vào tay một người chủ tốt, biết chăm sóc, yêu thương nó, và nhất là biết sử dụng nó để cho nó một cuộc sống có ý nghĩa. Với tôi, sử dụng nó có nghĩa là tìm hiểu về nó và giới thiệu nó với những nhà nghiên cứu là đồng bào của tôi. Quả thật tôi phải tìm hiểu vì ngoài tựa đề ra, cuốn này chẳng đề tên tác giả là ai cả. Qua tìm hiểu tôi được biết là các tác giả đều là các Linh Mục Dòng Tên (Compagnie de Jésus) và trong năm người thì người mình chỉ biết một người là Lm Đắc Lộ (Alexandre de Rhodes), còn mấy người khác như F. de Montézon, Ed. Estève, Joseph Tissanier, Metello Saccano… thì hầu như người mình chưa ai biết về họ. Trong 5 tác giả này chỉ có tác giả F. de Montézon là thuộc thế kỷ thứ 19 còn bốn người còn lại đều sống ở thế kỷ thứ 17. Cuốn sách này khi mới được in ra trên 150 mươi năm trước đã được bày bán tại 25 tiệm sách tại 25 tỉnh rải rác trên đất Pháp. Tôi đọc lướt qua và thấy nó quá hay và là cả một kho tài liệu về sử học nên, mặc dù mấy bữa nay trời nóng bức quá tôi cũng cố mà ngồi viết bài giới thiệu sơ lược này. Cuốn sách dày 412 trang này được chia thành 4 phần và phần thứ 5 là phần Kết luận. Phần I – Từ trang 1-64 là phần kể về các hoạt động của Hội Truyền Giáo ở Bắc Kỳ của linh mục Đắc Lộ và được chia thành 9 chương: Chương 1 – Kể việc linh mục Đắc Lộ bị đưa đi lưu đầy vào năm 1630 – việc các linh mục thừa sai khác tới Bắc Kỳ – và hoàn cảnh Hội Truyền Giáo vào lúc đó. Chương 2 – Kể việc một tín đồ bị tử vì đạo – Kể về khá nhiều tân tín đồ theo đạo. Chương 3 – Kể về cách ứng xử tiền hậu bất nhất của nhà vua với các linh mục thừa sai – và những thí dụ minh chứng đức tin nơi một số tân tín đồ. Chương 4 – Kể về một chuyện cấm đạo do những người ngoại đạo chủ xướng lại trở thành có lợi cho các tân tin đồ. Chương 5 – Nói về tình trạng truyền giáo ở Bắc Kỳ vào năm 1640 và về cái chết của các linh mục thừa sai Joseph Maur. Antoine Barbosa và của một vài tân tín đồ. Chương 6 – Nói về các thầy giảng giáo lý ở Bắc Kỳ. Chương 7 – Nói về những cuộc cấm đạo mới. Chương 8 – Nói về việc Bề Trên che chở các tân tín đồ và về lòng trung trinh và hăng say của các linh mục thừa sai đối mặt với mọi gian khổ. Chương 9 – Hoàn cảnh của Giáo Hội Công Giáo ở Bắc Kỳ vào năm 1647. Phần II – Từ trang 65-204 là phần tường thuật của linh mục Dòng Tên Joseph Tissanier nói về chuyến đi từ Pháp của ông sang Bắc Kỳ và những ngày ông ở Bắc Kỳ trong những năm 1654-1658. Linh mục Dòng Tên này mô tả xứ Bắc Kỳ và những sự kiện truyền giáo nổi bật trong những năm 1658, 1659 và 1660. Trong phần này linh mục Tissanier nói về tất cả những gì ông gặp, ông thấy trong thời gian ông ở Bắc Kỳ, và ông kể về những chuyện như các quan chức ở Bắc Kỳ, các ông sư ở Bắc Kỳ, một số phong tục của dân Bắc Kỳ, và về việc các linh mục Dòng Tên bị đuổi ra khỏi xứ Bắc Kỳ. Linh mục này cũng mô tả khá cặn kẽ các chuyện cấm đạo ở Bắc Kỳ trong những năm 1663-1665. Phần III – Từ trang 205 tới trang 244 được chia làm 5 chương: Chương 1 – Nói về những biến cố chính yếu từ cái chết của Lm. Busomi năm 1639 cho tới vụ cấm đạo rất lớn ở Nam Kỳ vào năm 1663. Chương 2 – Nói về việc cấm đạo bắt nguồn từ triều đình của nhà vua. Chương 3 – Nói về việc cấm đạo ở vùng Cham. Chương 4 – Nói về việc cấm đạo ở Fai Fo năm 1665 và việc sáu tín đồ tử vì đạo. Chương 5 – Nói về hoàn cảnh các linh mục thừa sai trong thời gian cấm đạo. Phần IV – Từ trang 245 tới trang 336 nói về các Hội Truyền Giáo ở Bắc Kỳ và Nam Kỳ và nói về những linh mục Dòng Tên cuối cùng ở Bắc Kỳ và Nam Kỳ trong những năm 1750 tới 1787. Phần Kết luận – Từ trang 337 tới trang chót mô tả các hoạt động truyền giáo từ các năm 1774 tới 1857. Nhìn chung cuốn sách 156 năm tuổi này cũng là một nguồn tài liệu quý giá cho những nhà nghiên cứu sử học của chúng ta… Trích Hồi Ký 60 năm chơi sách, Chương VI Vũ Anh Tuấn CÓ MỘT CUỐN SÁCH NHƯ THẾ ĐÓ QUYỂN HẠ (TAM TẬP) HƯƠNG THÁNH KINH (Tiếp theo) 58. Báo KTNN số 584 ngày 1/11/2006, mục Chuyện Đông Chuyện Tây do An Chi phụ trách: Ông Huỳnh Thanh Liêm, Bình Thạnh Tp.HCM hỏi: Ngoài bìa và cả trong bìa giả, quyển Utopia của Thomas More do Trịnh Lữ dịch, Nhã Nam & NXB Hội Nhà Văn ấn hành, những người làm sách (chứ không phải dịch giả) đã thêm vào dưới nhan đề chính một "phụ đề" là "Địa đàng trần gian", về cái phụ đề này trong một bài nhận xét đăng trên báo Lao Động ngày 4/9/2006, Gs. Cao Xuân Hạo cho rằng đây là một trùng ngữ (pleonasm) một lỗi ngữ pháp, ngữ nghĩa không thể chấp nhận được… Trả lời: Ông Nguyễn Nhật Anh có bài phân tích bênh vực "Địa đàng trần gian" như sau: Nếu nói "Địa ngục trần gian" được thì cũng nói "Địa đàng trần gian" được. Địa đàng xuất phát từ Paradis (tiếng Pháp) và Paradisus (tiếng Latinh), tức là Thiên đàng, vườn diệu quang và cả Vườn Địa đàng nữa (An Chi). * Bài "Xem tranh qua lời bình": Georges Rouanlt (1871-1958) là họa sĩ biểu hiện lớn nhất nước Pháp. Nghệ thuật của ông thấm đậm chất tôn giáo và bi kịch. Cái bi đát u hoài và niềm khắc khoải của đức tin đã đặt ông vào một vị trí đặc biệt trong hội họa châu Âu Tk. 20. Bức Jeanne của chúng ta vẽ những năm cuối đời khi mà những dự cảm về một thế giới "bên kia" cũng như sự mệt mỏi với "thế giới bên này" đã quá chín muồi. Cô gái huyền thoại đã cứu nước Pháp mảnh mai trong bộ giáp sắt, trên yên ngựa cao gầy, tay cầm kiếm dài, tay nâng ngọn cờ Thiên Chúa. Mái tóc vàng của nàng chói chang cùng mặt trời ở trên; phía dưới là phong cảnh thâm u với một tháp Nhà thờ cô liêu. Ở Việt Nam, Rouanlt được một người ngưỡng mộ sâu sắc là Bùi Xuân Phái khi ông cũng vẽ những nét viền đậm và màu nâu đỏ trong các tranh phố Hà Nội (Họa sĩ Nguyễn Quân). 59. Báo KTNN số 597 ngày 10/3/2007, trang 100, bài "Những tác phẩm nghệ thuật Opus Sectile": Những tác phẩm mỹ thuật khảm chạm có sức cuốn hút rất lớn đối với mọi người. Nhưng, tại Rome, một loại hình nghệ thuật khác còn cao cấp hơn, đó là Opus Sectile (nghệ thuật yểm kính màu). Đấy là những bức tranh được tạo hình bằng kỹ thuật cắt ghép mà chất liệu chủ yếu là đá hoa cương, xà cừ và những miếng thủy tinh màu. Một số tác phẩm tiêu biểu: Nổi tiếng nhất hiện nay là những bức tranh tại Nhà thờ Saint Andrew, St. Gregory, St. Augustine. Chỉ với vài phiến đá người ta đã tạo nên một con tôm hùm rất sống động, màu sắc là màu nguyên gốc của các phiến hoa cương ấy. Những bức tranh vẽ đức vua, vẽ Thiên thần… Trên tường nhà cũng xuất hiện hình ảnh 2 con người: "Một người có thể là chủ nhân trẻ tuổi của ngôi nhà. Người kia, có vầng hào quang trên đầu, có thể là hình ảnh cổ điển của Chúa Jesus hay một nhà triết học cao quý", Maria Stella Arena, Giám đốc bảo tàng, cho biết (Tạ Xuân Quan). 60. Báo Thế Giới Mới số 730 ngày 16/4/2007, trang 52: "Linh hồn có tồn lại sau khi chết?" (Hà My). § Chỉ có Thiên Chúa giáo mới dùng từ linh hồn, các tôn giáo bạn gọi là hương hồn, vong linh, vong hồn… 61. Báo Mỹ Thuật số 175 (7/2007): * Trang 21 giới thiệu mỹ thuật đương đại. Họa sĩ Damien Hirst (Anh) – For the love of God, hình một chiếc đầu lâu gắn 8601 viên kim cương chào bán 50 triệu bảng (gần 100 triệu USD) (Kinh Kha). * Trang 28 giới thiệu Gianlorenzo Bernini người Ý (1598-1680) với bức tượng cẩm thạch: Chân phước Ludovica Albertoni (Lam Điền). * Trang 31: Tony Blair và Cherie, Ađam và Evà thời hiện đại, tác phẩm do Sandle vẽ thể hiện 2 vợ chồng Thủ tướng Anh "trần như nhộng" đặt tại vị trí trung tâm triển lãm mùa hè của London. Tác phẩm được giải thưởng Hugle Casso hàng năm của triển lãm (Điền Thanh sưu tầm và giới thiệu). * Trang 33: "Lữ khách lạc bước chốn Thiên đường", cuốn sách mới khám phá được những bức tranh phong cảnh tuyệt vời của đảo Bali những năm 1930 của Miguel Covarrubias, một nghệ sĩ Mêhicô (1904-1957) (Dịch Thủy sưu tầm và giới thiệu). 62. Báo KTNN số 611 ngày 1/8/07, trang 113: "Chi tộc Do Thái thứ 13 ở Trung Á": Thành phố nhỏ 5.500 dân này nằm ngay trước mặt ngôi làng Qouba của dân Azéris Hồi giáo miền núi. Dòng sông Goudial Tchai phân cách Nhà thờ Do Thái với Giáo đường Hồi. Từ xa, người ta có thể nhìn ra những mái nhà được trang trí theo hoa văn Do Thái. Người Do Thái cũng có những phong tục như các dân tộc vùng Caucase xung quanh, như nghĩa vụ phải báo thù "mắt đền mắt, răng đền răng". Mordekhai, em của David, nói: Trong số người Do Thái tại Liên Xô, chúng ta là nhóm duy nhất duy trì được tôn giáo của mình. Và nhờ chúng tôi, Do Thái giáo được phục hồi. Chẳng có ngày nào chúng tôi không cầu nguyện. Tất cả con trai đều được cắt da quy đầu. Chúng tôi đều là con cái của cùng một Thượng Đế (Đinh Công Thành). 63. Báo Thế Giới Mới số 747 ngày 13/8/2007, trang 90: "Thiên đường blog" – là nơi bạn có thể thấy những nàng tiên blog khoác trên mình những bộ cánh rực rỡ… một Thiên đường như thế cho cư dân blog Việt (Hải Anh). 64. Báo Tuổi Trẻ ngày 23/9/2007, mục Bài dự thi cuộc thi viết cửa sổ tâm hồn : Chọn "nhãn" cho mình (một lời động viên biến đổi cả cuộc đời): Tôi là một cô gái không thon gọn cho lắm. Những lời trêu chọc của bạn bè, đồng nghiệp và những người xung quanh khiến tôi luôn bị ám ảnh về cân nặng của mình. Như một cách tự bảo vệ, tôi luôn tranh thủ "tự thú" trước khi bị người khác nhận xét vẻ ngoài. Mỗi khi có ai đó chăm chú nhìn tôi từ đầu đến chân và mở miệng: "Em trông…", tôi lập tức chen ngang: "Mập quá hả chị?". Và 100% ngay sau đó, họ sẽ nhìn tôi thêm lần nữa và gật gù: "Đúng đấy, em trông mập quá!". Ngày sinh nhật 24 tuổi, tôi diện chiếc đầm mới, vào cơ quan thật sớm. Vừa bước chân vào cổng, bác lao công đã gọi tôi lại: "Con trông thật…". Theo thói quen, tôi nhanh nhảu: "Mập quá phải không ạ?". Thoáng chút ngạc nhiên nhưng bác vẫn mỉn cười hiền hậu: "Không, bác muốn nói là trông con rất xinh. Sao con luôn tự nhận mình mập thế? Chả trách mọi người lúc nào cũng bảo con mập!". Câu nói của bác khiến tôi ngơ người và quyết định làm một cuộc "cách mạng". Ngày hôm ấy, bất kỳ ai gọi tôi lại, tôi đều cố kềm lời "tự thú" như mọi khi. Thật bất ngờ, mọi người dường như quên bẵng chuyện tôi "sổ sữa". Ai cũng khen tôi xinh và tuyệt nhiên không nhắc đến chuyện mập ốm. Tôi nghiệm ra rằng những người xung quanh thường nhìn bạn theo cách bạn tự nhìn chính mình. 65. Báo Thế Giới Phụ Nữ 24/9/2007: * Trang 48: 9 điều Eva viết gởi Ađam! (Cao Bảo Vy). * Trang 70: Đã 7g Ngân thôi không còn dõi đôi mắt về phía cánh cổng trổ đầy những lá nho xanh, cổng Thiên đường của Ngân và Tuấn (Nguyễn Thị Hồng Liên Dương). 66. Nguyệt san Thế Giới Phụ Nữ ngày 5/11/2007, trang 90, mục vui cười: Một hãng quảng cáo ly loại 1 lít của mình: "Nếu trong đêm Giáng Sinh vợ bạn chỉ cho phép bạn uống 1 ly thôi, hãy chọn ly này". 67. Báo An ninh Thế Giới Xuân Đinh Hợi 2007: "Những năm lặng lẽ của Trần Lệ Xuân" – Mấy anh chị em ruột nhà Ngô thì nay ai cũng đã về "Nước Chúa", chỉ còn lại bà quả phụ Ngô Đình Nhu – Trần Lệ Xuân. Vậy bà quả phụ một thời lẫy lừng hiện nay sống như thế nào? Ngày hai anh em Diệm – Nhu bị sát hại thì Trần Lệ Xuân đang ở đất Mỹ. Trần Lệ Xuân cùng trưởng nữ là Ngô Đình Lệ Thủy đã tới Nhà thờ để dự lễ cầu hồn cho những người thân. Mỗi buổi sáng sớm, bất kể thời tiết, bà Nhu đều xuống đường đi bộ chừng độ 10 phút đến Nhà thờ Saint dự Thánh lễ, bà ở lại giúp dọn dẹp Nhà thờ và xếp đặt, trưng bày hoa nến. Ngày Chúa nhật, bà phụ trách dạy lớp giáo lý cho các trẻ nhỏ… (Nhân Hưng). 68. Báo An ninh Thế Giới Xuân Đinh Hợi 2007, bìa 3: Sách bé nhất – Đó là cuốn sách mô phỏng tập kinh Koran được coi là bé nhất bởi chiều dài của nó chỉ có 26mm và chiều rộng là 16mm. 69. Báo Thế Giới Phụ Nữ 10/12/07: * Trang 2 mục quảng cáo: "Giáng Sinh kỳ diệu tại xứ sở ông già Noël" – Phần Lan, xứ sở ông già Noël huyền thoại. * Trang 30: "Quậy tới bến" – Phim mùa Giáng Sinh (Trang Ngọc Linh). * Trang 104 Du lịch: Patmos quyến rũ… hòn đảo Thiên đường du lịch của vùng biển Egée thuộc Cộng hòa Hy Lạp với diện tích 60km2 và 5.000 dân, giới thiệu hình một Nhà thờ, một Tu viện Saint Jean nổi tiếng, một buổi Lễ trong Tu viện Saint Jean (Hoài Nam). § Patmos, nơi thánh Gioan Tông Đồ bị lưu đày (Kh 1,9). * Trang 106: "Nước mắt ở vùng Đất Thánh" – nỗi khổ của những cô gái nhập cư bất hợp pháp vào Israel qua đường dây lừa đảo, buôn bán (Cao Hồng). § Đất Thánh, quê hương Chúa Giêsu. 70. Báo KTNN số 625 ngày 20/12/2007: * Trang 38: Noël trên thế giới – Những phong tục đón Noël trên thế giới (Trần Thuyên). * Trang 116, truyện ngắn Dưới bóng cây Thánh giá (Thiên Trúc). * Trang 120: Quà Giáng Sinh của gã lục lâm O Henry. 71. Báo Thế Giới Phụ Nữ 24/12/07: "Cho mùa Giáng Sinh trọn vẹn" – sự xuất hiện của những trái châu, quả chuông, dây trang kim… ngoài mặt tiền các gian hàng trên phố báo hiệu một mùa Giáng Sinh sắp đến. Bạn đã có kế hoạch đón Noël cho 2 người chưa? Một vài gợi ý dưới đây có thể là lời giải đáp cho những bạn trẻ đang băn khoăn chưa biết "làm gì" trong mùa Giáng Sinh này. Trước Giáng Sinh: Rủ nàng đi mua sắm: Noël đâu chỉ một ngày, có cả một mùa lễ hội riêng để bạn tận hưởng không khí thiêng liêng mừng ngày lễ Thánh. Hãy tranh thủ dịp này rủ nàng đi mua đồ trang trí nhà cửa cho cả hai nhà. Cây thông, trái châu, quả chuông, vòng hoa treo cửa, ông già tuyết… Mở lòng yêu thương: Một tuần trước lễ Giáng Sinh, bạn hãy rủ nàng chuẩn bị những món quà nhỏ (bánh ngọt, kẹo, thiệp…), gói chúng thật đẹp và trang trọng. Cả hai cùng tới những nhà mở, nhà tình thương, trại trẻ mồ côi… tặng quà cho những em nhỏ, người già cô đơn có hoàn cảnh khó khăn. Đi du lịch để tận hưởng không khí Giáng Sinh lãng mạn trên Sapa hay ở Đà Lạt cũng là một ý tưởng không tồi. Ngày Giáng Sinh tụ tập bạn bè: Vào dịp này, các tụ điểm giải trí, ăn uống sẽ không thiếu những dịch vụ tưng bừng cho lễ Noël, "tùy tiền biện lễ", hoặc đơn giản "đổ bộ" vào một quán cóc ven đường xì xụp bát phở nóng rồi kéo nhau đi Lễ Nhà thờ tận hưởng không khí thiêng liêng của đêm Giáng Sinh an lành (Hải Yến). * Lấp lánh, lấp lánh, Giáng Sinh, Giáng Sinh – Bạn nguyện ước điều gì vào mùa Giáng Sinh năm nay? Một mùa Giáng Sinh của tình yêu? Một mùa Giáng Sinh đầy ắp nụ cười bên ly rượu sâm-panh và cây thông tỏa sáng lấp lánh?… Cho dù lời nguyện ước của bạn có là gì, cho dù bạn có phải đón Giáng Sinh một mình đi chăng nữa, nhưng trước hết, bạn cũng đừng quên làm đẹp cho mình bạn nhé! Bởi bạn mới chính là "món quà tuyệt vời nhất" mà bạn có thể tặng cho chính mình! (Nhân Văn) * Rực rỡ Giáng Sinh – Với điểm nhấn của mùa lễ hội là sự quyến rũ, sự ấm áp và hân hoan của đêm Giáng Sinh, bộ sưu tập "Rực rỡ Giáng Sinh" đã thể hiện tâm huyết của các thành viên CLB với mong muốn công việc sáng tạo nghệ thuật được công nhận như một ngành nghệ thuật thực thụ (Thúy Diệp – Anh: Huyền Vũ). * Mục tư vấn tình yêu: Phụ nữ ngày nay bình đẳng: Bạn T.N thân mến! Một cách chính thức, được ghi trên nhiều văn bản của Liên Hiệp Quốc cũng như Việt Nam, ngày nay người phụ nữ được quyền bình đẳng với nam giới. Xưa kia thì đàn ông năm thê bảy thiếp, còn đàn bà nếu vướng phải tội ngoại tình thì bị ném đá, buộc bè trôi sông. Ngày nay thì, chắc chắn chị em cũng có quyền sử dụng thân xác của mình như nam giới vào chuyện tình yêu, tình dục mà không thể bị bạo hành bất công… (Long Giang). * Vui đêm Noël – Noël không chỉ là một ngày lễ tôn giáo lớn mà từ lâu đã trở thành một lễ hội văn hóa: * Đi lễ Nhà thờ: Những bạn trẻ theo đạo Thiên Chúa cùng nhau đi lễ Nhà thờ, dự lễ Nửa Đêm và dự tiệc Reveillon cùng gia đình. Đây cũng là ngày sum họp tưng bừng trong năm với những người thân thiết và trao nhau những món quà được chuẩn bị chu đáo… * Rong chơi: Sự trang trọng huy hoàng của lễ Noël luôn làm các bạn trẻ nức lòng. Dù không theo đạo nhưng các bạn vẫn thích gặp nhau trong ngày này, họ bày tiệc ăn uống, ca hát hoặc đi chơi lang thang để chiêm ngưỡng những hang đá tuyệt đẹp về sự tích ra đời của Chúa, vào Nhà thờ để thưởng thức những bài thánh ca du dương. * Đi với người yêu: Thật tuyệt vời khi được dạo chơi với người mình yêu trong không khí rộn rã của lễ Giáng Sinh với thời tiết lành lạnh để thấy lòng ấm áp hơn, đó là một kỷ niệm đẹp, khó quên (Vệ Giang). * Mục mách nhỏ: Trang phục Noël – Thời tiết vào dịp Noël thường có chút se lạnh nên bạn chọn những màu sắc vui tươi, rực rỡ như đỏ, cam, vàng… * Mục kinh nghiệm: Có nên vui chơi "overnight" ? – Cũng có những bạn trẻ xem đêm Giáng Sinh là cơ hội vui chơi "xả láng" nên họ đi suốt đêm. Thật ra với các bạn gái nghiêm túc, lớn lên trong những gia đình nề nếp không bao giờ đi suốt đêm như thế. * Giấc mơ đêm Noël – Viết cho người đàn ông tôi yêu: Nó còn nhớ, Noël năm ngoái, anh đã thật rụt rè khi đề nghị nó cùng anh tới Nhà thờ vào đúng khi Chúa Hài Đồng ra đời. Thông thường đêm Noël nào cũng vậy anh đều chẳng cùng nó đi chơi cùng vài đứa bạn nữa nhưng lần ấy anh muốn chỉ có anh và nó. Nó đã phụng phịu rồi không đi. Mọi lần anh nhượng bộ ngay nhưng lần này anh đã lẳng lặng bỏ về. Vậy là nó đã có một lễ Noël phải ở nhà. Nó đã bắt đầu nhớ tới anh thường xuyên hơn và có một ước mơ Noël này anh sẽ lại rủ nó cùng tới Nhà thờ và chỉ có hai người. Một khắc, hai khắc… thời gian cứ lặng lẽ trôi và khi tiếng chuông Nhà thờ đổ vào không gian từng tiếng báo hiệu một mùa Noël mới, nó đã thấy anh đứng đó đón đợi nó. Thế nhưng đó chỉ là một giấc mơ. Liệu điều kỳ diệu có đến trong đêm Noël này để giấc mơ của nó biến thành hiện thực?! (Hoài Linh) * Giáng Sinh là mùa lạnh nhất trong năm, và Hà Nội là một địa điểm lý tưởng để cảm nhận cảm giác đó. Vào mùa Giáng Sinh 2007, từ ngày 12/12/2007 đến 2/1/2008, tại Tràng Tiền Plaza, nhãn hàng Bobby, công ty Diana đã mang đến cho người dân Hà Nội một Noël nồng ấm yêu thương, với những điều ước và những bông tuyết trắng, thật lãng mạn… Mong điều ước của các em bé trong đêm Giáng Sinh đều thành hiện thực: Đứng giữa mùa đông se lạnh trên phố phường Hà Nội, trước khung cảnh Giáng Sinh thật ấm áp tươi vui tại Tràng Tiền Plaza, bất chợt nhớ tới cô bé bán diêm trong truyện cổ Andersen đã ghi sâu vào tâm trí mỗi người từ những năm tuổi thơ. Cô bé bán diêm một mình giữa đêm Noël mơ ước về hình ảnh người bà yêu dấu, ước muốn được hưởng sự ấm áp của đoàn tụ gia đình, điều tưởng như bình dị ấy mà không phải em bé nào cũng có được. Giữa không gian trắng xóa của tuyết, của thế giới đẹp như cổ tích nơi có ông già Noël trên cỗ xe tuần lộc đang bay giữa trăng sao và hình ảnh ngôi nhà ấm áp yêu thương, chúng ta cùng mong cho ước mơ của tất cả các em bé đều sẽ thành hiện thực trong đêm Giáng Sinh. Cùng Bobby đón tuyết trắng mùa Giáng Sinh: Đến Tràng Tiền Plaza trong mùa Giáng Sinh 2007, các bé và gia đình còn được cùng Bobby đón Lễ Giáng Sinh với cảm giác tuyết thật đang rơi ngay giữa Hà Nội (từ 21 đến 24/12/2007), gặp và chụp hình với ông già Noël, nhận những lời chúc Giáng Sinh, những món quà ngọt ngào từ ông già Noël tặng riêng những người bạn của Bobby. Ở các nước châu Âu, mùa Giáng Sinh có thể coi là mùa đẹp nhất trong năm, một thú vui mà mọi người không bao giờ bỏ qua khi mùa Noël đến, khi tuyết đã rơi dày là đắp ông già Tuyết. Các thành viên trong gia đình cùng xây ông già Tuyết. Trước mỗi ngôi nhà, hình ảnh ông già Tuyết đủ hình dáng, màu sắc tươi vui càng làm cho mùa Noël thêm sống động. Ông Đỗ Anh Tú, Tổng Giám đốc công ty Diana cho biết: "Với việc đem đến khung cảnh Giáng Sinh nồng ấm yêu thương với không gian ấm áp, tươi vui và cảnh tuyết rơi, nhãn hàng Bobby và công ty Diana mong muốn mang một niềm vui bất ngờ đến với tất cả mọi người như lời chúc cho một mùa Giáng Sinh và năm mới 2008 an lành và hạnh phúc" (Hương Thu). 72. Báo Tuổi Trẻ 26/10/2008, mục Văn hóa – Nghệ thuật – Giải trí (Hải Âu): Halloween – Lễ hội tôn giáo bắt nguồn từ Âu Mỹ ngày nay lan tràn gần như khắp năm châu. Từ Halleween xuất hiện lần đầu vào thế kỷ 16, biến thể của cụm từ All-Hallow-Even có nghĩa là đêm trước Lễ Các Thánh (All Saints day/All Hallow day) 1/11 hàng năm của đạo Công giáo. 73. Báo Thanh Niên ngày 1/11/2008: Bản viết tay Do Thái cổ nhất – Sau nhiều tháng nghiên cứu, nhóm các nhà khảo cổ thuộc Đại học Do Thái (Israel) xác định mảnh vỡ gốm do một tình nguyện viên đào được tại Khirbet Qeiyafa, một phế tích ở phía nam Jerusalem, là bản viết tay chữ Do Thái cổ nhất từ trước đến nay. Từ Khirbet Qeiyafa, người ta có thể nhìn xuống thung lũng Elah, nơi mà theo Kinh Thánh đã xảy ra trận đánh kinh hoàng của vua David chống kẻ thù khổng lồ Goliath. Theo hãng tin Reuters, phương pháp phân tích đồng vị carbon 14 cho thấy mảnh vỡ trên xuất hiện cách đây từ 1.000 đến 975 trước công nguyên, có nghĩa là đã 3.000 năm, trùng vào thời điểm David trị vì Jerusalem. Như vậy bản viết tay này đã tồn tại trước những bản viết tay Do Thái nổi tiếng nhất trong lịch sử là Dead Sea Scrolls (tạm dịch: những cuộn da ở Biển Chết) khoảng 1.000 năm. Với phát hiện quan trọng trên, các nhà khoa học cho rằng một số phần của Kinh Thánh được dựa trên các ghi chép bằng chữ viết song song với việc truyền miệng, chứng tỏ phần lịch sử mà Kinh Thánh phản ánh không chỉ là những chuyện hoang đường (T.M). § David thắng Goliath: 1S 17,40-55. Lm. Jos.Nguyễn Hữu Triết (Còn tiếp) VĂN NGHỆ SĨ VỚI ĐIỆN BIÊN QUA NHỮNG TẤM ẢNH CỦA MỘT LƯU HỌC SINH Mùa hè năm 1958, chàng bạch diện thư sinh Hoàng Thúy Toàn vừa tròn hai mươi tuổi. Tham gia bộ đội từ nhỏ, từng là thiếu sinh quân trong những năm cuối của cuộc kháng chiến chống Pháp, hòa bình lập lại (1954), anh được cử sang Liên Xô học Trường Đại học Sư phạm Lê-nin ở Mát-xcơ-va. Hè đến, các lưu học sinh có rất nhiều lựa chọn. Có thể xin phiếu đi nghỉ ở miền Nam ấm áp. Có thể đi thăm bạn bè ở Lê-nin-grat, Ki-ep, Ba-cu… để được biết thêm đất nước Liên Xô rộng lớn. Hay đơn giản hơn, có thể đi lao động để có thêm phương tiện ăn học ngoài số tiền học bổng ít ỏi… Nhưng Hoàng Thúy Toàn lại có lựa chọn khác. Anh quyết định đi xe lửa về Việt Nam, để rồi lặn lội lên Điện Biên thăm người anh là Hoàng Danh Trà, Trưởng ban cán bộ Đại đoàn 316 đang cùng đơn vị tham gia xây dựng Điện Biên. Tự hào về người anh “chiến sĩ Điện Biên” năm xưa, sang Liên Xô lại được xem phim Việt Nam trên đường thắng lợi của đạo diễn Rô-man Các-men, trong đó có những hình ảnh khó quên về chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ. Hoàng Thúy Toàn quyết lên thăm anh, thăm Điện Biên bằng được. Với chiếc máy ảnh FED đeo trước ngực, Hoàng Thúy Toàn hay bị mọi người nhầm tưởng là nhà báo giữa một nơi dân cư thưa thớt, chỉ những bộ đội là bộ đội. Một lần, anh gặp một chiến sĩ ở ngoài phố Điện Biên (gọi là phố nhưng thực ra chỉ là một con đường đang xây dựng lúc nào cũng bụi mù, với vài ba nhà bưu điện, cửa hàng tạp hóa, căng tin…), anh chiến sĩ đã phàn nàn với “nhà báo” rằng: “Báo chí chỉ nói Điện Biên tươi đẹp, trong khi đời sống ở đây còn rất khổ… Đề nghị các anh cũng nói lên cái khó khăn ở đây, để thấy những cố gắng của anh em lên đây”. Đấy là tôi trích từ nhật ký của nhà văn Nguyễn Huy Tưởng ngày 16-8-1958, ghi lại lời kể của Hoàng Thúy Toàn với ông trong lần anh được gặp đoàn văn nghệ sĩ lên Điện Biên tham gia lao động sản xuất… Tháng 8-1958, sau những cuộc đấu tranh tư tưởng trong giới văn nghệ, có phong trào văn nghệ sĩ đi thâm nhập thực tế đời sống. Nguyễn Huy Tưởng, Nguyễn Tuân, Văn Cao vốn hợp và hiểu nhau, “rủ nhau” đi xa hẳn, lên Tây Bắc, nơi các chiến sĩ Đại đoàn 316 đánh Điện Biên Phủ năm xưa đang làm nhiệm vụ xây dựng lại Điện Biên. Cùng đi với các ông còn có nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý và nhà viết kịch Lưu Quang Thuận. Nhưng mới đến Mộc Châu thì nhạc sĩ Văn Cao bị bục dạ dày, phải mổ cấp cứu. Ca mổ giúp nhạc sĩ thoát chết, nhưng không cho phép ông đi tiếp lên Điện Biên xa xôi cách trở. Còn lại bốn người cùng vần T (Tuân–Tưởng–Thuận–Tý) tiếp tục cuộc hành trình. Từ Điện Biên, mỗi người sẽ được phân công xuống từng đơn vị để trực tiếp tham gia lao động. Chẳng hạn, Nguyễn Huy Tưởng xuống Đại đội vườn ươm, làm nhiệm vụ ươm cây cao su do Trung Quốc giúp ta giống đem từ đảo Hải Nam sang… Nhưng đó là chuyện của những ngày sau. Còn lúc ấy, khi mới chân ướt chân ráo lên Điện Biên, các ông được Ban chỉ huy Đại đoàn tiếp đón, được nghe giới thiệu và đưa đi tham quan các di tích đồi A1, hầm Đờ Cát… Tại Đại đoàn bộ Đại đoàn 316, anh sinh viên Hoàng Thúy Toàn tình cờ được gặp đoàn văn nghệ sĩ trước lúc các ông lên đường đi thăm các địa danh lịch sử. Thật là một dịp may hiếm có! Đấy là những tác giả anh hằng ngưỡng mộ mà chỉ mới được nghe tiếng, nào là nhà văn Nguyễn Tuân tham gia trận Đại Bục năm 1949, vừa hô xung phong, vừa thúc trống cho bộ đội tấn công, nào là nhà văn Nguyễn Huy Tưởng đi chiến dịch Biên Giới năm 1950 rồi viết Ký sự Cao Lạng… Nay được trực tiếp gặp các ông, anh không mừng sao được. Thế là, khi các ông đi thăm đồi A1, hầm Đờ Cát, anh bám theo liền, sẵn chiếc máy ảnh FED lúc nào cũng mang theo, anh bấm luôn mấy kiểu… Năm 1961, Hoàng Thúy Toàn tốt nghiệp về nước thì nhà văn Nguyễn Huy Tưởng đã qua đời. Sau mấy năm dạy tiếng Nga ở một trường trung cấp, đến năm 1964 anh được chuyển về công tác tại Nhà xuất bản Văn học. Anh làm biên tập, giữ nhiều trọng trách về mảng văn học dịch, đồng thời trở thành người dịch văn học Nga có uy tín với bút danh Thúy Toàn. Qua công việc, đôi khi Hoàng Thúy Toàn cũng có dịp tiếp xúc với nhà văn Nguyễn Tuân, nhà soạn kịch Lưu Quang Thuận, nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý. Nhưng công việc bộn bề khiến anh chưa có lúc nào lục lại những tấm ảnh năm xưa để phóng tặng các ông, lại càng không nghĩ đến việc giới thiệu với công chúng… Mãi đến năm 2004, khi đã về hưu với chức phận Phó giám đốc Nhà xuất bản Văn học, dịch giả Thúy Toàn mới làm được cái việc cần làm. Nhân kỷ niệm 50 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ, ông nảy ra ý định công bố những bức ảnh đến lúc này đã trở thành tư liệu quý hiếm. Nhân có biết tôi công tác trong lĩnh vực xuất bản, lại đang làm một cuốn sách về Điện Biên, ông đã cho phép tôi sử dụng một số tấm ảnh cho phần phụ lục của cuốn sách. Đến nay, lại đã 5 năm nữa trôi qua. Kỷ niệm 55 năm chiến thắng Điện Biên Phủ, được sự đồng ý của ông, tôi xin được giới thiệu bức ảnh ông chụp các văn nghệ sĩ ngày nào trên đất Điện Biên “bốn năm sau tắt tiếng súng thần công lịch sử”. Đó cũng là chữ dung của nhà văn Nguyễn Tuân trong một bài viết tôi xin phép được mượn để kết thúc bài viết này. Nguyễn Huy Thắng Phụ bản I
20 NGÀY RỚT ĐỊA NGỤC Theo mô tả của một số sách, Địa Ngục là một nơi nào đó mà người chịu tội bị tra tấn, hành hạ bởi lũ quỹ dữ. Người tội nặng thì bị cưa hai, nấu dầu. Người bị cắt lưỡi. Người bị kéo gông bằng lửa. Có người khắp mình là lửa như một cây đuốc sống… Nhưng theo Đạo Phật phân tích về những loài Biết Sống trong vũ trụ, thì dù có hình tướng hay không, tất cả không ra ngoài 6 đường, gồm: Địa Ngục, Ngạ Quỷ, Súc Sinh, Nhân, Thiên, A Tu La. Ba đường Nghiệp nặng nhất là Địa Ngục, Ngạ Quỷ và Súc Sinh thì khó tu hành, tiến bộ được: vì quá đau khổ, đói khát, còn giờ đâu mà nghĩ tới chuyện khác. Chỉ có 3 đường trên là Nhân, Thiên, A Tu La mới có thể tu hành được. Sáu đường này không chỉ được phân chia riêng rẽ và nằm trong vũ trụ, mà trong mỗi con người lúc nào cũng có đầy đủ, tùy theo sự thể hiện từng lúc mà tương ứng với một trong sáu đường đó. Cũng vẫn là một người, nhưng khi bị rơi vào hoàn cảnh bức bách, đau khổ, bị hành hạ, tra tấn... hoặc bị chứng bệnh nào đó mà triền miên bị đau nhức, khổ sở, thì gọi là đang ở Đường Địa Ngục hay là đang chịu Nghiệp Địa Ngục. Khi một người bị thiếu thốn, đói khát, hay là vì bệnh nên dù tiền không thiếu, nhưng không ăn uống được, phải chịu đói khát... thì là người đó đang chịu Nghiệp Ngạ Quỷ. Nghiệp Súc Sinh là khi con người mà có những tư tưởng, suy nghĩ thấp hèn, chìu theo bản năng, thiếu ý chí của một con người, nên hành vi, cử chỉ gần với loài vật hơn. Biết sống đạo đức, lương thiện, kính trên, nhường dưới, là đường Nhân. Là con người, nhưng được hưởng phước báo, cuộc sống thanh nhàn, gọi là Nhân Thiên. Hay nóng giận, ưa tranh chấp, gây hấn, gọi là đường A Tu La… Theo cách diễn tả này thì trong 20 ngày qua tôi đã rơi vào Nghiệp Địa Ngục với đầy đủ hình tướng của một người đang mang Nghiệp này, cũng như chịu đau khổ hành hạ, ngày cũng như đêm mà Đạo Phật gọi là rơi vào Nghiệp Vô Gián, tức là sự đau đớn không được ngưng phút nào. Thật vậy, vừa dọn từ Thành Phố ra một nơi ở thôn quê thoáng mát, yên tịnh. Ở đó tôi đã lập một vườn cây cách đây đã 5 năm, định bụng lúc “quy điền” sẽ ngày ngày chăm bón cho vườn cây để vừa thư giãn. Sẵn đất rộng, sẽ trồng ít hoa kiểng để ngắm trong lúc tuổi già xế bóng… Đó không chỉ là mơ ước của riêng tôi mà hình như người có tuổi nào sau thời gian dài bon chen kiếm sống, lúc về hưu đều nghĩ tới. Nhưng chưa hưởng nhàn được mấy chốc, bỗng dưng một hôm, từ trên giường bước xuống sao tôi thấy cái chân mặt nhức không chịu nổi. Chưa hiểu chuyện gì đã xảy ra, tôi thử bước lại, thì cảm giác nhức càng nhiều hơn, đến độ phải ngồi phịch xuống giường, không thể đứng hay bước tiếp được. Lúc đó tôi mới biết là đã có chuyện nghiêm trọng xảy ra! Năm trước, khi hai chân lúc nào cũng cứ bị lạnh buốt, tôi đi siêu âm thì được biết là bị “Thoái hóa khớp gối” và “Suy giãn tĩnh mạch”. Bác sĩ cũng đã mấy đợt cho uống cả đống thuốc, nhưng xem ra không ăn thua. Tôi cũng đã đến một tiệm thuốc Bắc – được nhiều người giới thiệu là cho thuốc rất hay – để xem mạch, cắt thuốc, và đã uống đến gần 60 thang. Nhưng hai chân chỉ bớt được lạnh, mà đau nhức vẫn âm ỷ… Tôi cũng hỏi thăm lung tung để tìm cách chữa bệnh, biết đâu “phước chủ, may thầy”. Nhưng có vẻ không gặp may. Cháu tôi giới thiệu một hiệu thuốc đóng viên sẵn của Tàu, mà nó từng uống để trị đau nhức rất công hiệu. Tôi mua cả mấy hộp một lúc. Uống gần hết 5 hộp, cả 100 viên, mà chứng đau nhức coi bộ ngày một tăng. Chưa chịu thua, tôi đi Bác sĩ, thì được chích, cho thêm thuốc viên để uống, và vị Bác sĩ này cho biết là “Bệnh này Tây Y không chữa được, chỉ cho uống thuốc giảm đau mà thôi”. Thế là hết cách, nên dù rất ngại phải đi xa, cuối cùng, tôi đành phải nghĩ tới việc đến Trung Tâm Phục Hồi Chức Năng của Thạc sĩ Thiên Hoa ở mãi Tân Châu, An Giang, và đành khăn gói lên đường với sự “dìu dắt” của thằng con út, vì tôi không thể tự bước đi một mình! Không phải là lần đầu tiên, mà cách đây hơn 6 năm, tôi từng đến đây để chữa trị bệnh Suyễn và Nghẹt mũi về đêm. Nơi đây áp dụng phương pháp trị bệnh bằng Laser Nội Mạch và Laser Bán Dẫn của PGS Tiến Sĩ Trần Minh Thái Trường Đại Học Bách Khoa Tp.HCM. Bệnh nghẹt mũi của tôi sau lần trị đó là dứt hẳn, đến nay không tái phát. Bệnh Suyễn còn, nhưng ở dạng nhẹ, xịt Ventolin là cắt cơn, không phải đi cứu cấp như lúc trước, nên tôi hoàn toàn tin tưởng và yên tâm khi vượt cả 200 km đường từ Bình Thuận vào Tp.HCM. Nghỉ một đêm, rồi hôm sau từ Tp.HCM thêm 5 giờ ngồi xe để tới đó, có lẽ cũng phải hơn 200km nữa. Tôi đã đến Trung Tâm Phục Hồi Chức Năng của Thạc Sĩ Thiên Hoa trong bộ dạng cực kỳ thê thảm: Một chiếc răng cửa bị gãy trong vài ngày trước, mà vì quá đau chân cần chữa trước, không có thời gian nấn ná ở Tp. để chờ sửa lại. Mặt mày nhăn nhó, vì mỗi bước chân là mỗi đau, phải vịn vai con tôi để bước một cách cà nhắc và rất khó khăn... Nói chung là tôi giống hệt một con “Quỷ Cà Nhắc”, không còn tươm tất hay ít ra cũng lịch sự trước mắt người khác như mọi khi, và cũng không có thời gian để mắc cở nữa, vì cái đau hành hạ tôi cả tháng qua, ngày một tăng. Đêm nằm ngủ, trở mình là cũng nhức, không thể không đi chữa trị… Thạc Sĩ Thiên Hoa không thể nhận ra tôi, vì quả thật là tôi đã xuất hiện trong bộ dạng “xuống cấp một cách thảm hại”. Tôi vừa vịn vai thằng con, bước khập khiễng một cách khó khăn, vừa nhăn nhó nói với cô là “Chắc tôi bị Thần Kinh Tọa, không thể đi được, nhờ chữa giúp”. Nhưng cô phán: “Theo con thấy thì cô bị huyết khối trong chân chớ không phải Thần Kinh Tọa. Để mai sẽ đưa cô đi siêu âm mạch máu, thử máu tổng quát, xem có thêm bệnh gì khác, rồi điều trị luôn. Tạm thời cô cứ cho em về đi, không cần phải ở lại đây”. Sau đó, cô tiến hành vô Laser và châm cứu cho tôi luôn. Thằng con tôi chỉ chờ cho phép được về là mừng rơn, vì nó nhìn thấy tôi bị châm cứu là đã sợ rồi. Thật khó thể tin. Như là một phép mầu. Ngay đêm đó tôi đã tự bước đi được một mình. Sáng hôm sau đã có thể đi ra trước nhà. Dù chân vẫn chưa hết đau, nhưng quan trọng là có thể tự bước đi một mình, không cần phải vịn vào tường hay tựa vào ai. Điều mà trước khi xuống đây tôi chưa tưởng tượng là có thể phục hồi nhanh đến như vậy. Ba hôm sau, tôi đã có thể kêu xe lôi để xuống chợ mua một ít vật dụng hoặc đi bộ ăn sáng cách nhà gần cả 100m, dù phải đi chậm hơn lúc trước. Gọi điện báo tin mừng cho bạn bè, họ cũng bất ngờ. Kết quả Siêu Âm của tôi là “có huyết khối bên chân phải, Suy Giãn tĩnh mạch”. Máu thì cholesterol cao, đường, men gan cũng hơi cao. Mỗi ngày tôi được chữa trị kết hợp vô Laser, châm cứu và cho uống thuốc Tây. Cứ mỗi ngày qua, tôi thấy đôi chân ngày càng đỡ hơn. Dù vậy cũng không dám đi nhiều, vì phía chân bị đau khi bước vẫn còn thấy ngượng ngượng bên trong, không biết nó trở chứng giờ nào nên còn e dè. Lần chữa trị trước, tôi ở khách sạn gần đó, lúc cần chữa trị thì mới đến, cơm thì đến tiệm để ăn, nên không thể thấy hết mọi việc diễn ra chung quanh. Lần này cái chân không được khỏe, nên phải ở luôn nơi Phòng PHCN, tới bữa thì nhờ một người đang nuôi cháu bị bệnh mua giúp cho. Cũng nhờ ăn, ở luôn nơi Phòng PHCN như mọi người, tôi mới có dịp quan sát những người đang chữa bệnh như mình để thấy thêm nhiều cảnh đời rất đáng thương. Ở đây bệnh nhân nào nhà ở xa, không thể đi về hàng ngày, thì Thạc Sĩ Thiên Hoa cho nằm lại, không thu phí giường nằm cũng như điện nước được sử dụng thoải mái, có cả nước nóng để người bệnh và người nuôi tắm giặt. Bệnh nhân nghèo còn được giảm tiền để có điều kiện chữa trị, như trường hợp ông cháu của đứa bé bị bại não đã ở đây hơn 1 tháng. Theo ông ngoại cháu kể thì bé bị bệnh đã nhiều năm, nhưng gần đây mới có người bà con đã từng chữa trị ở đây mà khỏi bệnh chỉ cho, nên ông bế cháu tới đây. Ông thấy bệnh của cháu ngày càng giảm, nên rất kiên trì. Việc nhà cần lắm thì ông mới bế cháu về. Nhưng hôm trước, hôm sau đã lên ngay vì sợ mất xuất chữa trị, cháu ông sẽ lâu khỏi bệnh. Ông nói rằng thấy bệnh tình của cháu tiến triển một cách rõ rệt, và cũng nhờ Bs giảm tiền nên ông mới có thể ở lâu. Và như để trả ơn, ông rất chịu khó giúp sữa chữa nhỏ trong Phòng PHCN cũng như mọi người chung quanh mà ông cho là “làm từ thiện”. Tới bữa cơm, ai cần ăn gì thì ông sẵn sàng đi mua giúp. Ông cũng không ngại chẻ củi, sửa nhà cho mấy nhà kế bên. Ai cần gì ông cũng vui vẻ giúp, không nề hà, còn khuyến khích tôi là: “Cô cần mua gì cứ nói, đừng ngại”. Phòng PHCN bắt đầu làm việc từ 6g30 sáng, nhưng nhiều người tranh thủ, có khi mới 6g sáng đã thấy đưa bệnh nhân tới. Hiếm ai tự đi một mình, mà đa phần đều do người nhà đưa lại. Có bệnh nhân còn phải đến 2 người dìu. Đa phần bệnh nhân đến đây là Tai Biến và có vấn đề về Chân, nên ai nấy cũng bước đi khó khăn, cũng “sửa tướng”, đi đủ kiểu, giống như tôi buổi đầu tiên đến. Buổi chiều từ 4g là khách bắt đầu tới. Cứ nhìn thấy xe tống 3 là biết người ngồi giữa có vấn đề. Họ xuống xe rồi thận trọng xốc nách người bệnh vô, ngồi chờ chữa trị xong lại kè nhau về. Nhiều hoàn cảnh đơn côi, bạn bè giúp nhau thấy rất xúc động. Những trường hợp như vậy Bs Hoa lại giảm tiền cho họ. Phòng không có đăng quảng cáo, đa phần là do người bệnh chữa khỏi rồi mách với nhau. Vậy mà không chỉ bệnh nhân quanh vùng, mà từ Rạch Giá, Cao Lãnh, Tp.HCM, Miền Bắc, Việt Kiều nước ngoài về, người Campuchia... cũng đến chữa trị. Không những thế, có một cán bộ cao cấp của Campuchia đã tới tận nơi để điều trị và được chữa khỏi trong một thời gian ngắn. Thấy hiệu quả của phương pháp, họ đã mua đất để sẵn sàng mở một Bệnh Viện và mời Bs Thiên Hoa đến chữa trị cho dân họ và giảng dạy luôn. Có một bà đến chữa bệnh Tai Biến mà không có con cái theo nuôi, nhờ một bà đi làm công quả cho Chùa đi nuôi giúp. Lúc đến mặt mày bà khó đăm đăm, lúc nào cũng nhăn nhó, bước đi khệnh khạng. Không nói được, không biết mình bao nhiêu tuổi. Nhưng chưa đầy 1 tuần là bà phải xuất viện, vì người nuôi bệnh bận việc, không thể trông tiếp. Lúc về mặt mày bà này đã tươi tỉnh, chân bước cũng ngay ngắn đàng hoàng, biết tự đếm tiền để trả viện phí, còn ôm hôn Bs! Nếu ai thấy chắc khó nhận ra bà là người bị tai biến mới cách đây chưa đầy 1 tuần! Một hôm tôi thấy có một người đàn ông trung niên lái xe hơi đến. Ông này đi đứng rất mạnh dạn, không có dấu hiệu của người bị bệnh. Nhưng cô trợ lý của Thạc Sĩ Hoa cho tôi biết, ông ta cũng bị huyết khối ở chân, đã đi chữa nhiều năm ở một Bệnh viện lớn trên Tp. nhưng không hết. Lúc đến ông ta chống gậy, đi lụm cụm, tưởng là già lắm, không ngờ chưa đến 50 tuổi. Chỉ sau một thời gian ngắn chữa trị thì đã bỏ gậy, huyết khối cũng đã hết, giờ tiếp tục đến để trị bệnh khác. Trước lúc tôi về khoảng 4 ngày, có một bà bị tai biến, con cái đưa đến. Nhà rất nghèo. Mọi người đều đi làm thuê. Người chồng cách đây mấy năm cũng bị tai biến. Không biết có phải do di chứng của tai biến hay không mà tôi thấy ông ta có một chân bị tật, phải chống cây gậy tre rồi đi cà thọt trên cây gậy này. Bây giờ đến lượt người vợ bị tai biến, phải nằm một chỗ. Chắc họ tủi phận và tuyệt vọng lắm, nên khi chồng đến thăm vợ thì cả hai cùng khóc ầm ỹ, đến độ nhân viên Phòng PHCN phải kêu ông chồng đi ra ngoài, vì bà vợ khóc quá huyết áp bị tăng lên. Bà vợ nói Bs: “Thấy ông chồng đã bệnh, không còn làm thuê để kiếm tiền được, nên bà chỉ cầu mong có sức khỏe để làm thuê làm mướn kiếm tiền nuôi chồng, không ngờ tới phiên bà lại đổ bệnh”! Theo người chồng kể, thì bệnh đến với vợ ông quá bất ngờ. Đang nằm nghỉ ngơi với con, bỗng dưng bà méo miệng, co giật, con cái còn tưởng đâu bà giỡn, không dè bệnh thật. Thế là con cái cũng phải bỏ làm để đi đưa mẹ đi trị bệnh. Một người không dìu nổi, nên cả hai đứa con gái phải ở lại để nuôi mẹ! Tôi thấy bà ta không điều khiển được cái chân, không bước đi được. Điều làm tôi xúc động nhất là khi ông chồng lấy tiền để nhờ mua cơm. Tôi thấy ông mở bóp lôi ra cả xấp tiền mà trong đó, từng tờ giấy 1.000đ, giấy 2.000đ nhăn nheo được vuốt thẳng lại rồi xếp thành xấp 10.000đ! Có vẻ như họ đã vét đến những đồng bạc cuối cùng! Thạc Sĩ Hoa kể cho tôi nghe cô cũng không thể lấy đúng tiền thuốc như mọi người vì thấy hoàn cảnh của họ quá thương tâm. Chính họ cũng biết là cô Bs chẳng những không tính công của mình mà còn bù cả tiền thuốc cho họ để họ có điều kiện mà chữa trị. Nhiều người khác khi bị bệnh, đi Tp. chữa trị xong về đây để phục hồi tiếp, vì Bệnh viện lớn không đảm nhận việc phục hồi. Hơn nữa, việc nuôi bệnh ở Tp. đối với người ở xa thì khó khăn, tốn kém rất nhiều, việc phục hồi lại đòi hỏi có thời gian nên nhiều gia đình không kham nổi. Nhiều năm trước mà PGS TS Thái đã nghĩ đến việc chữa trị cho bệnh nhân ở vùng sâu, vùng xa, thật rất cần thiết cho người nghèo, và Phòng Phục Hồi Chức Năng của Thạc Sĩ Thiên Hoa như một điểm tựa cho người bệnh ở khu vực quanh đó. Dù vậy, không phải ai cũng biết là người đứng đầu Phòng Vật Lý Trị Liệu, Phục Hồi Chức Năng là một Thạc Sĩ Kỹ Thuật Y Sinh, nên khi nghe nói đến Phòng Phục Hồi Chức Năng nhiều người đều tưởng nhiều lắm là do Lương Y hoặc một kỹ thuật viên Vật Lý Trị Liệu nào đó điều hành, nên có vẻ coi thường. Chỉ có những bệnh nhân được phục hồi nhanh chóng mới biết hiệu quả của Phòng PHCN này mà thôi. Đó cũng là một thiệt thòi cho người bệnh vì không đánh giá đúng phương pháp mà mình được chữa trị. Nhưng biết sao được, vì muốn được nhiều người biết đến, muốn xuất hiện trên TV phải nói đến hàng chục ngàn đô la trong khi kinh phí dành cho việc nghiên cứu của Ts Thái còn chưa đủ! Từ lần đi chữa bệnh cách đây đã hơn 6 năm, thỉnh thoảng tôi vẫn gọi điện thoại để thăm hỏi PGS Ts Thái và ngạc nhiên thấy nhiều năm rồi, với bao nhiêu thành công trên lĩnh vực khám phá thêm cách chữa trị cho nhiều bệnh mà ông vẫn kiên trì với chức danh PGS. Tôi hỏi lý do thì ông bảo: “Muốn lên chức thì phải làm nhiều thứ mà thì giờ đó thà ông nghiên cứu thêm để người bệnh được nhờ!”. Thạc Sĩ Thiên Hoa còn kể với tôi là: “Thầy Thái đã về hưu, lẽ ra được nghỉ ngơi, thì mỗi ngày Thầy vẫn thuê xe ôm để vô Phòng Thí Nghiệm làm việc!” Tôi thật hết sức ngưỡng mộ tấm lòng của một nhà Khoa Học một đời đóng góp cho xã hội quên cả sự an hưởng của bản thân. Có lần Ts Thái cũng kể cho tôi nghe là ông thấy quỹ thời gian còn quá ít nên lúc nào cũng cố gắng tranh thủ để làm càng nhiều càng tốt. Với sự hy sinh trong âm thầm của Ông và những cộng sự, biết bao nhiêu người bệnh đã được nhờ, đã giúp được biết bao nhiêu người nghèo, để họ không phải đi xa, không phải tốn nhiều tiền mà vẫn khỏi bệnh. Bản thân Thạc Sĩ Thiên Hoa cũng chưa từng chê bệnh nhân nghèo. Có tiền hay không cô vẫn nhận chữa trị, rồi hoàn cảnh khó khăn quá thì cô vẫn miễn giảm cho họ có cơ hội phục hồi. Đó là điều rất đáng trân trọng của người làm ngành Y trong xu thế xã hội đang xuống cấp trầm trọng về mặt đạo đức như hiện nay. Bản thân tôi bị đẩy xuống Địa Ngục, tự mình nếm cảnh Khổ của bệnh, chứng kiến những người bệnh khác, hoàn cảnh ngặt nghèo hơn, tôi thấy mình hạnh phúc biết bao. Trước hết là tự có đủ tiền để chữa bệnh, không phải vay mượn, cũng không làm phiền con cái, đó là một hạnh phúc so với nhiều người. Thứ nữa là con cái cũng không phải nuôi bệnh. Tự tôi vẫn có thể đi tới lui, nên nhiều người bệnh tới sau tưởng tôi không có bệnh gì. Như vậy, tuy tôi mang Nghiệp, nhưng xem ra khá nhẹ so với nhiều người. Còn thiếu 1 ngày nữa mới đủ cho một liệu trình chữa trị, nhưng tôi thấy muốn quay về nhà. Thú thật, tôi quen sống với không gian tĩnh lặng mà phải sống trong một môi trường lúc nào cũng ồn ào là cả một sự chịu đựng. Đã vậy, mỗi ngày còn phải chịu cảnh kim đâm vào da thịt. Hết chích chân lại chích mông, rồi châm cứu... ai mà không thấy ngán! Cứ mỗi lần thấy Thạc Sĩ mang hộp đồ nghề tới giường là ớn tới xương rồi! Dù biết châm cứu, vô Laser là chịu đau để trị bệnh nhưng bớt đau rồi thì cứ muốn về cho sớm. Từ nhỏ đến giờ tôi chưa từng Châm cứu, nên tôi có cảm tưởng hai chân mình như củ gừng đã cạo vỏ, chờ xâm để làm mứt! Bs biết tôi ngán Châm cứu nên chắc cũng… bớt cho một số kim. Phần tôi khi bị hỏi đau ở đâu thì không muốn nói hết. Bí lắm, đi mà đau quá mới chịu chỉ! Có vậy tôi mới thấy các Vị Bồ Tát nguyện “đời đời theo dõi Chúng Sinh để cứu độ” thật vĩ đại biết chừng nào, vì có mang thân người là không chạy đâu khỏi cảnh Sinh, Lão, Bệnh, Tử. Bản thân tôi mới lãnh chút bệnh, nhận một số kim là đã muốn tháo chạy rồi. Quả là để làm một Bồ Tát xác phàm đâu có đơn giản! Nhiều người không hiểu rõ thế nào là Đạo Phật thật sự, đã tách Chư Phật, Bồ Tát thành một thế giới linh thiêng, riêng biệt, để con người mãi mãi là chúng sinh, tôn thờ các vị. Họ không biết là Đạo Phật có mặt ở trần gian là vì con người. Phật, Bồ Tát cũng từ con người bình thường tu hành mà thành, và chư Bồ Tát đâu phải là những vị thần linh ở xa, ở trên cao, tách biệt với con người, mà họ cũng là những người bình thường, nhưng cách suy nghĩ, việc làm của họ là vì tha nhân, mang lại lợi ích cho tha nhân, không vì danh hay vì lợi cho bản thân. Họ chính là những Bồ Tát mang xác phàm mà ta vẫn gặp đâu đó trong đời thường, đâu cần phải khoác nhãn mác hay xưng danh tánh để được mọi người tôn trọng. Đó là một Đạo Phật mà tôi được học, rất đời thường, rất con người, không hề có màu sắc mê tín, chỉ tin vào Nhân Quả. Đó là Đạo Phật được ghi lại trong Chính Kinh. Người tu hành theo đó chỉ là để trở thành một con người xứng đáng hơn, tốt đẹp hơn, không phải để trở thành một vị Phật hay thánh, ngồi tòa sen cứu độ mọi người, hoàn toàn khác với Đạo Phật đang được rao giảng hiện nay chuyên dạy mọi người Thờ Phật và cầu xin, nương tựa! Tôi đã đi siêu âm mạch máu trước lúc về. Kết quả cho thấy: Khối huyết đã giảm thể tích. Lòng mạch thì được nở rộng thêm ra. Thạc Sĩ Thiên Hoa còn tặng cho tôi 1 tháng thuốc để mang về uống tiếp. Trong thời gian trị bệnh, tôi cũng tranh thủ đi sửa lại bộ răng, nên bộ dạng cũng bớt thê thảm. Chân thì đã bước đi bình thường chỉ còn chút đau nơi gân. Như vậy với tôi là đã quá tốt rồi. Lúc đến thì phải có người dìu. Lúc về thì tự đi một mình, còn gì mừng hơn. Trên đường về, ngồi trên xe đò chạy trong đêm, tôi không thôi nghĩ đến cặp vợ chồng bất hạnh. Không hiểu trong tình trạng cả nhà không làm ra tiền mà lại phải tốn kém cho ăn uống, thuốc men điều trị thì họ sẽ ra sao. Tôi nghĩ đến những tờ giấy tiền lẻ được xếp thành từng xấp, biết rằng họ đã kiệt quệ, nên không thể làm ngơ cho đành. Vì thế, khi đến nhà xe là tôi lập tức vào nhờ chuyển cho Bs Hoa một số tiền nhỏ để giúp họ, rồi mới yên tâm kêu Taxi để chuyển sang bến xe về nhà. Phật, Bồ Tát thì ở quá xa, lời cầu xin làm sao thấu. Hơn nữa, đó chỉ là những danh xưng, không phải là thần linh hay những nhân vật thật. Vì thế, các Ngài đâu có thể giúp mọi người. Tất cả chỉ là sự hiểu lầm, vô tình hay cố ý của những người rao giảng Đạo Phật mà thôi. Gia đình nghèo kia đang bị Lửa của Nghiệp Địa Ngục và Nghiệp Ngạ Quỷ thiêu đốt. Số tiền của tôi dù chỉ là gáo nước nhỏ nhoi, không dập tắt được hoàn cảnh khó khăn đang bao vây họ, nhưng cũng là chút gió mát để họ có được chút an ủi là trên đời ít ra cũng có người cảm thông, muốn san sẻ với họ, để họ không thấy quá bi quan trước hoàn cảnh bế tắt. Bản thân tôi cũng thấy vui khi nghĩ đến họ được bớt đi một chút khổ đang dập vùi. Nghĩ lại thì chuyến Vào Địa Ngục của tôi cũng không đến nỗi vô ích. Trước hết là thêm một lần nữa, bản thân tôi xác minh tính ưu việt của Phương Pháp Laser mà PGS TS Thái và các cộng sự đã dày công nghiên cứu, sáng tạo, tác dụng thật là nhanh cho chính chứng bệnh của mình, và tận mắt chứng kiến những bệnh nhân hàng ngày kéo đến TTPHCN của Thạc Sĩ Thiên Hoa để thấy là dù không quảng cáo rầm rộ, mà chỉ là những bệnh nhân được chữa khỏi mách cho nhau, nhưng như mưa dầm thấm đất, lần hồi cũng đã lan rộng. Vài tỉnh cũng đã mời Thạc Sĩ Thiên Hoa tới để hướng dẫn cho các Bs của họ, chứng tỏ phương pháp đúng là “hữu xạ tự nhiên hương”. Tôi cũng thấy lạc quan, vì phương pháp càng được nhân rộng thì bệnh nhân càng có cơ hội phục hồi nhanh hơn, đỡ tốn thì giờ, tiền bạc, và cũng thấy hơi ngạc nhiên, không hiểu vì sao trong khi nước ngoài sẵn sàng cất Bệnh Viện, thảo luận với Ts THÁI để mời Thạc Sĩ Thiên Hoa tới giảng dạy và trị bệnh cho dân của họ. Trong nước ta cũng có gần 400 điểm áp dụng phương pháp này, mà các Bệnh viện lớn của ta thì thờ ơ, không biết rằng đây là một công nghệ tiên tiến, do một nhà Khoa Học nước ta tốt nghiệp ở nước ngoài nghiên cứu thành công, được đánh giá cao, từng được nước ngoài đề nghị nhượng sáng chế với giá rất hấp dẫn, nhưng Ts Thái đã từ chối để dành lại chữa trị cho dân mình. Nghĩ tới đó tôi lại thấy mình thêm một may mắn nữa. Hú hồn, vì nếu ngày trước Ts Thái đã nhận lời họ, thì biết đâu những ngày qua tôi không phải làm một Chuyến Du Hành đến Địa Ngục, mà bị kẹt ở lại đó lâu hơn trong thân phận con quỷ cà nhắc thì quả là đáng sợ thật! Tháng 4/2014 Tâm Nguyện
Trăng sáng
VƯỜN CHÈ KHOA BẢNG VIỆT NAM THỜI XƯA.
Các kỳ thi Nho học ở Việt Nam bắt đầu có từ năm 1075 dưới triều Lý Nhân Tông và chấm dứt vào năm 1919 đời vua Khải Định . Trong 845 năm đó, đã có nhiều loại khoa thi khác nhau, ở mỗi triều đại lại có những đặc điểm khác nhau, song trong các đời Lý , Trần , Hồ có một đặc điểm chung là các khoa thi đều do triều đình đứng ra tổ chức, chỉ đạo thi. Hệ thống thi cử tuyển người làm quan này gọi là khoa cử Khoa bảng là cái bảng danh dự, liệt kê tên họ các thí sinh đỗ đạt học vị trong các kỳ thi cử này, phần lớn được tuyển chọn làm quan chức cho triều đại phong kiến Việt Nam. Khoa bảng là tĩnh từ để chỉ những người đỗ đạt này. Thí dụ: "Gia đình khoa bảng" là gia đình có học, có người trong họ đỗ đạt cao trong những kỳ thi cử do triều đình tổ chức và chấm khảo. Các sách xưa dùng chữ Nho dạy Nho giáo cho thí sinh dự các kỳ thi Hương, thi Hội, thi Đình. Cuối thời nhà Trần , Hồ Quý Ly nắm quyền điều hành triều đình đã đặt ra lệ thi Hương đầu tiên ở các địa phương, năm 1396 đời Trần Thuận Tông , lấy người đỗ được học vị cử nhân. Năm sau (1397) tổ chức thi Hội ở kinh đô. Đây là khoa thi Hội đầu tiên. Từ thời Hậu Lê, việc thi cử được tiến hành đều đặn và quy củ. Các kỳ thi theo thứ tự là Thi Hương, Thi Hội, Thi Đình. Người đỗ đầu cả ba thì gọi là Tam Nguyên (như Tam nguyên Vũ Phạm Hàm, Lê Quý Đôn, Nguyễn Khuyến …). Thi Hương được tổ chức mỗi 3 năm, vào các năm Tý , Ngọ , Mão , Dậu . Thi Hội sau thi Hương 1 năm, vào năm Sửu , Mùi , Thìn , Tuất . Thi Hương . Cuộc thi được tổ chức tại các trường nhiều nơi (từ Hương do nghĩa khu vực quê hương của người thi). Nhưng không phải tỉnh nào cũng được tổ chức thi Hương. Trường thi chia ra làm nhiều vùng. Ba bốn trấn hoặc tỉnh cùng thi ở một nơi, thí dụ trường Nam là tập trung thí sinh ở các tỉnh chung quanh Nam Định , trường Hà các tỉnh chung quanh Hà Nội vv... Số thí sinh mỗi khoa có đến hàng nghìn người. Theo quy định từ năm 1434 , thi Hương có 4 kỳ: - I: Kinh nghĩa, thư nghĩa; - II: Chiếu, chế, biểu; - III: Thơ phú; - IV: Văn sách. Thi qua 3 kỳ thì đỗ Tú Tài (trước 1828 gọi là Sinh đồ ) – tên dân gian là ông Đồ, ông Tú. Thường mỗi khoa đỗ 72 người. Tuy có tiếng thi đỗ nhưng thường không được bổ dụng. Nhiều người thi đi thi lại nhiều lần để cố đạt cho được học vị Cử nhân. Lần thứ nhất đỗ gọi là "ông Tú", lần thứ hai vẫn đỗ Tú tài thì gọi là "ông Kép", lần thứ 3 vẫn thế thì gọi là "ông Mền". Thi qua cả 4 kỳ thì đỗ Cử Nhân (trước 1828 gọi là Hương cống ) – ông Cống, ông Cử. Mỗi khoa đỗ 32 người, được bổ dụng làm quan ở các cơ quan cấp tỉnh, cấp trung ương, hoặc được đi làm quan các huyện, sau dần dần mới lên các chức vụ cao hơn. Người đỗ đầu gọi là Giải Nguyên. Khoa thi Hương đầu tiên năm 1396 đời Trần Thuận Tông, khoa thi Hương cuối cùng tổ chức năm 1918 đời vua Khải Định . Thi Hội . Thi Hội là khoa thi 3 năm một lần ở cấp trung ương do bộ Lễ tổ chức. Từ đời Lê Thánh Tông thi Hương được tổ chức vào các năm Tý, Ngọ, Mão, Dậu và thi Hội vào năm sau Sửu, Mùi, Thìn, Tuất. Khoa thi này được gọi là "Hội thi cử nhân" hoặc "Hội thi cống sĩ" (các cử nhân, cống sĩ , tức là người đã đỗ thi Hương ở các địa phương, tụ hội lại ở kinh đô để thi) do đó gọi là thi Hội. Trước năm 1442 thí sinh đỗ cả 4 kỳ được công nhận là trúng cách thi Hội, nhưng không có học vị gì. Nếu không tiếp tục thi Đình thì vẫn chỉ có học vị hương cống hoặc cử nhân. Chỉ sau khi thi Đình, người trúng cách thi Hội mới được xếp loại đỗ và mới được công nhận là có học vị các loại tiến sĩ. Từ năm 1442 thí sinh đỗ thi Hội mới có học vị Tiến Sĩ (tức Thái học sinh – tên dân gian là ông Nghè ). Người đỗ đầu gọi là Hội Nguyên. Vào thời nhà Nguyễn những thí sinh thiếu điểm để đỗ tiến sĩ có thể được cứu xét và cho học vị Phó Bảng (ông Phó Bảng hay Ất tiến sĩ). Khoa thi Hội đầu tiên năm 1397 đời Trần Thuận Tông , khoa thi Hội cuối cùng tổ chức năm 1919 thời vua Khải Định, đánh dấu sự chấm dứt của khoa bảng phong kiến Việt Nam. Thi Đình . Kỳ thi cao nhất là thi Đình tổ chức tại sân đình nhà vua. Nơi thi là một cái nghè lớn, nên sau này người ta thường gọi các vị vào thi là các ông nghè. Nhà vua trực tiếp ra đầu đề, và sau khi hội đồng giám khảo hoàn thành việc chấm bài, cân nhắc điểm sổ, chính nhà vua tự tay phê lấy đỗ. Người đỗ đầu gọi là Đình Nguyên . Theo số điểm, người đỗ được xếp vào 3 hạng gọi là Tam Giáp: - Bậc 3: Đỗ Tiến Sĩ Đệ Tam Giáp ( Đồng tiến sĩ xuất thân – tên dân gian là ông Tiến Sĩ) - Bậc 2: Đỗ Tiến Sĩ Đệ Nhị Giáp (Tiến sĩ xuất thân, Hoàng Giáp – ông Hoàng) - Bậc 1: Đỗ Tiến Sĩ Đệ Nhất Giáp (Tiến sĩ cập đệ – gồm 3 thí sinh đỗ cao nhất gọi là Tam khôi : Đỗ hạng ba là Thám Hoa (ông Thám), hạng nhì là Bảng Nhãn (ông Bảng), đỗ đầu là Trạng Nguyên (ông Trạng) Đôi khi lúc chấm bài, chủ khảo (trong đó có cả vua) thấy người thủ khoa không đạt được điểm số tối thiểu để gọi là Trạng. Những khoa này sẽ không có Trạng Nguyên – thủ khoa giữ cấp Đình Nguyên. Thí dụ: Lê Quý Đôn – đời Hậu Lê và Vũ Phạm Hàm – đời vua Thành Thái, đỗ cao nhất nhưng chỉ được cấp vị Đình Nguyên Bảng Nhãn và Đình Nguyên Thám Hoa. (Đặc biệt, cà hai ông đều đỗ dầu trong cả ba kỳ thi Hương, thi Hội và thi Đình nên hai ông còn được gọi là Tam Nguyên Bàng Nhãn và Tam Nguyên Thám Hoa). Vào năm 1828 vua Minh Mạng chỉnh đốn lại khoa cử và bỏ Đệ nhất giáp. Học vị Trạng Nguyên, Bảng Nhãn không còn trên khoa bảng từ đó. Vinh quy bái tổ. Bài thi Đình được vua chấm xong, khoa thi đã chọn được người đỗ Tiến Sĩ để niêm yết bảng vàng. Triều đình sẽ cử hành nghi lễ trang trọng xướng danh Tiến Sĩ tân khoa và ban yến. Sau đó, nhà vua sẽ ban ân tứ để Tiến Sĩ tân khoa vinh quy bái tổ. Ân tứ vinh quy: Theo Khâm định Đại Nam Hội điểu sự lệ, từ khoa thi Tiến Sĩ đầu tiên của triều Nguyễn (1822) đã có lệ định việc vinh quy của tân Tiến Sĩ, nhằm thể hiện sự trân trọng nhân tài và học vấn của triều đình. Việc vinh danh đầu tiên cho các tân Tiến Sĩ là cho xem hoa tại vườn ngự uyển và cưỡi ngựa dạo quanh kinh thành. Xong việc ngắm hoa, các tân Tiến Sĩ lại được cấp một lọng đen, một hồ lô đen, một con ngựa kèm theo bốn lính hầu quân phục tề chỉnh. Tiếp đó, quan kinh dẫn các tân Tiến Sĩ cưỡi ngựa ra cửa chính đông đi ngắm phố phường xung quanh kinh thành. Xong việc trở về thì phải trả lại ngựa. Hôm sau, quan kinh lại dẫn các tân Tiến Sĩ vào Văn Minh điện để dâng biểu tạ ân và để vua hỏi han các tân Tiến Sĩ. Xong xuôi, quan bộ lễ sẽ chọn ngày tốt để các tân Tiến Sĩ làm lễ ở Văn Miếu. Tân Tiến Sĩ được ban cấp cờ có thêu học vị đã đạt được trong khoa thi và tấm biển màu đỏ một mặt khắc hàng chữ ân tứ vinh quy, mặt kia khắc tên tuổi thứ hạng đỗ đạt. Đồng thời, triều đình lệnh cho các quan địa phương cử mười hay hai mươi quân lính binh phục đầy đủ để hộ tống tân Tiến Sĩ về quê. Vào năm thi Tiến Sĩ đầu tiên, triều đình cấp năm người phu để hầu tân Tiến Sĩ về làng vinh quy bái tổ. Về địa phương thì quan chức sở tại phải tổ chức một đám rước long trọng để đón tân Tiến Sĩ về làng. Đám rước tân Tiến Sĩ đi đầu có hai người cầm biển, tiếp đó tân Tiến Sĩ ngồi trên võng có hai người gánh, sau cùng là một người mang đồ đạc, hai bên có hai hàng lính hộ tống. Về đến làng thì được các vị chức sắc làng và dòng họ cùng dân chúng ra nghênh đón, đưa Tiến Sĩ về nhà thờ làm lễ bái tạ tổ tiên, ông bà, cha mẹ. Các Tiến Sĩ được ở địa phương tối đa hai tháng thì phải trở lại kinh đô Huế để chờ bổ dụng. ĐỒNG TIỀN THỜI XƯA Đồng tiền Thái Bình Hưng Bảo – thời nhà Đinh Trong lịch sử một ngàn năm Bắc thuộc, Dân Việt không có đồng tiền riêng. Mãi đến sau khi Ngô Quyền đánh tan quân Nam Hán, dân Việt vẫn còn dùng đến đồng tiền của phương Bắc. Đến năm 968, Đinh Bộ Lĩnh sau khi dẹp loạn 12 sứ quân, lên ngôi hoàng đế với đế hiệu Đinh Tiên Hoàng, niên hiệu Thái Bình. Năm 970 nhà vua đã cho đúc những đồng tiền Thái Bình Hưng Bảo. Đây chính là những đồng tiền đầu tiên của người Việt. Từ đó tiếp đến những triều đại sau đều theo. Đơn vị để tính tiền xưa gồm có: quan, tiền, đồng. Mỗi quan có giá trị là 10 tiền, mỗi tiền bằng bao nhiêu đồng tùy theo quy định của mỗi thời đại. Theo sử sách giá trị đồng tiền các thời đại như sau: 1/ Năm 1225, vua Trần Thái Tông định phép dùng tiền – 1 quan bằng 10 tiền – 1 tiền bằng 70 đồng. 2/ Năm 1428, vua Lê Thái Tổ cho đúc tiền Thuận Thiên – 1 quan bằng 10 tiền – 1 tiền bằng 50 đồng. 3/ Năm 1439, vua Lê Thái Tông quy định 1 quan bằng 10 tiền – 1 tiền bằng 60 đồng. Như vậy: 1 quan = 10 tiền = 600 đồng. Từ đó các triều đại về sau, mỗi khi đúc một loại tiền mới đều theo tỷ lệ này, cho đến cuối triều Nguyễn năm 1945. Chỉ có tên đồng tiền là thay đổi theo tên hiệu. Năm 1905, chính quyền bảo hộ Bắc kỳ cho phát hành loại tiền đúc bằng hợp kim kẽm. Loại tiền này mặt trước in chữ Pháp, mặt sau ghi chữ Hán, có giá trị tương đương các loại tiền đồng như Gia Long Thông Bảo, Minh Mệnh Thông Bảo, Thiệu Trị Thông Bảo và Tự Đức Thông Bảo. Trong những đời vua sau của nhà Nguyễn còn có thêm hai đồng tiền khác là Khải Định Thông Bảo và Bảo Đại Thông Bảo, hai loại tiền này không đúc như những đồng tiền xưa mà được dập bằng máy dập nhập từ nước Pháp. Như vậy, qua giá trị của các loại Tiền Xưa dưới thời vua Minh Mạng: Quan Nhất phẩm có lương 400 quan tiền, trong khi đó, Lính, Thơ lại, Phục dịch chỉ có lương là 1 quan tiền. Như thế, đồng quan ngày xưa nó to thế. Nên người ta bỏ… quan ra để mua phẩm hàm, chức tước... để được làm quan! Chẳng trách người phụ nữ "thời xưa" trong bài thơ ‘Trăng sáng vườn chè’ quên cả thanh xuân, gác tạm những ẩn ức, dồn nén để một ngày chồng vinh quy về làng... cùng nhau trải trọn trong một đêm trăng! Nhạc sĩ Văn Phụng đã phổ thơ thi phẩm này của nhà thơ Nguyễn Bính thật là dí dỏm và ướt át, nêu lên tục lệ “Vinh quy Bái tổ” để người vợ hãnh diện biết bao nhiêu khi đi đón chồng đỗ kỳ thi Đình và hiên ngang trở về làng quê với nghi thức trang trọng, bõ công người vợ mỏi mòn đợi chờ trong thời gian dài... và cuối cùng thì… Đêm nay mới thật là đêm Ai đem trăng tưới lên trên vườn chè. Sau đây là Ca khúc nhắc lại lệ Vinh quy Bái tổ và Đồng tiền xưa: Trăng Sáng Vườn Chè Nhạc: Văn Phụng – Thơ: Nguyễn Bính Sáng trăng sáng cả vườn chè Một gian nhà nhỏ đi về có nhau Vì tằm tôi phải chạy dâu Vì chồng tôi phải qua cầu đắng cay Chồng tôi thi đỗ khoa này Bõ công kinh sử từ ngày lấy tôi Kẻo không rồi chúng bạn cười Rằng tôi nhan sắc cho người say sưa Tôi hằng khuyên sớm khuyên trưa Anh chưa thi đỗ thì chưa (thì chưa) động phòng Một quan là sáu trăm đồng Chắt chiu tháng tháng cho chồng (mà) đi thi Chồng tôi cưỡi ngựa vinh quy Hai bên có lính hầu đi dẹp đường Tôi ra đón tận gốc bàng Chồng tôi xuống ngựa cả làng ra xem Đêm nay mới thật là đêm Ai đem trăng tưới lên trên vườn chè. KHOA BẢNG VIỆT NAM THỜI NAY Cải cách kỳ thi tốt nghiệp THPT tại Việt Nam và Kinh nghiệm từ nước Mỹ Sau một thời gian dài chuẩn bị, đề án "Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo" đã được thông qua tại một Hội nghị tại Hà Nội vừa qua. Một trong những nội dung đáng chú ý là kỳ thi tốt nghiệp Trung Học Phổ Thông (THPT) sẽ được đổi mới theo hướng kiểm tra năng lực, và kết quả của nó sẽ được sử dụng như một trong những căn cứ để tuyển sinh, thay thế cho kỳ thi đại học hiện nay. Việc lựa chọn giải pháp thi cử này đang tạo nên nhiều luồng ý kiến trong xã hội... Bộ Giáo dục và Đào tạo cho biết: Sẽ có nhiều đổi mới trong tuyển sinh đại học theo hướng giảm áp lực: giữ kỳ thi tốt nghiệp, bỏ kỳ thi đại học. Thu hút sự quan tâm của toàn xã hội, quá trình chuẩn bị nội dung Đề án đã làm dấy lên một cuộc tranh luận nóng bỏng về kỳ thi này. Lựa chọn của đa số dường như thiên về việc nên bỏ kỳ thi tốt nghiệp và giữ lại kỳ thi tuyển sinh đại học. Tỷ lệ đậu kỳ thi tốt nghiệp THPT trong những năm gần đây đều cao hơn 90%, khiến nhiều người nghi ngờ vào chất lượng của kỳ thi này, và cho rằng đây là một kỳ thi quá tốn kém mà chỉ nhằm để loại chỉ vài phần trăm thí sinh. Thay vào đó, có thể xem xét cấp chứng chỉ tốt nghiệp cho toàn bộ học sinh sau khi học hết lớp 12, nhằm giảm áp lực để các em tập trung vào một kỳ thi quan trọng khác là kỳ thi đại học. Thật ra, những ý kiến lâu nay của dư luận chung quanh các kỳ thi phản ánh rất rõ cách hiểu còn hạn chế của nhiều người về mục đích của thi cử. Hai kỳ thi tốt nghiệp THPT và tuyển sinh đại học có mục đích hoàn toàn khác nhau. Kỳ thi tốt nghiệp nhằm đánh dấu sự hoàn tất một giai đoạn học tập kéo dài 12 năm của một học sinh, thời gian quan trọng nhất trong việc hình thành nhân cách và phát triển trí tuệ của người học, để chuẩn bị cho giai đoạn đào tạo chuyên nghiệp, hoặc bước vào thế giới việc làm. Vì vậy, tỷ lệ đậu càng cao thì càng đáng mừng. Tất nhiên, mọi cuộc thi đều phải được tổ chức nghiêm túc, khách quan, và đánh giá được những năng lực cần đánh giá. Mục tiêu quan trọng nhất của kỳ thi tốt nghiệp là cung cấp thông tin phản hồi cho các bên liên quan: cho giáo viên và nhà trường về hiệu quả của quá trình dạy và học trước đó; và cho các nhà chính sách để giám sát và điều chỉnh mục tiêu giáo dục sao cho phù hợp với yêu cầu của đất nước trong từng giai đoạn. Kỳ thi này thật ra rất cần thiết. Kỳ thi tốt nghiệp và chất lượng giáo dục phổ thông. Để hiểu rõ tầm quan trọng của kỳ thi tốt nghiệp THPT đối với chất lượng của một nền giáo dục, có thể tham khảo trường hợp Mỹ. Tại đất nước có nền giáo dục tự do và phân quyền rất cao này, giáo dục phổ thông do chính quyền Tiểu bang quản lý. Việc tổ chức hay không tổ chức một kỳ thi tốt nghiệp THPT cũng do từng Tiểu bang quyết định, và trước khi đạo luật "No Child Left Behind" (tạm dịch: Không bỏ sót một đứa trẻ nào) ra đời vào năm 2001 thì hầu như mọi Tiểu bang của Mỹ đều không yêu cầu học sinh tham gia một kỳ thi, mà cấp chứng chỉ tốt nghiệp cho tất cả học sinh đã hoàn tất chương trình lớp 12. Với sự ra đời của đạo luật "No Child Left Behind", một đạo luật nhằm cải cách và nâng cao chất lượng giáo dục phổ thông của nước Mỹ – để xứng đáng với vai trò của một cường quốc hàng đầu thế giới – trong vòng hơn một thập niên trở lại đây, ngày càng có nhiều Tiểu bang yêu cầu học sinh tham gia kỳ thi Tốt nghiệp bắt buộc do chính phủ Tiểu bang tổ chức. Vì sao một nước có truyền thống phi tập trung hóa và quan điểm nhất quán rằng Nhà nước không can thiệp sâu vào những công việc chuyên môn, giờ đây lại cảm thấy cần tổ chức kỳ thi tốt nghiệp THPT? Câu trả lời rất đơn giản: Kỳ thi tốt nghiệp là một công cụ chính sách mà các nhà lãnh đạo có thể sử dụng để thúc đẩy quá trình cải cách giáo dục tại một địa phương. Nước Mỹ thi tốt nghiệp THPT như thế nào? Mặc dù kỳ thi tốt nghiệp THPT được xem là một kỳ thi quan trọng nhất của giai đoạn giáo dục phổ thông, nhưng điều đó không đồng nghĩa với việc nó phải là một kỳ thi căng thẳng. Ngược lại, do bản chất là một kỳ thi đánh giá năng lực tiêu biểu chứ không phải là một kỳ thi cạnh tranh, kỳ thi tốt nghiệp phải được tổ chức để không tạo áp lực cho người học. Theo báo cáo năm 2012 của Trung tâm Nghiên cứu chính sách giáo dục (Center for Educational Policy, viết tắt là CEP) thuộc Đại học George Washington, kỳ thi tốt nghiệp THPT ở Mỹ khá nhẹ nhàng; phần lớn các Tiểu bang ra đề thi chỉ dựa trên nội dung của chương trình lớp 10; một số ít hơn dựa trên chương trình lớp 11, và chỉ có 1/26 Tiểu bang dựa trên chương trình lớp 12. Số môn thi cũng không nhiều, chỉ thi ba hoặc bốn môn, thậm chí nhiều nơi chỉ tổ chức thi hai môn. Hai môn thi luôn được chọn là Toán và Tiếng Anh/đọc hiểu (reading); những môn khác có thể xuất hiện trong các kỳ thi tốt nghiệp ở các Tiểu bang gồm có môn Viết luận (writing), Khoa học (science), và Xã hội (social studies). Việc tích hợp các môn tự nhiên (vật lý, hóa học, sinh học) thành môn Khoa học và các môn xã hội (lịch sử, địa lý, công dân,...) thành môn Xã hội cho phép ta đánh giá năng lực tư duy, sáng tạo và giải quyết vấn đề của học sinh, chứ không buộc học sinh phải nhồi nhét kiến thức vào đầu để trả bài thuộc lòng như một con vẹt. Theo báo cáo của CEP, tỷ lệ đạt tốt nghiệp ngay lần thi đầu tiên xét theo từng môn thi ở tất cả các Tiểu bang có biên độ dao động khá lớn, khoảng từ 50% đến hơn 90%, trong đó phần lớn rơi vào khoảng 70 – 80%. Các thí sinh không đạt có thể thi lại trong đợt thi kế tiếp, hoặc cũng có thể chọn một cách khác để hoàn tất, thí dụ như nộp điểm của một kỳ thi khác như SAT, ACT, hoặc nếu thi mãi mà vẫn không đạt thì có thể nhận Chứng chỉ hoàn tất bậc trung học (không hoàn toàn tương đương với Bằng Tốt nghiệp). TÓM TẮT Việt Nam là đất nước có một nền Khoa bảng từ hàng ngàn năm nay, chính sách Quốc gia Giáo dục hiện nay rất quan trọng, nó sẽ khiến cho những nhân tài Đất Việt có khả năng vươn cao ngang tầm cùng với thế giới hay không, tất cả tùy thuộc vào sự Cải cách giáo dục đang diễn ra. Mong rằng các cấp thẩm quyền sẽ cân nhắc, cẩn thận… Những thông tin về cách tổ chức kỳ thi tốt nghiệp THPT tại Mỹ cho thấy đây thật sự là một kỳ thi nhẹ nhàng nhưng nghiêm túc và có giá trị, đánh giá được năng lực thật của người học, đồng thời cung cấp được những thông tin cần thiết cho giáo viên, cho nhà trường, và cho các nhà chính sách để cải thiện hệ thống theo những mục tiêu mong muốn. Với đề án "Đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục và đào tạo" vừa được thông qua, chúng ta đã xác định được vấn đề cốt lõi cần quan tâm của giáo dục Việt Nam trong những năm tới. Học hỏi kinh nghiệm của các nước luôn là điều cần thiết để tránh cho chúng ta những sai lầm. Nói vắn tắt, kỳ thi tốt nghiệp THPT là Kỳ thi quan trọng nhất của giai đoạn Giáo dục Phổ thông, là công cụ hữu hiệu để quản lý và thúc đẩy chất lượng giáo dục. Công bố lịch thi tốt nghiệpTHPT năm 2014 Bộ GD-ĐT vừa có văn bản gửi các Sở GD – ĐT về hướng dẫn tổ chức thi tốt nghiệp THPT năm 2014 (từ ngày 2/6 đến 4/6/2014) Theo văn bản này thì giáo dục Trung học phổ thông thi 4 môn, gồm 2 môn bắt buộc (Toán, Ngữ văn) và 2 môn do thí sinh tự chọn trong số các môn Vật lý, Hóa học, Sinh học, Lịch sử, Địa lý, Ngoại ngữ; với môn Ngoại ngữ, thí sinh tự chọn một trong các thứ tiếng: Tiếng Anh, Tiếng Nga, Tiếng Pháp, Tiếng Trung Quốc (theo chương trình 7 năm) và Tiếng Đức, Tiếng Nhật (theo chương trình Đề án thí điểm). PHẠM VŨ (Tham khảo: Tài liệu từ Sách báo và Internet) MANG SÁCH BÁO ĐẾN VỚI CON NGƯỜI THẠCH KIM (Selection) Các nước dù, dù tân tiến hay chậm tiến cũng phải nghĩ rằng dân trí không có ở đầu đạn, lưỡi gươm mà có ở sách báo đứng đắn, dồi dào. Sách báo và con người. Sách báo được coi là món ăn tinh thần, mà tác giả là người đầu bếp sáng tạo ra món ăn. Tùy thuộc vào con tim, vào khối óc, người đầu bếp lạ lùng này sáng tạo ra món ăn cho khách hàng. Nó cần thiết như món ăn vật chất. Khi nhồi xong vào đầu, con người bỗng thấy mình vượt thêm lên được một nấc thang, đôi khi thay đổi hẳn cả đời sống. Như thế ta thấy sách báo cần thiết cho đời sống con người. Trong phạm vi một bài báo, không còn cách nào để diễn tả một cách rõ ràng hơn. Dĩ nhiên tới một mức cùng quẫn nào đó, con người sẽ không còn cần đến sách báo (mà cho dù có cần cũng không có, tỉ dụ như giấy không còn chẳng hạn), nhưng trong đời sống được coi là bình thường, sách báo vẫn còn tồn tại. Trên một bình diện nào đó (kinh tế diệt tri thức chẳng hạn) sách báo không cần thiết hay có hại cho một chủ trương. Tần Thỉ Hoàng đã vơ vét kinh sách đốt và chôn sống học trò! Mới đây, và thường xảy ra tại Nga, nhà văn Alexander Solzhenstsyn bị nhà cầm quyền Sô Viết trục xuất cũng chỉ tại một cuốn sách. Trước đó nhiều nhà văn, nhà thơ, nhạc sĩ Sô Viết bị thanh trừng hoặc bị trục xuất như A. Solzhenstsyn. Nhìn vào tổ chức quân đội, bên cạnh những chiến sĩ, những vũ khí chực diệt quân thù vẫn có những cuốn sách, cuốn báo được các anh lính chiến tranh chính trị sáng tạo ra. Như thế sách báo cũng là thứ vũ khí tấn công vào thành trì chủ nghĩa của đối phương. Thực tế hơn, sách báo được coi là phương diện giải trí cho con người. Có người bảo khi sách báo thay được súng đạn thì lúc đó con người thực sự sống trong một kỷ nguyên hòa bình! Cứ xem như chúng ta đang ở ngoại quốc, đang bước vào khu Cantal ở khu chợ Salers bạn sẽ thấy một bà nội trợ đang hướng thẳng về một chiếc xe buýt thùng lớn dài đậu giữa hàng trái cây và bánh mứt. Vừa đi bà nội trợ đảm đang của chúng ta vừa lấy trong giỏ đựng thức ăn ra hai cuốn Les Trois Mousquetaires (Ba chàng ngự lâm pháo thủ) và L’odyssée. Chiếc xe buýt thùng lớn kia là một thư viện bỏ túi lưu động. Thời cụ Quốc vụ Khanh Đặc trách Văn Hóa Mai Thọ Truyền còn, những ai đến Thư Viện Quốc Gia đều thấy trong sân này có loại xe đó. Tưởng chừng thư viện bỏ túi được hoạt động ngay, nhưng chúng ta lại chờ để thấy, và không biết đến bao giờ! Tại Pháp hiện tại có khoảng gần 150 thư viện bỏ túi lưu động kiểu này. Có những ngày giờ, địa điểm hẹn đúng kỳ bên công trường hoặc bên hông chợ, trước xưởng kỹ nghệ, trước tòa thị chính, trước trường học, nhà ga với số đông khoảng chừng 20.000 tâm hồn. Với khoảng 2.000 tác phẩm mỗi một thư viện bỏ túi lưu động mang đến những nơi đó những gì được gọi là văn hóa, văn chương, triết lý, chính trị, hình ảnh kỹ thuật của thế kỷ thứ 20 này. Tốn kém đáng khen cho chương trình bánh mì dọn sẵn Có những tốn kém được con người cho là vô tích sự cho lúc này. Đến mặt trăng để chứng tỏ rằng con người có bộ óc siêu việt, ưa chinh phục, nhưng không thực tế, vì thế giới họ sống vẫn còn nghèo đói và thiếu thốn đủ mọi điều. Nhưng sự tốn kém để mang món ăn tinh thần lại cho con người là một hành động đáng khen. Pháp là quốc gia đầu tiên có những cơ sở hữu ích như thế. Vào năm 1919, Pháp đã dùng 5 chiếc xe Ford làm thư viện bỏ túi lưu động, chạy dọc theo con đường Aisne trong vùng Bắc Pháp. Nhưng chương trình này được phát triển một cách khá chậm chạp, khi đệ nhị thế chiến bùng nổ thì súng đạn đã thực sự thay cho sách báo. Sách báo mang cho con người niềm vui, còn súng đạn mang cho con người sự vinh quyết khổ đau. Đệ nhị thế chiến chấm dứt, thư viện lưu động bỏ túi lại được phục hồi, và tới năm 1949, nước Pháp có được 17 thư viện lưu động theo kiểu trên. Nhưng phải đến năm 1968 chương trình này mới thực sự bộc phát một cách rầm rộ. Thủ tướng thời đó, ông Pompidou, nay là Tổng Thống Pháp đã xuất 8.600.000 Phật lăng trong ngân sách quốc gia để chi dùng vào chương trình này. Những vị này chủ trương bánh mì dọn sẵn, vì những nhu cầu lớn lao của trí thức. Nếu làm bảng tổng kết thì khoảng 15 triệu người Pháp không có sách trong nhà. Và nếu làm bảng thống kê thì có đến 37% người Pháp tuyên bố rằng họ chẳng đọc gì cả. Như thế một nước văn minh tư thế sẽ giảm sút vì số lượng người đọc sách chiếm một tỷ lệ không mấy tuyệt đối. Dân trí khó lòng mà được nâng cao. Nhưng làm sao để cho họ đọc? Chỉ có những chương trình thư viện lưu động là phương cách duy nhất đưa sách vào sa mạc văn hóa. Trong năm 1970, khoảng trên 6.000.000 cuốn sách được tung ra trong 15.000 địa điểm đông dân chúng. Cơ sở hoạt động này có một trụ sở trung ương nơi chuẩn bị cho thư viện tung cánh. Nơi đây họ dành sẵn hàng trăm ngàn tác phẩm. Một thư viện lưu động đi đến một địa điểm chừng hai hoặc ba tuần. Thường họ còn để sách lại một đại lý nào đó theo nhu cầu của bạn đọc đòi hỏi. Các Thầy, Cô giáo thường là những kẻ trung gian, kế đến là một nhân viên trong tòa thị chính… Trong một ngày thư viện lưu động phân phối chừng 150 đến 800 cuốn sách và khi chuẩn bị để dời đi, số lượng sách cho độc giả mượn không còn hạn chế nếu số sách còn lại quá nhiều. Nhờ vậy mà tại Gironde, một nữ y tá đã hoàn tất được chương trình học trong khi ở thư viện nhà thương không hề có loại sách cần thiết cho cô. Một bạn trẻ khác tâm sự: Không có trung tâm nào để tôi đến đọc sách cả. Tôi cần tất cả các cuốn sách để chuẩn bị cho kỳ thi tới, vậy mà… chỉ có ở thư viện bỏ túi lưu động này thôi. Trong một vùng dưới chân rặng Pyrénées, thư viện lưu động bóp còi mỗi khi đến để báo hiệu cho độc giả. Đáp lại tiếng còi đó là các nông dân, các chủ quán vui vẻ chạy ra. Những nơi được coi là đại lý phát hành sách báo riêng cho độc giả thường là những phòng đọc sách công cộng. Nhiều xe thư viện chung lại trong những ngày nghỉ ngơi, các nhân viên bỏ ra chừng 15 – 20 tác phẩm để độc giả đọc. Ảnh hưởng của sách báo Những cuốn sách do thư viện lưu động cho mượn đều được đi rong từ tay này qua tay khác. Đi rong cho đến lúc mọi người đều bàn tán, nói chuyện với nhau về cuốn sách, lúc đó nó mới an phận nằm yên trên kệ sách, Sau khi đọc một cuốn sách về khảo cổ, một nhóm trẻ ở Bouches du Rhône đã quyết định kiểm tra và chụp hết những thắng tích cổ ở miền Provence. Sau đó họ xin được thư viện lưu động giúp đỡ và tài trợ để họ được theo chiếu phim hoặc triển lãm những thắng cảnh đó cho mọi người trong nước xem. Họ cũng mang vào những trường Trung học để phổ biến cho học sinh. Có điều mọi người phải hiểu rằng thư viện lưu động này không phải độc quyền chỉ dành riêng cho họ. Khi đến một nơi nào, nhân viên thư viện đều có giải thích rằng sách ở đó không bán, và mọi người có quyền mượn những tác phẩm nào mình ưa thích. Trong số sách độc giả mượn ta thấy nhiều tác giả. Nhiều sách do giáo sư danh tiếng viết, có những tác phẩm có hình ảnh sống động, sách mầu và những bà mẹ trong gia đình thường mượn sách gia chánh và sách dạy con. Mỗi cuốn sách dạy về gia chánh có thể phiêu lưu trong thời gian 6 tháng mới được trả về thư viện. Kỷ lục mượn sách nhiều nhất do dân vùng Corse lập vào năm 1968, tại đây trong chỉ một ngày nhân viên thư viện phải cho mượn đến 3.200 tác phẩm. Chỉ có lần đó là lần độc nhất thư viện lưu động cần đi lấy thêm sách. Torng thư viện lưu động, có đầy đủ mọi loại sách báo. Từ những tạp chí chính trị, văn chương… cho tới những cuốn sách của các tác giả danh tiếng đều có. Thư viện trung ương cung cấp cho họ những tài liệu đó. Một cuốn sách mới ra hôm nay, ngày mai bạn có thể mượn tại một thư viện lưu động cách xa đó 150 cây số. Cuối cùng nếu độc giả tìm một cuốn sách không có trong thư viện này, họ sẽ hỏi ở thư viện Quốc gia để mượn cho bạn. Nhưng thường thường khi độc giả hỏi mượn một cuốn sách nhưng không có, họ đi mua ngay. Ảnh hưởng sách báo đến người đọc một cách nhanh chóng như vậy. Định luật xã hội thật đúng khi áp dụng vào đây. Sống trong môi trường nào con người dễ hấp thụ môi trường đó. Một vòng tâm sự Những nhân viên thư viện lưu động thường yêu mến công việc làm của họ. Họ thích thú khi thấy nhịp độ kết quả càng ngày càng tăng rõ rệt. Họ luôn luôn chú ý đến khách hàng mới đến. Lúc đầu những người này tìm đọc những tác phẩm tiểu thuyết nhằm giải trí, sau đó họ lại đọc loại sách có trình độ cao hơn như những tác phẩm về kỹ thuật và văn chương. Theo cô Alice Garrigoux, người điều hành sở đọc sách công cộng của Bộ Quốc Gia Giáo Dục Pháp cho biết vào năm 1967, mọi người thích đọc những sách chứa đầy hình ảnh, nhưng kể từ năm 1970 trở đi họ lại thích đọc những tác phẩm lãng mạn hơn. Cô cũng cho biết sở dĩ có chiều hướng đó là vì ảnh hưởng của chiến tranh. Cô còn cho biết: - Một trong những thành công lớn lao của chúng tôi là tìm đối tính của sách thật dễ dàng. Trong số đông người đọc đó, một phần lớn là trẻ con. Ở Cantal số lượng sách dành cho giới này lên tới 21.300 cuốn vào năm 1967, đến năm 1968 số lượng lên đến 61.000 cuốn. Ở Doubs, trong cùng một năm số lượng về loại sách đó tăng lên kinh khủng, từ 4.850 cuốn lên đến 58.400. Tất cả các nhân viên thuộc loại thư viện này đều chú ý vào thành công đó. Thường thì xe thư viện phục vụ độc giả khắp mọi nơi. Một bà vợ đã tâm sự ở vùng Indre-et-Loire rằng: - Tôi phải theo chồng rời khỏi Ba-Lê khi sở kỹ nghệ của anh đưa anh về công tác ở tỉnh. Tôi tưởng chừng như mất hết một phần ý sống. Nhưng sung sướng làm sao, chỉ vài ngày sau khi đến đây tôi thấy một thư viện lưu động ngừng ngay trước ngõ nhà tôi. Tôi nhào ra và ngạc nhiên biết chừng nào khi thấy những tác phẩm đặc biệt mà tôi ngỡ thư viện nhỏ xíu này không có, và còn nữa, những sách mới xuất bản trong tháng đều có sẵn ở đây. Và kể từ đó thư viện bỏ túi lại trở thành bạn thân trong những người bạn thân nhất của tôi. Hầu như ở Pháp mọi người đều hưởng ứng và nể vì chương trình sách báo đến với con người. Tại vùng Indre-et-Loire thư viện ở thành phố Tours được sự yểm trợ của thư viện trung ương lo việc mang sách đến cho dân chúng vùng này. Ngay từ năm 1946 thành phố Tours đã thành lập một thư viện chính của thành phố. Đến năm 1947 Bộ Trưởng Giáo Dục mới tính cách phát động chương trình này nhưng chính phủ lại không xuất vốn để mua xe. Ông René Fillet, viên quản thủ hai thư viện đã nghĩ ra cách kêu gọi thành lập hội những người bạn của thư viện vào năm 1961 để có phương tiện hoạt động chương trình này. Sau sáu tuần, ba thư viện lưu động bắt đầu hoạt động trong vùng Tours. Loches và Chinon lôi cuốn khoảng 400 học sinh mỗi ngày. Thư viện thứ tư ra đời vào năm 1964 chỉ để dành cho những kẻ đã trưởng thành. Cho tới bây giờ những thư viện lưu động vùng Indre-et-Loire có 150.000 cuốn sách và một ngân khoản tự trị tới 200.000 Phật lăng. Tính ra trong năm vừa qua, một công dân ở vùng này đã đọc trên 4 tác phẩm. Ông René Fillet tâm sự: - Tôi lấy làm hài lòng về thành quả đó, chính những người dân bị cô lập không quên công trình của chúng tôi. Khi một thư viện lưu động đến một thôn xóm nào đó, tất cả mọi người tại đây đều hãnh diện, họ hiểu rằng kể từ nay họ không còn là kẻ không biết đến sách báo là gì mà chỉ biết đến cơm áo, đóng thuế, quân dịch và súng đạn. Sách báo như một phép lạ Cũng như trong năm vừa qua, thư viện lưu động đôi khi đã làm những phép lạ. Trong một ngôi làng thuộc miền Trung nước Pháp, một nông dân già nua leo lên một chiếc xe để gởi trả lại cuốn sách mà ông đã mượn ba tuần trước đây để lấy cuốn mới. song le một ngày người ta không còn thấy lão nông dân này tới đổi sách. Người quản thủ thư viện mới hỏi con gái của ông ta nhân thư viện vào trường và được cô gái trả lời là lão chẳng hề biết đọc. Lão mượn sách chỉ với một niềm vui độc nhất là được hòa mình vào thế giới sách báo. Hiểu được như thế, con gái ông về nhà đã dạy ông đọc – và ông đã biết đọc sách! Viên quản thủ thư viện lưu động đã phát biểu như sau: Chúng tôi thích mang sách báo đến cho mọi người vì lẽ cuốn sách ở thư viện ở thành thị chỉ là một đồ dùng. Nhưng khi mang nó về tận làng quê thì nó trở thành một vũ trụ. Một thủy thủ đã từng nói với chúng tôi rằng: Tôi muốn đọc tất cả những gì dù bất cứ nơi đâu mà tôi đi qua. Bởi thế tôi mong ước tôi sẽ đọc nhiều khi thư viện bỏ túi đến nơi tôi đóng quân. Sách báo trong giờ phút này quan trọng hơn và phải thay cho súng đạn! Sau Pháp, tại Nga Sô, người ta cũng đã thấy 4 thư viện loại này; Đan Mạch có 7 xe và Anh Quốc 10 xe. Loại Mini thư viện này là nấc thang cho con người leo lên tầng lầu văn hóa vốn muôn màu muôn vẻ, nó cho phép con người hưởng những giây phút tuyệt vời trong đời sống. HOÀNG KIM THƯ st NHÀ VĂN SIMENON VÀ TÌNH YÊU… QUÁ TẢI… Với hơn hai trăm tiểu thuyết để lại, và nhân vật “Thanh tra Maigret” nổi tiếng khắp thế giới, nhà văn Pháp gốc Bỉ Georges Simenon được kể trong số ba tiểu thuyết gia vĩ đại nhất của châu Âu thế kỷ thứ 20, cùng với Céline (Pháp, 1894-1961), và James Joyce (Ái Nhĩ Lan, 1882-1941). Sự nghiệp văn chương đồ sộ của Simenon hiện đang được nhà xuất bản Presse de la Cité ở Pháp gom thành một bộ sưu tập lớn để in lại dần dần dưới tên gọi “Bộ sưu tập Omnibus của G. Simenon”. Trong khi gom góp các tư liệu về đời sống của nhà văn lớn này, người ta khám phá ra một điều lý thú là ông yêu phụ nữ cũng nhiều như ông… viết truyện. Và nhà văn Pierre Assouline, người phụ trách viết tiểu sử Simenon, đã cho biết rằng Simenon có rất nhiều cái “quá tải”: làm việc quá tải, nói tía lia quá tải, kiếm được nhiều tiền một cách quá tải, và… yêu quá tải! Về mục “yêu quá tải” này thì chính Simenon hồi năm 1977 đã nói với đạo diễn Ý Fellini (người làm cuốn phim “Casanova” dựa theo tác phẩm cùng tên của Simenon) như sau: “Ông Fellini ạ, ông biết không, trong đời sống, tôi còn Casanova hơn cả ông nữa đấy! Tôi đã tính rồi, từ năm tôi 13 tuổi (G. Simenon sinh năm 1903 ở Liège, Bỉ) cho đến nay tôi đã yêu khoảng 10.000 (mười nghìn) phụ nữ. Nhưng hoàn toàn không xấu xa đâu. Tôi không có thói xấu về dục vọng. Nhưng tôi có một nhu cầu muốn cảm thông, muốn san sẻ tình cảm. Trong số mười nghìn phụ nữ đó, có hơn tám nghìn gái giang hồ. Họ là những con người. Những phụ nữ. Tôi muốn hiểu rõ phụ nữ. Nhưng điều bất hạnh là tôi không có được những mối tình phiêu lưu thật sự, vì bị những cuộc hôn nhân ngăn trở…”. Yêu tới mười nghìn phụ nữ? Bà vợ đầu tiên của ông, bà Régine Renchon (thường gọi là bà Tigy) nghe kể như vậy đã mỉm cười nói: “Ông ấy nói đùa đấy thôi!”. Nhưng bạn rất thân của Simenon là họa sĩ Bernard Buffet, người hay đi chơi cặp với Simenon, nhậu nhẹt đó đây, thì cho biết rằng “Thật ra Simenon đã nói… bớt đi!”. Và chính Simenon viết trong tác phẩm “Ghi nhớ riêng tư” (Mémoires Intimes) của ông rằng nỗi khổ vô cùng của ông là phải sống một mình không có bóng phụ nữ bên cạnh! Dường như bóng dáng người phụ nữ là nguồn cảm hứng cho ông viết tiểu thuyết vậy. Bà Tigy là một phụ nữ Bỉ, thuộc giới trí thức, có cách cư xử điềm đạm và tế nhị. Ngay khi hai người đã có một con trai (Marc Simenon), ông Simenon vẫn dan díu với nữ ca sĩ thời danh Joséphine Baker, mà bà Tigy vẫn chẳng nói gì cả. Đôi khi bà còn cùng với ông ngồi chung bàn cùng Joséphine và nghe ca sĩ này hát: “Tôi có hai tình yêu: Simenon và Paris”! Bà chỉ mỉm cười. Có lẽ bà quá biết bản tính của ông? Trong nhà có một bà quản gia tên là Henriette Liberge, mà Simenon gọi là “chị Boule”. Bà quản gia trực tính này rất quí trọng nhà văn. Đôi khi ông Simenon viết xong một tác phẩm, bắt bà này nghe ông đọc và bắt bà góp ý! Dĩ nhiên nhà văn muốn thử nghiệm tác dụng của văn ông đối với độc giả. Song bà quản gia rất lấy làm đắc ý, và từ đó nảy sinh tình yêu đối với Simenon. Một lần bà Tigy bắt gặp ông Simenon và “chị quản gia” này “lẹo tẹo”. Thế là hai vợ chồng ly thân, năm 1945. Và vì không thể thiếu bóng người phụ nữ dù chỉ một ngày, nên sau đó (cũng năm 1945) Simenon gặp một phụ nữ Canada 25 tuổi tại Mỹ, bà Denyse Ouimet, thì ông lại bị “cú sét” khác, và cùng bà này bay qua ở tại Bruxelles, Bỉ. Ông nói: “Tôi không tin là có cú sét ái tình. Nhưng lần đầu tiên quả nhiên, với Denyse, tôi hiểu thế nào là tình yêu say đắm, một cơn sốt thực sự”. Denyse Ouimet là một phụ nữ khá đẹp và hết sức thông minh, có một cá tính mạnh mẽ. Sau này bà kể lại: “Tôi gặp anh ấy lúc 13 giờ 45. Đến 16 giờ 45 thì cùng trọ một khách sạn ở Draks. Và tới khoảng 19 giờ thì chúng tôi “yêu” nhau ngay và rất nồng nàn”. Hai người rất hạnh phúc, đến nỗi Simenon tâm sự với một người bạn: “Mình chỉ sợ hạnh phúc này làm tắt ngúm những tiểu thuyết mình sắp viết!”. Để chính thức lấy Denyse, Simenon phải ly dị với bà Tigy. Từ đấy chính bà Denyse đã dựng sự nghiệp lớn cho Simenon: họ có 3 con (2 trai 1 gái), và bà Denyse lập ra Cơ sở Simenon, lo in ấn, thuê dịch, phát hành, và làm đại lý cho tất cả các tác phẩm của Simenon. Và Simenon viết như máy, có những kiệt tác như “Một con chim cho chú mèo” (Un oiseau pour le chat), “Đám cưới của bà Maigret” (Le Mariage de Madame Maigret), “Bà cô Jeanne” (Tante Jeanne), “Betty” (Betty được đạo diễn Chabrol dựng thành một cuốn phim kiệt tác) vv… Do công việc đa đoan, từ năm 1960 bà Denyse thuê một người phụ tá là bà Teresa Sburelin. Teresa rất dịu dàng, khôn khéo, không những giúp cho bà Denyse trong công việc của Cơ sở Simenon, mà còn giúp cho nhà văn trong những lúc ông khó khăn về tâm lý hay tình cảm. Và vì thế nhà văn có một quan hệ rất gắn bó với bà này, coi bà như là “người bạn tâm sự”, đến nỗi ông nói: “Không có Teresa chắc tôi tự tử nhiều lần. Tôi có một khẩu súng luôn để dưới gối…”. Bà Teresa quá khôn khéo nên không để lộ những giao tiếp quá đáng với Simenon trước mặt bà Denyse. Chỉ sau khi nhà văn qua đời (vào năm 1989) bà Teresa mới thổ lộ: “Bạn của tôi (bà gọi ông Simenon như vậy) không còn nữa, thật là một trống trải vô hạn cho đời tôi. Còn lại gì chăng, đó là những kỷ niệm riêng tôi giữ lấy!” Phải nói là người phụ nữ nào tiếp xúc, gần gũi với Simenon đều rất yêu ông, ngay cả những cô gái giang hồ mà ông lui tới. Ấy vậy, nhưng có hai người phụ nữ hoàn toàn ghét bỏ ông, lại là hai người ruột thịt của ông: mẹ và con gái ông. Theo nhà viết tiểu sử Simenon, Pierre Assouline, thì ngay từ khi Simenon mới 5 tuổi, ông đã bị mẹ ông ghét bỏ! Bà chỉ thương đứa em trai của Simenon là Christian. Bà nói rõ với chồng: “Ông lo mà nuôi thằng Georges (tức Simenon), tôi thì có thằng Christian rồi”. Năm 1947, khi Christian tử trận tại chiến trường Việt Nam, bà mẹ Simenon đã thét lên trước mặt Simenon: “Chính vì mày mà thằng Christian chết đấy! Tại sao không phải là mày chết, mà lại để cho nó chết? Chính mày giết nó!”. Bữa đó Simenon đã khóc vì những câu nói tàn nhẫn của mẹ. Ông biết bà không hề yêu thương ông. Người ta thường đặt vấn đề là phải chăng vì từ nhỏ không được mẹ thương yêu mà Simenon đã – một cách vô thức – đi tìm sự bù đắp ở những người phụ nữ khác? Tại sao mẹ ông ghét ông như vậy? Theo nhiều người quen cho biết thì bà này rất mê tín. Bà sinh Simenon vào ngày thứ sáu 13.2.1903. “Thứ sáu 13” là ngày rất “xui”, theo mê tín của nhiều phụ nữ phương Tây. Và bà mẹ Simenon cho rằng ông đã đem cái xui lại cho gia đình! Nay thì chúng ta thấy là ngược với mê tín của bà, Simenon đã đem lại tiếng tăm cho gia đình Simenon! Người phụ nữ thứ hai “thù ghét” Simenon như đã nói là cô con gái Marie Georges (thường gọi là Marie Jo) sinh năm 1953 của ông và bà Denyse. Cô này khá xinh xắn, Simenon rất cưng chìu, thương yêu cô. Và chính vì quá thương con nên ông hay la rầy những lỗi lầm của cô, mong sau này cô sẽ có một vị trí trong xã hội. Điều người ta lấy làm khó hiểu là một nhà văn sành tâm lý như Simenon lại… chẳng hiểu gì tâm lý của con gái mình! Một lần ông đã công khai rầy rà, la mắng các quan hệ yêu đương riêng tư của cô này lúc cô đã 23 tuổi, khiến cô thù ghét cha, và đến năm 1978, lúc 25 tuổi, cô tự tử chết. Dĩ nhiên là Simenon đau khổ vô hạn. Dường như tác phẩm “Cái chết của Odile” (La Disparition d’Odile) mà ông viết năm 1970 là điềm tiên báo về số phận của Marie Jo. Sau khi cô ta chết, ông rà soát lại tác phẩm ấy, và trở nên trầm lặng, ít nói hẳn, đôi khi như mang một nỗi buồn u ám, cho tận đến lúc năm ông qua đời (1989). Con số mười nghìn phụ nữ mà Simenon nói là đã “yêu” trong đời ông rốt cuộc chẳng ảnh hưởng gì lắm đến tâm tư tình cảm của ông bằng 2 người phụ nữ đã ghét ông, đã làm cho ông khóc, và trở nên u ám trong đời! Những người nghiên cứu về tác phẩm và cuộc đời của Simenon chắc chắn sẽ nhận thấy rằng tình yêu “quá tải” của Simenon đối với phụ nữ chẳng qua là một cách ông đi sâu vào tâm hồn người phụ nữ để hiểu cho ra tâm hồn của người mẹ ông, và sau đó là tâm hồn của con gái ông, vì ông không thể nào hiểu họ nổi dù họ là hai người thân thuộc nhất… BÍCH PHƯỢNG (Theo tư liệu của Pierrette Rosset, tạp chí ELLE, tháng 9.1992) ĐỖ THIÊN THƯ st Tưởng niệm 18 năm ngày mất Nhạc sĩ Viết Chung (26/3/2014) Một lão nông nọ, hãy tạm gọi là chú Ba, chú rất mê tiếng chim hót. Chú chẳng màng danh lợi chỉ mong sao mình có những con chim hót thật hay. Trời cũng chiều lòng và chú bắt đầu có con chim thứ nhất. Đó là chàng Bạc Má, hắn có một giọng trầm vang xa như tiếng của một cái tù và, con thứ hai là một nàng Sơn Ca với chất giọng lanh lảnh như xuyên thấu những tầng mây xanh cao vút và rồi cả một bầy họa mi véo von ríu rít tập hợp trong dàn đồng ca của chú Ba. Thấy chú say mê với dàn đồng ca đặc biệt này, bạn bè tới chơi tặng cho chú Ba một con Vẹt và nghĩ rằng: “Tay này phải giỏi lắm mới tập cho con này hát được”. Đúng vậy, lão Vẹt ta chẳng biết hát gì nhưng lại có cái tài khua chân múa tay. Lão ta giơ chân phải lên là chàng Bạc Má cất giọng, dậm chân trái là nàng Sơn Ca trổi tiếng, và thật tuyệt khi lão Vẹt xù lông cổ cả bầy Họa mi cùng hót vang một bài đại hòa tấu. Đó là do chú Ba đã tập cho lão Vẹt tùy theo khả năng của nó: “Hát dở thì cho ra đánh nhịp!”. Tuy vậy Vẹt ta vẫn có những tài năng riêng: Ngày nọ khách đến chơi được chàng trai trẻ nói: - Bố con còn đang ngủ. Khách bảo: - Chú mới nghe ba con vừa hút thuốc lào đây mà? - Không phải đâu, con vẹt đấy. - Vậy à. - Nó còn cười như bố con ấy chứ. - Vậy sao? Chẳng cần mời gọi cả hai cùng nghe tiếng cười hệch hệch của con vẹt giống y như tiếng cười của chú Ba. Sáng sáng bạn bè rủ nhau tới chơi nhà chú Ba để nghe đàn chim hót, khề khà vài ly rượu bên cạnh bàn cờ và cùng ro ro bên điếu thuốc lào. Chú Ba luôn hãnh diện về cái điếu cày này vì nó có bộ lọc tuyệt vời không lo hư phổi. Chú cũng đã từng nám phổi và tự chữa trị bằng đậu hũ mắm tôm một thời gian dài mới khỏi. Khách của chú Ba có người chơi Guitar Classic rất hay, có người kéo Violon tuyệt vời… Thế là đàn chim được dịp thưởng thức, có con nghển cổ, có con há miệng như muốn nhắc theo. Riêng lão Vẹt lim dim chân dậm dậm như muốn gõ nhịp… À thì ra chú Ba đã rất công phu cho những đứa con tinh thần của mình nghe những tài năng của các bạn bè… Một ngày nọ một người bạn thân ở xa về mang theo nàng chim Chích Chòe Lửa… Cô nàng này có một giọng rất đặc biệt thật khó diễn tả, ai đã nghe rồi thì sẽ nhận ra sự ‘đặc chủng’ của nó. Chính vì thế chú Ba chăm sóc cô nàng rất kỹ: thức ăn thật ngon, nước tắm thật sạch. Ông còn đi lấy cát biển sạch và nhuyễn để cho nó tắm cát… Chưa hết, trong việc huấn luyện ông luôn luôn cho cô nàng nghe những giai điệu tuyệt vời về violon của Paganini, những quãng bất thường của tiếng kèn trumpet do ban nhạc da đen diễn tấu… Tiếng lành đồn xa nhiều người đến hỏi mua. Có người đòi mua một con, người hai con, người thì chỉ mua con vẹt thôi. Nhưng chẳng ai có khả năng mua cả đàn được. Phần thì tốn nhiều tiền, phần thì không thể chăm sóc công phu và huấn luyện quá kỹ lưỡng của chủ cũ. Dẫu trong hoàn cảnh khó nghèo, nhà thì đông con, đôi lúc ông cũng muốn bán để trang trải một phần tiêu pha trong gia đình nhưng vì quá yêu lũ chim mà ông đã coi nó như một phần của cuộc sống nên chẳng nỡ xa lìa. Mỗi một thành phần trong đàn chim của chú Ba đều hay, đều đẹp nhưng chú Ba vẫn lấn cấn với cô nàng Chích Chòe Lửa. Không phải vì cô nàng hát không hay ngược lại là đằng khác như đã nói ở trên. Vấn đề ở đây là cô nàng lấn sân qua Lão Vẹt và dàn nhạc của chú Ba trở nên lộn xộn chẳng theo quy tắc nào cả. Giải pháp cuối cùng ông đành phải chọn lựa đó là cho anh con trai thứ hai. Anh này cũng có tài như cha và tương lai có thể nối nghiệp cha được. Anh cũng sưu tập được một nhóm cũng hay hay, mang phong cách mới hơn và trẻ trung hơn… Tuy vậy, thỉnh thoảng chú Ba vẫn qua thăm thấy cô nàng có một đám bạn mới và cô nàng cũng giơ chân này, dậm chân kia, cũng xù lông cổ rồi cũng tự mình hót lên những giai điệu nhát gừng, chát chúa… ông già vừa lắc đầu vừa thầm tiếc: - Thôi thì nó cũng đã tìm thấy niềm vui. Chưa chắc sống với mình nó đã hạnh phúc. Như hạt mưa rơi trên mái nhà, rồi cũng đến lúc những hạt mưa ấy phải rơi xuống đất. Tuổi của chú Ba chưa phải là cao, nhưng chú có nhiều thứ bệnh nhất là tâm bệnh. Chú đã mấy lần vượt qua được nỗi đau nhưng lần này thì hai tay chú phải buông xuôi trong khi chú còn muốn làm nhiều chuyện nữa… Đàn chim như đã biết chuyện gì sẽ xảy đến nên trong những ngày chú Ba đau chẳng con nào muốn hót. Chúng chỉ rủ rỉ rù rì với nhau như muốn gửi lời nguyện cầu xin thượng đế cứu chữa cho ông chủ dấu yêu của mình… Một sáng nọ anh con trai thứ với đôi mắt nhòa lệ, đến gần nàng Chích Chòe Lửa và bảo rằng: - Chim ơi! Ngày hôm nay cha ta đã mất rồi, ông ấy là người yêu thích mi nhất. Hãy qua cùng các bạn hữu gặp mặt ông lần cuối. Nàng chim lăng xăng nhảy nhót như muốn mau mau qua thăm chủ cũ của mình… Ôi! Toàn là màu trắng, trước giờ nó chưa từng thấy nhiều màu trắng đến thế. Ai nấy đi lại rất nhẹ nhàng, không dám nói lớn tiếng. Đó đây vài tiếng thút thít. Trên khuôn mặt của mọi người đều mang những nét buồn khôn tả. Những cặp mắt đỏ hoe, những giọt nước mắt đang tuôn trào nhưng chẳng ai buồn che dấu nỗi buồn não nuột ấy. Một vài người đang lâm râm đọc kinh cầu nguyện. Như có một điều gì mách bảo, không ai bảo ai tất cả cùng nhìn về đàn chim của chú Ba. Kìa Lão Vẹt bắt đầu lắc lư thân người qua lại như muốn nhắn nhủ cùng đàn chim rồi chân phải lão đưa lên Chàng Bạc Má bắt đầu bằng một giai điệu trầm buồn. Một cái lắc đầu nhè nhẹ dàn họa mi lúc đầu còn cất lên thưa thớt nhưng sau đó chúng mỗi lúc một hăng hái hơn, đồng điệu hơn và lông cổ của Lão Vẹt đã xù lên tất cả cùng hót lên những giai điệu du dương như chưa từng bao giờ được hót. Chân trái lão Vẹt dậm mạnh xuống. Và kìa tuyệt diệu làm sao cô Sơn Ca bây giờ mới lanh lảnh trổi lên như một ca sĩ solo chính hiệu trên bè đệm của dàn họa mi, trên những nốt nhạc trầm của bác Bạc Má… Nàng Chích Chòe Lửa sau khi nghe bạn bè cất tiếng đôi mắt lim dim như cảm nhận nhịp điệu, bất chợt nàng hợp tiếng cùng cô Sơn Ca và cả hai cứ thế thay nhau líu lo bên người thầy, người cha yêu dấu. Một dàn nhạc chim rộn ràng nhưng theo một trật tự của lão Vẹt đạo mạo. Mọi người dự tang lễ đều ngỡ ngàng nhưng không ai dám lên tiếng chỉ thinh lặng thưởng thức một điều lạ mà trước giờ mình chưa bao giờ được thấy, tai chưa bao giờ được nghe… Màn đêm dần dần buông xuống, lão Vẹt đã thôi không còn giơ chân nọ hay dậm chân kia nữa, lông cổ cũng đã hết xù rồi nhưng nàng Chích Chòe Lửa vẫn rên ư ử trong miệng những lời thì thầm như muốn nói riêng với ông chủ của mình những lời tạ lỗi… *** Rồi ngày ngày trôi qua người con trai ngạc nhiên khi không còn nghe tiếng hót của nàng Chích Chòe Lửa nữa cho dù chàng cho ăn, cho tắm đầy đủ như khi người cha kính yêu của mình chăm sóc… và anh ta chợt hiểu rằng nó đã đem hết sức mình dâng tặng những giai điệu ngọt ngào, những lời yêu thương mà nó có thể hát được cho người chủ thân yêu. Có lẽ nó sẽ chẳng bao giờ đem giọng hót này cho ai khác nữa. Chàng trai trẻ từ từ mở chốt cửa để cho nàng chim bé nhỏ tung cánh vào bầu trời mênh mông. Trước khi bay đi nàng còn chao liệng như thầm cảm ơn cậu chủ. Chàng ta khẽ nở nụ cười mãn nguyện và cũng không ngăn được giọt lệ tràn rơi xuống đất. Nhạc sĩ Viết Chung 1993 Hà Mạnh Đoàn
Tranh vẽ Ngựa của danh họa Nguyễn Siên
Phụ bản II
VƯỜN HẠNH PHÚC Ngôi biệt thự đứng ngay trước cửa nhà tôi. Như một vật cản, nó che khuất dòng sông có hàng dừa nghiêng nghiêng soi bóng, sừng sững giữa trời với những ô cửa mở ra bốn phía, tựa những ánh mắt kiêu hãnh nhìn xuống bao mái nhà thấp lè tè quanh vùng. Nhưng vẻ giàu có của ngôi biệt thự không quyến rũ bằng hàng cây nép sau bức tường rào. Mỗi cây mang một nét độc đáo riêng. Tôi cứ muốn ngắm mãi. Màu đỏ rực của hàng phượng vĩ mỗi độ vào hè cùng với màu trắng của hoa ngọc lan làm tôi cứ nao nao. Gió đưa hương ngọc lan hòa lẫn hương bưởi thành một thứ mùi kỳ lạ, cứ bay ra khắp nơi. Đã vậy, những trái ổi sai oằn trên nhánh cây không hiểu sao chủ nhà để chúng lủng lẳng mãi. Có trái ngả màu vàng thu hút những chú chim lạ tìm đến. Còn những trái vú sữa lúc vào mùa trông không khác gì những bóng đèn xanh tím lẩn khuất trong vòm lá. Thỉnh thoảng mẹ vẫn bắt gặp tôi ngẩn ngơ nhìn sang bên ấy. Mẹ lo lắng nhắc nhở: - Trong ngôi biệt thự có con chó dữ lắm đó! Tôi vội trấn an mẹ: - Không đời nào con dám tới gần hàng rào. - Con vẽ cái thang trên tường rào người ta chi vậy? Tôi chỉ biết cười trừ. Hay thật! Mẹ luôn đoán đúng ý nghĩ của tôi. Mẹ biết tôi mê mấy trái ổi lắm rồi. Nhưng ngoài con chó dữ còn có ánh mắt của người đàn bà trạc tuổi mẹ trong ngôi biệt thự đã khiến tôi từ bỏ ý định. Nhìn bà, không ai nghĩ đây là chủ ngôi biệt thự. Mái tóc uốn cao ôm lấy khuôn mặt đen sạm. Mặc dù bà ta luôn trang điểm kỹ lưỡng nhưng vẫn không giấu được nét khắc khổ ở những cái mím môi. Những nếp nhăn hằn sâu trên trán, ở đuôi mắt. Đôi mắt bà rất đẹp, to, đen lay láy nhưng mỗi lần có việc gì không hài lòng, bà quắc mắt thì ai cũng phải rùng mình. Bà nội tôi vẫn gọi bà ta là “Người đàn bà lừng lẫy”, ca ngợi bà ta là “Người đàn bà tạo nên sự nghiệp” cho chồng con nhờ. Ngôi biệt thự do một tay bà gây dựng nên. Sau khi mua được căn nhà lụp xụp với khoảng đất trống kế bên, chỉ trong một thời gian ngắn, bà ta đã biến nơi nghèo nàn nầy thành một chỗ ở sang trọng không kém phần thơ mộng. Cửa chính ngôi biệt thự trông ra dòng sông xinh xắn. Chiều chiều, đứng bên một ô cửa nào đó mà ngắm những chiếc thuyền con trên bến nước thì còn gì bằng. Ai cũng nể sợ người đàn bà ấy. Tôi thì chẳng ưa nổi bà ta. Vì cứ mỗi lần bà nội tôi cố ý khen người đàn bà giàu có thì y như rằng mẹ tôi cúi gầm mặt, như thể chính mẹ làm cho gia đình nghèo đi. Cái nhà lá nầy bé mọn là tại mẹ. Bà nội tôi không thấy rằng từ ngày có ngôi biệt thự thì gia đình mình và láng giềng gặp khá nhiều khó khăn. Khoảng đất trống trước đây cả xóm dùng để đi ra con đường chính, băng qua lộ lấy nước dưới sông, bây giờ nó nằm yên trong vòng rào biệt thự. Bà ta chỉ chừa một con hẻm nhỏ để mọi người ra vô. Con đường đất nầy hẹp đến nỗi không chiếc xe lôi, xe kéo nào vào lọt. Ông Năm, người cùng xóm với tôi thường thở than: - Mai mốt tui chết, không biết cái xe nhà vàng làm sao vô đây. Chắc phải khiêng cái hòm ra tận đường cái quá! *** Tôi đặt gánh nước xuống đất, gác đòn gánh trên miệng thùng như một chiếc cầu khỉ nhỏ rồi ngồi lên ngó trời. - Cô bé gánh nước hay ghê! Tôi giật mình nhìn quanh, bắt gặp một anh chàng đang ngồi vắt vẻo trên cây ổi. Anh nhìn tôi cười cười. Nếu không có nụ cười ấy thì anh chàng xấu phải biết. Người gì mà đen òm. Được cái anh chàng có đôi mắt khá đẹp. Đúng là mắt nai ngơ ngác. - Nhà cô bé gần đây không? - Ai cho phép gọi người ta bằng cô bé? Nghe tôi bắt bẻ, anh lại cười: - Xin lỗi nha! Nhà "chị" gần đây không? - Hỏi chi vậy? - Cho biết chớ chi. À, "chị” ăn ổi không? Lúc này tôi mới để ý thấy anh cầm một trái ổi thật ngon, trông phát thèm. Người gì mà ngu ghê! Hỏi lãng xẹt! Ngập ngừng một lát tôi đành nói: - Có đâu mà ăn! Anh lại cười thành tiếng rồi hái thêm vài trái thật ngon. Anh bảo tôi: - Nè, mời “chị” vài trái ổi. Chị chụp nhé! Đến bây giờ tôi mới biết mình có năng khiếu “chụp ổi”. Không có trái nào rơi xuống đất. Tôi nói: - Cảm ơn “ấy” nghen! - Ừ, ăn ổi đi “chị”! Không đợi mời lần thứ hai, tôi cắn liền một miếng. Ngon ơi là ngon. Tôi khen: - Ổi ngon ghê! Ấy cũng ăn đi! Vừa ăn tôi vừa nhìn anh nhai ổi. Anh nói: - Chị còn đi học không? - Còn. - Lớp mấy? - Lớp mười một. Còn “ấy” Lớp mấy? - Sắp vào đại học. Tôi le lưỡi: - Bộ “ấy” ở trong nhà đó hả? Sao tui hổng biết. - Mình ở thành phố với nội. Mình về đây nghỉ hè. - Bà chủ ngôi biệt thự là gì của “ấy”? - Ấy gì mà ấy. Gọi mình là Huy đi! Mẹ Huy đó. - Vậy hả! Sao hổng giống. Bà ấy dữ quá hà! Huy có vẻ không vui hỏi: - Mẹ Huy làm gì bé mà dữ? - Đâu có làm gì tui đâu. Tự nhiên sợ hà. - Trời đất! Huy kéo nhánh ổi trước mặt, chồm sát tường rào nói: - Hôm nào mời bé sang nhà chơi rồi bé sẽ thấy mẹ Huy hiền nhất trên đời. *** Huy quay sang mẹ giới thiệu: - Đây là bạn mới của con. À, bé tên gì vậy? - Dạ, Tím! Người đàn bà vuốt tóc tôi cười rất hiền. Nụ cười giống hệt nụ cười của Huy. - Tên dễ thương ghê! Mà cháu cũng xinh lắm! Rồi bà gọi lớn: - Tư ơi, lấy bánh ngọt mời cháu Tím đi! Chị người làm bưng dĩa bánh bông lan to tướng ra. Tôi hồi hộp quá! Đây là món bánh tôi ưa thích. Nhưng nếu ăn nhiều Huy và mẹ sẽ cười cho. Tôi làm bộ nhìn xuống chân. Bà ấy cầm cái bánh bông lan to nhất có hình con cá đưa tận tay tôi, giọng ân cần: - Ăn đi cháu! Bác làm đó! Đây là loại bánh bác và Huy ưa nên lúc nào trong nhà cũng có sẵn. Bánh ngon thật. Huy cũng ăn rất nhiệt tình. Mẹ Huy gợi chuyện: - Bác vẫn thấy cháu đi học ngang đây, sao ít khi cháu ghé chơi? Tôi ấp úng: - Dạ, tại cháu sợ… bác. Cả Huy và mẹ phì cười. Huy nói: - Tím nói tự nhiên sợ mẹ đó. - Cháu xin lỗi bác. Cháu hay sợ lung tung lắm. - Vậy chớ không sợ Huy. Còn bắt bẻ người ta nữa chứ. Tôi cười trừ. Mẹ Huy đứng lên nói với tôi: - Cháu ở chơi. Bác phải đi chợ. Hôm nào rảnh, cháu tới đây với bác nghen! Được làm thân với người quanh vùng, bác mừng lắm. - Dạ! Bao nhiêu ác cảm với bà đã biến mất, tôi hỏi Huy: - Sao Huy không sống với bác gái? Ba Huy đâu? Huy là con một hả? Huy lại cười. Người gì hay cười ghê! - Tím ăn bánh nữa đi! Bánh này mẹ Huy làm ngon lắm. Mình ở với bà nội từ lúc mới tám tuổi. Bây giờ, bà cũng cho mình về đây sống với mẹ .Nhưng ở đây không có trường Đại học. Đành phải chờ hè hay là lễ, Tết để về thăm mẹ. - Sao bác gái không lên thành phố ở với Huy cho vui? Còn ba Huy đâu? Huy buồn buồn chỉ tấm ảnh treo trên tường: - Đó là ảnh của ba Huy. Lúc mình lên tám tuổi, ba mê dì Liên, một người bạn của mẹ. Ba bỏ mẹ theo dì Liên trốn đi Cà Mau. Dì Liên khéo mua chuộc nên bà nội đứng ra lo giấy tờ cho ba ly dị mẹ. Bà còn bắt Huy đem giấu. Tìm hoài không được, mẹ bỏ xứ đi Campuchia làm ăn. Huy chỉ tấm ảnh một thiếu nữ trẻ đẹp treo gần đó: - Ảnh mẹ Huy lúc còn trẻ đó. Tôi chợt cảm thấy xót xa vô kể, không ngờ giờ đây bà lại tàn tạ đến thế. Huy nhìn ra cửa, rút cả hai chân lên ghế rồi kể tiếp: - Lúc đó, mẹ Huy khổ lắm. Mẹ đi ở cho người ta. Nhưng thấy không khá, mẹ dành dụm được một số vốn rồi nghỉ làm, ra buôn bán. Có hôm, mẹ không ăn gì hết. Bán càng đắt, mẹ càng tiết kiệm. Mẹ bảo đau khổ làm mẹ không thấy đói. Mẹ quyết tạo cho bằng được một số vốn lớn, trở về mua lại hạnh phúc. Rồi mẹ mua lại toàn bộ những gì đã đánh mất nhưng không mua được hạnh phúc. Khi trở nên giàu có, quay về quê hương, gặp lại ba, ba nghèo xơ xác. Vì sau khi ăn hết số tiền bán nữ trang của mẹ mà ba đã đòi lại lúc ly dị và cả nữ trang của dì Liên đem theo. Cả hai trở về sống với nội. Nội cũng làm ăn thất bại. Phải bán căn nhà đang ở để có tiền sống. Cả nhà chui rúc trong căn nhà lá tồi tàn. Mình không hiểu sao mẹ mình lại bao dung và hiền đến thế. Nhìn những người bạc đãi mình đang khổ, đáng lẽ mẹ phải cười vào mặt, mừng rỡ khi họ bữa đói, bữa no. Đằng nầy, mẹ lại bỏ tiền mua nhà lầu cho nội ở, giúp ba một số vốn để ba nuôi vợ con. Sau đó, mẹ Huy bỏ đi một thời gian nữa. Khi trở lại lần thứ hai, mẹ cho nội biết mẹ sống tại đây. Mẹ bảo đừng cho ba địa chỉ của mẹ để mẹ được yên. Nhưng rồi ba cũng biết được. Lâu lâu, ba xuống thăm mẹ nhưng chủ yếu là xin tiền. Bây giờ, mọi người đều lệ thuộc mẹ. Huy biết mẹ khổ lắm. Lúc nào mặt mẹ cũng buồn buồn. Tím sợ mẹ Huy là phải. Mẹ Huy rất ít nói. Hôm nay, mẹ Huy nói chuyện với Tím như vậy là lạ lắm đó. Tôi cúi mặt để giấu những giọt nước mắt vừa rơi xuống má, tôi nói: - Tội nghiệp bác ấy quá! Tím thật có lỗi. - Đâu có gì mà lỗi phải. Mai mốt Huy về thành phố, khi nào rảnh, Tím ghé thăm mẹ Huy nghen! - Nhưng, Tím ngại… là bác giàu quá. Làm thân với bác, người ta nói chết. Huy thở dài: - Hạnh phúc không hẳn nằm trong tay người giàu có! - Người nghèo cũng không có hạnh phúc đâu! - Vậy hạnh phúc trốn ở nơi nào hả Tím? Tôi bùi ngùi nhìn Huy, thầm nghĩ: Có lẽ hạnh phúc nằm sẵn trong lòng như một nhà văn nào đã nói. Còn bây giờ, nó ẩn mình trong ánh mắt Huy. Nhưng tôi lại nói: - Hạnh phúc nằm trong dĩa bánh, trong trái ổi, hổng biết sao? Huy bật cười, nụ cười thật đẹp. Anh rủ tôi: - Ra vườn hái “hạnh phúc” không Tím! Tôi đứng lên theo Huy ra sau vườn. Hình như có bóng hạnh phúc đuổi theo tôi về phía ấy! Nguyễn Thị Mây (Trà Vinh) Nguồn: HuongQueNha CHUYỆN ĐỜI LÊNH ĐÊNH Khi ta biết thời gian là hữu hạn Thì tháng năm chẳng mấy nữa bên mình Khi ta biết tình yêu là màu nhiệm Thì trái tim đầy rẫy vết chai sần Khi ta biết chuyện đời luôn đóng mở Thì tâm hồn nghe rạn vỡ từ lâu Ngày thơ bé ta nhìn đời rạng rỡ Với hàng nghìn ấp ủ chuyện mai sau Trái tim non bao khấp khởi dạt dào Và đôi mắt… trời ơi đầy hoa thắm Tuổi xuân xanh đong đầy muôn thiên hạnh Ướp vành môi căng mọng giữa mành trời Bóng tình quân sao phong vũ ngời ngời Và cảm xúc ngập tràn như sóng dội Để rồi đến một thềm trăng muộn Nhẩm lại đời bàng bạc những hư không Chút lửa hồng trong cơn gió mùa đông Vừa chớp lóe vụt tàn sau đắng ngọt Khi ta thấy lòng trầm đi một khắc Thì biết mình đã thả chiếc bóng bay Khi ta thấy cánh quỳnh đêm vừa nở Nhận ra mình vừa thoáng chút hương say Khi ta thấy sau mưa trời hửng nắng Mỉm một nụ cười cho gió bay đi ĐÀM LAN Cứ tưởng mình già Lâu nay cứ tưởng mình già, Bây giờ mới biết quả là y chang Suốt ngày nói chuyện thuốc thang Gặp nhau lại kể cả tràng chuyện xưa
Tivi dỗ giấc ngủ trưa
Sức khoẻ lại giảm, mắt mờ, da nhăn Đọc chữ phóng đại mấy trăm Lại còn lãng trí, tần ngần, hay quên
Cả ngày mỏi mắt đi tìm Hết tìm khoá cửa lại tìm khoá xe Nhiều hôm thăm viếng bạn bè Được dăm ba phút nằm phè ngủ ngon
Tóc bạc chen chúc tóc non Không dám nhổ nữa sợ còn bình vôi Kiến thức mới nuốt chẳng trôi Bước ra khỏi cửa trùm người áo len
Ra đường chẳng ai gọi tên Cứ gọi chú, bác có phiền hay không? Khi lên xe buýt dẫu đông Dăm người nhường chỗ "Mời ông cứ ngồi"
Lại hay nhạy cảm, tủi đời Thích được săn sóc hơn thời ngày xưa Thấy tình nhân trẻ vui đùa Mà lòng chua xót phận vừa cuối thu
Suốt ngày trung tiện lu bù Cơm thì phải nhão, phở cho thật mềm Thích nghe tiếng hỏi, lời khen "Lúc này thon thả, trẻ hơn dạo nào"
Thức ăn cứ lấy ào ào Ăn thì chẳng nổi mà sao cứ thèm Ngủ trưa giấc cứ dài thêm Đứng, ngồi, "chuyện ấy" ngày thêm chậm rì
Đánh răng, tìm thuốc loại gì Để răng được trắng không thì khó coi Cà phê chỉ hớp một hơi Đêm về trắng mắt nhìn trời đếm sao
Gặp người cùng tuổi như nhau Thường hay hỏi "Bác thế nào? Khoẻ không?" Cell Phone thì khổ vô chừng Lúng ta lúng túng thường không trả lời
Để chuông reo mãi một hồi Mở ra thì đã chậm rồi còn đâu? Bệnh tật nó đến từ đâu Cao mỡ, cao máu lâu lâu... tiểu đường
Tránh né việc nặng là thường Việc nhẹ thì cũng đau xương, mệt nhoài Đi chơi càng khổ gấp hai Đi đâu cũng ngại đường dài lái xe
Giữ thân cho khỏi tròn xoe Vòng hai sao cứ bè bè phình to Thang lầu càng nghĩ càng lo Chỉ sợ trượt ngã khổ cho thân này
Ngủ thì chẳng ngủ được say Bốn năm giờ sáng dậy ngay tức thì Sinh nhật, sinh nhiếc làm gì Cái chuyện lẻ tẻ ấy thì nên quên
Vẫn hay nhìn kiếng thường xuyên Xem chân dung đã trở nên thế nào Buồn tình đếm thử xem sao Bao nhiêu triệu chứng ấy bao nhiêu già! Bs Nguyễn Lân–Đính st Đại Dương Biển Sóng... Anh ở trời Tây nhớ trời Đông Bên này băng giá xót xa lòng Bao năm xa cách lòng hiu hắt Em có bao giờ nhớ Anh không?
Anh biết tình Anh chỉ nặng lòng Mà sao nỗi nhớ mãi phiêu bồng Chiều rơi vạt nắng hồng phai úa Là lúc tâm hồn Anh long đong...
Nhớ quá những ngày xưa có nhau Ai ngờ tình một sớm phai nhàu Chiều Hè Phượng rụng bay theo gió Anh thẫn thờ đếm bước – Tình đau...
Ngày ấy làm sao có thể quên Áo Em tha thướt trắng ngoan hiền Thục nữ yêu kiều nồng môi lụa Má lúm đồng tiền Em rất duyên...
Ngây thơ hờ hững tháng ngày trôi Nào có ai biết nỗi – đoạn – đời Lòng người như lá thu vàng úa Gió mơ màng thổi tít mù khơi...
Anh cố tìm Em trong giấc mơ Mà mơ biết sẽ đến bao giờ Anh như lầu vắng chờ trăng sáng Đêm trường hư ảo, mộng bơ vơ...
... Đọc lá thư Anh, mắt lệ mờ Anh vẫn còn nhớ đến ngày xưa! Lòng Em bão nổi hay giông tố Đại dương biển sóng, nhớ vô bờ... Phạm Thị Minh-Hưng
Hương Đời
Cám ơn một nhánh hương đời, Trăm ngàn yêu dấu, một thời luyến lưu,
Một thời ta đã có nhau
Tình ơi, giữ nhé, nguyên màu thiên thanh,
Mênh mông biển núi cách ngăn,
Tình như bóng nắng ngại ngần vội qua,
Làm sao giữ tuổi ngọc ngà,
Bước chân lưu lạc, xót xa hồng trần.
Tìm nhau đâu, hỡi phù vân,
Đất trời nghiêng ngả, xoay vần chốn nao,
Cám ơn giây phút nhiệm màu,
Chút tình son sắt, trái sầu lỡ mang.
Dòng thơ, ý nhạc bâng khuâng,
Giữ cho nhau nhé, trong ngần thủy chung,
Giữ cho nhau chút tơ lòng,
Chút tình bé bỏng, màu xanh học trò
Chút tình, như một giấc mơ,
Hương Đời diễm lệ, vần thơ ngút ngàn
Giữ cho nhau, dẫu muộn màng,
Tình thơ ngây ngất, nồng nàn hương yêu... Phạm Thị Minh-Hưng
NHỚ ƠN VUA HÙNG Lập quốc, Vua Hùng tạo kỷ nguyên Mở mang, xây dựng một vương miền Mười lăm bộ lạc luôn hưng thịnh Mười tám hoàng triều mãi trị yên Trí dũng, giang sơn hằng vững mạnh Anh minh, tổ quốc lắm uy quyền Giờ đây công đức ghi vào sử Dân tộc nhớ đời, Lễ Hội Niên. Thanh Châu
PHÙ ĐỔNG THIÊN VƯƠNG Thiên Vương Phù Đổng tạo cơ thời Thánh Gióng kiêu hùng thuở dạo nôi Dẹp loạn cứu dân theo lệnh chúa Trừ gian độ thế thuận cơ trời Tung hoành ngựa Sắt thù tan mật Khiếp vía quân Ân giặc rã rời Danh lợi không màng công cứu quốc Sóc Sơn ẩn dật sử truyền đời.
Thanh Châu LẠ Việc đời vốn dĩ khó khăn quá Hành động có khi cũng chẳng đã Nghèo đói thường hay trộm cắp càn Giàu sang cũng lắm thâu gom cả Bần hàn nhơ bợn bị mắng cha Phú quý mánh mung khen hiếu má Rốt cuộc từng người phải vãng tiên Ai mang được của theo là lạ THANH CHÂU
CÔ QUÁN Có lúc dừng chân bên quán vắng Trầm ngâm hương vị cà phê đắng Cuộc đời vật chất quá bon chen Vũ trụ tâm linh chưa tĩnh lặng Thế thái di dời tợ khói mây Nhân tình biến đổi như mưa nắng Phong trần cũng có chút niềm vui Cô quán xinh tươi thêm vị mặn THANH CHÂU
====******************************************====
Tin Buồn
Được tin Nhà thơ Xuân Vân là thành viên của Câu lạc bộ Sách Xưa & Nay vừa qua đời. Chủ Nhiệm Vũ Anh Tuấn và Nhà thơ Ngàn Phương đã đại diện cho CLB đến kính viếng và chia buồn cùng tang quyến. Kính mong Nhà thơ có nguồn thơ vô tận nơi vĩnh hằng. CLB Sách Xưa & Nay **************************************************
Chốn cũ em về
Em về thơm cánh phong lan, Cho nghe nỗi nhớ vườn hoang rã rời. Lối xưa tím cả khung trời. Dang tay vẫy gọi đến người mênh mông. *** Xa nhau chừng đó nhánh sông, Nghe rong rêu gọi rừng thu mắt buồn. Xoải tay trên dãi mù sương Đêm lung linh giọt mưa tuôn giữa trời *** Cánh chim về tận biển khơi Thu bâng khuâng gọi những lời hoan ca. Anh đi từ tạ mưa sa Từng đôi cánh mỏi nhạt nhoà nắng trưa. *** Chiều về trên những dòng thơ Tìm trong kỷ niệm cho vừa nhớ nhung. Đêm đen mơ giấc vô cùng Để nghe sỏi đá tỏ lòng yêu thương Dương Lêh
Nỗi lòng
Có những chiều như thế Nghe anh đọc thơ và tôi tự hỏi Anh đọc tôi nghe hay tiếng nói nỗi lòng anh? Tiếng đọc cứ ngân lên vang mãi mê say Cả hai đều cảm giác như đang bay, Vào cuộc đời như vòng quay thiên mệnh Anh là thi sĩ “Không đất khách quê người” mà “quê mình, mình như khách” Anh về đâu? Suy nghĩ chi? Trước cơn lốc ạt ào thời mở cửa Lâu lắm rồi mới được sống một ngày êm ả Giật mình Bởi những gì theo năm tháng một mai đi Cám ơn nhà thơ đã thu lượm những gì Mộc mạc, giản đơn, nhân văn, ý vị… Để người đọc xốn xang, đồng vọng với người thi sĩ Thức tỉnh lương tâm… không hổ thẹn với lòng Đêm sáng trăng Ta bên nhau Còn trăng làm bạn với cánh đồng Cánh đồng nằm yên ả cho trăng dát vàng ánh sáng Cuộc sống lo toan mưu sinh như bị đẩy lùi vào dĩ vãng Trăng tinh khiết lọc qua màn sương mỏng Trăng đầm đìa chảy tắm trên người Nhà thơ thao thức cả một đời Đơn giản vì đã làm theo những gì mình thích Thi sĩ là người thư ký trung thành nhất Bởi đau đời Nên mới hiểu biết nỗi đời đau Hai tâm hồn hòa nhập vào nhau Cùng thao thức đón chào ngày mới Ta thao thức nghĩa là đang tiến tới Lòng rộn ràng chờ đợi ánh bình minh LÊ MINH CHỬ Tặng Phẩm Tặng phẩm làm những người xa cách Càng nhớ thương thắm thiết bên nhau Tặng phẩm làm kỷ niệm mai sau Nhắc nhở về những ngày xưa ấy Tình yêu dù cao thượng biết mấy Cũng vẫn cần những tặng phẩm cho nhau Những âu yếm, săn sóc, nuông chiều Mang dấu ấn một tình yêu bất tuyệt LÊ MINH CHỬ Hạ Chim mỏi cánh chao nghiêng nắng hạ Cây ngô đồng đứng gió im lời Nắng thiêu cháy chữ thơ khô vận Chó đuổi mây trời chạy bốc hơi
Thừa kế ve sầu lên tiếng địch Bụi tre phe phẩy chó nằm dai Cỏ úa hết rơm Trâu vật vã Ao nông cạn nước cá khô mồi HẢI ĐĂNG TRẦN VĂN HỮU Đóa Phù Dung Ngoài dậu ven sông bãi đất lài Phù Dung mấy đóa nở ban mai To hoa đẹp sắc Ong chê đến Tốt lá phai hương Bướm chẳng hoài Trưa má ửng hồng mong khách vấn Chiều trông tin nhạn bặt đường lai Hoàng hôn đỏ sậm màu ly biệt Thương tiếc đời hoa được mấy ai HẢI ĐĂNG: TRẦN VĂN HỮU Y PHỤC NỮ
Áo dài phụ nữ của dân ta Kẻ mặc dáng duyên rất mặn mà Thân gọn ôm eo tà phất phới Cổ tròn nách sát vóc kiêu sa Tiếp tân lễ lộc khi đưa đón Cưới hỏi tiệc tùng lúc tặng quà Vải gấm hàng the người quốc sắc Thời trang y phục dáng đàn bà LANG NGUYÊN
TAO PHÙNG Đã bao lần đến với Tao – Phùng Vẫn thiết tha hoài – vẫn thủy chung Dốc đứng chênh vênh chưa cạn ý Đỉnh cao vời vợi giữa không trung Nghinh Phong trải mộng – trời thăm thẳm Vọng Nguyệt ươm duyên – đá trập trùng Bằng hữu nâng ly – cùng cạn chén Tình thơ say đắm – phím tơ chùng NGÀN PHƯƠNG
Mùa Lũ Quê Tôi Lời ru Mẹ xót xa buồn Gió lùa xóm vắng – Mưa tuôn não nề Mái nhà nép dưới chân đê Đất rưng nước mắt dân quê nhọc nhằn
Quanh năm đồng lúa khô cằn Đến mùa lũ lụt nước tràn ruộng xanh Nước dâng trắng xóa sao đành Lũy tre xơ xác trơ cành lắt lay
Củ khoai củ sắn qua ngày Tạm dằn cơn đói – quắt quay bồi hồi Lúa vàng thắm đẫm mồ hôi Chìm trong nước bạc cuốn trôi phũ phàng Mùa đông rét mướt điêu tàn Áo chăn thiếu thốn lạnh tan nát lòng Khói không đủ ấm bếp hồng Người cùng đất Mẹ phập phồng xót xa
Mặt người nắng cháy rát da Đã khô nước mắt – phong ba trập trùng Gió lùa xóm vắng lạnh lùng Lời ru của Mẹ não nùng bâng khuâng NGÀN PHƯƠNG
Không đề (Viết trong ngày giỗ anh – 2014) Người giờ thành gió Hiu hiu lưng trời Thành làn mây nhỏ Lờ lững ngược xuôi.
Ta thành sỏi đá Quạnh quẽ ven đồi Lòng khô như lá Úa vàng rụng rơi…
Mưa sao bỗng mặn Mưa ơi! Mưa ơi! Tình sao quá ngắn Tình ơi! Tình ơi!
Tình không còn nữa Biết về đâu đây? Thềm xưa ngõ cũ Hun hút dấu giày… GIÁNG NGỌC (G.Đ) Trở Lại Chùa Xưa Mấy mươi năm quay cuồng theo cuộc sống, Con bàng hoàng trở lại mái Chùa xưa. Đã xơ xác, điêu tàn, gần phá sản, Những Tham, Sân, Si tối phủ lan tràn !
Hình ảnh Phật nhạt nhoà trong ký ức, Bởi cuộc đời đầy hấp dẫn, đam mê. Con về đây, bắt tay xây dựng lại, Rũ bụi nhơ, tội, nghiệp, đã tràn trề.
Đời vùi dập, may còn nơi trú ẩn, Bởi trong con, luôn có mái Chùa thiêng, Vẫn tồn tại, an nhiên vào bất diệt Đón con về, xoá sạch mọi ưu phiền. TÂM NGUYỆN BỤI Có thể nào làm thơ khi đường về lềnh bềnh những khuôn mặt đỏ au vì men rượu Có thể nào làm thơ khi bụi đường che lấp mọi lối đi Có thể nào làm thơ khi xe lúc nhúc, cựa quậy trên cả vỉa hè Nơi ấy: cô bé đi học về thẫn thờ chờ khoảng trống Ấy là vào buổi chiều, trên cành cao còn loang lổ nắng Mọi ngã ba, ngã bốn, mọi ngóc ngách gọi là đường, là hẻm, là tất cả mọi lối có thể vươn ra lối khác cũng là mê hồn trận! Và thơm lắm những bạt lều: nào lòng, tiết canh, nhựa mận của cầy tơ, của xả ớt, của đủ mọi thứ … zô zô của từ đâu làn khói nướng mực khô của mọi thứ có thể đem ra, cho vào bếp! Có thể nào làm thơ khi trong tai vang ken két Tiếng nghiến răng của mình hay tiếng thắng xe kia Tiếng rồ xe của lũ nhóc, mồm miệng tía lia … … những ngôn từ không bao giờ có trong sách vở Có thể nào làm thơ khi nghe tiếng xóm giềng rủa vợ Của lão chồng nhừa nhựa, chân nọ quẩn chân kia: Có gì đâu, lão muốn cạn mấy ve nữa … khi đã tống vào mồm một chầu say túy lúy! Cứ thử ngồi làm thơ: xem ra bụi nhiều hơn chữ (Vì dù sao, chữ vẫn phải màu xanh; Mà bụi thì, ôi đen đúa lền khên) Thơ tẩm bụi còn chi là chữ nghĩa! Có thể nào làm thơ khi phố đời bê trễ: Làm được bao mà nhậu nhẹt suốt tuần Cà phê, thuốc lá… hai mông đít cứ mãi ngâm trong vũng lầy đó đây mà gọi trại đi là sành điệu Để có thể làm thơ, chắc phải ra cột đèn cao nghệu Ngó lũ rầy mê mải ánh đèn đêm Nhìn chúng loay hoay, chả biết chúng có ưu phiền Như ta đây, mãi tìm vần thơ mà giờ dường như lạc điệu. Lam Trần 8.12.2011
NẾU CÒN THƯƠNG GIÓ Lỡ lầm gió đập – hoa đau, Hương hoa gió chở, nỗi sầu gió mang. Nếu còn thương gió lang thang, Thì hoa mở cánh, sương tan – gió về ! Matxcơva, 09.5.1992 VŨ ĐÌNH HUY WERE ONE TO STILL LOVE THE WIND Faultily the wind beat – flowers felt painful The wind carried flowers’ scent and bore sadness Were one to still have pity of the wandering wind Then flowers will bloom, dew will melt – and the wind will flow back ! Moskow, 09.5.1992 VŨ ĐÌNH HUY Translated by VŨ ANH TUẤN Danh thiếp
Người về, danh thiếp còn đây, Muốn quay điện gọi, đầu dây có chờ ? Vật vờ như tỉnh, như mơ, Ống nghe đã nhấc, thẫn thờ… lại buông ! Matxcơva, 26.10.1992 VŨ ĐÌNH HUY NAME CARD The person went home, his name card is still here Wishing to call, but were he to wait at the other end of the line ? Fickle and seeming like awaken, like dreaming The earphone was lifted, then dazedly… let loose ! Moskow, 26.10.1992 VŨ ĐÌNH HUY Translated by VŨ ANH TUẤN ĐỌC THƯ BẠN GÁI Đọc thư người, ngắm ảnh người Bâng khuâng tôi nhớ một thời chơi vơi !... Nổi trôi kỷ niệm một thời Người xa – tôi nhớ, xa – người nhớ tôi ?... Matxcơva, 7.1993 VŨ ĐÌNH HUY READING MY GIRL FRIEND’S LETTER Reading your letter, contemplating your photo Dazed with grief, I remembered a time that was so lonely Oh, floating memories of a time You’re far – I remembered, far away – do you remember me ?... Moskow, 7.1993 VŨ ĐÌNH HUY Translated by VŨ ANH TUẤN
VIÊM GAN Mới bảnh mắt ra đã thấy nó ngồi lẹp bẹp bên vệ đường. Bộ quần áo trên người nó có vẻ nhẽo nhèo nhưng nom vẫn sạch. Nước da màu chì của nó nói lên cái nắng chắc đã ám vào người nó lâu rồi. Cứ thấy nó lấy cái lọ gì đấy bé cỏn con, chắc là lọ dầu, bôi chung quanh vùng rốn. Ông Việt, con người cẩn thận nghĩ, chẳng biết cái thằng này ở đâu mà mấy bữa nay cứ nhè khúc đường này mà định cư, hay nó có chuyện nhám nhúa gì không, vì ông nhìn sang phía đối diện, thấy một thằng ốm nhách đang lơ thơ đứng chẳng biết làm cái giống gì. Ông nghi gã là 1 thằng nghiện, chắc lại đang chờ để ra tay chôm chỉa của ai hớ hênh. Dạo này ăn trộm, ăn cướp, đủ loại ăn… ở đâu ra mà lắm thế! Cái gì dính vào người thì may ra còn giữ được, chứ cứ rời mắt ra là ăng như rì y như rằng sẽ mọc cánh mà bay không trở về nguyên quán bao giờ. - Này, cậu bị làm sao ấy mà bôi dầu hả? - Dạ, con đau bụng quá bác ơi! - ... - Dạ con ở Thanh Hóa vào kiếm việc làm, chưa kiếm ra việc thì đau quá. Con bị viêm gan C, chắc cái gan nó hành. Nên con kiếm ít tiền về quê thôi. Ông thấy nó cũng tội, nên định về nhà cho nó tí chút kẻo xấu hổ với chính mình vì nói chuyện bác ái mà chẳng bao giờ giúp ai dù chỉ vài xu nhỏ. Ông thuật lại với vợ, bà nghe xong rồi bảo: - Tùy anh thôi, chứ em thấy cái thằng này ở khu mình cả tuần lễ rồi đó! Nghĩ sao ông thôi cái ý định cho thằng ấy chút tiền, dù rằng ông áy náy, biết đâu nó ốm thật thì sao… Ông nhìn ra chỗ nó ngồi, thỉnh thoảng lại có ai đó cúi gập người để nghe nó kể lể. Thế nào cũng có người dúi vào tay nó vài chục. Ông lại thở dài. Thôi thì mình cứ nghĩ nó là đứa ăn xin đi cho nó nhẹ lòng. Mình chẳng cho thì kệ xác nó vậy. Một lúc sau, ông Nam hàng xóm gọi ông qua. - Gì đấy a nh Nam? - Tôi nói chuyện với anh về cái thằng ngồi đàng kia kìa! - ... - Lúc nãy, con tôi về hỏi tôi rằng, con định cho cái anh ngồi lề đường ấy ba trăm nghìn, ba thấy sao. Tôi nghe nó thuật lời kể lể rằng thằng ấy bị viêm gan B… - Vậy mà nó nói tôi là viêm gan C… - Á à! Lại còn thế này nữa cơ. Con tôi bảo là nó đánh giày vì có bộ đồ đánh giày trong cái hộp nhựa trước mặt nó… - Đúng rồi! Tôi cũng thấy vậy… - Thế là tôi đem đôi giày ra bảo nó đánh xem sao, mà nó bảo nó đang đau nên không làm được. Nhưng tôi để ý, thấy đồ nghề nó có vẻ…sạch, chả có dấu vết gì rằng nó từng đánh giày với dép đâu. Thằng này chắc là giả để ăn xin thôi! - Tôi chỉ sợ nó do thám rồi chôm đồ thôi anh ạ! Mà đúng nó đóng kịch thật. Vì sáng hôm sau, ông đi uống cà phê ngoài đầu ngõ, thuật lại cái cảnh ông thấy hôm qua, thì có ai đó la lên: - Nó kia kìa… Ông nhìn theo hướng tay người ấy chỉ. Ông nhận ra ngay cái thằng chó ấy vừa bước xuống xe buýt, và nó đi nhanh như gió, miệng phì phèo điếu thuốc. Ông lẩm bẩm, xém mình lầm! Cái thằng ấy cứ như thế. Nó cứ cúi gằm cái mặt xuống, kể lể với cái giọng thiểu não. Chắc là mỗi ngày phải có dăm ba kẻ dễ tin cúng cho nó để tối tối, có khi nó lại chễm chệ đâu đó mà bắt chước trong phim tàu mà bước vào quán nào đó, phủi phủi cái ống quần bám bụi mà chẳng thèm nghênh cái mặt lên, ông ổng: - Người đâu? Có tiếng lẹp xẹp của ai đó đi ra: - Anh dùng gì ạ! Kèm với cái bật tay điệu nghệ, nó chả thèm nhìn người đối diện mà gọn ơ: - 5 lon Tiger, dĩa mực một nắng, lẹ! Nghĩ mà tức, nhưng kệ cha nó kẻo nó thù thì sơ sơ thôi, cứ 1,2 giờ đêm khi mình còn đang khò khò, nó tương cho mấy cục gạch thì toang hết mấy cái cửa kính. Làm sao mà đề phòng được quân cắn trộm. Nghĩ mà xót xa! Kẻ lành thì phải lánh kẻ dữ! Hôm nay cũng thế! Cái chỗ nó hay ngồi hôm nay vướng… bãi cứt chó, nên nó mò sang mé bên kia. Nó lại càng cúi gằm cái mặt hơn, dù đã có cái mũ trên đầu, để che ánh mặt trời sáng láng sau đêm mưa phỉ sức. Có ai đó ghé sát tai, nghe nó kể lể những điều nếu thông minh, ta chỉ cần thâu vào máy rồi phát ra cho đỡ khô cuống họng, dù đêm qua trời mát và đã tọng đầy 5 lon bia hoặc hơn. Bỗng ai đó, là một người đàn ông khá bự con, nãy giờ nghe nó thủ thỉ. Vâng, ổng hét lớn: - Mẹ mày, tới số rồi con nhé! Ổng túm cổ thằng nọ như túm con gà, may mà ổng không cầm hai cẳng mà quật nó xuống nền đường theo thế «súp pờ laao pí xí ai mà hiểu được» thì thằng nhỏ chắc sẽ hết viêm gan mà chỉ viêm toàn thân thôi! Ổng rút cái dây nịt quần của thằng nọ, quất cho nó chắc 5, 7 phát gì đó rồi ổng cột cứng cái chân nó vô cột đèn, sau khi đã cẩn thận lột phăng cái quần dài của nó ra. May mà thằng khốn ấy có mặc quần lót chứ không thì nó sẽ phải giãi bày mọi… sự dưới ánh mặt trời rất đẹp hôm nay. Cái miệng opera của ổng cất rất cao, mà tuyên bố lý do: - Thằng này là cái thằng rạch ba lô của tui trên xe buýt, phải không thằng chó. Thằng kia mặt đã xám, nay trắng bệch ra. Nó gúc gắc cái cần cổ đang bị bàn tay hộ pháp của ông sumo chẹt cứng. Cái họng khô khẹc của nó ứ ư ử cái gì chẳng ai nghe rõ. Có lẽ nó muốn nói: - Thôi các ông bà ơi tha cho con đi mà. Hoặc có khi nó định nói như vậy nè: - Ông Thần Sấm ơi, ông muốn làm gì thì tùy ý nhưng đừng lột luôn cái quần còn lại của con… Hu Hu… LAMTRẦN 01.05.2014
Phụ bản III
Tác giả: Dương Lêh Đúng ra tôi không cần thiết phải đi hỏi ý kiến từng người trước khi thực sự quyết định. Nhưng kết quả thật không ngờ, hơn chín chục phần trăm tán thành ý kiến và hối thúc tôi quyết định nhanh chóng để thực hiện trong thời gian gấp rút, không nên chậm trễ một khoảnh khắc nào hết. Sao mà giống như chuyện một cô gái nào đó lỡ “có gì” với một chàng trai rồi bắt chàng trai đó kêu cha mẹ đến hỏi cưới gấp, không thì em sẽ “mua chai thuốc chuột đem về... uống chơi”(1)… Mấy người bạn cũng có lý, phải gấp chứ. Thời gian dành cho tôi có còn bao nhiêu nữa đâu. Bảy mươi tuổi rồi còn anh ấy thì cũng thế, chỉ lớn hơn tôi vài tháng. Đám cưới của chúng tôi sẽ làm cho rất nhiều người ngạc nhiên, nhất là bạn bè cùng lớp tôi và anh ấy, vừa ngạc nhiên vừa cảm thấy vô cùng vui thích. Mãi đến giờ này chúng tôi mới đến được với nhau. Hồi năm kia khi ông nhà tôi vội vã ra đi vì một cơn tai biến ở tuổi bẩy mươi, tôi buồn khổ biết mấy, anh ấy thường xuyên đến an ủi tôi, giúp tôi làm vơi đi nỗi buồn. Thật ra thì nỗi buồn khi ông nhà tôi khăn gói lên thiên đường cũng không kéo dài được lâu. Tôi không còn cảm giác cô đơn khi có anh bên cạnh. Bạn bè tôi không hề chê trách tôi khi chồng vừa mới “vắng bóng thiên thu” đã vội đi giao du với một người đàn ông khác. Con gái, con rể cũng như mấy đứa cháu ngoại đều có vẻ hài lòng, có đứa còn nhiệt tình cổ vũ nữa là đằng khác. Chúng không muốn mẹ mang mãi nỗi buồn vì mất bố trong quãng đời còn lại, và đặc biệt là chúng đã biết chuyện của tôi và anh ấy. Trong khi đó các bạn của tôi còn biết rõ hơn nữa. Anh ấy không phải là một kẻ xa lạ gì đối với tôi và đối với hầu hết các bạn bè của tôi. Tất cả chúng tôi đều là bạn học cùng lớp ở một trường cao đẳng nơi quê nhà hơn năm chục năm trước. Không ngờ cũng trong khoảng thời gian này tất cả chúng tôi đã lần lượt rời bỏ làng quê để đến một vùng đất mới mưu sinh. Chúng tôi đã gặp nhau trở lại và ở nơi đất khách quê người này, chúng tôi thường xuyên gắn bó với nhau bằng tình thương mến không khác gì anh chị em ruột thịt, trong đó có anh ấy… … Mới vào năm thứ nhất, người nào cũng cảm thấy xa lạ với mọi người chung quanh. Tất cả đến từ mọi miền đất nước một cách đơn độc, tập họp vỏn vẹn vào trong một lớp học vừa đủ sáu mươi người trong độ tuổi mười chín, hai mươi, và số lượng nam vừa đủ quá bán. Nhìn vào bảng danh sách dán ở cửa lớp, tôi đếm được khá nhiều bạn đến từ những vùng miền xa xôi, có bạn ở tận Huế, cũng có bạn ở tận Cần Thơ, gạo trắng nước trong, hoặc từ Mỹ tho hay gần hơn là Long An, Bình Chánh. Còn lại là một số lớn cả nam lẫn nữ xuất thân từ thành phố Saigon hoa lệ. Chương trình học không có gì khó khăn ngoại trừ môn tiếng Pháp, cô giáo, rất đẹp, hơn chúng tôi chừng 7, 8 tuổi, giảng bài bằng tiếng Pháp một trăm phần trăm, thêm vào đó giọng nói của cô rất giống những bà đầm người Pháp nên tôi càng bơi tự do nghĩa là không hiểu gì hết. Giờ ra chơi, tôi nghe một anh chàng than thở: - Chà, chắc theo không nổi cái trường này quá. Bà cô giảng mà mình cứ như vịt nghe sấm. - Xóm nhà lá chỗ anh có ai nghe hiểu được gì không? Tôi hỏi. - Có chứ, khá nhiều. Mấy người đó đều là dân Marie Curie, Jean Jaques Rousseau, Taberd, họ nghe dễ dàng, còn tụi mình là dân “a-na-mít” làm sao theo nổi. Tôi thấy lo và không biết theo học trường này có nổi không. May mắn làm sao, trong giờ học tới anh chàng trưởng lớp làm gan lên nói với cô giáo, giải thích tình hình trong lớp có khoảng phân nửa là chọn tiếng Anh làm sinh ngữ một khi ở trường trung học. Thế là từ đó cô mở thêm một lớp B và tăng giờ học để dạy thêm cho cái đám yếu đuối này. Cái lớp phụ đạo này kéo dài đến hết năm thứ hai, sau đó lên năm thứ ba học giống nhau và cô giáo tự do nói tiếng Pháp 100%. Một buổi sáng, tôi đang đạp xe lọc cọc đến trường. Khi quẹo vào đường Phan Đình Phùng bắt đầu vào cái đoạn có hai hàng cây cao su rợp bóng, tôi thấy có một anh chàng chạy xe đạp bên cạnh. Anh ta không qua mặt mà chạy song song. Tôi chợt nghe có tiếng gọi: - Chị Tâm! Tôi quay sang và nhận ra một anh chàng cùng học chung lớp, mặt mũi trông hiền lành. Tôi hỏi lại: - Sao anh biết tên tôi? - Nghe cô giáo “làm appel”(2) mấy lần thành ra nhớ liền. - Vậy còn anh tên gì? - Tôi là Mẫn nè? - À, tôi nhớ rồi. - Trước đây chị Tâm học ở đâu? - Tôi học ở Gia Long, còn anh? - Pétrus Ký - Chà, nghe nói mấy anh học giỏi lắm. - Không biết giỏi thiệt không, nhưng mấy chị cũng nổi tiếng học còn “gồ ghề” hơn nữa. Tôi cười vì được khen dân Gia Long học giỏi, nhưng cũng ráng hỏi tới: - Sao anh biết? - Vậy chị không thấy năm nào thi Tú Tài mấy chị cũng có người đậu hạng ưu. Chúng tôi chạy qua cổng trường, quẹo vào nhà xe vừa đúng lúc chuông reng vào lớp. Từ đó, tôi và anh ấy thường gặp nhau trước cổng nhà xe, trao đổi nhau những câu chuyện vẩn vơ, nhiều nhất vẫn là chuyện học hành trong lớp, chuyện về các thầy cô, như thầy dạy môn Dân Luật giảng bài rất có duyên nhờ có bộ ria như tài tử điện ảnh, nhưng khổ cái bài của thầy dài quá, không biết làm sao học cho hết để thi học kỳ. Nhưng vui nhất là môn học đánh máy chữ do một cô tốt nghiệp ở Mỹ về phụ trách giàng dạy. Trong lớp có một anh chàng vui tính mỗi lần đến giờ thực tập đánh máy, hai bàn tạy múa may loạn xạ, ra cái điệu giống như một nhạc sĩ dương cầm, nhưng không đúng “mê-tốt”(3), cô giáo đến gần dùng một cây thước bản, loại thước của thợ may, để lên hai cánh tay của anh ta. Cô hăm dọa: - Anh đánh máy mà rớt cây thước tôi sẽ cho không điểm. Thế là anh ta hết dám giỡn, chăm chú nhìn vào bàn phím và gõ từng chữ cái như cò mổ, cô giáo lại nói tiếp: - Không được nhìn vào máy! Anh ta phải nhìn sang bài tập, mắt trợn lên để nhớ vị trí từng con chữ trên bàn phiếm. Đến lúc phải sử dụng cần gạt của máy để lên dòng, hai tay anh như bị đóng băng, cô giáo, có lẽ thấy tội nghiệp, vội lấy lại cây thước bảng rồi trở về bàn ngồi sau khi ra lệnh: “Tiếp tục đi!”. Tôi cảm thấy việc học hành vui hẳn lên, không biết có phải do quen anh ấy chăng? Rồi qua những câu chuyện vẩn vơ vào giờ ra chơi, thời gian trôi qua nhanh chóng. Anh ấy nói chuyện rất vui, cũng biết tếu, cùng biết đùa, cũng biết pha trò một cách tế nhị, lịch sự. Tôi cũng không còn nản lòng như vào những ngày đầu năm học khi thấy thời gian ba năm sao mà lâu quá! Lật bật đã hết năm thứ nhất. Qua những lần sinh hoạt tập thể trong lớp, những dịp liên hoan tôi phát hiện anh có vài ba tài vặt. Anh làm thơ, viết văn, biết đàn, biết hát, không giỏi lắm, chỉ làng nhàng, không bằng anh trưởng ban văn nghệ trong lớp. Tuy vậy, trong một buổi tập dợt cho liên hoan tất niên, anh đã đệm đàn tập cho tôi hát để tham gia phần biểu diễn văn nghệ. Có một điều làm tôi phải ngạc nhiên và thán phục anh ấy, đó là việc nhà trường vừa công bố kết quả thi hai học kỳ và xếp hạng lên năm thứ hai, anh đứng hạng nhì, dĩ nhiên chỉ sau anh hạng nhất là một anh lớn tuổi đã bị lộ chân tướng là một người giỏi nhất lớp. Riêng anh ấy âm thầm lặng lẽ học từ bao giờ không ai biết. Hầu hết mọi người trong lớp đều cảm thấy bất ngờ. Trong thời gian nghỉ hè, anh cho tôi biết anh sẽ đi học thêm tiếng Anh, dự kiến sau này ra trường làm việc sẽ thuận lợi hơn. Thế rồi tôi và anh ấy mỗi người một ngả. Tôi trở về Nha Trang vui đùa với sóng biển, với những ngày hè rong chơi trên hải đảo bên cạnh đám bạn bè thân thiết hồi thời trung học mà tôi đã xa cách gần cả năm trời. Tôi như quên bẳng cái năm học đầu tiên ở một trường cao đẳng mà năm ngoái tôi đã phải lóp ngóp vào Saigon trọ nhà ông chú để dự thi tuyển sinh và rồi cũng chính nơi này tôi đã ở trọ để học xong năm thứ nhất dưới sự kềm kẹp chặt chẽ của ông chú. Tôi chỉ được “ra trại” đi chơi với hai cô em họ vào mỗi chiều Chủ Nhật trong khoảng thời gian vừa đủ để xem một phim, ăn mấy cuốn bò bía, một đĩa đu đủ khô bò và một ly nước mía Viễn Đông, rồi lên xe đạp quay về trước khi cổng chính nhà chú từ từ khép lại vào lúc sáu giờ. Xong một chiều Chủ Nhật hạnh phúc! Hè đã mãn. Tôi trở lại trường với một tâm trạng rất thoải mái, sẵn sàng đón nhận một năm học mới, cho dù có vất vả chắc cũng không đến đỗi nào. Vừa vào trong lớp, tôi liếc thấy anh ấy đang ngồi trong góc xa gần cửa sổ, và như biết tôi đã nhìn thấy, anh vội lấy bàn tay đang chống cằm đưa ra hai ngón ve vẩy chào lại. Rồi thời gian cứ trôi dần, anh vẫn thỉnh thoảng gặp tôi trên đường đến trường để nói vu vơ về chuyện học hành trong lớp. Lúc đầu tôi không để ý, cho rằng việc gặp anh ấy trên đường đến trường là ngẫu nhiên, là bất chợt gặp nhau, nhưng lâu dần tôi để ý việc gặp anh trên đường hình như theo một chu kỳ đều đặn, bất di bất dịch. Sau cùng tôi xác định được chu kỳ đó và chúng tôi thường gặp nhau mỗi tuần một lần vào ngày Thứ Tư. Khi tôi kiểm chứng được điều này thì năm học đã đi vào giai đoạn cuối. Một hôm vừa thi xong học kỳ hai, có giờ nghỉ trong buổi học, anh mời tôi đi ăn ở tiệm phở trước đường Phan Đình Phùng. Đây là tiệm phở rất ấm cúng, có phần tĩnh mịch, khách vào lai rai từ sáng tới chiều. Tôi sóng vai đi với anh ấy ra cổng trước bao nhiêu cặp tò mò của các bạn cùng lớp. Tự nhiên tôi hồi hộp không biết anh có định tâm sự gì đây. Hơi nóng tô phở bốc lên làm mờ cặp kính cận thị của tôi. Tôi ngẩng đầu lên lấy khăn lau kính, chợt thấy anh đang nhìn tôi, anh hỏi: - Tâm ăn có ngon không? - Ngon chứ. Tâm nghe nói bà chủ này là Bắc kỳ di cư nấu ngon lắm. Anh thấy sao? - Ngon thiệt. Tui ăn gần hết rồi nè. - Hồi nãy Tâm thấy anh nhìn Tâm ăn hai ba lần, đúng không? Anh cười hê hê: - Xin lỗi nhe. Tại tôi thấy Tâm ăn giống tôi và khác rất nhiều người con gái khác. - Khác như thế nào anh? - Tâm cho thịt hoặc phở vào muỗng trước rồi mới cho vào miệng, còn những người con gái khác cho một đũa phở ngoạm vào miệng trong khi đầu kia của lọn phở còn nằm trong tô nước lèo, giống “rồng hút nước”. Tôi suýt bật cười lớn một cách thoải mái như ở nhà, nhưng khôn hồn lấy khăn che miệng và cười nhẹ nhàng. Trời ơi, anh chàng này sao mà giống ông cụ non quá vậy? Để ý đến những chuyện lặt vặt của con gái. Giá lúc nãy tôi cười lớn anh ta sẽ cho là con gái không có ý tứ. Chà, ghê quá hả! Nhưng sau cùng tôi nghĩ lại anh ấy cũng có lý. Có người nói con gái đẹp lúc ăn. Nhưng mà ăn như thế nào chứ theo kiểu “rồng hút nước” thì khó mà đẹp. Tôi cũng thấy có những cô gái mặc quần áo đẹp nhưng khi ăn, động tác nhai thường phát ra âm thanh ồn ào. Có người vừa nhai vừa nói chuyện, hoặc vừa nhai vừa cười khiến người đối diện nhìn thấy được thức ăn ở trong miệng. Ở phương tây, khi ăn, người ta nhai chậm rãi nhẹ nhàng, đặc biệt không bao giờ há miệng để người bên cạnh không nghe được âm thanh trầm bổng từ động tác nghiền thức ăn. Hè lần này tôi lại trở về Nha Trang, hai cô em gái được ông chú cho phép cũng bay theo, hứa hẹn một thời gian rong chơi vô cùng thú vị. Nhưng khác với lần nghỉ hè năm ngoái, lần này khi lên chiếc xe đò ngồi bên cạnh hai cô em đang huyên thuyên nói chuyện, tôi cảm thấy nhớ nhung một cái gì đó không rõ ràng cho lắm. Hình như tôi thấy nhớ những câu chuyện tếu anh ấy thỉnh thoảng kể khi đứng bên cạnh nhà xe trong giờ ra chơi. Tôi biết sẽ thiếu vắng nỗi bất ngờ khi đang chạy xe thình lình có anh từ phía sau trờ tới để cùng đi đến trường. Đột nhiên tôi có ý nghĩ ước gì thời gian nghỉ hè tự nhiên rút ngắn lại để trở về trường học sớm hơn… Lúc bấy giờ ở miền Trung có một trận bão lụt rất lớn gây thiệt hại khủng khiếp về người cũng như về tài sản, nhà cửa, ruộng vườn. Cả nước tập trung vào việc cứu trợ. Các trường trung học, đại học ở Saigon cũng tích cực tham gia tạo thành một phong trào sôi nổi. Trường chúng tôi cũng hòa vào cảnh nhộn nhịp đó. Ban tổ chức cứu lụt của trường đã mời học sinh từ nhiều trường trung học đến làm công tác đi lạc quyên. Tôi được phân công cùng với anh ấy đến các trường xin phép hiệu trưởng cho học sinh tham gia công tác cứu trợ. Lần đầu tiên ra ngoài giao dịch với các người có chức phận cao, tôi và anh ấy có phần bỡ ngỡ, tuy nhiên khi tiếp xúc họ, tôi thấy anh ấy rất vững vàng, và công tác đạt kết quả tốt. Vừa xong công tác cứu trợ nạn lụt miền Trung đúng vào lúc học kỳ một kết thúc, cả lớp chúng tôi gấp rút chuẩn bị cho học kỳ hai và kỳ thi tốt nghiệp. Tôi và anh ấy vẫn thường xuyên đi lại trò chuyện ở khu đất trống trong khuôn viên nhà trường vào những giờ giải lao. Trước mắt mọi người, ai cũng nghĩ rằng tôi và anh ấy sẽ thành đôi như như triển vọng của vài ba cặp khác của lớp năm cuối này. Trước sự quan tâm và ân cần của anh ấy đối với tôi và bằng chủ quan của mình tôi thấy anh ấy rất có cảm tình với tôi. Tôi cảm thấy vô cùng hạnh phúc và chi biết chờ đợi một ngày nào đó anh ngỏ lời, lúc đó tôi sẽ không ngần ngại để dành cho anh câu trả lời ưng thuận. Niềm khắc khoải của tôi là ngày đó bao giờ sẽ đến? … Chuyến trở về Nha Trang lần này thật chóng vánh, chỉ hơn ba tuần vì tôi phải trở vào Saigon để làm thủ tục nhận việc làm tại một ngân hàng. Toàn bộ lớp chúng tôi đều tốt nghiệp với mảnh bằng cao đẳng về kinh doanh. Tất cả nhóm chúng tôi cũng đã được ngân hàng tuyển dụng sau thời gian chúng tôi đến đây thực tập. Người may mắn nhất trong lớp tôi là Mẫn, chính anh ấy, anh đã trúng tuyển và được Hội Việt Mỹ cấp cho một học bổng 4 năm tại Hoa Kỳ về ngành kinh doanh và tiếp thị. Trước khi tôi về Nha Trang, anh đã mời khoảng mười bạn cùng lớp thưởng thức một chầu cà phê bánh ngọt để từ giã lên đường và cũng để tự thưởng cho sự may mắn của mình. Trong bữa tiệc đơn sơ anh vui vẻ nói chuyện thân mật với mọi người dĩ nhiên là kể cả tôi, trong khi tâm trạng của tôi đang có cái gì đó làm tôi thẹn thùng. Tôi đoán già đoán non hôm nay có thể có một sự thay đổi lớn về tình cảm giữa tôi và anh ấy. Sự chờ đợi của tôi chắc sẽ không đến nỗi hoài phí. Mọi người chia tay ra về, chia sẻ nhau những lời chúc tốt đẹp về công việc làm mới. Tôi và anh đẩy xe dọc theo con đường nhỏ phia trước cổng trường. Gió chiều thổi nhè nhẹ. Đột nhiên Mẫn cất tiếng: - Tôi đi học xa kỳ này chắc là nhớ trường lắm. - Mọi người khác cũng vậy. Tốt nghiệp rồi, đâu còn đi học nữa. - Nhưng mà Tâm và các bạn còn dịp trở về thăm thầy cô. - Anh cũng vậy. - Tôi thì chắc còn lâu lắm. Thôi mình về he. Tâm ở lại đi làm việc vui vẻ. - Anh đi bình yên. Vậy đó, cuối cùng của buổi họp mặt hôm đó chỉ là một câu từ giã đơn điệu. Tôi tức muốn khóc. … Ngữ đến với tôi chừng sáu tháng sau khi Mẫn lên đường đi Mỹ. Ngữ là bạn củng xóm ở Nha Trang. Hồi trung học, Ngữ học bên trường nam, còn tôi bên trường nữ, nhưng vì ở cùng xóm nên biết nhau vậy thôi. Bây giờ gặp lại thấy Ngữ trưởng thành ra, có phong độ một người đàn ông trẻ trung, nhanh nhẹn, bặt thiệp. Không biết ai đã hướng dẫn anh đến gặp tôi ở ngân hàng nơi tôi đang làm việc. Anh mững rỡ cho biết anh cũng đã tốt nghiệp một trường cao đẳng kỹ thuật và đã có việc làm ở Saigon nhưng chưa có một người bạn gái nào cả. Thật tình mà nói, gặp lại một người đồng hương cũng đã quý lắm rồi, đây lại là một người cùng xóm, một người bạn từ thời thơ ấu. Tôi thấy Ngữ đến thật đúng lúc. Mấy tháng qua tôi chỉ biết chăm chú vào công việc làm để không còn nghĩ đến Mẫn. Hình ảnh Mẫn bây giờ xa xôi quá và đã bắt đầu mờ nhạt. Không đầy một năm sau ngày gặp gỡ lần đầu tiên, chúng tôi đã trở về Nha Trang làm lễ cưới, trong mắt tôi lúc bấy giờ chỉ có Ngữ, người chồng chân thật mà tôi sẽ dành trọn cuộc đời để xây dựng hạnh phúc. Mẫn đã bay mất ra khỏi tâm trí của tôi tự lúc nào tôi cũng không biết. …. Khi gặp lại anh ấy trên đất nước xa lạ này tôi hết sức ngỡ ngàng, và hết sức kinh ngạc, không ai có thể ngờ được đến giờ này anh ấy vẫn “cu ky”, vẫn độc thân, không người nâng khăn sửa túi. Nhiều người bạn tôi từng có dịp tiếp xúc với anh trong quá khứ cũng đã xác nhận như vậy. Lần đầu khi gặp lại anh, hỏi về chuyện vợ con anh đã trả lời như vậy, tôi trố mắt: - Anh Mẫn, anh không phải giỡn chơi chứ? Câu hỏi của tôi mang bóng dáng của một câu thoại thường gặp trong các phim Tàu. Vẫn với cách tếu ngày ngày xưa, anh trả lời cũng theo kiểu một câu thoại trong một phim võ hiệp: - Đàn ông, con trai “đi không đổi họ, ngồi không đổi tên”, luôn nói chuyện rất đàng hoàng, chẳng qua là duyên tới hơi chậm. - Từng tuổi này rồi, đợi cái duyên chừng nào mới tới? - Cái này do thiên cơ, làm sao biết được. Có lần anh lái xe đến nhà tôi mời vợ chồng tôi đi ăn, nhưng chồng tôi hôm đó bị nhức đầu sao đó, bảo tôi đi một mình. Tôi dắt theo đứa cháu ngoại sáu tuổi để người ta khỏi dị nghị. Trong bữa ăn chúng tôi nói chuyện huyên thuyên, hầu hết là những kỷ niệm hồi thời đi học. Anh cũng có kể anh biết được tin tôi lấy chồng khoảng một năm sau ngày tôi và Ngữ làm đám cưới. Sau đó mỗi lần bạn bè tôi làm tiệc họp mặt đồng môn, tôi và anh ấy thường có mặt, riêng ông chồng tôi vì sức khỏe kém nên không bao giờ tham dự. …. Không biết cái “thiên cơ” lần đó Mẫn buộc miệng nói ra linh nghiệm như thế nào mà bỗng dưng Ngữ bị đột quỵ và nhanh chóng qua đời. Tôi choáng váng và vô cùng đau khổ. Cuộc sống vợ chồng của tôi và Ngữ thật vô cùng hạnh phúc và ềm đềm. Tôi không hề muốn đòi hỏi gì hơn. Mấy chục năm qua, Ngữ đã làm đầy đủ trách nhiệm của một người chồng, một người cha của hai đứa con gái và giờ đây chúng đã có gia đình nhỏ bé, riêng tư với đầy đủ tình thương của ông bà ngoại. Thời gian cũng trôi qua nhanh, và nỗi buồn của tôi cũng dịu đi dần. Mẫn thỉnh thoảng đến an ủi. Tuổi già của tôi cũng thấy ấm lại với niềm vui khi có Mẫn bên cạnh. Rồi như có một cái gì đó làm bùng lên những kỷ niệm với Mẫn khi còn đi học, biết bao nhiêu lần chúng tôi nói chuyện ở khu nhà xe của sân trường vào giờ giải lao, lần lượt trở về trong tâm hồn một bà lão ở tuổi bảy mươi. Tôi lại cảm thấy choáng váng một lần nữa khi Mẫn hỏi cưới tôi. Trời đất ơi! Có chuyện này sao? Tôi lại hỏi: - Mẫn không nói giỡn phải không? - Đàn ông “đi không đổi họ, ngồi không đổi tên”. Mãi đến bây giờ anh mới dám nói đó Tâm. Hồi xưa anh nhút nhát nên phải trả giá. Nói xong anh móc trong túi ra một hộp đựng nữ trang và mở nắp cho thấy một chiếc nhẫn mới mua. Tôi gục đầu vào vai anh, hai giọt nước mắt lăn dài trên má… Dương Lêh (1) Một câu hát trong bài “Lịch sử mái tóc huyền” của ban AVT vào đầu thập niên 1960 (2) Điểm danh (3) Method: phương pháp Toan tính Hai vợ chồng Huyền sống cũng khá. Chồng chị tuy không đẹp trai, nhưng bù lại có cái miệng dẻo quẹo, nên anh có lắm bạn bè. Anh chàng chẳng đi làm gì cả, và vì khéo nịnh vợ nên tuy không phải đổ mồ hôi mà lúc nào cũng rủng rỉnh tiền tiêu. Cái sạp hàng bán nghêu sò, tiếng là của ai đó mà chị chỉ là người phụ bán, cũng mang lại cho chị khá bộn. Sau cả ngày lây nhây ngoài chợ, tối đến, chị lên đồ trông cũng mát mắt chứ chẳng chơi. Chị cũng bon chen đầm này váy nọ, mấy ai biết chị phải tẩm vào người không ít nước hoa cho át đi cái mùi chợ búa. Mà có sao! Miễn là đôi mắt chị vẫn long lanh, và cười theo cái miệng với hàm răng mới làm tốn đâu ít tiền! Anh mắc bệnh sĩ. Vì dẻo mồm nên lắm người tin anh sái cổ. Chuyện gì anh cũng biết! Đề tài nào anh cũng thao thao bất tuyệt. Cái xe mới toanh Huyền mới sắm cho anh, cộng thêm đôi kính sang trọng, làm anh thêm cái vẻ đáng tin, dù những điều anh nói ra, anh đều nghe được từ đâu đó. Rồi qua cái miệng chóp chép swingum, những ngôn từ ấy nghiễm nhiên là của anh từ thuở khai thiên lập địa. Anh rủ vợ chơi với nhóm bạn của anh cho thêm huê dạng. Có gì khó! Chỉ là chịu khó tập mấy bài karaoke ruột, ở đâu và bất cứ khi nào cần là anh lại ông ổng cái giọng nhừa nhựa ra, phả thêm làn khói thuốc là nom anh nghệ sĩ vô cùng. Nếu có bà bạn nào ngứa chân muốn lả lơi vài điệu là anh sẵn sàng dìu trong tiếng nhạc loạn cào cào. Thế là thích mê tơi! Thế là sành điệu! Chị cũng tập tễnh uống tí bia cho đôi mắt thêm ướt át, cho đôi môi bắt chước thêm lời ong tiếng bướm… cho thêm cái điệu của sành, nghĩa là sành điệu ấy mà. Lắm lúc Huyền cũng ghen, vì anh đùa cợt với mấy bà xem “thật” quá. Nhưng anh cứ gắn đôi môi của mình vào đôi môi của vợ vốn đẫm mùi bia, thế là mọi sự đâu lại hoàn đấy, và hoàn toàn đáng tin yêu cậy mến. Còn anh, anh chả lo gì về vợ, vì Huyền vốn hiền như cục bột. Mà thật ra, anh chỉ cần tiền của nàng thôi. Chưa kể, anh đang có một kế hoạch táo bạo… Còn Phi ư? Chị đẹp đấy chứ! Chẳng gì chị cũng từng là hoa khôi một thời áo trắng! Ngần ấy tuổi đời mà nom chị vẫn thon thả mà bốc lửa chẳng kém các cô bé đáng tuổi con chị. Cuộc đời chị đầy màu hồng, cái màu nhẹ nhàng mà sang trọng. Tất cả cũng nhờ vào bàn tay khéo léo của chị với cái nghề nghe tuy không cao sang gì: Bán thịt heo! Có sao đâu! Miễn ai gặp chị cũng tấm tắc khen cái nhan sắc nghiêng thùng đổ nước là được rồi. Chưa kể chị có một đức lang quân thơm lắm. Anh làm trong một cơ quan nọ có liên quan đến bất động sản, và ngày càng giàu ra. Cứ thấy sáng ra là anh cắp cặp đi làm, phần lớn các buổi chiều anh chẳng vội về nhà ngay mà hội hè gì đó với bạn bè với bia bọt và dĩ nhiên là với các em chân dài mỏ đỏ. Anh hay có những phong bì dày cộp ai đó đưa sau buổi tàn tiệc, và dĩ nhiên ngày càng thấy anh về khuya hơn, có khi anh chẳng về là khác. Phi có hỏi đến thì anh chỉ ừ hử rồi chìa mấy cái bao thư, tuy đã có bớt đi cho em nào đấy, nhưng vẫn còn đủ dầy để Phi nín lại mấy câu hỏi hóc búa định dành cho anh, chỉ thỉnh thoảng lại chép miệng đủ để mình cô nghe, xỉn vậy còn làm ăn gì nữa trời… Rồi hồng nhan đa truân, một ngày xấu trời hơn bao giờ hết, chồng Phi sau cuộc nhậu đã đâm sầm chiếc xe của mình vào cột đèn. Trên tay anh, chiếc đồng hồ cũng mọc cánh bay theo cái ví luôn có ít là mươi ngàn đô, bay theo cái bóng hồng nào đó mà người ta chỉ kịp nhìn là một chiếc váy cũn cỡn… Vậy là Phi mất chồng! Thực ra cô mất chồng lâu rồi mà cô chẳng để ý đấy thôi. Mà cô cũng chán anh nữa. Anh chả cho cô mụn con nào. Thật ra cô cũng chẳng tha thiết gì với anh, cô chỉ tha thiết với tiền thôi. Thỉnh thoảng cô cũng xót xa cho cái hình nhân ngớ ngẩn đang ngồi kia, lơ ngơ như đứa mắc bệnh down vậy. Sau tai nạn, trí nhớ của anh đi vắng dài hạn mất rồi. Hay tại anh nhớ các em chân dài nhiều quá nên mọi sự trên đời bây giờ anh quên sạch. Nói đừng cười, chứ giả như Phi có xếch xy ‘chăm phần chăm’ trước mặt anh thì anh cũng chẳng hề… động đậy! Vậy là chị chẳng bán thịt nữa, vì dù gì chị vẫn là hoa khôi cơ mà! Bây giờ thì chị làm nghề cho vay lấy lãi. Cũng khá mà lại nhẹ nhàng nữa. Người ta cho vay hai mươi phân thì chị nhẹ hơn một hai phân cho nhẹ. Đừng nói đến chuyện chạy nợ với chị, vì chỉ một cái liếc mắt đưa ghèn của Phi là thiếu gì vai u thịt bắp sẵn sàng làm giúp chị cái phần thiêng liêng nhất của nghề: đòi nợ. Chị luôn căn dặn, đừng có đánh người ta. Nếu lỡ có đánh thì chỉ đánh cho què thôi, để nó còn đi làm mà nuôi vợ con nữa. Hoặc khỏi cần phải đánh đấm gì cho tổn sức, cứ ‘nghiên kiú’ sao cho xiết nhà xiết xe là tốt nhất. Phi bảo: Xiết cổ mệt lắm các anh ạ! Thế là các anh cứ thế mà làm, miễn là thỉnh thoảng Phi ban cho một nụ cười kèm ánh mắt ươn ướt một tí là xong ngay. Nhưng Phi cũng khôn lắm, cô vẫn đến tận nhà các anh đòi nợ giúp kia, khi thì dúi vào tay quý bà ít tiền, khi thì cho mấy đứa con chút quà đậm đà tình cảm. Vừa đỡ phức tạp, lại khỏi sợ bị đánh ghen nát cả đời hoa vốn đang thiếu tình yêu. Chồng chị thì chỉ cần cơm ngày 3 bữa, bia bọt thì bái bai từ dạo ấy rồi. Nghĩ cũng chán! Phi gặp vợ chồng Huyền hôm sinh nhật người bạn chung. Rồi họ mau thân với nhau lắm. Ai cũng khéo mồm. Họ hay rủ nhau đi ăn sáng. Thỉnh thoảng karaoke cho có người khen rằng ta biết hát. Phiệu - chồng Huyền - chả ngại gì mà không trở thành một cặp song ca ‘ca-rao-vặt’ với Phi, mặc cho cơn sóng ngầm đang ầm ì trong lòng Huyền. Những lúc ấy, Huyền dù có tẩm cả lít nước hoa hảo hạng vào người thì chị vẫn ngửi thấy mùi tanh của nghêu sò ốc hến quẩn lấy chị. Chị uất lắm, nhưng cũng không dám lên tiếng dù nhỏ to, vì chị biết, ngay trong lời nói và cả trong hơi thở của chị cũng sực mùi hến ốc sò nghêu… Biết Phi sắp mua xế hộp, Phiệu vội đi học lái xe bốn bánh. Phải hôn vợ đến mươi lần rồi Phiệu mới trình bày kế hoạch của mình cho Huyền nghe, và nghe cũng xuôi tai ra phết: - Em coi, bao lâu nay có mình em phải làm lụng mọi sự, thật là tội cho em anh quá (Ôi! sướng nhá). Cả ngày em cứ quần quật ngoài chợ trong khi anh chả được tích sự gì, thật là thương em, và thật anh là kẻ vô tích sự (Ôi! chồng em ơi, không ngờ anh lại biết nghĩ như thế! Đưa hôn cái coi!)… Ùm... Anh tính lợi dụng cái con Phi này. Nó giàu quá trời! Mình kiếm cách bòn tiền nó, hoặc công ty với nó kiếm tiền rồi em bỏ quách cái nghề ốc sò nghêu hến đi cho đời thơm một tí! Thế là vợ chồng Huyền bàn nhau cái kế sách hay hay như thế cả đêm. Thỉnh thoảng Huyền thưởng cho chồng cái hôn rõ nồng nàn và thấy mình thật may mắn có đức ông chồng thông minh thông thái, và thông đồng nữa! Chị đưa ngay cho chồng khoản tiền học lái xe cộng nụ cười tươi ngang ngày cưới. Gì chứ, nếu Phiệu muốn đi học lái máy bay chị cũng đồng tình cơ mà. Nhờ cái miệng ngày càng dẻo của Phiệu, và cái mưu mô đêm nọ, mà chàng thành tài xế cho đại gia Phi. Cô cũng từ từ mến cái mỏ mỏng dính của chàng, dù có hơi e ngại “người ta có gia đình rồi mà”. Thỉnh thoảng cô bắt gặp ánh mắt đắm đuối của anh mà thấy lòng run bắn lên như điện trung thế xẹt ngang người. Còn Phiệt, với sự hỗ trợ có phần nghi ngờ của Huyền cứ tiến lên, tiến vững chắc vào giấc mơ rất mơ màng đêm nọ. Một hôm, chở Phi đi xem ngôi nhà mà chủ nhà vì thua bạc mà phải bán về, nhìn người đẹp má hây hây đỏ, Phiệu chịu không được nên nấn ná mãi chưa về. Thấy cái đèn ở hành lang tắt ngấm, anh hỏi Phi: - Sao không bật đèn lên? - Ơ bật rồi mà chẳng thấy nó sáng! Anh có biết sửa không, sửa hộ em tí! Thích quá, Phiệu kê cái bàn ra. Để cái ghế lên trên rồi leo lên, hí hoáy. Thật ra, đèn có hư mẹ gì đâu, vì Phiệu hôm trước đã cố tình gỡ con chuột ra rồi, lấy gì mà sáng! Dĩ nhiên là đèn lại sáng. Dĩ nhiên là Phi cám ơn rối rít. Loay hoay dẹp bàn Phiệu “vô tình” chạm vào bộ ngực phong phanh của nàng làm đôi bên đều ngượng chín từ đầu đến dép. Chợt thấy chồng Phi đứng gần đấy, Phiệu luống cuống làm đổ cả ghế xuống sàn. Nàng tiên đỡ anh dậy, miệng an ủi: - Không sao đâu anh, chồng em chả biết gì đâu! - Thế!... Phiệu ú ớ mà chả nói được gì. Phi cũng chả nói gì mà chỉ ban cho Phiệu một cái hôn nhẹ nhàng trên má. Ôi! biết nói sao nhỉ! Thật ra, Phi thừa biết Phiệu muốn gì, vì Phiệu đã từng đề nghị cho vợ chồng anh góp vốn với cô để làm ăn. Tiền đẻ ra tiền. Cho vay lấy lãi. Mua bán bất động sản. Cái gì cũng cho ra tiền. Mà cái gì cũng cần thêm tiền. Thêm vốn thì tốt chớ sao. Món nào dễ ăn hơn thì mình làm riêng, ai biết! Vả lại, có thêm bạn tình cũng vui vui, mất gì! Lúc này, chị ăn mặc phong phanh lắm. Cũng có lúc chị thấy áy náy với chồng chị, với các cặp mắt chung quanh. Chẳng biết họ có biết gì không nữa. Ôi dào! Vợ người ta không thắc mắc gì thì ai mà thắc mắc. Rồi chị làm việc từ thiện nhiều hơn. Chị cũng hạ lãi nóng xuống cho người vay dễ thở hơn, dù vậy, chị vẫn thỉnh thoảng xiết được cái này cái nọ cũng thơm lắm. Phiệu thì vẫn mồm miệng đẩy đưa. Đến giờ thì anh cũng có chấm mút được chút đỉnh từ cái công ty ma quỷ nọ. Khi mang tiền về cho vợ, anh thấy mắt vợ bên thì vui vì có thêm tiền, bên lại ánh lên màu xám xịt của màn đêm. Hồi này, ảnh ít hôn mình, mà hôn không mấy… ngon nữa. Thật ra, anh với Phi vẫn dậm chân tại chỗ chứ có “tiến bộ” gì đâu cơ chứ. Đang miên man bâng quơ như vậy thì điện thoại reng trong túi quần. - Ai vậy anh? Huyền hỏi. - Phi gọi. - Gọi gì vào giờ này… Gần mười giờ đêm rồi! - Nó nói là hết nước xài, chắc máy bơm hư nên nài nỉ anh qua sửa giùm! - Gớm, sao anh cái gì cũng giỏi vậy! Tuy nói vậy, nhưng Huyền vẫn để chồng đến nhà Phi, vì dù gì, Phi vẫn là chỗ cho vợ chồng chị kiếm tiền. Đẩy cổng bước vào, Phi đã đợi sẵn: - Em đi tắm mà chả còn giọt nước nào. Chả biết nhờ ai, chỉ biết nhờ anh thôi. (Sướng bỏ mẹ đi đấy chứ) Mà nguyên nhân cũng đơn giản thôi. Cái nhà này từ ngày Phiệu xuất hiện là có lắm cái hư và hao. Dĩ nhiên là chỉ có mình Phiệu và Thượng Đế là biết rõ nguyên nhân: Chỉ là cái CB máy bơm đã bị ai đó táy máy mà tắt đi. Cứ đổ thừa cho chồng Phi là xong tất. Phiệu la lên: - Em thử xem có nước chưa. Rồi tất tả chạy vào buồng tắm, nơi lúc nãy Phi đang đứng chờ giòng nước mát chảy ra từ chiếc vòi xinh xắn. Anh đẩy cánh cửa phòng khép hờ và choáng người vì trước mắt anh, cái tòa thiên nhiên hiện ra với đầy đủ cái mê hoặc của nó. Trong cái mụ mị dễ hiểu ấy, họ quên cả khép cái cửa dễ thương kia. Khi mà mọi thứ quần áo của anh đã vung vãi trên nền, thì Pháo - chồng Phi - lao vào, tay cầm con dao sáng quắc. Mắt anh như có thần lại. Và đỏ rực ánh hận thù… Ngấp nghé ngoài cổng chờ chồng, Huyền nghe tiếng ai kêu rú, như là tiếng của chồng mình… LAM TRẦN
QUÁN CÀ PHÊ DÀNH CHO DANH NHÂN, “TRÁNG SĨ”
Ở thế kỷ 17 – 18, các quán cà phê ở phương Tây hầu hết đều dành riêng cho các văn sĩ đến uống, để làm chất liệu gợi hứng trong sáng tác. Quán cà phê đã trở thành hình ảnh quen thuộc đối với nhà văn, nhà thơ để biết bao quán cà phê đã đi vào tác phẩm của họ. · Quán cà phê Prôkôp tròn 3 thế kỷ: Ngoài tháp Ep-phen và nhà thờ Đức Bà, các tiệm cà phê nổi tiếng cũng được liệt vào danh sách những di tích lịch sử của Paris. Trong số đó, tiệm cà phê Prôkôp ở khu phố Saint Germain de Pres được coi là lâu đời nhất. Tiệm cà phê Prôkôp mở cửa năm 1686 thuộc quyền sở hữu của Phanxicô Prôcôplô Côngtêli, một người Ý gốc ở Palecmô đến Paris sinh cơ lập nghiệp vào những năm 60 của thế kỷ 17. Vào thời này, những lúc nhàn rỗi, người Paris thường la cà ở các tửu quán. Mặc dù giới quý tộc Pháp thời đó rất thích cà phê, coi uống cà phê là “mốt”, nhưng ở Paris chưa tồn tại một tiệm cà phê nào. Là một người nhạy cảm và có đầu óc kinh doanh, Phanxicô Côngtêli lập tức mở tiệm và nơi này nhanh chóng trở thành nơi tụ họp của giới quý tộc Paris. Tại đây, người ta ngồi thảo luận những tin tức chính rị mới nhất và cả những tin vỉa hè. Vào thế kỷ 18, các nhà khai sáng ra vào tấp nập ở tiệm Prôkôp. Trong số họ có Vônte, Điđơro và Đalămbe. Các bài thơ yêu tự do đã được đọc vang lên tại đây. Không phải ngẫu nhiên mà vào cuối thế kỷ 18, Prôkôp đã biến thành Câu lạc bộ Cách Mạng, là nơi tụ tập đầy cảm hứng của Đăngtông, Rôbexpie và Marat. Vào thế kỷ 19, Prôkôp lại trở thành Câu lạc bộ Văn học, thường có mặt Giocgiơ Xăng, Muytxê, Têôphin Gôthiê và các nhà văn lãng mạn khác. Cách đây 3 năm, một công ty tư nhân đã mua lại Prôkôp. Sắp tới, người ta sẽ tiến hành tu sửa tiệm cà phê này, để kỷ niệm lần thứ 200 cuộc Cách mạng vĩ đại của Pháp (1789 – 1989) · Quán cà phê mang tên Vangôt: Đó là một căn phòng tồi tàn trên gác thượng. Diện tích của nó chỉ vào khoảng 5 – 6 mét vuông. Dẫn lên căn phòng chật hẹp chỉ có một cửa sổ duy nhất bé tý là chiếc cầu thang bằng gỗ cũ kỹ làm theo hình trôn ốc. Những bức tường của “tổ ấm” của nhà họa sĩ thiên tài Vangôt được quét vôi màu xanh da trời vì lâu quá đã hoan ố, trông gớm ghiếc. Trong phòng mọi thứ vẫn nguyên vẹn, như khi chủ nhân của nó đã sống những ngày cuối cùng đầy đau khổ, cô độc và đắng cay của cuộc đời mình và kết thúc bằng cách tự vẫn vào tháng 7 năm 1890. Ngày nay cái nhà tù trá hình vốn đã hủy hoại cả một cuộc đời của họa sĩ lỗi lạc thế giới này đã trở thành một tiệm cà phê mang tên ông. Ngôi nhà này nằm ngay ở quảng trường Trung tâm đối diện với Tòa Thị chính thành phố Ove, cách thủ đô Paris của nước Pháp chừng 36 kilômét về phía Tây Bắc. Dọc theo thị trấn nhỏ bé và xinh đẹp này là một dòng sông nhỏ uốn lượn, mang trong lòng những đoạn xà lan, tàu thủy tấp nập ngược xuôi. Gần tiệm cà phê Vangôt có một công viên không lớn, nơi đặt bức tượng của họa sĩ đăm chiêu nhìn dòng người qua lại với đôi mắt buồn đau như chính cuộc đời ông. Từ những năm 50 của thế kỷ này, gia đình Rôgiê Tallan đã mua tiệm cà phê này và rất quan tâm tới việc bảo quản những vật kỷ niệm còn lại của họa sĩ vĩ đại này. Bởi nơi đây cũng đã trở thành trung tâm, nơi tụ họp của giới nghệ sĩ địa phương. Nhiều nhà quay phim đã tới đây để quay phim về cuộc đời của Vangôt. Tuy nhiên, sau cái chết đột ngột của vợ và con gái, người chủ tiệm buộc phải bán tiệm cà phê mà gia đình ông đã gắn bó trong nhiều năm trời. Rôgiê cho biết, dù bán cho ai chăng nữa, điều kiện đầu tiên là người chủ mới phải cam kết giữ nguyên vẹn trật tự và đồ đạc trong phòng của Vangôt thì mới bán. Chiếc cầu thang gỗ và đồ đạc trong phòng của Vangôt sẽ được chuyển tới Viện Bảo tàng lịch sử. · Quán Grecô ở Roma (Ý) rất nổi tiếng, mở cửa cách đây hơn 230 năm. Lui tới quán này có các nhà văn nổi tiếng như nhà thơ Giacômô Lêôpacđi, các nhà văn Gôgôn, Xtrăngđan, Mac-Tuên, các họa sĩ Picatxô, Đali… Hiện trong quán vẫn còn treo ảnh của văn hào Nga Nicôlai Vaxiliêvich Gôgôn, người đã dành cho thủ đô Ý cuốn tiểu thuyết “Rôma” chưa viết xong và nhiều trang trong bộ tiểu thuyết bất hủ “Những linh hồn chết”. Gôgôn tới Rôma mùa xuân năm 1837 và sống ở một ngôi nhà rất gần quán cà phê Greci và quảng trường Tây Ban Nha ở giữa trung tâm Rôma. · Quán cà phê Florian ở Venise (Ý) Venise vốn nổi tiếng với những chiếc thuyền chèo mũi cong, những ngày hội hóa trang độc đáo và cả quán cà phê Florian, nơi lui tới thường xuyên của các nhân vật nổi tiếng như Rousseau, Golđini, Goethe, Byron, Musset và Casnova. Khi chiều xuống, nhìn người yêu ngồi trong một góc ấm cúng đợi mình, đôi khi ta tự hỏi có thể đến nơi nào khác, khi nàng ở bên ta, để uống ly cà phê? · Quán cà phê Einstein ở Berlin (Đức) Berlin là một thành phố buồn, đến độ các giai nhân ở đây hay nghịch ngợm bằng cách ăn bận toàn một màu đen. Muốn ngắm họ “cận ảnh” hơn, bạn hãy đến quán cà phê Einstein. Đó là những cô gái tóc vàng hay đen, tay trỏ mang những chiếc nhẫn kiểu phương Đông, trang điểm diêm dúa, da trắng, môi tô son màu tím. Các nàng nhìn bạn, nhưng không cười với bạn đâu, họ hút thuốc vấn và uống bia. Nhìn họ, ta có cảm tưởng đó là một bầy sáo sậu đang sắp hàng dọc theo bức tường của quán cà phê rộng lớn này. Bạn có thể ngồi đó hàng giờ để ngắm các cô gái hay đọc cho hết mọi tờ báo trên thế giới đặt trên một chiếc đàn piano cạnh cửa ra vào. Bạn có thể uống một chút nước suối cuối cùng, trước khi rời quán để dễ tiêu hóa một bữa no nhìn các cô gái. Bên ngoài Berlin đang mùa Đông, những ngôi nhà xám ngoét dưới tuyết, những chiếc tắc-xi ồn ào với những đèn pha rực sáng, những bóng người mặc măng-tô xám, lặng lẽ đi trên con đường ánh sáng mờ ảo của những ngọn néon vàng, xanh. · Quán cà phê Gijon ở Mađrid (Tây Ban Nha) Đó là một căn phòng thoáng mát được trang hoàng bằng nhung đỏ, đá cẩm thạch, các gương soi kiểu cổ cùng với lớp gỗ bọc tường bóng lộn. Nếu bạn gọi một ly cà phê thì bạn sẽ được những hầu bàn bận đồ trắng toát, đem lại ngay không những một ly cà phê mà còn kèm theo một ly nước lạnh và một điếu xì-gà! Ở quán cà phê Gijon hay ở bất cứ quán cà phê nào ở Mađrid, bạn không cần phải giữ mồm giữ miệng. Nếu cần, bạn có thể la hét để bảo vệ lập trường của mình, khi tranh cãi. Các cuộc tranh luận có làm bạn khát nước ư? Thì đã có sẵn các loại rượu nho đỏ, bia hay whisky. Giống như nhiều quán cà phê lâu đời khác ở Mađrid song quán Gijon là chốn lui tới của văn hào Ernest Hemingway trước kia. Có lẽ như vậy thật, nhưng không phải chỉ có Hemingway mà còn có nhiều nhân tài văn học khác đã từng ghé lại cái quán cà phê đã có từ năm 1838 này. Cái chất cổ xưa của quán khiến nó có sức hấp dẫn đặc biệt, với rất nhiều người Tây Ban Nha như Alphonse El Sabie vua xứ Castilles, nói: “Đun bếp bằng thứ củi cũ, uống rượu loại cũ, đọc một quyển sách cũ và chơi với những người bạn cũ”. · Quán cà phê Flore ở Paris: Là một nơi ấm cúng vào mùa Đông, nhờ vậy mà quán đã nổi tiếng ngay sau ngày khai trương cách đây trên dưới 45 năm. Người ta nói rằng nhà văn hiện sinh Jean Paul Sartre đã viết một vài tác phẩm ở quán cà phê này. Điều này còn phải kiểm chứng lại, nhưng thực tình thì lúc khởi thủy, quán là nơi tụ tập của các văn nghệ sĩ, họ đến đây để uống cà phê đen và viết lách. Người ta còn nói rằng quán Flore là quán cà phê duy nhất mà người ta có thể nói cách thản nhiên với các bồi bàn: “Cho xin cái gì để viết”. Và rồi sẽ có người mang đến cho bạn thức uống bạn yêu cầu, kèm theo một mảnh giấy và cây bút. Đại lộ Saint Germain, nơi quán Flore tọa lạc là nơi rất náo nhiệt, có quá nhiều xe cộ và người qua lại, quá nhiều nghệ sĩ hát rong hoặc chơi đàn accorđeon. Vào mùa Đông thì mực độ nhộn nhịp không giảm đi bao nhiêu nhưng quán cà phê Flore thì vẫn có sức thu hút của nó. Bạn có thể từ bỏ cái chăn ấm áp để đến đây ngồi, vào một buổi sáng mùa Đông, dù chỉ để nhìn cánh cửa ra vào, mà không chờ đợi một ai. Bởi lẽ, tại đây, bạn không chỉ dùng các loại nước giải khát thông thường, nhưng lại được những người hầu bàn hết sức niềm nở phục vụ. Những buổi sáng mùa Đông thú vị ở quán cà phê Flore. BÙI VĂN QUẢNG 175/642 Lý Thường Kiệt, Tp. HCM Phụ bản IV TIỂU THUYẾT HÌNH SỰ Vào tháng Chạp năm 1893, tại thành phố Luân Đôn đã xảy ra một tội ác hết sức kỳ quái và phi thường. Nạn nhân là người như thế nào và thủ phạm là ai? Tất cả các bí ẩn hình sự này được giao cho một nhà thám tử tư điều tra. Và nhà thám tử tư đó không ai khác hơn là… Sherlock Holmes, một nhân vật khét tiếng trong làng… tiểu thuyết hình sự thế giới, một con người có cái “mũi trinh thám” hết sức nhạy bén và một bộ óc logic toán học thật chặt chẽ. Người khai sinh ra nhân vật Sherlock Holmes là nhà văn Anh gốc Tô Cách Lan Sir Arthur Conan Doyle (1859-1930), một người vốn là bác sĩ và bắt đầu viết tiểu thuyết trinh thám từ năm 1887 với tác phẩm đầu tay A Study in Scarlet. Năm 1893, A. Conan Doyle cho đăng trên tạp chí “Strand Magazine” câu chuyện về nhà thám tử Sherlock Holmes. Sau nhiều năm cùng với nhân vật Sherlock Holmes phiêu lưu trên các trang báo, cuối cùng, A. Conan Doyle quyết định cho nhân vật này rơi xuống vực thẳm ở dãy núi Alpes bên Thụy Sĩ, kết thúc một câu chuyện hình sự đã kéo dài quá lâu. Nhưng thật không ngờ, cái chết của nhân vật Sherlock Holmes lại gây ra cho người đọc ở nước Anh một chấn động thật mạnh. Gần như cả nước Anh để tang cho Sherlock Holmes, và một số độc giả trung thành khác lại leo lên đến tận dãy núi Alpes, đi tìm đúng nơi mà Sherlock Holmes đã rơi xuống vực thẳm, để xem xác của chàng có còn ở đó không!! Riêng tác giả Conan Doyle thì nhận không biết bao nhiêu lời chửi rủa của độc giả và cả lời kết án là Conan Doyle đã phạm tội sát nhân vì đã giết chết Sherlock Holmes một cách mờ ám! (Ô hay, sao mà độc giả nước Anh thời đó lại quá cả tin và ngây thơ đến vậy!). Đến nỗi nhà văn Conan Doyle phải công khai biện minh rằng Sherlock Holmes chỉ là một nhân vật hoàn toàn có tính chất hư cấu, ông là nhà văn nên có toàn quyền khai sanh hoặc khai tử nhân vật này. Nhưng độc giả vẫn không bằng lòng, đòi hỏi tác giả phải làm cho Sherlock Holmes sống lại. Thế là Conan Doyle đành phải nhượng bộ, cho Sherlock Holmes hồi sinh lại, tiếp tục cái nghề thám tử trên các trang tiểu thuyết sau này của tác giả! Sherlock Holmes đã trở thành một nhân vật huyền thoại và nổi tiếng đến mức, ngày nay, tại số 211 bis phố Baker của thủ đô Luân Đôn có một ngôi nhà dành riêng cho Sherlock Holmes. Sherlock Holmes này được làm bằng sáp và hoàn toàn giống “y như thật” dù rằng cái thật này là cái thật trong tiểu thuyết! Thật ra, người khai sinh ra tiểu thuyết hình sự không phải là Conan Doyle mà chính là Edgar Allan Poe (1809-1849), tác giả của truyện Vụ ám sát ở phố Morgue đăng trong một tạp chí Mỹ vào tháng 4 năm 1841. Truyện này được xem là truyện hình sự đầu tiên của thế giới, với nhân vật chính là M. Dupin, người có khả năng suy luận phi thường, khám phá ra các vụ sát nhân kỳ lạ (do con khỉ có dạng người gây ra) bằng lối suy luận chặt chẽ và hợp với logic của mình. Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của các thể loại tiểu thuyết khoa học viễn tưởng, tiểu thuyết kinh dị, ngày nay, tiểu thuyết hình sự (roman policier), cũng có khi được gọi là tiểu thuyết trinh thám, ngày càng được độc giả ưa chuộng bởi tính chất ly kỳ và hấp dẫn của nó. Tính chất hấp dẫn này càng cao khi có thêm nhiều yếu tố khác được lồng vào trong một câu chuyện hình sự như: võ thuật, ái tình, khoa học và cả… ma quái nữa! Nếu ở Âu châu trong các thế kỷ trước loại tiểu thuyết hiệp sĩ rất thịnh hành thì ngày nay, do tác động của môi trường xã hội ngày càng phức tạp, khi mà tội ác đã trở thành một hệ thống có tính chất toàn cầu, tiểu thuyết hình sự ngày càng trở nên phổ biến, đến mức có người xem đó là một trong những thể loại chính của tiểu thuyết hiện đại. Nhưng, trước hết, thế nào là tiểu thuyết hình sự? Đúng như tên gọi của nó, tiểu thuyết hình sự được xây dựng từ một cốt truyện có hạt nhân trung tâm là một tình thế hình sự hoặc tình thế phạm tội (situation criminelle) xảy ra trong một không gian và thời gian cụ thể, như: giết người, cướp bóc, hoặc một hành vi phạm tội nào đó. Ba “yếu tố” hoặc ba nhân vật cơ bản của một tiểu thuyết hình sự là: kẻ phạm tội, nạn nhân, người điều tra luôn luôn tạo thành các tuyến song hành hoặc đối lập, làm nòng cốt cho một câu chuyện ít nhiều mang tính chất hư cấu. Tính chất hình sự ở đây thường gắn liền với tính chất bí ẩn, và cái tài của người viết tiểu thuyết hình sự là ở chỗ làm thế nào có thể giải đáp các bí ẩn này một cách hợp lý, khoa học và có nghệ thuật. Khác với các thể loại tiểu thuyết khác, ở tiểu thuyết hình sự, chức năng “mua vui” hoặc chức năng giải trí thường nổi bật hơn so với các chức năng khác của văn học như giáo dục, thẩm mỹ, nhận thức. Hay nói cách khác, nếu thực sự tồn tại ba chức năng thẩm mỹ, nhận thức, giáo dục ở tiểu thuyết hình sự thì các chức năng này chỉ có thể được thực hiện thông qua chức năng “mua vui”. Đến với tiểu thuyết hình sự, người đọc không cần biết loại tiểu thuyết này có tác dụng giáo dục hoặc thẩm mỹ gì đối với họ mà chỉ cần biết xem họ có thể “mua vui” được gì từ thể loại tiểu thuyết này, và họ có thể nhập vai với nhân vật chính của tác phẩm hay không (thường là một nhà thám tử có tài), hồi hộp theo dõi dấu vết thủ phạm, thót tim và tức giận khi bị thủ phạm khiêu khích và đánh lừa một cách tinh vi, và cuối cùng thở phào ra một cách nhẹ nhõm khi tóm cổ được thủ phạm hoặc hiểu được nguyên nhân của sự kiện, biến cố. Nghệ thuật của tiểu thuyết hình sự chính là nghệ thuật tạo ra sự hồi hộp (L’art du suspense) và giải tỏa sự hồi hộp này bằng một loạt các thao tác hấp dẫn và hợp lý. Chính vì thế, Van Dine, một trong những tác giả cổ điển của thể loại tiểu thuyết hình sự, đã nói rằng: “Tiểu thuyết hình sự là một trò chơi trí tuệ hấp dẫn hơn cả thể thao”. Nó tạo cho người đọc một cảm giác mạnh, một câu đố đầy bí ẩn mà họ cũng có nhiệm vụ phải giải đáp bằng cách quan sát, lập luận và suy diễn một cách có căn cứ. Đương nhiên, cái trò chơi trí tuệ này cũng có luật chơi (rèlges du jeu) của riêng nó. Van Dine đã xây dựng được hai mươi luật chơi mà một tác phẩm tiểu thuyết hình sự cần phải tuân theo nếu muốn hấp dẫn và lôi cuốn người đọc. Dưới đây là một số nguyên tắc chủ yếu trong luật chơi đó: - Tiểu thuyết hình sự là một trò chơi thể thao trí tuệ. Trong cuộc “thi đua thể thao” này, tác giả phải “đọ sức” với chính độc giả của mình và tác giả chỉ được xem là người thắng cuộc khi người đọc không thể đoán biết trước được kết cục của câu truyện. - Kẻ phạm tội chỉ có thể được phát giác quan hàng loạt các suy luận logic chặt chẽ và có căn cứ khoa học chứ không phải bởi sự ngẫu nhiên hoặc lời thú tội có tính chất tự phát. - Tác giả không được đánh lừa độc giả bằng những thủ pháp “không lương thiện”. - Không có một thứ tội ác nào lại “hoàn hảo” đến mức không thể nào truy tìm thủ phạm được. - Tội ác dù được thực hiện một cách tinh vi như thế nào đi nữa, cuối cùng rồi thủ phạm cũng bị trừng phạt hoặc bởi pháp luật hoặc bởi chính lương tâm hay “luật trời”. Công lý cuối cùng sẽ chiến thắng (nguyên tắc này làm cho cốt truyện hình sự đều kết thúc có hậu). Tất nhiên, không phải bất cứ một tác phẩm tiểu thuyết hình sự nào cũng đều được xây dựng theo đúng những nguyên tắc đã trình bày trên. Đôi khi, để tạo sự bất ngờ hoặc cách tân thể loại, các tác giả có quyền “xâm phạm” các nguyên tắc nói trên, làm cho tiểu thuyết hình sự có nhiều biến thể rất phong phú. Hiện nay, số lượng tiểu thuyết hình sự (bao gồm luôn cả thể loại trinh thám và tình báo) được “sản xuất” ra ngày càng nhiều, lôi cuốn sự say mê của hàng chục triệu độc giả ở khắp nơi trên thế giới. Có thể phân chia tiểu thuyết hình sự thành ba tiểu loại khác nhau như sau: 1. Tiểu thuyết hình sự điều tra: Đây là thể loại cổ điển nhất của tiểu thuyết hình sự, trong đó, các thám tử của nhà nước hoặc tư nhân, bằng các nghiệp vụ chuyên môn sắc bén, căn cứ vào các dấu vết có vẻ như tầm thường và vô nghĩa (một mẩu tàn thuốc, một cái nút áo rơi rớt trên sàn nhà…), lần lần truy tìm được thủ phạm. Loại tiểu thuyết điều tra này là sở trường của các nhà văn Anh, với các bậc thầy như: Edgar Allan Poe, A. Conan Doyle, Agatha Christie (là tác giả đã tạo ra viên thanh tra nổi tiếng Hercule Poirot). Ở Mỹ, có thể kể các tác giả như S. S. Van Dine và Rex Stout… 2. Tiểu thuyết hình sự hành động: Mặc dù thể loại này được “phát minh” bởi một nhà văn Anh là Edgar Wallace (1875-1932), nói chung, loại tiểu thuyết hình sự hành động này mang đậm màu sắc Mỹ, ở đó, các tình tiết của câu truyện được xây dựng với cường độ mạnh. Các “ca hình sự” đều được giải quyết bằng các hành động trực tiếp, mạnh mẽ hơn là bằng những suy luận có tính chất logic chặt chẽ. Nhân vật chính trong truyện thường thuộc loại vai u thịt bắp, uống rượu như uống nước lã, có lối nói ngắn gọn và đầy tiếng lóng của giới anh chị, sẵn sàng lao vào các cuộc phiêu lưu đầy nguy hiểm, giải quyết mục tiêu một cách nhanh chóng bằng một tiếng nổ “đoành” giống như những “cow-boy” của miền Viễn Tây thuở nào. Đó là những tác giả như Dashiell Hammett, Raymond Chandler, Peter Cheyney, cha đẻ của hai nhà trinh thám nổi tiếng là Lenny Caution, và Slim Callaghan… 3. Tiểu thuyết hình sự tâm lý: Với thể loại này, các nhân vật và cốt truyện được xây dựng một cách có nghệ thuật hơn, tâm lý của nhân vật và ý nghĩa của các hành động được phân tích một cách tỉ mỉ và có chiều sâu hơn so với hai tiểu loại hình sự nói trên. Ranh giới giữa Thiện và Ác đôi khi không được vạch ra một cách quá ư rạch ròi như trong các thể loại khác. Nhân vật phản diện được xây dựng một cách tinh tế hơn và cũng không phải là hoàn toàn xấu. Tính chất nội tâm được xem là nền tảng trên đó xảy ra các sự kiện và biến cố. Tiêu biểu cho các tác giả “hình sự tâm lý” này là nhà văn Anh Gilbert Keith Chesterton (1874-1936), và một nhà văn Pháp nổi tiếng khác là Georges Simenon (sinh năm 1903 ở Bỉ). G. K. Chesterton đã tạo ra nhân vật Father Brown, một cha xứ ở thôn quê có khả năng giải quyết các vụ việc rắc rối và đưa dắt các “con chiên lầm lạc” trở về với lẽ đạo. Còn G. Simenon chính là tác giả của viên thanh tra nổi tiếng Maigret, một nhân vật cục mịch, tốt bụng và có khả năng nhận xét sắc sảo. Ở Việt Nam, có lẽ Phạm Cao Củng là người viết tiểu thuyết hình sự đầu tiên với tác phẩm Vết tay trên trần xuất bản vào năm 1936. Ông cũng là tác giả của nhiều truyện hình sự khác như Chiếc tất nhuộm bùn, Kỳ Phát giết người, Đám cưới Kỳ Phát, Nhà sư thọt… Nhân vật chính trong các tiểu thuyết hình sự của Phạm Cao Củng là Kỳ Phát, một con người vừa thâm trầm vừa gan dạ, có biệt tài khám phá ra những vụ trộm cướp và án mạng ly kỳ. Mặc dù cốt truyện được xây dựng khá đơn giản và có một số chi tiết gượng ép, giả tạo, song nhìn chung, Phạm Cao Củng xứng đáng là một nhà văn đi tiên phong trong lãnh vực tiểu thuyết trinh thám ở Việt Nam. Đồng thời với Phạm Cao Củng có nhiều nhà văn khác cũng viết tiểu thuyết trinh thám như Thế Lữ (với Lê Phong phóng viên, Mai Hương và Lê Phong), Bùi Huy Phồn (với Gan dạ đàn bà, Tờ di chúc, Hai giờ đêm nay…), nhưng không thành công bằng Phạm Cao Củng. Hiện nay, ở nước ta, phong trào viết và đọc tiểu thuyết hình sự vẫn còn hoạt động mạnh. Số lượng tác phẩm được xuất bản khá nhiều nhưng tiếc rằng rất ít tác phẩm có giá trị cao về mặt nghệ thuật và tư tưởng. Đến đây, có một vấn đề đặt ra là, có nên xem tiểu thuyết hình sự là một tác phẩm văn học hay không, và đâu là tính chất văn học của thể loại này? Có rất nhiều ý kiến cho rằng tiểu thuyết hình sự chỉ là một thể loại có tính chất giải trí đơn thuần, đọc xong rồi bỏ, chứ hoàn toàn không có giá trị gì về mặt văn học. Ý kiến trên không phải là không xác đáng khi ta thấy có quá nhiều tiểu thuyết hình sự được viết ra một cách hết sức cẩu thả và rẻ tiền và hoàn toàn có tính chất thương mãi đơn thuần. Ngay cả Edgar Wallace, một trong những vị tổ của tiểu thuyết hình sự, cũng phải thừa nhận rằng: “Tôi không viết tiểu thuyết hình sự cho các thể hệ tương lai mà viết để tiêu thụ ngay trong ngày mai”. Nhưng nói như vậy không có nghĩa là trong khu rừng tiểu thuyết hình sự không thể tìm ra những tác phẩm văn học chân chính. Trường hợp các tác phẩm nổi tiếng của những nhà văn “trinh thám” lừng danh như A. Conan Doyle, E. A. Poe, G. Simenon, A. Christie là những thí dụ điển hình. Các tác phẩm của G. Simenon không những được quần chúng độc giả say mê theo dõi mà ngay cả các nhà phê bình văn học vốn khó tính cũng đánh giá cao. Ngày nay, các hình tượng văn học nổi tiếng như Sherlock Holmes, Arsène Lupin, Maigret, J. Bond đã trở nên phổ biến ở khắp nơi trên thế giới. Vấn đề không phải là ở chỗ thể loại tiểu thuyết hình sự có tính chất văn học hay không mà vấn đề là ở chỗ các nhà văn có đủ tài năng để thể hiện một cách có nghệ thuật các yếu tố hình sự trong tiểu thuyết của mình hay không. Ở đây không có vấn đề thể loại “quý phái” hay “bình dân”, thể loại bậc cao hay bậc thấp mà chỉ có vấn đề sử dụng thể loại và các phương tiện văn học khác như thế nào để đạt đến mục đích nghệ thuật và tư tưởng của nhà văn. Vả lại, tiểu thuyết hình sự cũng có mặt mạnh riêng của nó là có nhiều khả năng để miêu tả một cách sâu sắc và trung thực bản chất con người cùng động cơ hành động của nó. Đối tượng miêu tả của tiểu thuyết hình sự không phải chỉ là những hoạt động điều tra, trinh thám có tính chất hấp dẫn mà còn ở ngay chính con người với tất cả các khía cạnh phức tạp của nó. Đối với các nhà văn lão luyện (như trường hợp của G. Simenon chẳng hạn), các yếu tố hình sự chỉ là một cái “cớ nghệ thuật” để tác giả dễ đi sâu vào các vấn đề tâm lý, tư tưởng, xã hội, những vấn đề liên quan đến số phận con người trong những hoàn cảnh khác nhau, và những vấn đề đạo đức cá nhân hoặc đạo đức xã hội. Phải nhận rằng, trong ba loại tiểu thuyết hình sự như đã trình bày trên, loại tiểu thuyết hình sự tâm lý có nhiều đặc trưng văn học hơn cả. Sự khủng hoảng đạo đức có tính chất toàn cầu ngày nay, sự “bùng nổ tội ác” với vô số các kiểu loại, dáng vẻ khác nhau hết sức phức tạp và nguy hiểm đang là một mảnh đất màu mỡ cho sự phát triển phong phú của thể loại tiểu thuyết hình sự. Điều băn khoăn lớn nhất của các nhà viết tiểu thuyết hình sự không phải là ở chỗ miêu tả cái gì mà là phản ánh như thế nào để đạt đến hiệu quả nghệ thuật cao nhất… NGỌC THANH (Theo Tout l’Univers và một số tài liệu khác) ĐÀO MINH DIỆU XUÂN st THANH THẢN
VỀ QUÊ Viết thay hai người bạn già của tác giả, luôn nghĩ về cái chết nơi quê người. Chim vẫn là chim, Hoa vẫn hoa, Lại qua trước mắt, Chẳng bận lòng ta. Hải Âu thiền sư Lợi dụng lúc thằng Khoát khóa cửa xong còn dềnh dàng đốt thuốc hút, Già Tân đưa tay mơn mơn mấy bông hồng mịn màu đỏ thẫm bên hè nhà, rồi mới chịu quyến luyến nhẹ bước. Tới góc đường Già dừng lại, đưa tay lên trời, ưỡn ngực ra, hít thở chút không khí trong lành buổi sáng, vừa chờ đợi người bạn hàng xóm vừa tránh được khói thuốc khó chịu của nó thả ra. “Cái thằng! Làm chuyện ruồi bu!” Già Tân lẩm bẩm. Đã nói là đi cho thân thể khỏe mạnh chưa gì đã hít vô buồng phổi chất độc thán khí. Nhưng thôi, mỗi người có thói quen xấu tốt. Họ đã biết sẽ phải trả giá cho thói quen xấu mà vẫn làm, mình câm miệng là thượng sách. Rồi Già lại cười, “Nhưng mà nó đương tạo thói quen tốt đây, sáng nào cũng chịu khó đi bộ với mình từ khi lờ mờ đất. Phải khen nó chớ! Thằng Khoát đi mau tới, húng hắng ho, than như thấy mình có lỗi: - Cả tháng nay cứ xù xụ hoài, chán thấy ông bà ông vải! - Không sao, chịu khó đi bộ như kiểu nầy thì ho lao cũng chạy trốn có cờ, huống chi là ho gió, ho phong. Chuyện nhỏ! Già Tân khuyến khích bạn. Hai người đi một lát Già Tân mới nói thêm: - Tao thấy tuần nầy mầy ít ho hơn trước, chắc là ít hút thuốc phải không? Càng ít hút thì càng ít ho đó cháu. Cứ tin bác đi! Thằng Khoát cười gượng gạo: - Chắc là vậy! Bớt chút nào hay chút nấy. Lúc trước theo phương sách dân chơi xả láng sáng về sớm: Buồn thì hút nhiều. Vui thì hút vừa vừa. Không vui không buồn thì hút lai rai. Bây giờ đi bộ với bác thì hút ít ít. Nói rồi như thấy câu nói của mình ý nhị, nó bật cười lớn khiến vài người dân địa phương đi bộ phía trước quay lại ngó. - Tao mà hút thuốc như mầy thì chết lâu rồi. Già tim phổi yếu chứ không như tụi bây phổi sắt tim đồng… Ờ mà nói tới chuyện chết chóc tao mới nhớ là tụi nó từ chối bán bảo hiểm nhân thọ cho tao, lý do là tao đương cao máu lại thêm cholesterol quá mức giới hạn chút đỉnh, chúng nó sợ tao theo ông bà sớm, lỗ vốn. Tụi tư bản thiệt tình! Tính đủ mọi cách móc tiền thiên hạ. Cái nào chắc ăn lắm thì họ mới làm. Thằng Khoát mải lo suy nghĩ gì đó không nghe hết ý của người đồng hành nên làm thinh. Buồn tình Già Tân đổi đề tài: - Mầy thất nghiệp mà giữ căn apartment đó làm gì? Dọn qua đây ở chung phòng với tao cho đỡ tốn, tụi tao có mầy vô thì bớt được chút đỉnh tiền phòng. Chia bốn đỡ hơn chia ba! Có tiếng cười khịt khịt nho nhỏ trong cổ họng như cố nín: - Tui vô nữa thì vui, nhưng mà con Huê đâu có chịu. Cùng trang lứa ở chung căn apartment nhỏ xí, đi ra đi vô gặp mặt hoài nó mắc cở. Chung đụng với người già như bác thì không sao. Chung đụng với tui nó sợ tôi quậy. Lửa gần rơm bác biết đó, lâu ngày cũng bén. Lúc đó khổ cho nó, mà cũng khổ cho tui… Già Tân không chịu cái lý luận đó: - Nói vậy thì tao với bà Tám chắc là lửa-rơm vì tụi tao cùng trang lứa? Thằng Khoát làm thinh. Nó không muốn làm vấn đề trầm trọng hơn, cãi lý qua lại không phải là điều thoải mái cho bắt đầu một ngày. Hai người tới bờ hồ của công viên. Theo thói quen thường nhật họ men theo bờ hồ. Bầy ngỗng như lướt trên mặt nước, tíu tít với nhau. Một cặp ngỗng vươn cổ ra, hai cái mỏ luôn luôn xoắn xuýt. - Bác lúc còn trẻ chắc cũng có nhiều cô? - Nhóc! - Bây giờ, xin lỗi bác nha, tui hỏi thiệt là lòng bác có động khi đứng trước một dung nhan? - Mầy muốn nói con Huê? Trời sanh đàn bà là để thương yêu con cái không bờ bến. Trời tạo đàn ông là để chiêm ngưỡng dung nhan đàn bà. Nhưng phải phân biệt chiêm ngưỡng, thưởng ngoạn khác với sự chiếm hữu, thưởng thức. Bước qua lằn ranh phân biệt thì thành ra kẻ tội đồ. Tới tuổi nào đó thì rồi mầy sẽ thấy, người ta quý trọng con người của mình, không muốn làm tội đồ. - Vậy nếu không bị kết làm tội đồ, bác có thể bước qua giới hạn? - Cái thằng hỏi đố hoài! Tao chưa bao giờ tự hỏi về chuyện đó. Tao cho rằng dung nhan, nói rõ hơn là thịt da, chỉ là cái áo đàn bà mặc cho bộ xương biết đi của họ. Họ điểm tô bộ áo để hấp dẫn người ta. Cứ nghĩ họ là bộ xương theo hình chụp bằng quang tuyến, với thế giới trong suốt đó tất cả dung nhan đều hiện thành hình ảnh chân thật. Và tất cả những dung nhan cổ kim, đông tây đều giống nhau, là những bộ xương không hơn không kém... Già Tân ngừng nói, ngó ngang qua người đối thoại. Một lúc hơi lâu già mới tiếp: - Nghĩ như vậy mình thiệt là dễ ứng xử. Gươm lạc giữa rừng hoa muôn màu, có nhiều cơ hội, lòng vẫn không động vì thấy rằng không có cái gọi là hoa. Thằng Khoát cúi xuống lượm một miếng đá mỏng, tạt thác lác trên mặt hồ. Miếng đá bay trên mặt nước, nhảy phóng ba lần, tạo những làn sóng hình tròn lớn dần ra, giao nhau, rồi tan biến. - Bác nói đúng. Dung nhan rồi sẽ như những vòng tròn sóng đó, hiện ra vài sát-na rồi mất đi. Nếu nắm bắt được, cũng không bao lâu sẽ tan huyễn. Càng cố bắt những vòng sóng xa mình càng tự tạo những thất vọng vô lòng, không bao giờ được tĩnh lặng an nhiên. Già Tân bật cười khan: - Hai bác cháu mình trong túi vắng hoe mà mới sớm bửng đã triết lý ba xu. Thằng Khoát chưa chịu chấm dứt: - Mà bác già rồi, có sợ chết không vậy? Già Tân trầm ngâm: - Chết không đáng sợ vì chẳng ai có kinh nghiệm chết là gì cả để nói cho mình biết. Chính lòng sợ chết mới đáng sợ, nó làm cho người ta mất ăn mất ngủ vì ngại rằng rồi đây mình sẽ không có mặt. Già trẻ gì cái chết cũng có thể đến bất cứ lúc nào. Điều khác biệt là người già chuẩn bị lòng và đón nhận cái chết như sự đương nhiên còn người trẻ thì không chuẩn bị, tới đâu tới, không đón nhận mà còn cho đó là một vận hành vô lý của tạo hóa. Phải coi muôn kiếp con người như những mắt xích. Chết là hoàn thành mắt xích nầy để tạo nên mắt xích khác, nối tiếp vô tận trong thời gian. Tao nói rồi chú mầy sẽ thấy! Thằng Khoát không hiểu lắm nên chỉ ậm ờ cho qua, mắt bâng quơ ngó lên hàng cây xa xa phía bên kia bờ hồ có mấy con quạ đen đậu chơi vơi trên ngọn, ơ hờ nhìn cảnh đời. Nó kéo câu chuyện về thực tế: - Tui không sợ chết, tui chỉ sợ hết hạn lãnh tiền thất nghiệp mà vẫn chưa kiếm được việc thì mất công lắm lắm. Gia hạn sáu tháng rồi. - Tao cũng vậy, tao đâu sợ cái chết, chỉ sợ khi chết mà không có đồng bạc dính túi, làm nặng gánh cho xã hội, gây hệ lụy cho người chung quanh. Già Tân một sáng nọ không dậy nữa. Thấy hơi trưa bà Tám rụt rè gõ cửa ông bạn share phòng. Cửa chỉ được khép hờ, không có tiếng trả lời, đợi một lúc lâu, bà đẩy nhẹ vô, miệng kêu: - Ông Tân, ông Tân bịnh hay sao mà không dậy? Trưa rồi! Già Tân chẳng ừ hử gì hết. Không khí trong phòng lành lạnh một cách kỳ cục. Bà lấy hết can đảm đến gần. Người nằm đó không cử động, hơi băng giá như được tỏa ra. Bà Tám chạy ra khỏi phòng như bay, hớt hơ hớt hải gọi điện thoại cho Huê. Chừng một giờ đồng hồ, sau ba người bạn thân nhứt của Già Tân đã tề tựu trong phòng khách bàn nhau chuyện chôn cất Già. Thằng Khoát đem ra cho mọi người đọc một bức thơ để trên bàn ngủ của Già Tân, đề ngày đâu chừng mấy năm trước, trong đó có đoạn: “…Xin liên lạc với Quỹ Tương Tế ở đường Santa Clara để nhận lãnh số tiền của tôi mà lo chuyện chung sự. Cố đơn giản thiệt là đơn giản. Làm sao cho còn dư một vài ngàn đưa cho Cha xứ để giúp một hai gia đình neo đơn… Cũng xin nhớ tưới giùm mấy cụm hồng của tôi... Ý nguyện tôi được như vậy sự về quê của tôi mới thanh thản”. Hai người đàn bà không cật ruột với người chết bỗng sụt sùi ngang khiến thằng Khoát phải ngó đi chỗ khác, nói giọng cải lương: - Thôi xin đừng bi lụy, bác Tân ra đi như vậy là có phước lắm.....rồi. Nó kéo dài chữ lắm rồi xuống vọng cổ chữ rồi, nghe vừa buồn vừa tức cười. Hít một hơi dài nó tiếp: - Hình hài bác nằm đây thanh thản, không đau đớn vật vã, không kéo dài làm khổ người thân... Con cái biệt tăm nhưng bác đã có sự sắp xếp trước cho mình, dành dụm tiền tự lo chung sự lại còn dư chút đỉnh cho người nghèo. Lòng bác thiệt bao la… Huê gạt nước mắt, đánh mạnh vô cánh tay của thằng Khoát: - Thôi đi ông quỷ chùa! Ông vô vọng cổ hoài lang thì mùi mẫn mà dòm ông mặt đen thùi tui oải quá. Lúc nào cũng bông lơn ba trợn. Người ta chết mà mình xuống vọng cổ cái nỗi gì. Thằng Khoát phủi phủi rồi vuốt vuốt chỗ tay bị đánh: - Tui diễn tả như vậy vì tui hiểu sự thanh thản ra đi của bác Tân. Kết thúc một mắt xích đời nầy để mở đầu cho một mắt xích đời kế tiếp mà không di lụy cho ai. Nó vừa nói vừa ngó cặp môi đỏ mơn mởn, đôi má trắng hồng mịn màng của Huê và nhớ tới câu nói của Già Tân hồi nào… Nó đứng dậy lục lọi tìm mấy cây nhang, tới trước xác Già Tân đốt, vái: - Cám ơn bài học của Bác, thiệt là ý nghĩa, nhưng tui chưa thể áp dụng được Bác ơi. Chưa tới tuổi để ngộ ra cái triết lý của Bác, tui thấy nó bằng thịt bằng da chứ chưa thấy được bằng bộ xương X-quang biết đi như Bác nói. Hai người đàn bà ngó thằng Khoát lạ lùng, không hiểu nó nói gì, nhưng chắc Già Tân biết, gương mặt người chết bỗng như thanh thản toại nguyện, miệng hơi hé ra nụ cười an nhiên. Ngoài trước cửa, cụm hồng nhung Già Tân từng chắt chiu, ngả nghiêng qua lại như đang luân vũ với gió sớm. Victorville, CA Sept. 11, 2010 Nguyễn Văn Sâm CÔ GÁI Ở ARLES (L'ARLÉSIENNE) của Alphonse Daudet
Tên của nó là Dan. Đó là một gã nông dân hai mươi tuổi đời, hiền lành như con gái, rắn rỏi và vui tính. Bởi vì nó rất đẹp trai, nên phụ nữ thường hay dòm ngó đến; nhưng mà nó chỉ có một hình ảnh duy nhất ở trong đầu. Đó là con bé Arlésienne, lòe loẹt và diêm dúa, mà nó có lần gặp gỡ tại Lice d'Arles. Ở nông trại, lần đầu tiên, người ta nhận thấy là không hài lòng về mối liên hệ nầy. Một đứa con gái quá lẳng lơ, mà cha mẹ nó lại không phải là người trong vùng. Nhưng mà thằng Dan thì tha thiết muốn con nhỏ Arlésienne cho bằng được!... Nó bảo: - Tôi chết mất, nếu người ta không gả nàng cho tôi! Đành phải chiều theo ý nó thôi!... Người ta ấn định việc cưới gả sau mùa vụ!... Như vậy đó, mà vào một chiều Chúa Nhật, trong sân trại, một bữa tiệc sắp sửa chấm dứt..., cũng gần như là một tiệc cưới, cô dâu không tham dự, nhưng mà người ta uống rượu chúc mừng hạnh phúc cho liên hồi... Một người đàn ông xuất hiện nơi cửa cổng, và với một giọng nói cảm động, xin cho được nói chuyện với một mình với ông chủ Estève mà thôi. Ông Estève đứng lên và đi ra đường. Người đàn ông nói: - Thưa ông chủ, ông sắp sửa cưới cho con trai ông một con nhãi ranh. Cô ta là tình nhân của tôi trong hai năm qua. Đây là những lá thơ để chứng tỏ rằng tôi đã đến trước. Cha mẹ cô ấy đều biết, và đã hứa gả cho tôi; nhưng mà, từ khi con trai ông đeo đuổi thì cha mẹ cô ấy và cả cô ấy không màng gì đến tôi nữa!... Tuy vậy, tôi tin rằng, với những điều kiện nầy, thì nàng ta không thể là vợ của một ai khác được! Sau khi xem những lá thơ xong, ông Estève nói: - Vâng, đúng rồi. Chúng ta hãy vào uống một cốc rượu đi!... - Cám ơn ông, tôi đau khổ hơn là đói khát! Người đàn ông trả lời, rồi ra đi. Người cha lặng lẽ trở vào, ngồi lại bàn ăn, và buổi tiệc kết thúc một cách vui vẻ... Chiều hôm đó, ông chủ Estève và đứa con trai cùng nhau ra thăm đồng. Họ nói chuyện rất lâu... Khi họ trở về, người mẹ đang đứng đợi chờ; ông Estève vừa nói vừa đẩy đứa con trai tới: - Nầy bà! bà hãy ôm con đi, nó đang đau khổ! Sau đó, thằng Dan không nói năng gì đến con nhỏ Arlésienne nữa. Nhưng mà, nó vẫn cứ thương và còn thương hơn bao giờ hết, từ khi người ta đã trao trả con bé về tay kẻ khác. Chỉ duy nó quá tự hào mà không phản ứng gì. Điều đó đã làm hại cho nó!... Cái thằng tội nghiệp!... Đôi khi nó ngồi một mình trong góc xó nào đó, cả ngày trời, không nhúc nhích. Có lần, nó đã vào việc, làm đất một mình trong ngày, bằng mười công thợ vậy!... Chiều đến, nó mon men theo con đường d'Arles mà bước tới trước; nó đi mãi, đi mãi cho đến khi nó thấy cái lầu chuông của thị trấn hiện lên ở phía tây; lúc đó nó mới chịu trở về. Không bao giờ nó đi xa hơn!... Cứ nhìn thấy nó như vậy, luôn luôn buồn bã và lẻ loi, người trong nông trại cũng không biết phải làm gì hơn. Người ta e ngại cho một điều gì đó chẳng lành!... Một lần nọ, ở tại bàn ăn, người mẹ rơi lệ mà nói rằng: - Nầy Dan, nếu con vẫn muốn, thì mẹ sẽ cưới nó cho con!... Người cha hổ ngươi, nhìn xuống! Thằng Dan ra dấu không cần, rồi bỏ đi!... Bắt đầu từ ngày đó, nó thay đổi phong cách sống. Nó giả bộ vui vẻ để làm an lòng cha mẹ nó. Người ta thấy nó trở lại sàn khiêu vũ, vào các quán nước, và đến các sân vui chơi. Đến ngày hội Fonvieille, chính nó đã điều khiển màn múa hát. Người cha thì bảo: - Nó đã bình phục! Còn bà mẹ thì luôn luôn lo lắng và theo dõi đứa con trai hơn bao giờ hết... Thằng Dan ngủ chung với thằng Cadet ở cạnh bên phòng nuôi tằm. Bà mẹ đem đặt cái giường kế bên chúng nó. Những con tằm cũng cần sự săn sóc của bà trong đêm tối... Ngày lễ Thánh Eloi đến ...Đó là vị Thánh Tổ của nhà nông ... Một sự vui mừng trọng đại trong nông trại... Bánh trái cho mọi người, rượu nho thì đầy ấp. Kế đến là, pháo nổ rền dưới đất, pháo bông soi sáng bầu trời, những lồng đèn màu thì treo đầy trên các nhánh cây!... Vạn tuế Thánh Eloi!... Người ta múa hát như điên... Thằng Cadet thì làm cháy sém luôn cả quần áo mới!... Chính cả thằng Dan cũng có vẻ mãn nguyện. Nó toan lôi kéo mẹ nó vào sàn khiêu vũ; người mẹ tội nghiệp mừng ra nước mắt!... Đến khuya, mọi người đều về ngủ. Người ta cần phải ngủ!... Thằng Dan thì không ngủ!... Thằng Cadet kể lại, từ dạo ấy, mỗi đêm nó đều thao thức mà than khóc!... Ôi !, nó bị giầy vò quá đỗi rồi!... Hôm sau, lúc mới tinh sương, bà mẹ nghe có ai đó chạy ngang qua phòng... Bà có linh cảm: - Con đó hả, Dan? Thằng Dan không trả lời, nó đã đến cầu thang!... Mau mau! Bà mẹ choàng dậy hỏi : - Dan, con đi đâu?! Nó leo lên thang gác. Bà mẹ lên theo! - Trời ơi! Con tôi!... Nó đóng cửa lại, và gài chốt cửa. - Dan, con cưng ơi! Hãy trả lời cho mẹ đi. Con định làm gì vậy? Mày mò với bàn tay già nua run rẩy, bà mẹ tìm cái chốt!... Một cửa sổ mở ra!... Một tiếng động của thân người rơi xuống nền gạch!... Và thế là hết!... Dịch Thuật: Thanh Châu
Bài học sau cùng Một nhà hiền triết dẫn một toán học trò của mình đi ngao du khắp chốn trên đời. Trong vòng 10 năm trời thầy trò họ theo nhau đi hầu hết các nước, gặp gỡ hầu như tất cả những người có học vấn. Lúc này, thầy trò họ đã trở về, người nào người nấy kinh luân đầy một bụng, kinh nghiệm đầy mình. Trước khi vào thành, nhà hiền triết ngồi nghỉ trên một bãi cỏ ở ngoại thành, nói với học trò của mình: - Mười năm ngao du, các con đều đã trở thành kẻ sĩ học rộng hiểu nhiều, lúc này đây, sự học sắp kết thúc ta sẽ giảng cho các con bài học sau cùng. Các học trò kéo đến ngồi vây quanh nhà hiền triết. Một lát sau, nhà hiền triết hỏi: - Hiện chúng ta đang ngồi ở đâu? Các học trò đồng thanh trả lời rằng đang ngồi trên bãi cỏ hoang ở bên ngoài thành. Nhà hiền triết lại hỏi: - Trên bãi cỏ hoang này có cây gì mọc lên? Học trò đồng thanh đáp: - Trên bãi hoang mọc toàn cỏ dại ạ! Nhà hiền triết nói: - Đúng! Trên bãi cỏ hoang này mọc toàn cỏ dại. Bây giờ ta muốn biết bằng cách gì để trừ hết thứ cỏ dại này đi? Các học trò nhìn nhau hết sức ngạc nhiên, họ thực sự không ngờ rằng, nhà hiền triết xưa nay vốn chỉ đi sâu nghiên cứu những điều huyền bí của cuộc sống, vậy mà trong bài học sau cùng này lại hỏi một vấn đề giản đơn như thế. Một người trong toán học trò lên tiếng trước: - Dạ thưa thầy, chỉ cần có một cái xẻng thôi là xong hết ạ! Nhà hiền triết khe khẽ gật đầu. Một người học trò khác như phát hiện ra điều gì mới, nói tiếp: - Dạ thưa thầy, đốt lửa để diệt cỏ cũng là một cách rất hay đấy ạ! Nhà hiền triết im lặng mỉm cười, ra hiệu gọi một người khác. Người học trò thứ ba nói: - Thưa thầy, rắc vôi lên cũng có thể diệt được hết tất cả các giống cỏ đấy ạ! Tiếp ngay sau đó là người học trò thứ tư anh ta nói: - Diệt cỏ phải trừ tận gốc, chỉ cần nhổ được rễ lớn là xong hết! Các học trò đã lần lượt nói hết suy nghĩ của mình, nhà hiền triết đứng dậy, nói: - Bài học hôm nay đến đây là hết, các con hãy về đi, rồi theo cách mình nghĩ, mỗi người hãy diệt cỏ ở một mảnh đất trên bãi hoang này. Nếu không diệt được cỏ, một năm sau quay lại đây ta nói chuyện sau. Một năm sau, mọi người quay trở lại, có điều khác là bãi cỏ năm trước không còn đầy cỏ dại nữa, mà đã trở thành cánh đồng ngô lúa xanh tươi. Toán học trò lại ngồi quây quần gần ruộng lúa, chờ nhà hiền triết tới nhưng chờ mãi vẫn không thấy ông tới. Mấy năm sau nhà hiền triết ấy qua đời, những người học trò cũ của ông đã chỉnh lý lại những tài liệu, luận thuyết mà ông nêu ra, thấy ở một chương cuối, ông đã tự ghi thêm vào một câu: "Muốn diệt hết cỏ dại ở bãi hoang, chỉ có một cách hay nhất, đó là hãy trồng cấy mùa màng lên đấy. Cũng như vậy, muốn để linh hồn không phải buồn lo tản mạn, thì cách duy nhất là hãy chiếm cứ nó bằng những đức tính tốt". Lời bình Đây là một câu chuyện giàu ý nghĩa. Nó cung cấp cho mỗi chúng ta một bài học lớn, đó là: Những ai muốn đạt tới một tương lai tốt đẹp, với một kết cục hoàn toàn theo ý muốn thì cách hiệu quả nhất là bạn hãy từng bước dành tối đa thời gian quan tâm và làm những điều tốt, việc tốt và rèn luyện những đức tính tốt. Càng quan tâm thực sự và đặt mức độ ưu tiên để thực hiện các điều tốt,việc tốt; tránh xa những điều xấu xa, thói quen xấu thì kết quả bạn mong đợi sẽ càng nhanh chóng đạt được. Đó là luật nhân quả không loại trừ một ai trong chúng ta: Nếu gieo thành thật bạn sẽ gặt lòng tin Nếu gieo lòng tốt bạn sẽ gặt thân thiện Nếu gieo khiêm tốn bạn sẽ gặt cao thượng Nếu gieo kiên nhẫn bạn sẽ gặt chiến thắng Nếu gieo cân nhắc bạn sẽ gặt hòa thuận Nếu gieo chăm chỉ bạn sẽ gặt thành công Nếu gieo tha thứ bạn sẽ gặt hòa giải Nếu gieo cởi mở bạn sẽ gặt thân mật Nếu gieo chịu đựng bạn sẽ gặt cộng tác Nếu gieo niềm tin bạn sẽ gặt phép màu Nhưng: Nếu gieo dối trá bạn sẽ gặt ngờ vực Nếu gieo ích kỷ bạn sẽ gặt cô đơn Nếu gieo kiêu hãnh bạn sẽ gặt hủy diệt Nếu gieo đố kị bạn sẽ gặt phiền muộn Nếu gieo lười biếng bạn sẽ gặt mụ mẫm Nếu gieo đắng cay bạn sẽ gặt cô lập Nếu gieo tham lam bạn sẽ gặt tổn hại Nếu gieo tầm phào bạn sẽ gặt kẻ thù Nếu gieo lo lắng bạn sẽ gặt lo âu Nếu gieo tội lỗi bạn sẽ gặt tội lỗi Vậy thì, hãy cẩn thận vì những gì bạn gieo HÔM NAY, nó sẽ QUYẾT ĐỊNH những gì bạn gặt vào NGÀY MAI. Xin mượn lời Kinh Hòa Bình của Thánh Phanxicô Assisi mà những người Công Giáo thường hát trong những buổi cầu nguyện để thay cho lời kết: Lạy Chúa từ nhân, Xin cho con biết mến yêu và phụng sự Chúa trong mọi người. Lạy Chúa, Xin hãy dùng con như khí cụ bình an của Chúa. Để con đem yêu thương vào nơi oán thù, Đem thứ tha vào nơi lăng nhục, Đem an hòa vào nơi tranh chấp, Đem chân lý vào chốn lỗi lầm. Để con đem tin kính vào nơi nghi nan, Chiếu trông cậy vào nơi thất vọng. Để con dọi ánh sáng vào nơi tối tăm, Đem niềm vui đến chốn u sầu. Lạy Chúa xin hãy dạy con: Tìm an ủi người hơn được người ủi an, Tìm hiểu biết người hơn được người hiểu biết, Tìm yêu mến người hơn được người mến yêu. Vì chính khi hiến thân là khi được nhận lãnh, Chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân. Vì chính khi thứ tha là khi được tha thứ, Chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời. Ôi Thần Linh thánh ái xin mở rộng lòng con, Xin thương ban xuống những ai lòng đầy thiện chí: ƠN AN BÌNH.
Hoàng Chúc st
10 cách tìm niềm vui trong cuộc sống
Cuộc sống quá ngắn ngủi và quý giá. Hãy làm theo 10 cách sau để giảm bớt nỗi lo lắng và tăng cường niềm vui, tiếng cười trong cuộc đời. 1. Mỗi ngày làm một thứ gì đó khẳng định lại vẻ đẹp và niềm vui cuộc sống . Cho dù là đi dạo, làm vườn, ngồi chơi với trẻ em trong công viên, thưởng thức âm nhạc yêu thích, hoặc chỉ ngồi ngắm hoa trong vườn, hãy tự cho phép mình nhớ lại những gì đẹp đẽ quanh ta. 2. Làm điều gì đó tích cực. Hiến máu. Ủng hộ từ thiện. Làm tình nguyện viên tại địa phương. Hành động tự nguyện của bạn sẽ giúp xây dựng một cộng đồng mạnh mẽ hơn, từ đó giúp ích cho tất cả mọi người. 3. Tắt bản tin truyền hình và đài phát thanh . Thường xuyên lắng nghe tin tức sẽ tạo ra nỗi lo lắng, sợ hãi và nổi giận. Loại trừ suy nghĩ tiêu cực bằng cách xem bộ phim yêu thích, rủ cả gia đình ra ngoài vui chơi hoặc làm điều gì đó khẳng định giá trị cuộc sống. 4. Tìm hiểu hàng xóm . Ra khỏi nhà và gặp gỡ những người bạn chưa thực sự quen biết. Xây dựng tình bằng hữu thiết tha sẽ giúp bạn an toàn hơn trong cộng đồng những người sống quanh ta. Nói chuyện cũng giúp bạn giảm bớt lo lắng và cảm thấy tốt đẹp hơn về cuộc sống. 5. Cười vang. Cười là một trong những cách tốt nhất để loại bỏ những suy nghĩ tiêu cực mà không gây hại. Ngoài ra, tiếng cười cũng làm giảm lo lắng, trầm cảm và sợ hãi. Mời bạn thân đến ăn tối. Đi xem hài kịch hoặc phim giải trí. Chơi với trẻ con hoặc chó, mèo. Bất cứ thứ gì làm bạn hài lòng đều đáng giá. 6. Mở đầu và kết thúc ngày bằng một thông điệp tích cực. Thay vì vừa tỉnh dậy đã bật ngay tivi hoặc vớ lấy tờ báo để xem bản tin thì hãy bắt đầu bằng một bài hát yêu thích hoặc lời cầu nguyện. Tự nhắc nhở mình rằng có nhiều điều tốt hơn thứ xấu trên thế giới này. 7. Không để sự giận dữ và cáu bẳn thống trị cuộc sống. Những cơn nóng giận vô cớ không chỉ làm tổn thương người khác mà chính bạn. Tìm cách giải tỏa mà không làm ảnh hưởng đến bất cứ ai, như tập thể dục, ngồi thiền, viết nhật ký, vẽ tranh, viết nhạc... 8. Trước khi ra khỏi giường vào buổi sáng, nghĩ về một điều gì đó khiến bạn mỉm cười. Cho dù là về nụ hôn đầu, lần đầu tiên mang con cún về nhà, sợi tóc của bạn đời vương trên gối... nụ cười đón chào buổi sáng sẽ nhắc nhở bạn tìm niềm vui trong cả ngày. Ngoài ra cười cũng giúp bạn đẩy mạnh hệ miễn dịch và tăng sức chịu đựng stress. 9. Biết tha thứ. Khả năng tha thứ sẽ làm vững bền các mối quan hệ và giúp bạn hàn gắn và tiến về phía trước. 10. Nuôi dưỡng tinh thần gia đình. Bây giờ, hơn bao giờ hết, mọi người đều cần được cảm thấy yêu thương. Bằng lời nói và hành động, cho mọi thành viên trong gia đình, dù gần, dù xa, dù nội hay ngoại, rằng bạn yêu họ trên tất cả. Hãy để trái tim nói lời hộ bạn khi đầu óc rối bời khiến bạn quên cả lời nói. Bs. Nguyễn Lân-Đính st NỖI BUỒN ĐẸP
Quán cà phê có cái tên đầy âm hưởng “Guitar”. Đầy âm hưởng là vì nó là tên của một lọai nhạc cụ, lại là một lọai nhạc cụ mang tính lãng mạn, bay bổng, âm trầm. Thứ nhạc cụ luôn thích hợp với những bản nhạc buồn, cổ điển, và cùng với đó là ánh mênh mông, man mác trong mắt người nghệ sĩ, là một chất giọng mềm, nhẹ, chơi vơi của người thể hiện một ca khúc trữ tình, ngọt và sâu lắng, là một không gian ấm và trầm, đượm vẻ ưu tư đồng cảm. Một cái tên đã đủ để khái quát một bối cảnh, một diễn trình, một t ính chất, để khi vừa nghe, người ta đã có thể hình dung nó chứa đựng những gì. Quả vậy. Các quán cà phê bây giờ luôn là một thử thách của tính sáng tạo, các chủ quán không chỉ moi tim nặn óc ra những phong cách đặc biệt, ấn tượng, mà còn phải tìm ra cho được một góc độ phục vụ. Những nhu cầu thường nhật của đời sống con người được khai thác và cung cấp đến mức tối đa. Đành rằng, mục đích đầu tiên là lợi nhuận, nhưng làm thế nào để mục đích ấy được song hành cùng sự đáp ứng, tương tác và hòa điệu thì mới gọi là một hiệu quả trọn vẹn nhất. Quán Guitar đặc biệt mang phong cách nghệ sĩ. Nghệ sĩ một cách cổ điển. Đầu tiên quán được đi theo một lối kiến trúc mộc. Những bức tường không tô trét, sơn phết những sắc màu sặc sỡ, nhuếnh nhoáng, mà chỉ là những khuôn gạch phô nguyên hình hài, lại hơi nham nhở cẩu thả một chút bởi những mép vữa thô nhám. Trên tường là những hình tượng khá lạ mắt, một cây đàn guitar nằm chênh vênh, trên mặt đàn là một bông hồng nằm trơ trốc, lẻ loi, một chỗ khác là một mái tóc ngườI con gái hơi bay bay, nửa khuôn mặt cô gái lại hơi quay vào, hơi ngước nhìn, tạo một nét buồn buồn, tư lự, đặc biệt là hình nửa người cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn trong tư thế ngồi nghiêng, đầu hơi cúi, một tay gá hờ bên má, cặp kính trắng hơi trễ xuống, chủ quán rõ ràng là một Fan ruột của vị nhạc sĩ tài hoa bậc nhất này, lác đác những vị trí khác là một số hình ảnh thường gặp, một cành bông, một ấm trà, đôi ba cái tách, bầu rượu khô, chiếc mũ lá rộng vành lưa tưa, một cuốn sách mở dở, ly cà phê còn một nửa, lại có cả cái bát, đôi đũa, cái thìa vứt chỏng chơ, một cái mặt đồng hồ chạy sai giờ vv... Tất cả những thứ đồ vật này, có cái là vật thật được dính vào tường, có cái là thạch cao. là tượng gỗ, nhưng không phải những bức tranh thông thường, hay nói đúng hơn là những bức tranh không có phần đệm, mà chỉ là những nguyên thể chính, ngoài ra cũng có vài bức tranh phong cảnh, nhưng không được treo ngay ngắn, mà hơi chếch về bên này một tí, hơi xiêu về bên kia một chút. Toàn bộ bài trí tạo cho ngườI ta một cảm giác như trễ nải một chút, buông tuồng một chút, cứ như tiện đâu vứt đấy, bạ đâu ngồi đấy, không có một trật tự nào. Có lẽ quá chán ngán những thứ trật tự tạo ra vẻ khô cứng, đóng khung, giả tạo, nên chủ quán cố ý tạo ra một sự đểnh đoảng, chểnh mảng, nhưng lại hết sức thoải mái nhẹ nhõm, ngay cả những chỗ ngồi trong quán cũng không đồng loạt là những bộ bàn ghế y hệt nhau, mà chỗ này là cái bàn và những chiếc ghế là những khúc cây cao thấp, so le về cả kích thước lẫn kiểu dáng, chỗ kia là một bộ xô pha, chỗ khác nữa là bộ bàn ghế nhựa thông thường, vài bộ bàn ghế mây thon nhẹ, lạ hơn hết là những cái chiếu trải những nơi sát tường, điều đáng nói là những chiếc chiếu này luôn có khách, thậm chí nó còn là sự tiếc nuối nếu có ai đó chậm chân. Tất cả mọi chỗ ngồi đều có thể hướng nhìn về một vị trí, nơi đó một cái bục gỗ rộng khoảng hơn 10m2, ban ngày nó là cái bục trống, chỉ tối đến, mà chủ yếu là vào tối thứ bảy và chủ nhật, thì trên nó là mấy cái ghế tựa, mấy cái chân micro, cái chân đứng của chiếc đàn orgarn. Một góc bên của cái sân khấu đơn giản này là một gốc cây lâu năm có bộ rễ xùm xòa, đã tiện hết phần trên chỉ còn lại phần gốc, lơ thơ mấy cái chồi lá non, gốc cây này được đặt trên một mô đất đất thật hẳn hoi, trên mô đất ấy là một vạt cỏ xanh, vạt cỏ này trải dần xuống một mảnh bằng bên dưới. Trên thảm cỏ ấy thơ thẩn một số đồ chơi trẻ con, như đu quay, bóng bay, búp bê và cả những quang gánh nồi xoong, những thứ này cũng tung tãi chứ không xếp đặt gọn gàng. Ánh sáng không phải là xanh đỏ những bóng đèn màu, mà nó lung linh lung linh từ những ngọn nến cao thấp, lớn nhỏ, được đặt từ rất nhiều vị trí, cả trên những chiếc đế gắn vào tường. Ban nhạc chỉ có hai người một guitar và một orgarn, ca sĩ và khán thính giả là những ẩm khách. Tóm lại đây là một quán cà phê hát cùng nhau. Tất cả những người khách đến đây đều cảm thấy gần gũi, thân quen qua phong cách xuề xòa, cái cảm giác xa lạ nhanh ch óng mất đi, rất nhiều người chỉ qua một lần gặp nhau nơi đây đã có thêm những người bạn mới. Đó là mục đích thứ hai của người tạo ra phong cách của quán. Chủ quán cũng thường xuyên ngả nghiêng, khề khà trên chiếc chiếu, hay kề vai khoác cổ trên bộ ghế xô pha, hoặc âm trầm thủ thỉ quanh chiếc bàn nào đó. Tuổi trung niên, vóc người dong dỏng, mái tóc phủ gáy, trang phục tềnh toàng, anh ta cũng là một tay chơi nhạc, thi thoảng có hôm vắng một nhạc công, thì anh ta sẵn sàng thay thế. Cái chất nghệ sĩ của anh ta hiện rõ trong các góc độ. Người nghệ sĩ, trước hết phải có một tâm hồn, một tình cảm, và anh ta muốn sống chan hòa bằng chính tâm hồn và tình cảm của mình. Một giọng ca nam vừa chấm dứt với tiếng ngân dài ngọt lịm của một câu vọng cổ, những tiếng vỗ tay tán thưởng ran lên. Ngoài cửa chợt xuất hiện một bóng người. Bóng người ấy len nhẹ qua những chỗ ngồi, đến một góc phòng, ở đó chỉ có một chiếc ghế và một chiếc bàn nhỏ. Không biết có phải vì diện tích chỉ vừa bấy nhiêu, hay cũng là một nhã ý cho những người chỉ thích ngồi một mình. Và bóng người kia có vẻ quen thuộc chỗ đấy lắm. Lác đác có tiếng thì thầm “Ca sĩ độc đến đấy”, “Rượu cho mà xem… cả thuốc lá nữa”. Đúng là phục vụ bàn đem ra một chai rượu nhỏ và một cái ly cũng nhỏ, những tiếng xì xào kia chỉ vì điếu thuốc gắn lên môi, đốm lửa soi qua gương mặt. Đầu điếu thuốc đỏ lên, v à những ngụm khói tỏa ra, khe khẽ đâu đó vài tiếng cười khúc khích, dăm ba cái nhíu mày. Nhưng ở cái góc nhỏ ấy vẫn nhè nhẹ từng ngụm khói, chai rượu đã nghiêng vài lần. Trên bục gỗ, đang mượt mà một giọng ca nữ, đa phần những người đến đây chỉ hát những bản nhạc buồn, có lẽ người ta cũng thấy khó mà đưa vào cái không gian huyền mặc này một nhộn nhã sôi động, nó sẽ là sự lệch pha, kệch cỡm đến phản cảm mất. Cô ca sĩ không chuyên trên sân khấu đang đi về phía cuối nhạc phẩm của mình, bóng người kia cũng khẽ dụi điếu thuốc vào chiếc gạt tàn, ngước mắt chờ đợi. Tràng vỗ tay đón một người trở lại chỗ ngồi, đồng thời cũng đưa một người từ chỗ ngồi bước lên. Ánh sáng khiêm hạn của những ngọn nến cũng đủ soi tỏ một gương mặt. Một gương mặt vớ mái tóc uốn dợn trùm quanh, gương mặt đã nhuốm đầy những tháng năm lận đận, gương mặt không che giấu một niềm u uẩn, trầm buồn. K hông chỉ hiện rõ trên gương mặt, mà âm sắc cũng biểu lộ một sự cảm hoài da diết. Một giọng nữ trầm, trầm trong lời giới thiệu ngắn gọn, và trầm loang trong giai điệu bản nhạc “Đêm 30”. Chất giọng trầm ấy lênh loang cả một không gian, lênh loang vào những hồn người, lênh loang vào tận cùng một cộng hưởng. Tiếng đệm của tay guitar điệu nghệ không phải là chàng nhạc công chính hiệu, mà là ông chủ quán đầy ngẫu hứng càng làm cho sự lênh loang ấy như một mạch ngầm, nhè nhẹ, lặng lẽ mà len lỏi, len lỏi đến từng mili tế bào xúc cảm. Bản nhạc thứ hai “Hoài cảm”, vẫn tiếp nối cái mạch ngầm đây chất kết quyện ấy, giọng nữ trầm, đôi chỗ đùng đục như có giọt lệ rơi vào, càng làm cho giai điệu lẫn ca từ bài hát thêm đắm đẵm, nỗi đắm đẵm ấy càng như nhấn chìm những mảnh hồn vào một cõi sâu xa bằng nhạc phẩm thứ ba “Ru mãi ngàn năm”. Hóa ra “ca sĩ độc” là thế. Độc bởi dáng vẻ, độc bởi cảm trạ ng, độc bởi chất giọng, và độc bởi ba nhạc phẩm. Hình như phần lớn người ngồi đây đã quen với những “độc” ấy, nên họ cứ thế mà im lặng, cứ thế mà chìm vào hư không. Khi nốt nhạc cuối cùng đã hạ, không phải là những tiếng vỗ tay thường lệ, mà là một khoảng lặng, khoảng lặng như được nối dài hơn bằng những ngụm nồng nồng, đăng đắng, the the, tê tê thấm vào đầu lưỡi, thấm vào cả những nỗi niềm. Khoảng lặng ấy được đột ngột đánh thức bởi một chất giọng khác trên micro “Thưa các bạn…”. Những ánh mắt nhìn lên. Cái bục gỗ chỉ chơ lại những vật dụng, không ca sĩ, không cả nhạc công, vậy cái giọng nữ trầm kia đang thoát ở đâu ra? Vâng đúng là một giọng nữ trầm, nhưng không phải là giọng nữ trầm vừa hát, a… thấy rồi. Trên một góc mép cái bục gỗ, một gương mặt chập chờn, thấp thoáng vì sự tranh tối tranh sáng, khiến cho người ta chỉ có thể biết phái tính qua giọng nói, đang ngồi với chiếc micro trên tay. Giọng nói lại cất lên: - Thưa các bạn. Cho phép tôi được gọi như thế, dù có thể có những anh chị nhiều tuổi hơn tôi đang có mặt nơi đây. Tôi không phải muốn gửi đến các bạn, một hay nhiều bài hát, mà tôi muốn nói với các bạn đôi chút miên man cảm thức của tôi trong lúc này, trong không g ian này, trong một bối cảnh rất đặc biệt này. Thưa các bạn, chúng ta vừa được thả tâm hồn mình lênh đênh qua những bản nhạc trữ tình, bất hủ, nó trữ tình và bất hủ không chỉ vì cái hay vốn dĩ của nó, mà còn vì nó được thể hiện bằng tất cả cảm xúc, trái tim và tâm hồn của một người có “Nỗi buồn đẹp”. Thưa các bạn, có thể mỗi chúng ta có rất nhiều điểm khác nhau, nhưng tôi chắc chắn có một điểm giống nhau, đó là mỗi chúng ta ai cũng có một nỗi buồn đẹp. Vì sao tôi gọi đ ó là “Nỗi buồn đẹp?”. Đẹp là vì nó da diết, nó thăm thẳm, ta biết đó là buồn, nhưng ta không hề có ý muốn vứt bỏ nó, tiêu hủy nó, mà ta luôn nuôi dưỡng nó trong tận cùng tâm cảm của mình. Nuôi dưỡng bằng cả sự ý thức lẫn vô thức. Nó như một làn sóng nhẹ, dợn lên trong lòng ta mỗi lúc ta tìm về hoài niệm. Nó làm cho ta đau, ta tiếc, nhưng ta lại rất yêu nó. Yêu nó là bởi vì tiền thân của nó là hạnh phúc, là thân thương, là ấm áp, là một tình cảm thiêng liêng và huyền diệu. Ai trong chúng ta mà không một lần trải qua như thế, có quá nhiều lý do để con người không giữ mãi được niềm hạnh phúc trong tay mình, và khi nó đã mất đi, để lại trong ta một nỗi buồn không thể bôi xóa. Và đó là “Nỗi buồn đẹp”. Người có được nỗi buồn đẹp là người đã từng biết sống đẹp, từng biết nâng niu và trân trọng cái đẹp, cái đẹp đó trên thực tế có thể không còn nữa, nhưng trong sâu thẳm lòng ta, nó vẫn luôn tồn tại, và khuynh hướng tự nhiên là ta luôn tìm về với nó mỗi khi có dịp. Và vì thế mà chúng ta đang có mặt ở một nơi như thế này. Tôi có thể hiểu được rằng, anh chủ quán không phải chỉ ngẫu nhiên, tùy hứng mà tạo ra một phong cách riêng biệt của quán, và như cố nhạc sĩ tài hoa Trịnh Công Sơn của chúng ta kia, cũng khô ng phải đơn giản chỉ làm ra những nhạc phẩm, mà từ những “Nỗi buồn đẹp” mỗi người cất lên tiếng nói của chính mình, có thể cách này hay cách khác, có thể thuận hay bất thuận, nhưng âm hưởng của nó thì luôn có một sức sống âm ỉ, bền bỉ, thấm đẫm và lan tỏa. Nó làm cho con người ta thấy cuộc sống này có ý nghĩa hơn, đáng yêu và vô cùng trìu mến. Nó làm cho ta tin con người thực sự có linh hồn, không phải là một linh hồn trong cõi siêu nhiên huyền ẩn nào đó, mà ta có linh hồn trong mỗi tấc lòng dung dưỡng ta. Sự tồn tại một linh hồn thật sự không có gì bí ẩn cả, nó tồn tại vì trong ta có nó, một khi ta không còn quan tâm, không còn vương mang, không còn luyến tiếc, thì nó sẽ tan đi rất nhanh chóng, rất dễ dàng. Và “ Nỗi buồn đẹp” là nơi an trú duy nhất cho những linh hồn ấy. Cuộc sống này có thể có rất nhiều mất mát, có rất nhiều những hoán đổi vô lương, nhưng ta sẽ thấy mình thật sự hạnh phúc biết bao khi trong mình có một cõi ấm cho một “Nỗi buồn đẹp”. Thưa các bạn. Vốn lẽ cuộc đời, người chỉ thường biết tiếc than khi không còn giữ được trong tay những niềm yêu quý báu. Nhưng may thay, ký ức mỗi người vẫn còn dành một phần cho sự nâng niu, gìn giữ. Và tôi nghĩ rằng, hẳn quý vị ít nhiều cũng có cảm nhận như tôi lúc này, đúng thế không ạ? Phải mất đến mấy giây, những đôi môi mới động đậy, những ánh mắt mới long lanh, anh chủ quán xuất hiện với một chai rượu ngon, giơ cao và cười nói: - Nào các bạn thân yêu của tôi! Những vị khách yêu quý của tôi! Tôi muốn cạn cùng các bạn một chút ấm nồng này, để chúc cho một “Nỗi buồn đẹp” luôn dợn lên trong lòng mỗi chúng ta, được không nào? Rộ lên những tiếng nói cười hưởng ứng, lịm vào những đầu môi chất ngọt nồng tê đắm, những ánh mắt thân tin trao vào nhau, những bàn tay nóng ấm cầm lấy nhau, lạ rồi quen, quen rồi lại rất quen, quen rồi không còn lạ nữa. “Ca sĩ độc” không còn thinh lặng một khoảng riêng m ình, mà đã tự lúc nào, khoanh tròn đôi chân trên một mép chiếu chai rượu vơi một nửa ban nãy giờ đang nghiêng vào những chiếc tách nhỏ chung quanh. Và rồi vẫn anh chủ quán: - Nào các bạn, từ trước đến giờ ta vẫn nghe nhau hát, nhưng trong khoảnh khắc đặc biệt này, ta hãy hát cùng nhau nhé. - Được được đấy. Bài gì nào ? - Còn bài nào tuyệt hơn cho chúng ta lúc này ngoài “Nối vòng tay lớn” của “Anh Trịnh”. Nào “Rừng núi dang tay… hai… ba…” Tiếng nhạc trỗi lên, tiếng hát đồng thanh trỗi lên, những ánh nến như cũng bừng lên một luống sáng ấm áp diệu kỳ. Không gian ngào ngạt… lênh loang… ĐÀM LAN
|