Hiện có 12 người xem / 2528483 lần xem
         info@sachvatranh.com       84 (0) 1 222 929 703        

VÀI CHI TIẾT VỀ KỲ HỌP NGÀY 08/6/2013

CỦA CÂU LẠC BỘ SÁCH XƯA & NAY

Trong buổi họp sáng nay, có 3 vị khách mới tới tham dự: người đầu tiên là nhà văn Đàm Lan, là đồng tác giả với Dịch giả Vũ Anh Tuấn của tập truyện ngắn nhan đề là “Nụ Hôn Muộn” do nhà xuất bản Hội Nhà Văn in năm 2012; nhà văn Đàm Lan đã từ Ban Mê Thuột xuống tham dự buổi họp và giao lưu với các thành viên CLB. Vị khách thứ nhì là nhà ngôn ngữ học, kiêm nhà thơ Như Hảo, do anh Dương giới thiệu, và vị khách thứ ba cũng là một nhà thơ thuộc nhóm Đêm Hoa Lửa. Điều đặc biệt là trong buổi họp này có mặt cả hai tác giả tập thơ Đêm Hoa Lửa là hai nhà thơ nữ Đàm Lan và Minh Hưng.

Sau khi ba vị tân khách có vài lời tự giới thiệu, như thường lệ Dịch giả Vũ Anh Tuấn đã giới thiệu hai cuốn sách tương đối cổ bằng Pháp và Anh văn mà ông mới có. Cuốn thứ nhất là một cuốn sách thuộc loại sách tập đọc bằng Pháp và Hán văn, xuất bản năm 1908 (105 năm trước). Cuốn sách chứa đựng những bài viết ngắn về đủ mọi lãnh vực linh tinh như: lòng hiếu thảo, thí dụ về một tâm hồn cao thượng, thí dụ về lòng độ lượng, rồi chuyện về một nỗi buồn da diết, rồi cả chuyện thuê người làm vv… Phần 2 của cuốn sách là một số bài diễn tả bằng Hán văn một số bài thơ ngụ ngôn của Lã Phụng Tiên (La Fontaine) ví dụ như các bài Con Ve sầu và con Kiến, Con Cáo và con Cò, Con Cáo và Chùm Nho vv…

Kể ra cuốn sách nhỏ này cũng là lạ khi 105 năm trước nó được in ở Thượng Hải bên Tàu, cứ một trang tiếng Pháp ở mé trái lại một trang bằng Hán tự ở mé phải… và điều lạ nhất là nó mang một tựa đề bằng Pháp văn là “Prélections”, một từ tiếng Pháp rất cổ đã được các Linh Mục dòng Tên (Jésuites) dùng trước kia, nhưng nay không còn hiện diện trên các từ điển Pháp hiện đại, mặc dầu người viết, vì tò mò, đã tra 4 cuốn tự điển lớn và đứng đắn nhất của Pháp mà… vẫn phải chịu thua không tìm ra! Cuốn thứ hai là một cuốn cổ thư mang tựa đề là “Chó Rab và bạn bè” của một tác giả người Anh rất nổi tiếng là Bs. John Brown, được xuất bản năm 1878 (135 năm trước) và thuộc loại sách đẹp, bìa cứng thật dầy, khổ 20x28 cm, gáy mạ vàng, và chứa đựng 8 phụ bản bằng bút sắt nguyên trang cực đẹp. Cuốn sách được coi như một dạng sách đẹp và tương đối cổ và hấp dẫn với những người yêu sách như người viết…

Sau phần giới thiệu sách của Dịch giả Vũ Anh Tuấn, Bs. Nguyễn Lân-Đính có lên giới thiệu vài lời về cuốn sách viết bằng Anh ngữ nói về điệp viên Phạm Xuân Ẩn của một anh Mỹ viết.

Tiếp lời Bs. Đính, nhà thơ kiêm nhà ngôn ngữ học Xuân Hảo có lên ngâm một bài thơ của Ts Vũ Đình Huy (trong bản tin của CLB Sách Xưa & Nay) mà cô khen là hay và có nói chuyện qua về các loại chữ viết cổ của Việt Nam, sau đó cô ngâm tặng các thành viên bài thơ “Nhớ Tây Ninh” của cô được đăng ngay trong Bản Tin.

Cô Xuân Hảo nói xong, anh Lê Minh Chử lên hát thơ tặng các thành viên bài thơ “Quý nhất trên đời”, một bài thơ đầy tính “Chính Em” (Cô Em thơm phức) rất hợp với tính cách và tôn chỉ của anh Chủ nhiệm.

Sau anh Lê Minh Chử, anh Trần Văn Hữu có nói qua về “Những điều trông thấy mà đau đớn lòng” và ngâm tặng anh em thành viên một bài thơ.

Tiếp lời anh Hữu, Dịch giả Vũ Anh Tuấn lên tiếng than phiền là truyện ngắn Việt-Anh Hảo Mộng của ông được một tờ Nguyệt San rất đẹp, rất hoành tráng đăng, nhưng than ôi! khi đọc mới thấy mỗi lúc sang trang thì, hoặc là bị in trùng hai lần 7, 8 chữ, hoặc là in thiếu có lúc tới gần 20 chữ, khiến truyện trở thành què quặt, vô nghĩa, vớ vỉn…

Kế đó các thành viên đã tiếp tục thảo luận về việc in tuyển tập thơ của chính các thành viên và đã đi đến thỏa thuận là các bài thơ sẽ được lựa chọn bởi một tiểu ban 5 người và việc chọn hay bỏ sẽ được quyết định bởi “bỏ thăm”, như vậy là sẽ rất công bằng và sẽ không còn ai phải than phiền gì nữa.

Buổi họp kết thúc lúc 11 giờ 15 cùng ngày.

Vũ Thư Hữu

VÀI CHI TIẾT VỀ CUỐN

“CUỘC ĐỜI CỦA HẢI QUÂN ĐÔ ĐỐC COURBET”

(VIE ILLUSTRÉ DE L’AMIRAL COURBET)

Cuốn sách này khổ 20x28 phân, dày 239 trang, và có 15 minh họa bằng bút sắt rất đẹp. Sách không để năm in, nhưng các nhà chơi sách và bán cổ thư ở Pháp đều đồng ý cho là sách được in trước năm 1923, như vậy là tuổi đời của sách là khoảng từ 90 tới 100 tuổi. Tác giả là một Bá tước tên là de LIONVAL và họa sĩ minh họa là CH. JOUVENOT. Người viết biết là người Pháp này đã có lúc là Tổng tư lệnh Hải, Lục quân Pháp ở Bắc kỳ nên, vì thấy ông ta cũng đóng một vai trò quan trọng trong lúc Pháp xâm lấn nước ta, nên cũng cảm thấy hứng thú giới thiệu một vài chi tiết của cuốn sách.

Cuốn sách dày 239 trang được chia ra làm ba Phần:

Phần I gồm 6 chương

Phần II gồm 4 chương

Phần III gồm 10 chương.

Tuy nhiên trong cả ba Phần chỉ có Phần III là có liên quan tới người mình, hai Phần trước, Phần I nói về tuổi trẻ của Courbet và binh nghiệp của ông. Phần II nói về những năm Courbet là một sĩ quan Hải quân cao cấp hoạt động ở các địa diểm như Quần đảo Antilles – Boyardville – Nouvelle Calédonie... Chỉ có Phần III là liên quan tới người mình và nói về các chiến dịch ở Trung Kỳ, ở Bắc Kỳ, về trận chiến với Trung Hoa, và về cái chết của Courbet và tang lễ của ông ta.

Phần III được chia làm mười Chương:

Chương 1: Nói về cái chết của Tư Lệnh Rivière – Courbet thành Hạm trưởng và được cử sang Bắc Kỳ.

Chương 2: Gồm phần mô tả và tóm lược lịch sử xứ Bắc Kỳ – Hiệp ước đầu tiên ký với Pháp dưới thời Lộ Y XVI – Các Dòng Thừa Sai ở Viễn Đông.

Chương 3: Nói về J. Dupuis, nhà thám hiểm người Pháp – Về Hiệp ước ký với triều đình Huế – Về việc nhượng thành Hà Nội – Về việc Trung úy Garnier chinh phục miền đồng bằng Bắc Kỳ – Về cái chết của Garnier – Về những đòi hỏi của người Nam đối với các ngoại nhân – Về việc tàn sát tư lệnh Rivière.

Chương 4: Nói về các cuộc hành quân ở duyên hải Trung Kỳ – Bắn phá và đánh chiếm Thuận An – Annam đầu hàng – Hiệp định ký bởi Harmand, quan cai trị dân chính ở Huế.

Chương 5: Cuộc hành quân của tướng Bouet ở Bắc Kỳ – Đô Đốc Courbet được phong làm Tư Lệnh Hải và Lục quân ở Bắc Kỳ – Bắn phá Phu Sa và đánh chiếm Sơn Tây – Courbet bị thay thế bởi tướng Billot – Courbet được Đệ Nhất đẳng Bắc Đẩu Bội tinh – Courbet được thăng Phó Đề Đốc.

Chương 6: Tướng Millot ở Bắc Kỳ – Hiệp ước Thiên Tân – Bị mai phục và rút lui khỏi Bắc Lệ – Song Mía.

Chương 7: Bắn phá Fou-Tchéou.

Chương 8: Nói về Formose – Đánh chiếm Kelung – Tấn công Tamsui – Truy lùng hạm đội Trung hoa – Tấn công Shei-Pou bằng chiến thuyền – Những chiến thuyền đó bị tiêu hủy.

Chương 9: Chiếm cứ quần đảo Pescadores – Bệnh tật của Đô Đốc Courbet – Hòa ước ký với Trung Hoa – Cái chết của Đô Đốc Courbet – Niềm xúc cảm và nỗi đau ở bên Pháp khi nghe thấy hung tín.

Chương 10: Chiến thuyền chở thi hài Courbet Bayard hồi hương – Các dấu hiệu biểu dương lòng ái quốc và ái mộ trên suốt lộ trình – Nghi thức lễ tang ở quần đảo Hyères – Quốc táng ở Điện Invalides – Nghi thức và tang lễ ở Abbéville – Điếu văn của Đức Cha Freppel – Kết luận.

Cuốn sách cũng có thể coi như một nguồn tài liệu sử học cho những ai làm công việc nghiên cứu về thời kỳ chúng ta bị thực dân Pháp xâm lược và đô hộ.






Trích hồi ký 60 năm chơi sách, chương VI

Vũ Anh Tuấn

CÓ MỘT NGƯỜI NGA

VẪN TIẾP TỤC DỊCH, QUẢNG BÁ

VĂN HỌC VIỆT NAM

Thúy Toàn

Sau khi được sự chấp thuận của Đại sứ quán ta tại Liên bang Nga về việc tổ chức trao tặng Kỷ niệm chương “Vì sự nghiệp văn học nghệ thuật Việt Nam” cho nữ dịch giả người Nga Innesa Petrovna Zimônina (mà nhiều người Việt ta quen gọi thân mật bằng tên là chị Inna), tôi mới liên lạc qua điện thoại với chị, báo cho biết là tôi lại đang có mặt ở Matxcơva và nhân chuyến đi này tôi còn có nhiệm vụ được nhà thơ Hữu Thỉnh, Chủ tịch Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật, Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam trao cho mang theo tấm Kỷ niệm chương trao tặng chị. Tôi thông báo thêm là Đại sứ quán ta đã chuẩn bị sẵn sàng mọi nghi thức mời chị tới Sứ quán để nhận Kỷ niệm chương này do chính Đại sứ Nguyễn Xuân Sơn thay mặt phía Việt Nam trao. Chị Inna thật sự xúc động, nhắc đi nhắc lại lời cảm ơn Hội Nhà văn Việt Nam, bạn bè giới văn nghệ Việt Nam đã đánh giá cao đóng góp nhỏ bé của chị, nhưng chị lại cho biết hiện sức khỏe của chị không cho phép ra khỏi nhà, nhất là trong cái giá rét băng tuyết Nga dưới 200C như hiện nay. Chân chị đau, đi lại vất vả, lại thêm bệnh cũ – cao huyết áp. Đành phải bàn lại, xin phép chị Inna, tổ chức nghi thức trao Kỷ niệm chương ngay tại nhà chị. “Nhưng mà Toàn biết đấy, nhà chật, không thể tiếp đông người được” – chị Inna băn khoăn bảo tôi.

Tôi nhớ đã có lần tới thăm gia đình chị, tôi không chỉ đi một mình. Vào mùa thu năm 1994 (mới đây mà đã gần hai chục năm rồi!) tôi đã kéo cả một đoàn xấp xỉ chục người tới thăm chị tại nhà. Lần ấy đoàn chúng tôi gồm có nhà văn Tô Đức Chiêu, chánh văn phòng Hội Nhà văn Việt Nam, nhà thơ Trần Nhượng và tôi – Chủ tịch Hội đồng văn học dịch của Hội, thay mặt Hội Nhà văn ta sang thăm các nhà văn Nga, thăm dò việc nối lại quan hệ giữa những người cầm bút hai nước sau sự kiện Liên Xô tan rã cách đó vài ba năm. Đoàn chúng tôi đã đến thăm lại nhiều nhà văn Nga quen biết cũ. Và đến nhà chị Inna, ngoài thành viên trong đoàn, còn có một nhà văn khác cũng ở trong nước mới sang và bốn năm anh chị em văn nghệ sĩ người Việt, đang sống, học tập và công tác tại Nga. Ấy vậy mà tại căn hộ cũ của gia đình chị Inna vẫn đủ chỗ thoải mái cho cả chủ lẫn khách. Căn hộ có phòng khách khá rộng, kề ngay bên còn có xưởng vẽ cũng khá hoành tráng của chồng chị – họa sĩ Iuri Ivanov. Nhưng lần đi Nga công tác gần đây của tôi, đến thăm chỗ ở mới của gia đình chị Inna, thì thấy căn hộ quả nhỏ hẹp hơn nhiều so với căn hộ cũ. Tất thảy chỉ có ba phòng, căn bếp cũng là nơi ăn uống tiếp khách luôn thể, kê gọn chiếc bàn tròn chung quanh bốn ghế nhỏ.

Hẹn trước đúng ngày 12 tháng 12 vừa qua, tôi cùng đại diện của Đại sứ quán ta, một phóng viên của Thông tấn xã Việt Nam thường trú tại Matxcơva và một phóng viên Đài tiếng nói nước Nga đến nhà chị Inna. Sở dĩ chỉ có đại diện của Đại sứ quán, vì vào đúng cái ngày giờ đẹp có một không hai: 12 giờ ngày 12 tháng 12 năm 2012, Tổng thống mới đắc cử của Liên bang Nga, ngài V.Putin, sẽ phát biểu một thông điệp quan trọng với Quốc hội Nga tại Kremli, có mời quan khách và giới truyền thông, đông tới hàng nghìn người, trong đó có cả Đại sứ của ta. Chúng tôi đến nơi, chị Inna và chồng chị đã chờ sẵn, mở rộng cửa đón tiếp. Nghi thức trao Kỷ niệm chương rút gọn đơn giản: đại diện Đại sứ quán ta, đồng chí tham tán, nguyên là quyền Đại sứ tại Belorusia, phát biểu ngắn gọn, trao Quyết định và gắn Kỷ niệm chương. Chị Inna xúc động đến bối rối, chỉ nhắc đi nhắc lại lời cám ơn sự đánh giá cao “đóng góp nhỏ bé”, như chị nói, của chị với văn học Việt Nam.

Chị Inna Zimônia là một trong những người bạn Nga thực sự thân thiết, gắn bó với Việt Nam nói chung và đặc biệt với văn học, giới văn nghệ sĩ Việt Nam suốt hơn nửa thế kỷ vừa qua. Năm 2011, lớp Ngữ văn Khóa 3 Trường Đại học Tổng hợp tổ chức kỷ niệm 50 năm thành lập lớp (1956-1961), nhà văn Trần Phương Trà (Trần Nguyên Vấn) trong Ban liên lạc đồng môn của lớp, biết tôi vẫn có liên hệ với chị Inna, nên đến nhờ tôi chuyển cho chị một tập kỷ yếu nhân dịp kỷ niệm này, nhân thể biếu cả tôi một tập. Hóa ra chị Inna Zimônina là một trong 6 học viên người nước ngoài – trong số cả thảy 32 học viên của lớp Ngữ văn Khóa 3 này. Ngay trên bìa sách, cả mặt trước, mặt sau, danh sách lớp được ghi rõ tên chị Inna Zimônina đứng ở số 32 theo vần ABC. Hầu hết học viên trong nước của lớp này ra trường đều trở thành những cây bút có danh tiếng, đều trở thành hội viên Hội Nhà văn Việt Nam. Còn chị Inna Zimônina trở thành một dịch giả Văn học Việt Nam có tên tuổi quảng bá sang tiếng Nga.

Sau lớp Ngữ văn Khóa 3 chị Inna còn ở lại Việt Nam thực tập thêm một thời gian, chị đi sâu vào tìm hiểu Văn học Việt Nam giai đoạn 30 – 45, đặc biệt yêu mến sáng tác của nhà văn Nam Cao. Nữ nghiên cứu sinh người Nga đã tìm đến tác giả của công trình đầu tiên về Nam Cao Nam Cao nhà văn hiện thực xuất sắc (1962) mới xuất bản của nhà nghiên cứu trẻ Hà Minh Đức. Giờ đây giáo sư Hà Minh Đức đã ở tuổi sắp bước sang bát tuần, đi lại có vẻ nặng nề, nhưng nhắc đến những kỷ niệm 50 năm về trước, vẫn đầy xúc động, linh hoạt hẳn lên. Bấy giờ nhà nghiên cứu, cán bộ giảng dạy trẻ – chàng trai Hà Minh Đức có lần đã đèo xe đạp cô nghiên cứu sinh người Nga xinh xắn đi trên đường phố Hà Nội. Anh còn bố trí để địa phương mời cả cô đi theo cùng chuyến anh về nói chuyện tại Nam Định, rồi cùng về tận quê Nam Cao. Và nhờ thế mà có lẽ Inna đã càng yêu mến Nam Cao; thực sự thấm thía am hiểu sáng tác của nhà văn, nên chị đã bắt tay dịch ngay một số tác phẩm của nhà văn Việt Nam đặc sắc này.

Năm 1963, Nhà xuất bản Văn học quốc gia Liên Xô đã ấn hành tập tuyển đầu tiên tác phẩm Nam Cao bằng tiếng Nga. Trong số 15 tác phẩm, bên cạnh tên tuổi của các dịch giả thế hệ đầu tiên văn học Việt Nam trực tiếp từ tiếng Việt sang tiếng Nga, như I.Bưstrov, Marian Tkachev, N.Nikulin có tới bốn tác phẩm của Nam Cao, dưới bản dịch ra tiếng Nga đã đứng tên nữ dịch giả trẻ Inna Zimônina: Nửa đêm, Xem bói, Mò sâm banh Nỗi truân chuyên của khách má hồng.

Từ đó Inna Zimônina liên tiếp đưa đến cho bạn đọc tiếng Nga các bản dịch xuất sắc tác phẩm của nhiều nhà văn Việt Nam các thế hệ khác nhau: nhiều truyện ngắn đặc sắc, như Người ven thành của Tô Hoài, Những truyện không muốn viết cũng của Nam Cao, Bông hoa thượng uyển của Chu Văn, Mùa đông,tuyết tan của Hoàng Trung Thông, Hoa hồng, Làng cát của Nguyễn Thị Cẩm Thạnh, nhiều tác phẩm của Phạm Hổ, Vũ Tú Nam, Hữu Mai, Vũ Hạnh…; đặc biệt nhiều tác phẩm viết cho thiếu nhi, như Bí mật miếu Ba Cô của Văn Trọng, Đất rừng phương Nam của Đoàn Giỏi, Quê nội của Võ Quảng, Đi tìm đảo ngọc của Trần Thanh Giao, Dưới chân núi Nghè, Miền quê xa xăm của Văn Linh…, nhiều tác phẩm xuất sắc của văn học Việt Nam đương đại, như Miền cháy, Dấu chân người lính của Nguyễn Minh Châu, Dưới đám mây mầu cánh vạc của Thu Bồn, Mùa lá rụng trong vườn của Ma Văn Kháng, Gặp gỡ cuối năm của Nguyễn Khải, Những ngôi sao xa xăm của Lê Minh Khuê…

Inna Zimônina còn viết giới thiệu và dịch bản dịch nghĩa để nhà thơ lão thành Paven Antokolski dịch thành thơ sang tiếng Nga bản nôm tác phẩm Chinh phụ ngâm của Đoàn Thị Điểm, tham gia trong bộ biên tập gồm 7 nhân vật, đều là những nhà văn nổi tiếng, của bộ tuyển văn học Việt Nam đương đại 15 tập ra ở năm nhà xuất bản lớn của Liên Xô trong vòng 6 năm (1979-1985). Trong bộ 15 tập ấy chị còn cùng dịch giả Marian Tkachev trực tiếp tổ chức tuyển chọn tác phẩm, tổ chức bản dịch nghĩa, ra đề thi dịch để chọn lấy các bản dịch thơ xuất sắc, ra tuyển tập Thơ các nhà thơ trẻ Việt Nam…

Phải nói thêm, công việc dịch sách như trên là công việc riêng, làm theo ý thích của mình, còn thực ra công việc chính của chị Inna Zimônina sau khi học về, là làm công tác trong Ban Đối ngoại của Hội Nhà văn Liên Xô. Từ năm 1960 và trong những năm 70, 80, Inna Zimônina, nhiều lần trở lại Việt Nam, tháp tùng các đoàn đại biểu các nhà văn Liên Xô sang ta công tác, hội họp, trao đổi, hợp tác. Cả trong những năm tháng bom đạn chiến tranh, cả những ngày sau khi đất nước ta thống nhất, xây dựng hòa bình. Và thường xuyên chị lại đón tiếp các nhà văn Việt Nam, khi đi cả đoàn, khi đi lẻ tẻ sang Liên Xô công tác, tham dự các cuộc họp quốc tế, các hội thảo, các hoạt động văn hóa, lễ hội, cả những chuyến đi sáng tác, đi nghỉ dưỡng… Những lần như thế chị thường săn sóc chu đáo cho từng nhà văn ta, mỗi người mỗi tính, mỗi thói quen, mỗi đòi hỏi. Chị đã trở thành người bạn thân thiết không những của các nhà văn Việt Nam cùng trang lứa mà cả các bậc đàn anh, như các cụ Nguyễn Tuân, Nguyên Hồng, Tô Hoài, Tế Hanh, Hoàng Trung Thông…

Đánh giá công lao đóng góp của chị Inna Zimônina vào việc phát triển và củng cố mối quan hệ giao lưu văn hóa Nga – Việt, công lao đóng góp trong việc dịch và truyền bá văn học Việt Nam sang tiếng Nga, ngay từ năm 1982 chính phủ ta đã trao tặng chị Huân chương hữu nghị, cùng một đợt với các nhà văn Liên Xô khác như Ev. Dolmatopski, Marian Tkachev, Nikolai Nikulin, Ev. Evtusenko.

Trong những người cùng chị Inna Zimônina nhận Huân chương Hữu nghị năm ấy, nay đã có ba người, nhà thơ Ev. Dolmatopski, hai dịch giả hàng đầu, Marian Tkachev và N.Nikulin, đã quy tiên. Một điều an ủi là tuy cũng đã ở tuổi cao, lại đau yếu, nhưng chị Inna Zimônina vẫn minh mẫn, vẫn tiếp tục công việc dịch, quảng bá văn học Việt Nam. Mới đây, bản dịch tác phẩm Hồn bướm mơ tiên của nhà văn Khái Hưng, do chị Inna cứ lặng lẽ dịch, yêu thích mà dịch, đã được một nhà xuất bản lớn đương đại của Liên bang Nga ấn hành, đưa đến tay bạn đọc ở Nga. Chị Inna lại đang tiếp tục dịch truyện ngắn của nhà văn Vũ Hạnh, mà trước đây chị đã từng dịch. Chia tay sau buổi gặp gỡ vừa qua chị Inna Zimônina đưa cho mẩu giấy nhỏ ghi tên tác phẩm tập truyện Chất ngọc của Vũ Hạnh xuất bản ở Tp.Hồ Chí Minh, trong đó truyện ngắn Tô cháo lòng ở trang 86-118, chị bảo chị đã dịch sắp xong, khi nào xong sẽ gửi về cho tôi, “Tùy Quỹ1 sử dụng” – chị nói thêm.

(1): “Quỹ hỗ trợ quảng bá Văn học Việt nam – Văn học Nga”

VÌ SAO TÔI CHỌN

GIÁO PHÁP ĐẠI THỪA

Nhiều người không chấp nhận Kinh Đại Thừa, cho đó không phải là những lời do Đức Thích Ca giảng dạy, mà do những người sau ngụy tạo ra. Điều đó chúng ta nên hiểu như thế nào, bởi đúng là ngay thời kỳ Kết Tập lần thứ I chỉ có 4 Bộ Kinh được nói đến, đó là các Bộ TRƯỜNG A HÀM, TRUNG A HÀM, TĂNG NHẤT A HÀM và TẠP A HÀM.

Lịch Sử của Đạo Phật còn ghi lại: Ngay thời kỳ Kết tập Lần II, sau khi Phật nhập diệt khoảng 100 năm là đã có sự bất đồng quan điểm trong Nội Bộ Tăng chúng. Kể từ đó, các nhà lãnh đạo tinh thần Phật Giáo chia ra thành hai nhóm. Một nhóm là Thượng Tọa Bộ, là Trưởng Lão trong Tăng chúng, nói rằng giữ nguyên những gì Phật thuyết lúc sinh thời, ngày xưa gọi là Tiểu Thừa, sau này gọi là Phật Giáo Nguyên Thủy và nhóm thứ hai là Đại Chúng Bộ hay còn gọi là Đại Thừa.

Là người muốn tìm hiểu để tu tập, hẳn chúng ta không khỏi hoang mang, vì rõ ràng hai bên, dù cùng xuất phát từ Giáo Pháp của Đức Thích Ca, nhưng khi đã tách ra ắt hẳn có một số điểm khác biệt. Tôi là người được học Giáo Pháp và Kinh Điển Đại Thừa. Quá trình tìm hiểu, tôi chấp nhận được lý lẽ của Giáo Pháp này, vì đã mang lại cho tôi một số hiểu biết mà khi đưa vào áp dụng thấy có nhiều lợi ích cho bản thân. Hoàn toàn không mê tín, thần quyền, cầu xin, nương tựa. Cũng không Cầu An, cầu Siêu mà chỉ tự mình giữ Giới, hành theo Bát Chánh Đạo là hai căn bản của Đạo Phật mà tôi tin là dù theo Thừa nào cũng phải giữ. Vì đã thận trọng đối chiếu nhiều Kinh với nhau, nhưng không thấy có gì mâu thuẫn trong lời Phật dạy, nên tôi cũng không thắc mắc xem Giáo Pháp của bên Phật Giáo Nguyên Thủy khác với bên Đại Thừa như thế nào. Dù vậy, trước khi đưa ra một quyển Kinh bên Đại Thừa là PHÁP BẢO ĐÀN KINH ra để mổ xẻ nghĩa lý, tôi cũng muốn tham khảo, nên lên mạng để tìm hiểu xem thế nào là sự khác biệt của hai Thừa.

Thật là bất ngờ, khi tôi đọc được một bài bênh vực Giáo Pháp Phật Giáo Nguyên Thủy của một Phật Tử. Tôi đồng ý là mọi người đều có quyền chọn lựa giáo pháp nào mà mình thấy thích hợp và dùng mọi lý lẽ để bảo vệ. Nhưng đã là người tu Phật thì nên trình bày lý lẽ trong ôn hòa. Vì thế, tôi rất ngạc nhiên khi thấy người bênh vực Phật Giáo Nguyên Thủy lại thóa mạ người tin theo Đại Thừa là “ngu”, “óc heo” và thách thức bất cứ ai đưa ra luận cứ nào để chứng minh Đại Thừa là đúng! Bản thân tôi học Đạo với một cư Sĩ, không Quy Y với Thầy nào, Chùa nào, chỉ nghiên cứu và thực hành theo Kinh của Đại Thừa. Nhưng với lời Phật dạy thì tôi không cần xem do Phật Giáo Nguyên Thủy hay Đại Thừa phổ biến, cứ theo đó để tu sửa, nên không bao giờ có ý tranh biện hay ganh đua, đúng, sai, cao, thấp với ai. Tuy nhiên, theo tôi nghĩ, đây là một vấn đề khá tế nhị mà người Phật Tử thường phân vân, thắc mắc mà chưa có lời giải đáp thỏa đáng. Bên nào lập luận xem ra cũng vững vàng. Người đi sau chỉ còn trông chờ vào duyên phận. Bởi suy cho cùng thì dù theo Phật giáo Nguyên Thủy hay Đại Thừa, dù hành chưa tới rốt ráo, nhưng ít ra cũng được pháp Thập Thiện, không còn gieo nhân xấu. Được vậy thì cũng tạm ổn rồi. Tuy vậy tôi phải tự trả lời cho chính mình: Điều gì khiến cho tôi hoàn toàn tin vào Giáo Pháp Đại Thừa mà dù nghe chê bai, xúc xiểm đến như vậy mà niềm tin không bị lung lay? Giả sử có ai hỏi thì tôi sẽ bảo vệ quan điểm của mình như thế nào cho đúng lý nhất?

Theo tôi, nếu chỉ đơn thuần vin vào hai từ Nguyên Thủy, hẳn chúng ta sẽ bị thu nhiếp, vì hai từ đó nói lên sự giữ gìn, bảo tồn những gì Phật đã thuyết, đồng thời, cũng hàm ý là phía Đại Chúng Bộ có nhiều cách tân, không còn giữ đúng y như những gì Phật dạy từ buổi đầu. Kinh Điển của Đại Thừa cũng không do chính Phật thuyết, vì theo tài liệu ghi lại là những Kinh DIỆU PHÁP LIÊN HOA, HOA NGHIÊM, KIM CANG, BÁT NHÃ, ĐẠI BÁT NIẾT BÀN, LĂNG NGHIÊM, VIÊN GIÁC, DUY MA CẬT, A DI ĐÀ, KINH GIẢI THÂM MẬT, ĐẠI THỪA TRANG NGHIÊM KINH LUẬN, LĂNG GIÀ, KINH THẮNG MAN vv... đều xuất hiện sau khi Phật nhập diệt cả 500 năm. Do đó, phía bên Phật Giáo Nguyên Thủy cho rằng những Kinh đó là ngụy tạo. Vì thế, theo Thừa này, tu tập theo đó làm sao bằng tu tập với ngay chính lời của Đức Phật thuyết giảng? Một Phật Tử khác cũng trích dẫn những điểm khác biệt giữa hai Thừa như sau:

- Đại Thừa cho rằng mình là cỗ xe lớn, có thể chở được nhiều người đến Giải Thoát, trong khi Tiểu Thừa là cỗ xe nhỏ, chỉ độ được bản thân, hay độ được số ít.

- Đại Thừa chê bên Tiểu Thừa là “tiêu nha bại chủng”, là hạt giống chết.

- Phật Giáo Nguyên Thủy thì cho rằng Đức Phật chỉ là một người bình thường như mọi người trên quả địa cầu này, nhờ tu tập Thiền Định, đoạn trừ tận gốc Tham, Sân, Si, lậu hoặc mà đắc thành Chánh Quả, có được giải thoát, Niết Bàn, vì thế, mọi người ai cũng có thể noi theo và chứng quả như Phật. Trong khi đó, Đại Thừa nói rằng Phật đã thành Phật từ vô thỉ. Pháp Thân mới đúng là Thân Phật. Còn Nhục thân chỉ là ứng thân. Như thế, Đại Thừa đã biến Đức Phật từ người bình thường thành siêu nhân. Việc thần thánh hóa Đức Phật làm cho tín đồ trở thành người cầu xin, van vái, lệ thuộc vào tha lực.

- Phật giáo Nguyên Thủy là tự giác, không tín ngưỡng. Trong khi đó, Đại Thừa xem đức tin là quan trọng bằng cách đưa ra một loạt các vị Thánh, Bồ Tát, Chư Phật có khả năng cứu rỗi chúng sinh.

- Tư tưởng của Đại Thừa là “Vạn Pháp giai không, duyên sanh như huyễn”, nên không chấp vào sự hiện hữu của thế gian, vũ trụ. Nghĩa là tuy vạn pháp có đó mà trong tâm vẫn cứ như không. Vì không chấp nên không xa lánh thế gian mà không hề bị thế gian đắm nhiễm, tự tại, thanh tịnh Niết Bàn. Trong khi đó, nhận thức theo Phật Giáo Nguyên Thủy thì cuộc đời Vô thường, Hoại diệt, nay có, mai không, nên cố tu để chứng đắc Niết Bàn, Giải Thoát Sinh Tử Luân Hồi.

- Phật Giáo Nguyên Thủy cho rằng Đức Phật là vị A La Hán đầu tiên của tất cả, mà có vài điểm đặc biệt đã nâng Ngài lên tầm mức phi thường, trở thành đấng Vô Thượng Đạo Sư của cả thế giới, đứng trên tất cả A La Hán khác. Do đó, A La Hán là quả vị tối thượng của con đường Giải Thoát, giác ngộ. Ngược lại phía Đại Thừa cho rẳng A La Hán chỉ là sự chứng đắc nửa đường, cứu cánh tối thượng là phải Thành Phật.

Dù đây chưa phải là tiếng nói chính thức của Phật Giáo Nguyên Thủy, chỉ do một Phật Tử của bên này viết lên, trong đó cũng có cái nhận định đúng và chưa đúng về Kinh Đại Thừa theo như tôi đã tìm hiểu, nhưng tôi cũng nêu ra nhận định của mình để thử trả lời về những nhận xét đó.

Thật ra, cũng theo tài liệu Đạo Phật, thì ngay chính 4 Bộ Kinh đầu tiên cũng không hẳn xuất phát từ thời kỳ Kết Tập lần đầu tiên, mà sau Phật nhập diệt khoảng 200 năm. Thời xưa có lẽ chưa có giấy và chữ viết, nên Lời Phật dạy chỉ do khẩu truyền, chư Đệ Tử chỉ học thuộc lòng thôi.

Trước khi đi vào mổ xẻ Giáo Pháp của hai bên, theo tôi, chúng ta cần lưu ý điểm này để có nhận xét cho trung thực. Đó là thời điểm Kết Tập lần thứ II diễn ra khoảng 100 năm sau khi Đức Thích Ca nhập Niết Bàn. Như vậy, tất cả các vị Tu Sĩ thời bấy giờ không còn người nào chính thức được nghe lời Đức Thích Ca giảng dạy, Kinh điển cũng chưa có. Tất cả đều do Khẩu Truyền. Mà chúng ta đều biết, đâu phải ai tu học cũng đều thuộc, đều ghi nhớ tất cả những gì đã được nghe thuyết. Lại không có văn bản để dò lại. Như vậy, chuyện người thuộc ít, kẻ thuộc nhiều. Người nhớ đúng, kẻ nhớ nhầm là chuyện đương nhiên. Dù vậy, có một điều đáng lưu ý, là bên ĐẠI CHÚNG BỘ vẫn không quên di ngôn của Đức Thích Ca, vẫn giữ nguyên việc TRUYỀN Y BÁT, là chỉ VỊ NÀO CHỨNG ĐẮC mới được thay mặt Tổ trước, cầm nắm Chánh Pháp, thống lĩnh Tăng Đoàn. Quyết định mọi việc của Đạo. Chính Thượng Tọa Bộ mới là nhóm phản đối để tách ra riêng, thành lập giáo phái riêng. Đầu tiên gọi là Tiểu Thừa, sau đổi thành Phật Giáo Nguyên Thủy. Từ đó, bên Phật Giáo Nguyên Thủy không hề nhắc gì đến việc TRUYỀN Y BÁT, là một phần hết sức quan trọng trong Đạo Phật. Trái lại, còn cho Kinh Điển do các Tổ giảng là ngụy tạo!

Lý do vì sao có việc Truyền Y Bát cũng chẳng có gì là khó hiểu. Ai có học qua lý thuyết của Đạo Phật đều biết, Phật dạy: “Những gì CÓ TƯỚNG đều là hư vọng”. Chính vì vậy, hơn ai hết, Đức Thích Ca biết rằng cái Thân Phàm của Ngài một thời gian nào đó cũng sẽ bị hư hoại. Trong khi đó, Giáo Pháp mà Ngài đưa ra giảng dạy mới được có hơn 40 năm. Tăng Già mới thành lập, còn non trẻ. Một số còn chưa nắm vững Giáo Pháp. Nếu không có người Chứng đắc, Lý, Hạnh vẹn toàn để thay mặt Ngài cằm nắm Tăng Đoàn và phát huy Đạo Pháp thì e rằng những gì Ngài đã giảng dạy khó thể tồn tại lâu dài, nên VIỆC TRUYỀN Y BÁT được đặt ra trước khi Ngài nhập Niết Bàn.

Việc làm đó được lịch sử của Đạo ghi lại, là trong một lần thuyết pháp, giữa Đại chúng, Đức Phật cầm cành SEN đưa lên. Đại chúng đều ngơ ngác, riêng Ngài Ca Diếp mỉm cười. Nụ cười đó đến nay hãy còn là bí ẩn đối với nhiều người tu Phật. Nhưng với người có nghiên cứu thì đều biết là trong khi mọi người không hiểu Đức Thích Ca muốn nói gì trong việc đưa cành Hoa Sen – sau này được dùng làm biểu tượng cho Đạo Phật – thì Ngài Ca Diếp mỉm cười, vì Ngài đã nắm vững Giáo Lý của Đạo Phật. Biết rằng dù Đức Thích Ca dùng bao nhiêu phương tiện để dẫn dắt. Nói bao nhiêu Quả Vị. Tả bao nhiêu cảnh giới. Nhưng cuối cùng chỉ là để người học, hành theo ĐƯỢC NHƯ HOA SEN, dù sinh trưởng trong bùn, nhưng không bị bùn làm cho ô nhiễm. Cũng giống như con người, dù sinh trưởng trong Phiền Não, nhờ Giáo Pháp của Đạo Phật mà không bị Phiền Não nhấn chìm, để cuộc sống ngắn ngủi này được an vui. Vì thế, Đức Thích Ca biết Ngài Ca Diếp đã nắm vững Giáo Pháp, Lý, Hạnh viên dung, nên giữa Đại Chúng, TRAO Y BÁT cho Ngài.

Do vậy Y, BÁT không chỉ là hai vật dụng Đức Phật dùng khi sinh thời, mà còn là Tín vật của Phật được trao truyền từ đời nọ sang đời kia, để mọi người nhìn vào, biết đó là người thay mặt Phật để cầm nắm Chánh Pháp, thống lãnh Tăng Đoàn và quyết định mọi việc khi Phật không còn tại thế. Người được trao Y Bát để làm Tổ kế nhiệm là người đã CHỨNG ĐẮC, nên đương nhiên cũng được xem như PHẬT HIỆN TIỀN. Do đó, những gì Tổ sau dạy bảo thì cũng không khác với Tổ trước và với Phật trước kia. Do đó, người tự mình chê Kinh Đại Thừa là coi thường các Tổ và bất lợi cho mình rồi. Truyền bá tư tưởng đó để người khác phỉ báng và ngăn trở để họ không có cơ hội đọc để mở mang sự hiểu biết thì tội còn nặng thêm. Chỉ những người không hiểu Nhân Quả mới dám làm.

Sau khi trao Y Bát cho Ngài Ca Diếp, Đức Phật dặn dò sau đó trao lại cho Ngài A Nan, vì trong nhóm Đại Đệ tử đương thời, Ngài A Nan là người thuộc Pháp của Phật làu thông “Như nước trong bình đổ ra, không thiếu một giọt”. Duy có điều lúc đó cái Hạnh của Ngài còn thiếu sót, nên phải chờ thêm một thời gian để hoàn chỉnh. Đức Phật cũng dặn dò là Y BÁT sau đó sẽ tiếp tục truyền mãi để thời nào cũng có người cầm nắm Chánh Pháp.

Chính vì không hiểu hết ý nghĩa của việc Truyền Y Bát, chỉ thấy rằng đó là tín vật mà người giữ nó sẽ được thay mặt Phật, cầm nắm Tăng đoàn, phát huy Đạo Pháp, nên nhiều người tìm cách để tranh đoạt. Sự tranh chấp ngày càng gay gắt đến độ người giữ nó sẽ nguy đến tính mạng nên Ngũ Tổ dặn Lục Tổ phải dấu đi, không được Truyền nữa. Y Bát được truyền đến đời Lục Tổ là Tổ Thứ 33 thì mất dấu.

Chúng ta đều biết, Đức Thích Ca đầu tiên đắc đạo ra giảng dạy cách đây đã hơn 2.550 năm. Thời đó ngôn ngữ chưa phong phú. Sự hiểu biết của con người cũng có giới hạn. Phật Pháp lại nói về cảnh giới sâu kín ở trong Tâm nên rất khó diễn tả. Cũng nhờ có các Tổ về sau gần thời của chúng ta khai triển, nên Giáo Pháp của Đạo Phật ngày càng rõ ràng thêm. Những vị giảng Kinh Đại Thừa đều là những TỔ CHÂN TRUYỀN. Không phải thầy tu nào cứ đi tu một thời gian là có quyền giảng và viết Kinh tràn lan như hiện nay. Dù vậy, chỉ có những quyển Kinh do các Tổ giảng dạy mới có giá trị đối với Đạo Phật mà Lịch sử Đạo còn ghi lại: Đó là Ngài MÃ MINH, Tổ thứ 12. LONG THỌ, là TỔ thứ 13. Ngài Đề Bà, Tổ Thứ 14. Tổ Đạt Ma thứ 27 và cuối cùng là Lục Tổ Huệ Năng. Còn lại là biết bao nhiêu Luật, Luận do các giảng sư thời trước đã viết, nhưng không thể gọi đó là chính Kinh, không thể xem đó như lời của Phật để tin theo.

Việc TRUYỀN Y BÁT cho người Chứng Đắc đã quá rõ ràng, lịch sử Đạo còn ghi lại đầy đủ. Vì thế Kinh của các Tổ viết hay giảng không thể nói là ngụy tạo, là kinh của ngoại đạo được. Ngược lại, các Ngài còn khai sáng thêm những điều trước đây do không đủ ngôn từ để diễn tả nên tưởng là “xa kín nhiệm sâu”. Chính các nhà nghiên cứu về sau cũng thừa nhận là Kinh của các Tổ cũng bắt nguồn từ những lời Phật đã giảng khi xưa. Việc chối bỏ những lời dạy của các Tổ chứng tỏ người làm như vậy đã coi thường Di Ngôn của Đức Thích Ca. Vì nếu việc Truyền Y Bát không có giá trị của sự thông đạt Giáo Pháp thì cần gì phải lựa chọn người Chứng Đắc mới truyền? Người này không cần tu lâu. Không cần uyên bác. Không luận già hay trẻ. Thậm chí xem lịch sử Chư Tổ ta thấy còn truyền cả cho người chưa Xuất Gia, chưa thế phát, Quy Y, như trường hợp của Lục Tổ Huệ Năng. Chính điều đó làm cho nhiều người không hiểu nên không chấp nhận được. Nhưng nếu ai có đọc Pháp Bảo Đàn Kinh sẽ có dịp so sánh thế nào là lời giảng của vị đã Đắc Pháp và của người chưa đắc pháp, chứng tỏ Ngũ Tổ không hề nhầm lẫn.

Tiếp theo đây, xin trả lời một số điểm đã nêu ra theo những gì tôi lãnh hội được từ Kinh Đại Thừa.

* Theo Phật Giáo Nguyên Thủy, Đức Thích Ca cũng là vị A La Hán đầu tiên. Do đó quả vị A La Hán là quả vị tối thượng, giác ngộ.

* Giác Ngộ trong Đạo Phật cũng có nhiều tầng bậc mà chư Cổ Đức gọi là “Nghi lớn, Ngộ lớn. Không nghi, không Ngộ”. Không phải vị Giác Ngộ nào cũng toàn giác như Đức Thích Ca. Chúng ta cũng gọi Đức Thích Ca là Phật Thích Ca, không ai gọi Ngài là A La Hán Thích Ca. Chính Ngài cũng xưng: “Ta là Phật đã thành”. Như vậy quả vị A La Hán và quả vị Phật là hai sự thành tựu khác nhau. Không thể là A La Hán rồi nâng cấp lên thành Phật được.

Quả Vị A La Hán là do Đức Thích Ca đặt ra vì sợ nhiều người tu hoài mà không thấy đạt được thành tựu nào sẽ nản lòng. Theo Kinh Diệu Pháp Liên Hoa thì Kinh này chính là để giảng cho các vị A La Hán để mở Con Đường Độ Sinh cho các vị bước vào Hạnh Bồ Tát, nhưng nhiều vị đã bỏ ra về trước khi Phật giảng. Điều đó chứng tỏ vì sao bên Phật Giáo Nguyên Thủy không đề cập đến Hạnh Bồ Tát, vì các Ngài dừng ở Quả vị A La Hán, nên chỉ thấy các Pháp là KHÔNG. Và theo Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, người chưa hiểu, chưa Hành Hạnh Bồ Tát, chưa biết Con Đường Độ Sinh thì không thể nào đạt đến quả vị Phật được.

* PHẬT theo Kinh Đại Thừa, thì không phải là một vị Thần Linh, mà nói về người đã “Thành tựu công việc giải Thoát cho bản thân”. Cũng không phải là ngôi vị độc tôn. Người nào làm được thì người đó là PHẬT. Chính vì vậy mà Đức Thích ca đã Thọ Ký: “Ta là Phật đã thành, Chúng sinh là Phật sẽ thành.”Nên nói rằng Đại Thừa “thần thánh hóa” Đức Phật để tín đồ lấy Đức Tin là quan trọng, rồi cầu xin, van vái, lệ thuộc vào tha lực là hoàn toàn sai.

A LA HÁN theo mô tả trong Kinh DIỆU PHÁP LIÊN HOA là: “Các lậu đã hết, không còn phiền não, việc lợi mình đã xong. Dứt sự ràng buộc trong các cõi”. Pháp của các vị Chứng Đắc là PHÁP KHÔNG. Các vị đã tưởng chỉ cần làm như thế là xong, vì đã được cảnh an lạc, gọi là Niết Bàn. Vì thế, nên khi Đức Phật bắt đầu giảng Kinh Diệu Pháp Liên Hoa thì các vị đều nghi ngờ, thắc mắc, không hiểu Phật dạy pháp Giải Thoát, chứng Niết Bàn, các Ngài đã chứng rồi, nay cớ gì Phật lại khen ngợi pháp Phương Tiện, cho là nhiệm mầu, rất sâu, khó hiểu?

Bài Kệ giải thích: “Vì các loại chúng sanh. Phân biệt nói ba Thừa. Trí kém ưa pháp nhỏ. Chẳng tự tin Thành Phật. Cho nên dùng phương tiện. Phân biệt nói các Quả. Dầu lại nói Ba Thừa. Chỉ vì dạy Bồ Tát”. “Các pháp tướng tịch diệt. Không thể dùng lời bày. Bèn dùng sức phương tiện Vì Năm tỳ Kheo nói. Đó gọi Chuyển Pháp Luân. Bèn có tiếng Niết Bàn. Tên Pháp,Tăng sai khác”.

Theo lời Kinh, sau khi nghe giải thích, các vị A La Hán rất vui mừng, biết rằng mình cũng sẽ được Thành Phật, nên các Ngài đã dùng Thí Dụ để diễn tả lại là trước kia các Ngài trừ hết tà kiến, được chứng Pháp KHÔNG thì cho rằng mình đã được diệt độ, không còn ham muốn gì nữa. Bây giờ nghe Phật nói mới biết rằng muốn Thành phật là phải đủ 32 tướng, được Trời, rồng, thần cung kính, chuyển Pháp Luân Vô thượng, Giáo Hóa các Bồ Tát thì mới Thành Phật được.

Có đọc Kinh Đại Thừa để thấy lời giảng của Chư Tổ, ta mới thấy tất cả những cảnh giới, những nhân vật, từ Nước Phật, cho đến PHẬT, BỒ TÁT, Chúng Sinh, Chư Thần, thiên ma, trời, rồng dữ vv… kể cả Tam Thiên Đại Thiên Thế Giới… đều là những mô tả của Phật về cảnh giới trong NỘI TÂM của mỗi người. Do vậy, người không biết đến CÁI TÂM mà Đạo Phật diễn tả, thường hướng ra, tưởng tượng đó là một cảnh giới ở đâu đó, do đó mà trở thành Thần Quyền, mê tín. Ngay việc CÚNG DƯỜNG PHẬT cũng chỉ để nói về việc ĐỘ CHO CHÚNG SINH CỦA CHÍNH MÌNH, không phải cúng dường một hay nhiều vị Phật nào đó ở bên ngoài!

CHÚNG SINH được chư Tổ giải thích rõ: Đó là tư tưởng của mỗi chúng ta. Chuyển hóa được một tư tưởng xấu, ác trở nên trong sạch, thánh thiện, để nó được Giải Thoát thì gọi là CÚNG DƯỜNG MỘT VỊ PHẬT. Vì thế, một kiếp sống mỗi người sẽ CÚNG DƯỜNG VÔ LƯỢNG VÔ SỐ ỨC ĐỨC PHẬT.

PHẬT là nghĩa của GIẢI THOÁT. Tu là điều phục, sửa chữa, tháo gỡ nơi Cái Tâm đang dính mắc của mỗi người để cuối cùng được Giải Thoát, nên gọi là TU PHẬT. Không phải sửa nơi hình tướng, mà là SỬA NƠI TÂM. Vì thế, Tu PHẬT được gọi là TU TÂM. Người chưa Thấy Tâm của mình để Sửa thì như lời Ngũ Tổ dạy: ‘NẾU KHÔNG THẤY BỔN TÂM THÌ HỌC PHÁP VÔ ÍCH”. Bởi không Thấy TÂM thì việc tu hành chỉ thực hiện nơi hình tướng bên ngoài mà thôi.

Các Tổ ví cái TÂM như con trâu, THÂN là cái xe. Con Trâu kéo cái xe đi phá hư lúa mạ. Nếu chúng ta không không chế CON TRÂU, lại o ép, đánh dập, hành hạ CÁI XE thì vô ích, vì khi CÁI XE bị hư, thì CON TRÂU lại tiếp tục kéo CÁI XE khác đi phá. Do đó, khi tu hành, nếu không thấy được THỦ PHẠM là CÁI TÂM để điều phục, thì dù có bắt CÁI THÂN giữ 250, 350, thậm chí giữ cả ngàn GIỚI thì cũng vô ích mà thôi…

* Đã biết được cái TÂM thì biết rằng Nhục Thân không phải là Phật, vì nó không thoát khỏi Quy Luật Sinh, Lão, Bệnh Tử. Chỉ có Pháp Thân hay Pháp Tánh là Vô Tướng mới thoát khỏi Quy Luật này thôi. Nếu Nhục Thân của Đức Thích Ca là Phật, thì chính ngài cũng đã Nhập Niết Bàn, Trà tỳ. Làm sao nói rằng Thoát Sinh tử? Sở dĩ Đại Thừa nói rằng Đức Thích Ca đã thành Phật từ Vô Thỉ, là vì không riêng gì Ngài. Tất cả mọi chúng ta đều có sẵn Bổn Tánh Giải Thoát, nhưng vì trôi lăn nên quên mất. Vì vậy, tu hành chỉ là Xả Bỏ những ràng buộc để Trở Lại với cái Vốn Có, không phải thành tựu điều gì mới mẻ. Vì thế, không riêng gì Đức Thích Ca, mà ai Biết cách và có quyết tâm cũng đều có thể làm được.

* Sở dĩ Kinh Đại Thừa chê Tiểu Thừa là “hạt giống lép”, là “tiêu nha bại chủng”, là vì nếu các vị thật sự ĐẮC CÁI KHÔNG, thì đâu còn thấy gì. Trên không thấy có Phật để học hỏi. Dưới cũng không thấy chúng sinh để độ, thì còn làm ích gì được cho ai? Còn nếu chưa Đắc cái Không thì làm sao đạt được Quả Vị A La Hán? Hơn nữa, cái THẤY CÁC PHÁP LÀ KHÔNG đó không ứng dụng được và mâu thuẫn. Bởi hàng ngày các vị vẫn mặc áo, ăn cơm, tiếp xúc với mọi người, toàn là PHÁP CÓ, sao nói là KHÔNG được. Ngược lại, Đại Thừa cũng biết các pháp là Không, nhưng chấp nhận hiện tại nó đang TẠM CÓ, nên điều phục cái Tâm mình để KHÔNG CHẤP vào đó. Nhờ đó mà không bị Phiền Não, gọi là được Giải Thoát. Lý giải đó thuận đời mà cũng không trái với Đạo. Hơn nữa, Tu Phật là ĐỂ ĐƯỢC GIẢI THOÁT. Đâu phải để ĐẮC QUẢ.

* Cho rằng kinh Đại Thừa viết: “Chỉ có Phật mới hiểu Phật”. Như vậy thì sai chỗ nào? Phải chăng chỉ người có đến nơi nào đó mới thấy, mới hiểu, mới tả được cảnh vật nơi đó. Người chưa đến, chỉ tưởng tượng làm sao biết để tả được! Cái đó đâu thể gọi là Tăng thượng Mạn?

Dù có nhiều điểm dị biệt, nhưng cho đến hiện nay, hai bên Đại Thừa và Phật Giáo Nguyên Thủy đều chấp nhận một số Giáo Pháp căn bản của Đức Thích Ca đã giảng dạy gồm:

- Tứ Thánh Đế, Bát Chánh Đạo, Lý Duyên Khởi

- Tam Pháp Ấn: Khổ, Không, Vô Ngã

- Con đường tu tập: Giới, Định, Huệ

Xét cho kỹ thì Giáo Pháp Đại Thừa đâu có khác gì với bên Phật Giáo Nguyên Thủy, vì cũng dùng các Pháp của Đức Thích Ca đã dạy, là Tứ Thánh Đế, BÁT CHÁNH ĐẠO, Giới Định Huệ, là những căn bản mà người tu nào cũng phải thực hành. Nếu người tu theo bất kể Thừa nào, Phái nào mà thật sự hành theo Bát Chánh Đạo, hẳn lúc nào cũng lo Thu thúc Lục căn. Vì có CHÁNH KIẾN, CHÁNH TƯ DUY, CHÁNH NIỆM, CHÁNH NGỮ vv... Hành đúng theo đây thì THÂN, KHẤU Ý lúc nào cũng được giữ gìn, nhờ đó sẽ được thanh tịnh, tâm sẽ an lạc. Do đó, bất kỳ người bên Thừa nào. Nếu còn tranh phải quấy, hơn thua. Còn dành nhau Danh uy, tài, lợi thì chứng tỏ là người đó chưa thật sự Tu sửa.

Dù vậy, tôi vẫn chọn ĐẠI THỪA bởi các lý do:

1/- Đại Thừa vẫn trung thành tuân giữ DI NGÔN của Đức Thích Ca trong việc Truyền Y Bát, để người Chứng Đắc mới được cầm nắm và rao giảng Chánh Pháp. Điều đó có lợi cho bá tánh. Kẻ chưa chứng đắc thì làm sao biết Pháp để giảng cho đúng đường lối Phật dạy? Nếu không Chứng Đắc mà cứ “Y Kinh giải nghĩa” thì “Tam thế Phật oan”, chồng mê cho người. Đó là tội Phá Pháp!

2/- Quan niệm, đường lối tu hành của Đại Thừa theo tôi, hợp lý, đúng với thực tế hơn. Không gò bó trong khuôn khổ, hình thức, mà chú trọng nội dung. Kinh DIỆU PHÁP LIÊN HOA viết: “Cõi nước chỗ nào nếu có người thọ trì, đọc tụng, giải nói, biên chép, ĐÚNG NHƯ LỜI TU HÀNH, hoặc là chỗ có quyển Kinh, hoặc trong vườn, hoặc trong rừng, hoặc dưới cây, hoặc tăng phường, hoặc nhà bạch y, hoặc ở điện đường, hoặc núi hang đồng trống, trong đó đều nên dựng tháp cúng dường.

Vì sao? Phải biết chỗ đó chính là đạo tràng, các Đức Phật ở đây mà đặng Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Các Đức Phật ở đây mà Chuyển Pháp Luân. Các Đức Phật ở đây mà nhập Niết Bàn”.

Ở đây” theo tôi hiểu, là ở chỗ ‘ĐÚNG NHƯ LỜI TU HÀNH”. Như vậy thì cần gì phải mặc Y, cạo tóc, ở trong Chùa? Bởi người đời cũng nói “Chiếc áo không làm nên thầy tu”. Phật cũng dạy: “Nếu chiếc áo Cà sa có oai lực giải trừ Tham, Sân, Si, thì cha mẹ hoặc người thân chỉ cần khoác nó lên mình đưa bé khi nó mới chào đời là đã được được toại nguyện”. Ai cũng hiểu, giả sử nếu có người đầy đủ hình tướng, ở trong Chùa, nhưng phá Giới, tâm địa thì nhỏ nhen, ác độc, dối thế, gạt đời… liệu có thể gọi đó là bậc tu hành, và tu lâu thì đắc đạo chăng? Nếu không phải, thì đã xác nhận lời Kinh Diệu pháp Liên Hoa là chính xác rồi.

* Tiểu Thừa thì hạn chế, cho rằng phải Xuất Gia, phải đầy đủ hình tướng mới tu hành được. Trong khi Đại Thừa cho rằng: Bất cứ ai. Bất cứ ở đâu. Ăn vận như thế nào. Có gia đình hay độc thân. Nam hay Nữ. Già hay trẻ. Vẫn làm ăn kinh doanh bình thường như mọi người, MIỄN Y PHÁP TU HÀNH thì đều thành Phật. Như vậy Đại Thừa chẳng phải là Cỗ Xe Lớn, ĐỘ được nhiều người sao?

Quan trọng hơn hết là Giáo Pháp của PHẬT GIÁO NGUYÊN THỦY do không chấp nhận sự hướng dẫn của CHƯ TỔ được TRUYỀN Y BÁT, nên các Ngài dừng ở chỗ thấy được CÁI KHÔNG của các PHÁP mà thôi. Không thấy, không đề cập đến Cái Tâm. Vì thế, người thực hành theo Giáo Pháp này thì cũng giống như Bài Kệ của Sư THẦN TÚ, mới chỉ nhận ra THIỆN, ÁC để CẢI ÁC, HÀNH THIỆN. Trong khi người THẤY TÁNH như Ngài Huệ Năng, biết rằng mỗi người đều có cái CHÂN TÁNH. Cái này vượt lên cả THIỆN ÁC. Tu hành chính là tìm về với cái CHÂN TÁNH, hay còn gọi là BỔN THỂ TÂM đó.

Nếu có đọc Kinh Đại Thừa, ta sẽ thấy rất nhiều giải thích về ý nghĩa thật sự những hình tướng mà các Tu Sĩ vẫn đang thể hiện. Xin tạm nêu một số sau:

- XUẤT GIA không phải là chỉ rời bỏ gia đình, cha mẹ, vợ con… mà là RA KHỎI NHÀ LỬA TAM GIỚI.

- CẠO TÓC không phải là cạo đầu, mà ý nghĩa thật sự là CẠO SẠCH PHIẾN NÃO

- ĐẮP Y không chỉ là khoác trên người mảnh Y màu vàng của nhà Phật, mà là TRÙM PHỦ LÊN THÂN TÂM một màu Giải thoát.

- KHẤT THỰC không phải là đi xin thức ăn phàm tục, và với người Tu có nghĩa là KHẤT PHÁP THỰC. Vì thực phẩm phàm chỉ nuôi dưỡng cái Thân Phàm. Chỉ có Pháp Thực mới nuôi dưỡng Pháp Tánh. Do đó, nếu chỉ làm theo hình thức mà không hiểu được ý nghĩa thì việc Khất Thực có khác gì với người phàm đi xin ăn?

- Việc THẮP HƯƠNG cũng không phải là lấy lửa đốt lên những cây nhang có tẩm mùi thơm. Mà là lấy LỬA TRÍ HUỆ, đốt lên HƯƠNG GIỚI, ĐỊNH, HUỆ, GIẢI THOÁT, GIẢI THOÁT TRI KIẾN. tức là Giữ cái Tâm không tưởng nhớ điều quấy, không làm việc ác, không Tham Lam, Giận Hờn, Thương, Ghét. Giữ cái Tâm không tán loạn, không dính vào lành, dữ, nhân, ngã, lại học rộng, nghe nhiều để củng cố sự hiểu biết về Đạo pháp vv...

Phụ Bản I

- CHÙA là nghĩa của THANH TỊNH ĐỊA. ĐỊA đây là nói về ĐẤT TÂM. Có nghĩa là tẩy, rửa, cải tạo cho cái TÂM của mình hết tội lỗi, hết nghĩ ác, làm ác, để nó được thanh tịnh, là ta đã biến cái TÂM của mình thành nơi cho Phật ngự. Không phải là dùng vật liệu phàm tục rồi xây cái nhà với mái cong và đặt nhiều tượng Phật vô đấy với vài vị Sư, Tăng đầu tròn, áo vuông thì nơi đó trở thành Chùa.

- PHẬT có nghĩa là GIẢI THOÁT. Người Giải Thoát cho bản thân hết Phiền Não thì đó là PHẬT. Do vậy mà Kinh mới gọi là BA ĐỜI PHẬT. Tức là Quá Khứ đã có nhiều vị được Giải Thoát. Hiện Tại cũng có, mà Tương Lai cũng sẽ có nếu làm đúng theo những lời Phật dạy.

- Phật Thừa là Đắc cái Vô Sở Đắc, cái không còn Ta Chứng Đắc. A LA HÁN còn Sở Đắc. Kinh Đại Thừa viết: Trong Phật Pháp, người có chứng đắc là kẻ Tăng thượng mạn.

- TRỪ TAM TÂM không có nghĩa là bỏ hết các Tâm Quá Khứ, Tâm hiện tại, Tâm vị lai, mà là TRỪ ĐI TÂM THAM, TÂM SÂN, TÂM SI. Bởi vì nếu con người đang sống mà bỏ hết mọi nghĩ tưởng thì trở thanh gỗ, đá vô tri. Đạo Phật đâu có dạy người tu để trở thành vật vô tri.

Do vậy mà Kinh dạy có 4 điều nên Y theo, gọi là TỨ Y: Y TRÍ BẤT Y THỨC. PHÁP BẤT Y NHÂN. Y NGHĨA BẤT Y NGỮ. Y KINH LIỄU NGHĨA BẤT Y KINH VỊ LIỄU NGHĨA. Có nghĩa là hãy Y theo TRÍ, tức là sự hiểu biết sáng suốt về Đạo Pháp, dừng y theo sự hiểu biết thông thường của con người. Y theo Pháp mà học hỏi, tu hành, đừng Y theo người, (nghĩa bóng là hình tướng bên ngoài). Y theo NGHĨA, đừng Y theo chữ. Và Y theo Kinh khi đã rõ nghĩa, đừng y theo Kinh khi chưa rõ nghĩa. Những lời như thế liệu phàm phu, ngoại đạo nào có thể viết ra?

Ngoài ra, khi đối chiếu với Chính Kinh, tôi thấy có rất nhiều nghi vấn đối với các vị tu hành hiện nay. Trước hết, tôi cho rằng cái hiểu về ngôn từ của Đạo Phật dù chùa chiền nhiều như vậy nhưng Phật Tử vẫn chưa được giải thích rõ ràng. Đến thời này nhiều người vẫn còn hiểu, còn tin là Phật quyền phép vô song, cứu độ tất cả chúng sinh, cầu gì được nấy, nên sống thì cầu an, chết thì cầu siêu. Cầu thăng quan tiến chức, tai qua, nạn khỏi, không biết rằng Đạo Phật cũng được gọi là Đạo NHÂN QUẢ. Nếu đã thật sự tin vào Nhân Quả thì việc cầu xin, cúng kiến có ích gì?

Ngoài ra, nếu chúng ta đã hiểu Ý NGHĨA THẬT SỰ CỦA CHÙA, thì mỗi người cần thành lập, cải tạo cho cái Tâm đầy gò nỗng, rồng dữ, cá trạch, thuồng luồng, độc ác của mình thành một khu đất Thanh Tịnh. Chuyển những chúng sinh độc ác thành thánh thiện. Cảnh nhơ bẩn thành trong sạch. Ai cũng có nghe nói là PHẬT TẠI TÂM. Vì vậy, Nước Phật được Kinh tả là có “Ao nước chứa tám Công Đức”. Thật ra đó chỉ là ý nghĩa của kết quả việc Hành theo Bát Chánh Đạo. Và“dây vàng, Bảy Báu giăng khắp”. Đó chỉ là thành tựu của việc trừ 7 Nghiệp nơi THÂN, KHẨU, Ý. Những công việc như vậy gọi là DỰNG MỘT CẢNH CHÙA TRONG NỘI TÂM, để cho CHƯ PHẬT của mình ngụ. Kinh giải thích “Phật là Vô Tướng, do vô lượng Công Đức mà thành”, tức là nói về Công Đức Trì Giới, hành Thiện hạnh của mỗi người, tạo thành những sự an lạc, thanh tịnh trong Tâm. Như vậy thì xây Chùa hữu tướng cho to để Phật nào ngự?

Nếu chúng ta ý thức được Đạo Phật dạy mỗi người “TỰ TU”, “TỰ ĐỘ”. Con của Phật là La Hầu La, em của Ngài là A Nan cũng phải tự tu để tự độ thì mỗi người lo TỰ ĐỘ LẤY MÌNH, đâu cần người khác phải Độ cho. Thời xưa, khi mới nhóm họp Tăng Chúng, Đức Thích Ca cần phải tách rời những người tu ra khỏi mọi xô bồ, làm ăn, chung đụng với người đời, để tập trung lo học hỏi đạo pháp làm nồng cốt cho Đạo, nên cần có người cung dưỡng để những người tu toàn tâm toàn ý mà học hỏi để sau này quảng bá. Cho nên Phật dùng phương tiện nói rằng “Chùa Chiền là ruộng phước của bá tánh. Người cúng dường nơi đó sẽ được phước báu vô lượng”. Nhưng tới thời này, Đạo Phật đã thịnh hành, Kinh Điển đã được dịch ra tiếng Việt, ai cũng có thể thỉnh về để tự đọc và hành trì theo. Phật pháp cần phổ cập, để mọi người vẫn cứ giữ tròn bổn phận làm người, làm công dân, làm con, làm cha mẹ của mình, tùy theo khả năng để chung tay, góp sức trả nợ cuộc đời. Trong đó vẫn tu sửa cái Tâm để bản thân mình ngày càng hoàn thiện hơn. Xã hội không còn cảnh đấu tranh, giành giật, tàn sát lẩn nhau. Để mọi người cùng được an vui trong kiếp sống ngắn ngủi này. Kiếp sau nếu có thì lại càng tốt đẹp hơn. Đó là mục đích của Đạo Phật, và như thế mới đúng với ý nghĩa của HOA SEN mà Đạo Phật dùng làm biểu tượng. Đâu cần phải đóng khung, lìa bỏ cuộc đời mới tu được ? TU chỉ mang một nghĩa duy nhất là SỬA. Vậy thì Ở đâu? Mặc gì? làm gì mà không SỬA được? Hơn nữa, nếu tách rời thế gian, tránh né pháp, không tiếp xúc với nó thì mới tu được thì làm mất đi ý nghĩa thật sự của Hoa Sen mà Phật muốn con người noi theo, vì HOA SEN vẫn tiếp tục nở hoa trong bùn, đâu có bứng đi để trồng vào chậu nước tinh khiết, tách rời khỏi bùn?

Ai cũng biết: “Ông tu, ông đắc, bà tu, bà đắc” thì việc thu nhận quá nhiều người đang tuổi trẻ, sức khỏe dồi dào, có thể đóng góp cho xã hội, lại rủ bỏ hết, vô Chùa để chỉ tụng Kinh, Niệm Phật, trở thành gánh nặng thêm cho người đời vốn đã mỏi mệt với bon chen. Hưởng dụng đồng tiền mồ hôi, nước mắt của người khác liệu có đúng Chánh Pháp không? Vả lại, trong đó kẻ thật tâm tu hành cũng có, mà kẻ lợi dụng Đạo để được nhàn thân ắt là đông hơn – Bằng chứng là trong số hơn mười mấy ngàn ngôi Chùa rải rác trên cả nước và cả mấy trăm ngàn Tăng Ni chính thức, được bao nhiêu người thật sự Ngộ Đạo, có thể giảng nói Phật Pháp, làm ích lợi cho bá tánh? Hơn nữa, dù là thật tâm tu hành đi nữa, nhưng việc tu hành theo Đạo Phật chỉ là TỰ ĐỘ, thì việc nhờ người khác Độ cho để mình rảnh rang, nhàn thân để tu hành, Thành Phật, liệu có phải là Chánh Nghiệp, Chánh Mạng?

Đối chiếu cuộc sống của Phật, Tổ, và nhìn vào thực tế của các vị tu hành hiện nay tôi thấy có quá nhiều khác biệt. Trong khi Đức Phật Thích Ca và Chư Tổ cả đời tu hành chỉ Một Y, Một Bát. Đức Thích Ca còn mặc vải liệm thi. Mã Tổ Bách Trượng còn “Nhất Nhật bất tác, nhất nhật bất thực” mà nhiều người tu thời nay chưa thoát được cái ham hố vật chất. Dùng điện thoại di động đời mới. Di chuyển bằng phương tiện đắt tiền. Chùa sang còn gắn máy lạnh cho tu sĩ! Chùa nhỏ phấn đấu để cất to thêm. Thậm chí như một ngôi Chùa ở Đài Loan, Bồ Đoàn ở Chánh Điện dùng toàn gấm đắt tiền. Các Sư còn có phòng tắm Sauna để thư giãn. Đi khất thực bằng xe Lexus! Như vậy rõ ràng vẫn tiếp tục cưng chiều, phục vụ cho cái Thân và phung phí tiền bạc của bá tánh. Như vậy mà cho rằng đang Tu hành phải chăng là Vọng Ngữ, mà đã Vọng Ngữ thì có xứng đáng là Đệ Tử Phật? Như thế thì việc thọ nhận sự kính trọng và cúng dường của bá tánh liệu có thoát được nghiệp quả?

Ở nước ta thì người dân còn nghèo khổ. Nhiều nơi không làm nổi chiếc cầu để đi. Qua sông phải đu giây, tính mạng bị đe dọa từng ngày. Bệnh Viện thì không đủ. Cơ sở vật chất thiếu thốn. Trường học rất cần cho bọn trẻ để mở mang kiến thức, làm vốn để vào đời thì nhếch nhác, vá víu tạm bợ. Trẻ thơ thì cha mẹ không có tiền cho đi học, tuổi thơ phải chịu cơ cực, mò cua, bắt ốc kiếm sống qua ngày. Người nghèo không tiền trị bệnh, sống lây lất chờ chết! Bao nhiêu người già không nơi tựa nương, bệnh hoạn hành hạ, Chùa nghèo mang về cưu mang, thiếu thốn đủ thứ. Rất nhiều lớp trẻ thi đỗ mà không tiền đóng học phí phải bỏ dở việc học hành, mất cả tương lai! Biết bao đứa trẻ bị bỏ rơi phải nhờ vào những tấm lòng nhân hậu của những con người cũng nghèo xác xơ mang về đùm bọc! Trong khi đó thì Chùa Chiền ngày càng mọc lên, hoành tráng, nhà ngang nhà dọc, trang hoàng lộng lẫy, đổ bao nhiêu tỷ tỷ vào đấy! Liệu Đức Phật có hài lòng khi thấy đệ tử của Ngài cứ chăm chút chùa to, Phật lớn mà không nhìn ngó ra xã hội để thấy bá tánh đang lầm than? Như vậy thì Tâm TỪ, BI, Hạnh thí, xả, được coi là ưu thế của Đạo Phật mà các tôn giáo khác không có được áp dụng vào đâu? Ngày xưa, có vị Sư đi quyên góp để cất Chùa, nhưng thấy trong nước có thiên tai thì Ngài dùng tiền đó để giúp cho bá tánh. Đến mấy lần như vậy mới cất được ngôi Chùa. Ngày nay không thấy có Cao Tăng nào có được Hạnh như thế. Như vậy phải chăng Lý một nơi, Sự một nẻo?!

Ai cũng biết, Đạo Phật sở dĩ có mặt ở trần gian là vì con người. Tát cạn vực nước mắt của chúng sinh, đưa con người Thoát được cảnh Khổ là nguyện ước của Chư Phật Ba Đời. Tôi tin rằng Đức Phật không cần ta vinh danh bằng Chùa lớn, Phật to, tín đồ ngày một đông. Mà bao giờ chúng sinh hết lầm than, không còn cảnh đói, khổ, thiếu thốn hành hạ, chừng đó mới nói rằng Đạo Phật đã đi vào đời một cách thiết thực, thật sự gần gũi với con người. Đại Thừa hay Phật Giáo Nguyên Thủy đều cho rằng Phật, Bồ Tát không phải là thần linh thì lời cầu xin bao giờ mới được đáp ứng? Và lời nguyện của Địa Tạng Vương Bồ Tát: “Ngày nào còn một chúng sinh chưa được độ, con thề chưa ngồi vào nơi Vô Thượng Chánh Giác” phải chăng là lời nhắc nhở cho những vị tu hành. Thay vì giảng hay, có uy tín lớn, thu nạp thêm nhiều tín đồ Quy y với mình, rồi dùng tiền quyên góp xây Chùa to, Phật lớn để lưu danh hậu thế. Sao Quý Sư không cùng hợp lực, dùng ảnh hưởng của mình, hô hào, quyên góp bá tánh để xây thêm Trường Học, Bệnh Viện, xây Cầu, và giúp đỡ những người đang đau khổ, thiếu thốn, bệnh tật là những việc làm thiết thực để chia sẻ bớt gánh nặng cho cuộc đời?

Vào khoảng cuối tháng Tư vừa qua, dư luận rộ lên thông tin những cái chết quá thương tâm làm rúng động lòng người: Một phụ nữ bệnh hoạn, con đỗ Cao Đẳng mà chạy vạy khắp nơi không có tiền cho con đi học. Xin sổ hộ nghèo cũng không được cấp. Bí quá viết thư tuyệt mệnh để lại rồi treo cổ tự vẫn, mong có được số tiền phúng điếu để trả nợ và cho con đi học! Hai phụ nữ đang trẻ trung không có tiền đóng tiền phạt giao thông nên uống thuốc diệt cỏ. Một phụ nữ khác đông con, vợ chồng không lo nổi, nhà thì túng thiếu nên thường xuyên cãi nhau đã uống thuốc tự tử để các con được đưa vào Cô Nhi Viện. Hai vợ chồng ôm nhau trầm mình cùng với đứa con 5 tuổi! Tất cả cũng chỉ vì nghèo túng, bế tắc! Nếu có được sự quan tâm chia sẻ của mọi người thì bi kịch đâu đến nỗi xảy ra! Người đời quen thói ích kỷ thì vô tình đã đành. Còn các đệ tử của Phật có nhiệm vụ “Cứu độ chúng sinh” đang ở đâu? Chùa thì xây bao nhiêu mới đủ? Tượng lớn cỡ nào mới vừa? Làm bằng chất liệu gì mới xứng đáng? Cổ nhân có câu: “Dẫu xây chín bậc phù đồ, không bằng làm phúc cứu cho một người”. Không cần phân biệt là các vị đang tu theo Phật Giáo Nguyên Thủy hay Đại Thừa. Nhưng các vị đã mang trên người hình ảnh của Đức Đạo Sư thì nên giữ cho thật trong sạch, xứng đáng. Nếu các vị sử dụng đồng tiền của bá tánh một cách có ý nghĩa thì việc làm đó mới thể hiện được đức Từ Bi của nhà Phật làm cho mọi người thêm tin tưởng vảo Phật Pháp, vào sự cứu độ của Phật, Bồ tát. Như vậy các vị mới thực sự là Đệ Tử của Phật, đang đem ánh sáng Phật Đạo đến với mọi tầng lớp, làm vơi đi nước mắt của chúng sinh. Đang Giảng Đạo Phật bằng thực tế, không chỉ bằng lời nói suông vậy.

Tâm Nguyện

Tháng 6/2013

Thử bàn về

Văn hóa đọc ở Việt Nam

Văn hóa đọc là một khái niệm có hai nghĩa, một nghĩa rộng và một nghĩa hẹp . Ở nghĩa rộng, đó là ứng xử đọc, giá trị đọc và chuẩn mực đọc của mỗi cá nhân, của cộng đồng xã hội và của các nhà quản lý và cơ quan quản lý nhà nước. Như vậy, văn hóa đọc ở nghĩa rộng là sự hợp thành của ba yếu tố, hay chính xác hơn là ba lớp như ba vòng tròn không đồng tâm, ba vòng tròn giao nhau. Còn ở nghĩa hẹp, đó là ứng xử, giá trị và chuẩn mực đọc của mỗi cá nhân. Ứng xử, giá trị và chuẩn mực này cũng gồm ba thành phần: thói quen đọc, sở thích đọc và kỹ năng đọc. Ba thành phần này cũng là ba lớp, ba vòng tròn không đồng tâm, ba vòng tròn giao nhau. 

Muốn phát triển nền văn hoá đọc phải phát triển ứng xử, giá trị và chuẩn mục đọc lành mạnh của các nhà quản lý và cơ quan quản lý nhà nước, của cộng đồng xã hội và của mỗi cá nhân trong xã hội. Nhưng trọng tâm và là mục đích cuối cùng của phát triển văn hoá đọc chính là phát triển ứng xử, giá trị và chuẩn mực đọc lành mạnh của mỗi thành viên trong xã hội. Ứng xử, giá trị và chuẩn mực đọc lành mạnh của mỗi cá nhân trong xã hội là thói quen đọc, sở thích đọc và kỹ năng đọc lành mạnh của họ. Đó chính là nền tảng của một xã hội học tập, của việc học suốt đời, một yêu cầu cũng là một thách thức của xã hội hiện đại.

Để hiểu sâu hơn về văn hóa đọc, chúng ta sẽ đi sâu vào từng nghĩa rộng và hẹp của khái niệm. Văn hóa đọc ở nghĩa rộng là ứng xử, giá trị và chuẩn mục đọc của các nhà quản lý và cơ quan quản lý nhà nước, ứng xử đọc của cộng đồng xã hội và ứng xử đọc của mỗi cá nhân trong xã hội.

Ứng xử, giá trị và chuẩn mực đọc của các nhà quản lý và cơ quan quản lý nhà nước là chính sách, đường lối và ứng xử hàng ngày nhằm phát triển nền văn hoá đọc. Các hoạt động này đều nhằm tạo ra hành lang pháp lý phát triển tài liệu đọc có giá trị và lành mạnh cho mọi người đọc khác nhau và sự thuận tiện của tài liệu đọc đến với người đọc (thông qua các loại cửa hàng sách và các loại hình thư viện, phòng đọc sách). Nghĩa là người đọc, không phân biệt giàu nghèo, không phân biệt tuổi tác, không phân biệt nơi cư trú đều dễ dàng tiếp cận đến những tài liệu đọc giá trị họ mong muốn, để họ có cơ hội cải thiện chính cuộc sống của họ.

Đó là chính sách, đường lối phát triển nền công nghiệp sách (từ người viết, người làm sách tới quá trình hình thành sách đến tay người đọc) có chất lượng cao, giá cả hợp lý, hợp với túi tiền của mọi người dân và phân phối rộng khắp trên toàn quốc, với các hình thức, biện pháp tuyên truyền, hướng dẫn đọc phong phú, đa dạng và hiện đại.

Ứng xử, giá trị và chuẩn mục đọc của cộng đồng xã hội là sự phát triển của các hội nghề nghiệp liên quan tới đọc như: Hội tác gia, Hội nhà báo, Hội xuất bản, Hội thư viện... Tất nhiên các hội này phải hoạt động với mục đích chính là phát triển nghề nghiệp. Ứng xử đọc của cộng đồng xã hội còn phải kể tới truyền thống văn hóa của xã hội hay nói chính xác hơn là truyền thống văn hóa tôn vinh người viết sách, người đọc sách và người truyền thụ kiến thức (kể cả giáo dục kỹ năng đọc và hướng dẫn đọc). Ở đây không thể không kể tới những hoạt động đa dạng và phong phú của các tổ chức văn hóa xã hội khác nhằm phát triển văn hóa đọc như: hoạt động của Hội phụ nữ, Hội thanh niên... tổ chức thi đọc sách, thi tìm hiểu một vấn đề nào đó thông qua tìm hiểu sách báo.

Ứng xử, giá trị và chuẩn mục đọc của mỗi cá nhân trong xã hội là thói quen đọc, sở thích đọc và kỹ năng đọc của mỗi người.

- Trước hết cần tạo ra và phát triển thói quen đọc suốt cuộc đời cho mỗi người. Xây dựng thói quen đọc phải được bắt đầu từ tuổi ấu thơ, ở nhiều nước người ta bắt đầu thực hiện từ tuổi trước khi đến trường, do các bậc cha mẹ thực hiện. Còn trong suốt cuộc đời đi học và sau khi ra đời là quá trình học tập và rèn luyện các kỹ năng đọc. Trong suốt quá trình học tập, mỗi cá nhân phát hiện ra sở thích đọc của chính họ để phát huy sở trường và hạn chế những sở đoản.

- Thói quen và kỹ năng đọc mang tính chất đồng loạt, còn sở thích đọc lại phụ thuộc hoàn toàn vào từng cá nhân cụ thể (trình độ giáo dục và thiên tư cá nhân), ví dụ: có người thích đọc thơ, có người thích đọc tiểu thuyết, có người thích đọc sách nghiên cứu, có người thích đọc sách phổ biên khoa học kỹ thuật, văn hoá nghệ thuật... Yếu tố này tạo ra sự đa dạng, phong phú, giàu mầu sắc cho nền văn hóa đọc trong xã hội.

Nếu xét văn hóa đọc của từng cá nhân phải đảm bảo có đủ cả ba yếu tố trên. Nếu một người có thói quen đọc, nhưng thiếu kỹ năng đọc, hiệu quả đọc không cao, thậm chí không có hiệu quả, chỉ mất thời gian vô ích. Nếu nắm vững kỹ năng đọc, nhưng không tạo được thói quen đọc, cũng chẳng thu lượm được kiến thức là bao, thiếu những kiến thức cần thiết cho cuộc sống của chính họ.

Nhưng đôi khi người ta nói văn hóa đọc của mỗi cá nhân đồng nghĩa là kỹ năng đọc của họ. Điều đó nói lên tầm quan trọng của kỹ năng đọc của mỗi cá nhân. Và chính khái niệm này cũng là một khái niệm đang phát triển và có nội dung hết sức phong phú.

Kỹ năng đọc là sự thể hiện tổ hợp những thao tác tư duy được xác lập thành thói quen ứng xử đọc.

- Mục đích cuối cùng của kỹ năng đọc là đọc có hiệu quả cao nhất, nắm chắc nội dung cốt lõi và biết vận dung những điều đã đọc được vào cuộc sống của chính người đọc. Ngày nay người ta đặc biệt lưu tâm tới yếu tố: “Biết vận dụng những nội dung đã đọc vào cuộc sống của mỗi người đọc để có thể cải thiện được chính cuộc sống của họ”. Không phải vô cớ mà hàng năm UNESCO trao giải thưởng xoá mù chữ cho những cá nhân, tập thể không chỉ biết đọc biết viết đơn thuần, mà phải biết vận dụng những điều đọc được vào cuộc sống của chính họ, cải thiện được cuộc sống nghèo khổ của người mù chữ.

-Nhân “NGÀY BẢN QUYỀN THẾ GIỚI 23-4”

Vào ngày 20 – 21.4.2013 vừa qua, tại Cung Văn hóa Lao động, Sở Thông tin – Truyền thông Tp.HCM đã tổ chức “Ngày Hội Đọc Sách”, thu hút rất nhiều thanh thiếu niên đến Đọc sách miễn phí và nghe thuyết trình.

Truyền thống hiếu học của mọi người vẫn cuồn cuộn, tuy là dòng thác ngầm. Giá trị của Văn hóa Đọc sẽ không mai một, mặc dù các hình thức giải trí ngày càng phát triển.

oOo

Chúc mừng CÂU LẠC BỘ SÁCH XƯA & NAY – Tp.HCM

- Vào ngày 17.6.2013, CLB Sách Xưa & Nay tròn 7 năm thành lập. Trong suốt quá trình sinh hoạt của mình, Câu Lạc Bộ đã tập hợp được số đông các dịch giả, nhà văn, nhà thơ, nhà giáo, người yêu sách… và ngẫu nhiên trở thành một Sân chơi cho mọi thành viên không phân biệt tuổi tác, sinh hoạt vào mỗi ngày thứ Bảy thứ 2 trong tháng, địa điểm là nhà thờ Tân Sa Châu, Tân Bình - mà Linh mục Chánh sở Nguyễn Hữu Triết, cũng là một nhà sưu tầm Sách cổ - đã giúp đỡ tận tình cho Câu Lạc Bộ.

- Nhân dịp CLB Sách Xưa & Nay vừa được đúng 7 tuổi, chúng tôi xin chúc mừng Chủ nhiệm Vũ Anh Tuấn - đã điều hành Câu Lạc Bộ hoạt động đều đặn và hiệu quả, với tờ Bản Tin hàng tháng đã gây được cảm tình của nhiều người - và cầu mong nền Văn hóa Đọc tại Việt Nam nói chung, và Tp.HCM nói riêng, ngày càng phát triển mạnh mẽ hơn nữa nhằm để nâng cao trình độ dân trí mọi người, giúp Quê hương mau cất cánh trên trường quốc tế.

Cầu mong và Chúc mừng!

PHẠM VŨ

Thành viên CLB Sách Xưa & Nay – Tp.HCM

&

NGƯỜI MÌNH NÓI CHUYỆN DU HỌC 105 NĂM TRƯỚC…

ĐI HỌC PHƯƠNG XA

Nhơn ngày 20 Juin sẵn diệp có nhiều người Annam đi qua kinh đô nước Langsa mà học thêm, thì ông Chủ bút L.T.T.V có đãi một tiệc rượu và đọc bài chúc như sau nầy. Có ông hội đồng quản hạt Trà-vinh và ông Nguyễn-trọng-Quản cựu giám đốc trường sơ Nam-kỳ dự tiệc cùng cha mẹ học trò; bài chúc như vầy.

Ớ các trò.

Trời sanh các trò có phước làm con nhà hào hộ, nay cha mẹ các trò biết sự học là có ích cho nên chẳng sợ tốn tiền bạc chịu cho các trò qua nước Langsa mà học thêm. Mai đây hừng đông thì các trò từ giã đất Nam-việt, xa cha mẹ thân bằng, cùng ba triệu đồng bào mà ra đi, trong ba triệu đồng bào ấy còn nhiều người dốt nát và quê mùa lắm, vì không có thể đi học như các trò, các trò phải hằng ngày nhớ đến sự ấy luôn.

Ý của cha mẹ các trò cho con đi học làm nghề gì thì tôi không rỏ, song tôi có một đều khuyên các trò là đừng đi học rồi về mà làm việc hiếp đáp dân Annam. Phải ráng nên người xứng đáng với thế gian là học làm quan bát vật, học cơ xảo học đại thương.

Các trò cũng nhớ rằng tôi cũng hết sức lo lường quyên tiền đặng cho con nít nghèo qua Tây ăn học, việc nầy chẳng thành, nhưng vậy chẳng phải ý nghỉ ấy là sơ siễng chi, vì ngày nay cha mẹ các trò cũng hiệp một ý với tôi mà cho các trò đi tới gốt cội mà học.

Các trò cũng biết lòng riêng của tôi là ước ao sao cho đồng bào mình cho mau tấn bộ trong đàng văn minh. Muốn cho đặng chuyện như vậy tôi chẳng tiếc công cùng chẳng sợ tốn của, liều hết mọi việc cho thành sự và chẳng sợ ai, trách móc quở phạt gì!

Các trò phải ráng mà tỏ ra rằng cha mẹ tốn tiền cho con đi học chẳng phải là chuyện vô ích và sau các trò trở về đây cho xứ sở quê hương nhờ đặng.

Tôi uống ly rượu nầy mà chúc cho các trò đi thuận bườm xuôi gió, học hành cho mau thông thái, đặng về mà giúp quê hương.

Thái bình cho nước Annam!

Thái bình cho sự giáo huấn!

Thái bình cho cho sự Văn minh!

Ông Gilbert Chiếu ôm hung mỗi trò mà phủ hủy. Kế M. Quản đứng dậy xin nói một đôi lời:

Tình cờ tới đây gặp cuộc ông Gilbert Chiếu đãi đưa mấy trò qua Tây đi học thì tôi lấy làm mừng; nhơn diệp tôi xin nói một ít lời: tôi cũng có đi qua Tây học, nhưng mà lúc tôi đi thì chưa đặng hiểu rỏ đàng đi nước bước cho lắm, cho nên học tới đâu hay tới đó, mà may nhờ ơn trời bền chí học thêm cũng biết đủ với đời. Chớ còn như các trò đây thiệt là rất có phước, có người dắc kẻ dẩn chỉ vẻ phương học, cách thế, mau thông mau giỏi, khỏi mất ngày giờ. Như cha mẹ các trò bởi nghe lời ông phủ đây, khuyên bảo nên mới xuất tiền bạc cho các trò đi Tây. Nay ra đi, lại có ông Salles là cựu quan Thanh-tra diều dắt, chỉ vẻ mọi đều khỏi sợ khỏi lo. Ấy thiệt là đại phước.

Đi học bên Tây, không phải là đi học văn chương chữ nghĩa mà thôi, mà lại phải học cho hiểu, cho rỏ phong tục người Langsa ta, phải học cho biết cách ăn thói ở người ta; phải học cho hiểu nghề làm ăn cách buôn bán việc ruộng nương trồng trỉa người ta; phải học cho biết đặng rộng suy rộng nghỉ; phải học cho biết ở đồng tâm hiệp lực với người đồng bang mình; phải học cho trí tỏa, lượng rộng, cho lòng ngay dạ thẳng ấy là các đều cũng phải học nữa.

Các trò cũng chẳng nên qua nước Langsa mà học, có ý cho đặng ngày sau về ỷ mình học hành thông thái mà hà hiếp con dân nước mình, không có dân thì lấy ai mà làm ruộng làm nương, lấy ai mà cày mà cấy, mà trồng mà trỉa, không dân thì lấy ai mà nạp thuế, chịu sưu cho có tiền nhà nước, bắt cầu làm lộ, phát bổng lộc cho ông Huyện ông Phủ, thầy Ký thầy Thông, mấy trò cũng chẳng nên chăm chỉ một lòng học về làm ông kia ông nọ; mà bỏ việc ích quốc lợi dân. Không! Xứ ta đây viên quan cũng đủ, người làm việc nước cũng nhiều, nếu các trò về mà thêm số hơn nữa thì có ích lợi đâu? Phải học về mà làm cho nước cho dân đặng hưng sùng thạnh lợi, cho việc buôn bán nước ta càng ngày càng tấn tới, cho việc ruộng nương nước ta đặng mở mang thêm nữa, ấy học như vậy mới nên là người có ích, chẳng phải là có quyền chức người ta mới cung mới kỉnh, người có tài ta cũng đáng kỉnh đáng vì, mà nếu có tài mà lại biết giúp đở con dân thì người ta lại càng thêm yêu thêm phục hơn nữa.

Như các trò có ý đi học về rồi quên kẻ đồng bang, khinh người dân dả, chẳng làm ích gì cho xứ mình, thôi thì ở nhà đi làm ruộng còn khá hơn.

Lục Tỉnh Tân Văn 1908

ĐỖ THIÊN THƯ st.







Phụ Bản II

TẶNG NGƯỜI ĐỜI SAU

Sinh trước ta là người đời xưa. Sinh sau ta là người đời sau, có giống nhau không? Xin thưa rằng cũng thế cả! Người đời xưa không biết mặt ta. Người đời sau cũng không biết mặt ta. Đã không biết mặt ta thì đều là người rưng cả. Cho nên bảo rằng “Cũng thế cả” là thế. Thế nhưng tôi lại chợt nghĩ lại: Người đời xưa không biết mặt ta, thế mà không ngày nào là ta không nghĩ đến họ. Người đời sau cũng không biết mặt ta, thế nhưng ta thực chưa hề nghĩ đến họ bao giờ.

Suy thế ta không ngày nào không nghĩ đến người đời xưa, thì biết người đời sau họ sẽ nghĩ đến ta, chắc thế! Suy như ta chưa hề nghĩ đến người đời sau bao giờ, thì biết người đời xưa họ cũng chẳng nghĩ gì đến ta, lẽ đó rõ ràng lắm! Như vậy thì người đời xưa với người đời sau có khác nhau xa! Vì rằng người đời xưa, chẳng những không biết mặt ta, lại còn không thèm nghĩ gì đến ta, như vậy thì ta có thể cho là người rưng thật được! Đến như người đời sau, tuy không biết mặt ta, nhưng nghĩ đến ta nhiều lắm. Không biết mặt ta, có phải lỗi họ đâu, họ không làm thế nào được đấy! Nhưng họ nghĩ đến ta nhiều lắm, họ đối với ta thật có tình thân thiết, cớ sao ta lại coi họ là người rưng? Cho nên không thể không có cái gì để làm quà cho họ! Nhưng làm quà cho họ bằng cái gì?

Người đời sau tất nhiên thích đọc sách. Đọc sách tất phải nhờ ánh sáng. Có ánh sáng soi vào sách, sách mới có thể đọc được? Tôi nguyện được làm ánh sáng để làm quà cho họ. Thế nhưng mặt trời, mặt trăng vốn đã sẵn có. Tôi lại không thể ép mình ra làm dầu, làm mỡ được! Biết làm thế nào?

Người đời sau đã thích đọc sách, đọc sách tất phải thích có bạn. Bạn là người bỗng chốc đến, bỗng chốc đi, bỗng chốc không đi, bỗng chốc không đến! Ta đọc mà thấy khoan khoái thì ta đọc cho bạn nghe. Bạn đọc mà thấy ngờ thì bạn đọc cho ta nghe. Rồi đến lúc cùng đọc cùng nghe. Rồi lại đến lúc không đọc nữa, cùng ngồi mà cùng nhau vui cười. Tôi nguyện được làm người bạn ngồi, cùng đọc, cùng nghe, cùng cười để làm quà cùng cho họ. Thế nhưng lúc tôi còn thì người đời sau chưa kịp đến. Đến lúc họ đến thì tôi có còn đâu! Biết làm thế nào?

Người đời sau đã thích đọc sách, lại thích có bạn, thì tất nhiên cũng thích cả hương thơm, chè ngon, thuốc hay rượu ngọt. Hương thơm, chè ngon, thuốc hay rượu ngọt, là những món giải trí trong khi đọc sách có rỗi, để cho khuây khỏa buồn bực, sáng láng tinh thần tẩm bổ lấy hình hài, di dưỡng lấy tình tính?

Tôi nguyện được hóa thân làm trăm nghìn thứ, đã hóa làm núi cao, sông rộng, cây lạ, hoa tươi, lại hóa làm hương thơm, chè ngon, thuốc hay rượu ngọt, để làm quà cho họ. Thế nhưng tôi hóa thân trước mà người đời sau sinh sau, họ có biết đâu đó là những món tôi hóa thân ra nữa! Biết làm thế nào?

Người đời sau đã thích đọc sách, tất phải thích có cô bạn tri kỷ. Cô bạn tri kỷ là người mưa chiều, sương sớm, ngồi kề một bên, khi ở cùng ở khi vui cùng vui, thân tuy hai mà lòng là một. Tôi nguyện kiếp sau được lộn mình làm cô bạn tri kỷ, mưa chiều, sương sớm, ngồi kề một bên, để làm quà cho họ. Thế nhưng khi cho hóa làm gan con chuột, khi bắt hóa làm cánh con ve, con Tạo ghê gớm kia, nào biết sẽ để tôi lộn làm kiếp gì? Biết làm thế nào?

Cực chẳng đã, thì có cách thế này: lấy một món ở trong đời xem chừng tài sức nó có thể còn mãi đến đời sau, nhưng từ trước đến nay chưa ai là người biết đến, mà tôi có thể đem hết tài hết sức để góp công vào đó mảy may… Ở trong đời, cái món tài sức có thể còn mãi đến đời sau, tất phải là sách… sách trong đời, tài sức có thể còn mãi đến đời sau, nhưng từ trước đến nay, chưa ai là người biết đến, mà tôi có thể đem hết tài hết sức để góp công vào đó mảy may, tất phải là vở “Mái Tây” mà tôi phê-bình đây! Tôi sở dĩ phê-bình vở “Mái Tây”, chính là cảm tấm lòng người đời sau nghĩ đến tôi, mà không có gì làm quà cho họ, nên cực chẳng đã, tôi đành phải dùng cách ấy. Còn đến như sơ-tâm người viết vở “Mái Tây” có như thế hay không thì tôi đâu có biết! Nếu cũng như thế, thì có thể cho là bây giờ đời mới thấy có vở “Mái Tây”! Nếu không như thế có thể nói rằng trước kia đời vẫn thấy có vở “Mái Tây”, nhưng bây giờ đời lại mới thấy có vở “Mái Tây”, của chàng Thánh-Thán. Tóm lại là tôi muốn làm duyên với người đời sau, đôi chút, chứ nào phải có hoài công sức mà làm việc cho người đời xưa!

NH. TỐNG

HOÀNG KIM THƯ st.

Phù Du

- Bóng Thời Gian

Thời gian mờ xóa dấu yêu xưa

Vẫn còn ngày nắng đợi ngày mưa,

Nơi cũ là đây, con phố ấy 

Nhớ bước ai, chiều thu lá bay

*

Thời gian hờ hững có chờ ai

Chẳng chút xót thương, chẳng đoái hoài,

Đi mãi, lững lờ không trở lại

Đời người như một giấc mơ dài...

*

Biết làm sao giữ, thời gian ơi!

Sắc hương tàn úa, tháng ngày vơi,

Giàu - Nghèo tất tả con đường sống

Tinh hoa - Hèn hạ cũng buông xuôi...

*

Sẽ một ngày vàng nát - Lệ tuôn rơi!

Hờ hững - Thời gian vùi chôn - Tả tơi,

Cõi tạm - Quán trọ đời - Phù du một cõi,

Bâng khuâng sao! Và tâm hồn bối rối,

Ngập ngừng khi gần đến... Cuối con đường!

Phạm Thị Minh-Hưng


Sau Buổi Ly Hôn

 

Lời cuối cùng Thẩm phán đưa ra

Như lưỡi dao xẻ con thành hai nửa

Gia đình ta chẳng còn như trước nữa

Con chỉ được chọn một thôi: Mẹ hay Ba?

Sống với người này là thiếu vắng người kia

Chú-cậu-cô-dì đang thuận hòa bỗng nhìn nhau lạ lẫm.


Chẳng hẹn, mẹ và ba cùng thở phào nhẹ nhõm

Như cất đi gánh nặng mỏi mòn

Cất đi đâu?

Hay vừa chuyển hết sang con?

Ba không cần biết! Mẹ không muốn biết!

Chỉ có con không cần vẫn biết:

Biết thế nào là mất mát, cô đơn

Là bất hạnh, là nhớ thương

Là khắc khoải mong ba, đợi mẹ…


Ra khỏi tòa, bước chân ba thật nhẹ

Không vấn vương, không chần chừ

Bởi bên đường có hạnh phúc mới đang chờ

Mẹ tươi cười nắm lấy một bàn tay đón đợi…


Cả mẹ

Cả ba

Như vô tình chẳng nhớ ra:

Con một mình nhỏ nhoi trước sân tòa ngập nắng

Con một mình ngẩn ngơ, ngơ ngẩn

Muốn gọi to mà chẳng thành lời

Mẹ ơi!

Ba ơi!

Ba mẹ đâu rồi?


GIÁNG NGỌC (GĐ)


Tình Khúc Cho Anh

(Viết trong ngày Hôn phối 6.5…)

I

Em ước ao làm loài hoa Hướng Dương

Hoa hướng về mặt trời, còn em hướng về anh tuyệt đối

Xin cho em đừng một lần gian dối

Để cuộc đời không trắng nghĩa yêu thương

Xin cho em vòng tay mê đắm đến dị thường

Với ánh mắt dịu dàng như suối nước

Với bờ môi thoảng mùi khói thuốc

Với lời ngọt ngào ru em ngủ bình an…

Đừng hỏi: -“Từ bao giờ em biết yêu anh?”

Em lắc đầu, cười thôi mà chẳng nói

Chuyện thương yêu ví như mây như khói

Chuyện thương yêu ví như núi như sông

Chuyện thương yêu mãi nối tiếp trùng trùng

Thì bao giờ có ai mà kể hết?

Em có thể yêu anh từ tiền kiếp

Từ thuở hồng hoang… Ngày xửa ngày xưa…

Có thể khi còn là một hạt bụi lửng lơ

Như lời ca dao đậm đà tình ý:

Sao Tua chín cái nằm kề

Thương anh từ thuở mẹ về với cha ”…

II

Em ước ao làm loài hoa Mắc Cỡ

Để khép nép e dè

Để ngượng ngùng bỡ ngỡ

Khi mắt anh nhìn

Khi môi anh hôn

Khi lời anh nhẹ như tiếng thở:

-“Anh đi rồi, em có nhớ hay không?”

Em ngước nhìn anh và trả lời thầm:

-“Vừa cách biệt đã nghe thương nhiều lắm!”

Thành phố ngập sắc màu tím-đỏ-vàng-xanh

của áo dài váy ngắn

Cả một biển người đi ngược về xuôi

Cả một rừng người nói nói cười cười

Chỉ riêng em đơn côi, lạc bước…

III

Em ước ao làm loài chim Ô Thước

Bắc nhịp cầu cho các cặp vợ chồng đang sống chia xa

Cũng như chúng ta,

Không bao giờ còn phải xa nhau nữa

Anh sẽ có em để kể lể vơi đầy niềm thương nỗi nhớ

Em có anh để yêu dấu giận hờn

Chúng mình xây dựng tương lai bằng thủy chung

Bằng chân thành,

Bằng tin yêu suốt đời không dời đổi

Vì “Chim lạc bầy thương cây nhớ cội

Người xa người, tội lắm …”

Phải không?

GIÁNG NGỌC (GĐ)

Tiếng thơ

Tiếng thơ êm ả mênh mông

Lời thơ trang trải nỗi lòng đầy vơi

Thơ bay cao vút lưng trời

Thơ nghe ngào ngạt hương đời ngất ngây

Thơ về quyện gió cùng mây

Thơ thêm hương vị tháng ngày trong ta

Thơ mang tình nghĩa đậm đà

Thơ gieo bao nỗi thiết tha với đời

Thơ làm vui cả đất trời

Thơ xoa dịu mọi đầy vơi nỗi lòng

Thơ hòa gió mát trăng trong

Thơ nguồn an ủi hoài mong cuộc đời

Thơ như tiếng sáo ngàn khơi

Thơ là câu hát đẹp trời yêu thương

Thơ liền tình bạn bốn phương

Thơ ơi ta mãi vấn vương bên lòng

Bốn mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông

Hãy xin gởi chút hương nồng cùng thơ

XUÂN VÂN


THU


Lá vàng rơi rất khẽ

Trong gió nhẹ như ru

Mây trôi chừng lặng lẽ

Ôi! Mùa thu!

Mùa thu!


Một mùa thu trông ngóng

Một mùa thu nhớ nhung

Một mùa thu ước vọng

Một mùa thu ấm lòng!!!

XUÂN VÂN

Chiều tà

Hoàng hôn thoi thóp ánh dương tà

Đơn độc, âm thầm ta với ta!

Nắng nhạt chập chờn đu khóm lá

Gió hiu phe phẩy vẫy cành hoa

Áng mây lờ lững – chào thu đến

Dòng nước mơ màng – tiễn hạ qua

Canh cánh niềm riêng chiều quạnh quẽ

Mộng lòng theo nắng tắt non xa

XUÂN VÂN

NGỠ NGÀNG

Xuân chiều nhớ một niềm thương

Bao nhiêu tình cảm trên đường đời qua

Đồng cam cộng khổ thiết tha

Vô thường dâu biển, thuyền xa bến đàn

Phù du kiếp sống hợp tan

Người đi kẻ ở, cách ngang chuyến đò

Dư âm tâm sự tơ vò

Lòng trần giao động buồn lo ngỡ ngàng!

THANH CHÂU


Thuyền không bến

Lơ lửng thuyền ai lái hững hờ

Lênh đênh phiêu bạt giữa dòng mơ

Gió trăng thỏa thích đời cô lữ

Sông nước vui lòng kiếp lỡ cơ

Duyên nợ chia phôi tình chiếc bóng

Cung đàn lỗi nhịp nghĩa đôi thơ

Nơi đâu thân ái làm bờ bến

Mà khách giang hồ mãi ngẩn ngơ

THANH CHÂU

Long Hòa 11.11.2005

10.10 Năm Ất Dậu

TUỔI

TRỐN ĐÂU RỒI

Thôi chẳng cần chúc nhau trẻ mãi

Bởi trái tim đâu có tuổi đời

Bởi nụ cười em còn đọng mãi trên môi

Còn thốt gọi ơi người yêu dấu

Thôi chẳng cần đâu phải giấu

Ta trao cho nhau ánh lửa tình người

Trao cho nhau lấp lánh niềm vui

Bởi còn mưa nhiều hơn nắng

Bởi còn những chiều xa vắng

Còn những bài ca chưa viết nên lời

Vũ điệu nào em gọi mời tôi

Ở bên nhau ta không có tuổi

Tay trong tay tuổi trốn đâu rồi!

LÊ NGUYÊN

ĐƠN PHƯƠNG


Máu chảy ngược về tim

Lòng em chừng ngây ngất

Mưa mùa thu lất phất

Khung trời tím phôi pha


Như một kẻ không nhà

Em lang thang hiu quạnh

Thời gian đầy bất hạnh

Nên lỡ nhịp tơ duyên


Soi tiền kiếp tịch nhiên

Chợt thấy đời trong suốt

Trái tim sầu giá buốt

Không nắm giữ được anh


Không giữ được màu xanh

Nên biển tình hờ hững…

NGÀN PHƯƠNG


GIÓ THU GÂY THƯƠNG NHỚ

Niềm vui mất

Cánh hoa tàn

Ngày xanh hờ hững

Nắng vàng nhạt phai

Tiếng lòng vương đọng bóng mây

Cúi đầu đếm bước tìm ngày mơ xa


Chiều lắng xuống

Thời gian qua

Vẳng trong bóng tối

Giọng ca u hoài

Bướm xưa từ giã trang đài

Người xưa biền biệt chân trời hoang liêu


Sương đêm lạnh

Nhớ nhung nhiều

Sao rơi lạc lõng

Quạnh hiu ngập hồn

Sương mờ vương vấn dòng sông

Nghe tim thổn thức nghe lòng chơi vơi


Mùa thu đến

Hương thu gợi nhớ

Dáng người mình thương

Bờ mi ướt đẫm lệ buồn

Tìm vào kỷ niệm vùi chôn nỗi sầu


Trang thư cũ

Giấc mộng đầu

Như làn gió thoảng

Đêm sâu lắng chìm

Suốt đời lịm kín nỗi niềm

Ưu tư tàn phá mối duyên bẽ bàng


Bao ngăn cách

Nhuốm ly tan

Lầu mơ sụp đổ

Dở dang ân tình

Sầu lên khóe mắt ươm trinh

Ý thơ lịm chết lung linh êm đềm


Gió lay nhẹ

Rặng liễu mềm

Ánh sao vụt tắt

Cánh chim lạc đàn

Thu gây hương nhớ bâng khuâng

Vượt trùng dương lướt dặm ngàn tìm nhau

NGÀN PHƯƠNG


CHIỀU ĐÔNG

Chiều lạnh sương buông trắng lớp dày

Mặt trời chín đỏ rụng chân mây

Đầu thôn mấy tiếng chuông chùa đổ

Một cánh cò xa uể oải bay…

Vĩnh Phú, 12.12.1965

VŨ ĐÌNH HUY

WINTER EVENING

In the cool evening dew fell in thick white layers

The reddish sun dropped at the horizon

A few pagoda bells resounded at the village’s gate

Far away, a stork flew slackly…

Vĩnh Phú, 12.12.1965

VŨ ĐÌNH HUY

Translated by VŨ ANH TUẤN


CHIẾC QUẠT BÌNH MINH

Nắng sớm xòe nan quạt sáng ngời

Quạt tan sương giá, vẫy chim trời

Em như chiếc - quạt – bình - minh ấy

Quạt cháy niềm vui vạn nẻo đời.

10.02.1966

VŨ ĐÌNH HUY

THE DAWN FAN

The morning sunlight spread the bright fan blades

Fanning away the cool dew and waggling the sky birds

You’re like that very dawn fan

Fanning the happiness’ flame over all sides of life.

10.02.1966

VŨ ĐÌNH HUY

Translated by VŨ ANH TUẤN


GẶP GỠ THOÁNG QUA

Ôi, có những người tôi gặp gỡ

Chỉ một lần thôi cũng khó quên.

Lắm lúc lặng đi vì chợt nhớ,

Lại sưởi lòng tôi ấm áp thêm.

Dù chẳng bao giờ tôi gặp lại

Em – người tôi đã gửi yêu thương

Thì như gieo hạt không chờ hái

Vẫn được mùa sai bát ngát hương…

29.01.1966

VŨ ĐÌNH HUY

MEETING IN A FLASH

Oh, there were people I’ve met

Only one time, but I couldn’t forget

At times, I turn stunned when suddenly thinking of them

While feeling warmer in my heart

Although I’ve never met thee again

You – to whom I’ve offered my love

It’s like sowing seeds, with no plan to harvest

But I always have a so scented bumper crop…

29.01.1966

VŨ ĐÌNH HUY

Translated by VŨ ANH TUẤN

HÀ NỘI

trong những Áng văn của Nguyễn Tuân

& Ca khúc của Hoàng Hiệp

NHÀ VĂN NGUYỄN TUÂN VIẾT VỀ HÀ NỘI

Văn sĩ và thi sĩ người Hà Nội không ít. Văn sĩ và thi sĩ viết về Hà Nội càng nhiều. Mỗi tác giả đều có những áng văn hay về Thủ đô. Trong số đó có nhà văn Nguyễn Tuân.

Nguyễn Tuân quê ở làng Nhân Mục (làng Mọc), xã Thượng Đình, nhưng cất tiếng khóc chào đời cách đây 103 năm (10/7/1910 - 2013) tại phố Hàng Bạc một trong 36 phố phường Hà Nội cổ, trong một gia đình nhà nho.

Nguyễn Tuân bắt đầu viết báo, viết văn từ năm 1933 và thực sự sống bằng ngòi bút từ năm 1937, với một phong cách tài hoa không trộn lẫn với ai.

Trước cách mạng tháng 8, Nguyễn Tuân đã cho ra đời những truyện ngắn, tùy bút ghi lại những nét văn hóa của Hà Nội nghìn năm văn hiến.

- Truyện “Hương cuội” là nền nếp gia phong, là cách uống rượu, ngâm thơ, thưởng hoa của các nhà nho Hà Nội: “Cụ Kép làng Mọc nguyện đem cái quãng đời xế chiều của một nhà nho để phụng sự lũ hoa thơm cỏ quý. Biết đã đủ tư cách chơi cây cảnh, cụ mới gây một vườn lan nho nhỏ, muốn nói rằng người chơi hoa nhiều khi phải lấy cái chí thành chí tình mà đối đãi với giống hoa cỏ. Như thế mới phải đạo, cái đạo của người tài tử.”

Rượu nhà tự chưng cất, rất quý: “Mấy vò rượu này là rượu tăm đấy. Cụ nhà ta quý nó hơn vàng”. Rượu này uống với kẹo mạch nha cuốn bọc ngoài những viên đá cuội trắng phau xếp khéo vào chậu lan đang nở, đậy lồng bàn giấy dó để ủ hương hoa vào kẹo: “trên mỗi án thư nhỏ, ngất nghểu hai chậu lan còn lù lù chiếc lồng bàn úp và một hũ da lươn lớn có nút lá chuối khô...”. Tiệc rượu hương cuội thường được khai mở vào trưa mồng một Tết kéo dài đến chiều hoặc vào đêm rằm tháng giêng. Uống rượu và đọc thơ “Rồi mỗi chén rượu là một lời thơ ngâm trong trẻo”. Không có hoa lan thì phải có chậu hoa thủy tiên tỉa khéo, hoa nở, toả hương thơm ngào ngạt theo thời khắc chủ nhân muốn. Đấy là một nét văn hóa tao nhã, lịch sự trong sinh hoạt của các nhà nho.

Sau uống rượu, uống trà là việc phổ biến thường ngày trong thiên hạ. Nhưng với Nguyễn Tuân, uống trà là một nghệ thuật mang tính triết lý của người có văn hóa. Chả thế mà tác giả viết liền hai truyện “Những chiếc ấm đất” và “Chén trà sương” nói chuyện uống trà. Để có một chén trà ngon, phải hội đủ các thứ: ấm trà, nấu nước pha trà, loại trà, cách pha. Phải chọn một trong ba loại ấm: “Thứ nhất Thế Đức gan gà; - thứ nhì Lưu Thủy; - thứ ba Mạnh Thần”. Nước thì: “Những người uống trà đúng cách thức trà đạo bao giờ cùng có ít nhất là hai cái ấm đun nước. Ấm nước sôi nhắc ra khỏi lò than là đã có chiếc ấm thứ hai đặt lên đấy rồi. Và hai cái ấm đồng đỏ cứ được thay nhau đặt lên lò than đỏ rực, người ta có luôn tay một thứ nước sôi đủ độ nóng để pha một ấm trà ngon”. Trà phải là trà tàu, hoặc trà mạn ướp nhụy sen hồ Tây. Thưởng thức cái vị, cái hương của chén trà tàu, trà mạn là những người “không cẩu thả trong cái thú chơi thanh đạm. Pha cho mình cũng như pha mời khách đã để vào đấy nhiều công phu. Những công phu đó đã trở nên lễ nghi. Trong ấm trà pha ngon, người ta nhận thấy có một mùi thơ và một triết lý... Chỉ có người tao nhã, cùng một thanh khí mới có thể ngồi cùng nhau bên một ấm trà”.

- Ai đã có thời gắn bó với Hà Nội thì khi xa càng nhớ quay nhớ quắt Hà Nội, nhất là những người một thời sống ở khu phố cổ chật hẹp, luôn nghi ngút mùi khói Phở, mùi khói Thịt nướng, mùi Ngô nếp nướng, mùi Nước mắm cà cuống. Có người cực đoan đến mức không ăn phở Sài Gòn vì ngọt quá, dù công tác dài ngày ở thành phố phương nam này.

Tháng 5-1957, trong chuyến công tác 10 ngày ở Phần Lan, một sáng thức dậy giữa cái lạnh của người xa xứ, Nguyễn Tuân đăm đăm nhớ Hà Nội, ước gì lúc này có bát phở khói nghi ngút trước mặt. Thế là tùy bút “Phở” ra đời đăng lên báo Văn (10-5-1957 và 17-5-1957), được độc giả nồng nhiệt đón nhận. Người đã ăn phở Hà Nội thì thích thú thưởng thức mùi vị qua cách tả kỹ lưỡng của tác giả về các loại phở. Người ở khắp nơi chưa một lần tới Hà Nội thì làn khói từ tô phở trong văn của Nguyễn hấp dẫn sự tò mò và khao khát một lần được về Hà Nội để ăn một bát phở trong một quán phở chật chội, ám khói ở phố Bát Đàn, phố Hàng Bạc, Hàng Bè... hay những gánh phở rong như Nguyễn Tuân kể.

Uống là thế, ăn là thế.

- Hà Nội xưa còn một thú chơi rất văn hóa nữa là viết chữ đẹp . Coi uống rượu, uống trà là một thú chơi tao nhã, lịch sự trong giao tiếp, các nhà nho còn trau dồi viết chữ đẹp để cho chữ, tặng chữ cho những người có nhân cách, có tấm lòng “biệt nhỡn liên tài” lại biết quý chữ.

Người viết chữ đẹp không chỉ có hoa tay mà còn phải rèn luyện và hơn thế phải là nhà nho có nhân cách, có khí phách. “Chữ người tử tù” là một truyện ngắn ca ngợi nét văn hóa truyền thống của các hiền nhân quân tử: “Chữ ông Huấn Cao đẹp lắm, vuông lắm. Tính ông vốn khoảnh, trừ chỗ tri kỷ, ông ít chịu cho chữ. Có được chữ ông Huấn Cao mà treo là có một vật báu trên đời”. Những nếp sống văn hóa “vang bóng một thời” trong văn chương Nguyễn Tuân tưởng rằng đã mai một theo sự thăng trầm của lịch sử. Nhưng nay đã và đang được khôi phục, phổ biến là viết thư pháp, viết câu đối ở các chùa, ở các lễ hội lớn như festival Huế và dịp tết Nguyên Đán.

- Nguyễn Tuân có cách viết lịch sử rất súc tích : “Nói về ngoại xâm lấy đất Thăng Long - Hà Nội làm chiến trường, sử sách ghi lại 5 lần nội loạn và 9 lần xâm lăng (...). Pháp chiếm xong thành Hà Nội, đi vào cuộc bình định Bắc Kỳ và ngày 23-7-1893 Pháp ra Nghị định phá thành Hà Nội. Chiếu theo Nghị định trong 3 năm phải phá xong thành, nhát cuốc đầu tiên đã bổ vào thân thành một buổi sớm mùa thu 18-8-1894. Song song với việc bạt thành lấp hào là việc “chôn sống” con sông Tô Lịch” (Một ít lịch sử Hà Nội)

Đọc đến đây, ta chợt nghĩ: Hoàng thành Thăng Long cách đây 200 năm chắc còn tồn tại trên mặt đất và khi quân Pháp cho đập phá, chắc sử sách có ghi lại? Vậy thì tại sao đến một ngày tháng 12-2002, khi cho san ủi mặt bằng xây dựng nhà Quốc hội, mới phát lộ di tích đồ sộ này? Câu hỏi này mấy năm nay chưa được nhà nghiên cứu nào trả lời!

- Tiếp nối truyền thống đánh giặc giữ nước của bao đời, những năm 60, 70 của thế kỷ 20, trước cuộc chiến tranh phá hoại bằng không lực của Mỹ, quân và dân miền Bắc nói chung, Hà Nội nói riêng đã chiến đấu và chiến thắng oanh liệt. Tinh thần chiến đấu đó được Nguyễn Tuân phản ánh sinh động qua tập ký “Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi”. Tác giả tự hào với chiến công của Hà Nội: “Hăm ba con đại bàng Mỹ B.52 là thành tựu chiến thắng chung của Thủ đô trong chiến dịch mười hai ngày đêm liền Hà Nội chỉ ngủ có một mắt”.

Từ ngôi nhà ở phố Trần Hưng Đạo-Yết Kiêu, Nguyễn Tuân thường thả bộ trên các đường phố đến Hội Nhà văn, đến các nhà xuất bản, đến tòa soạn các báo, đến bạn bè, dạo quanh hồ Gươm bằng cảm quan của một người Hà Nội tinh tế, nhạy bén, giàu cảm xúc.

Những hàng cây trên phố (mỗi phố Hà Nội thường trồng một loài cây riêng), và bao nhiêu cây quanh hồ Gươm đều đi vào sáng tác của Nguyễn Tuân như một nhà nghiên cứu thực vật chuyên nghiệp: “Cây sấu trông hình thù xấu xí. Cũng như anh Trương Chi tiếng hát rất hay, cây sấu có nhiều đức tính...” (Cây Hà Nội)

- Hà Nội có nhiều hồ lớn hồ nhỏ, nổi tiếng nhất là Hồ Gươm giữa trung tâm mà Nguyễn Tuân đặt cho nó cái tên “Con Hồ Thủ đô”- một bài tùy bút về Hồ Gươm làm cho bao độc giả nôn nao trong lòng nếu chưa đến và đến rồi lại muốn được đến nhiều hơn, lâu hơn để được ngắm nhìn vẻ đẹp của con Hồ này ở mọi thời khắc của một ngày, của những ngày khác nhau trong bốn mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông. Con Hồ có lúc đã làm cho nữ văn sĩ Ba Lan phải thốt lên chút ganh tị đáng yêu: “Tôi muốn đánh ghen với tạo vật, cái thứ tạo vật biệt nhỡn với những con người Hà Nội - Không thế sao Thủ đô của anh lại có một cái Hồ xinh nhường ấy! Tôi mệnh danh hồ Hoàn Kiếm của các anh là một viên ngọc êmơrốt.”
Chúng ta tưởng nhớ về một nhà văn Hà Nội đã qua đời cách đây 16 năm (7-1987) Nguyễn Tuân đã dùng văn phong tài hoa, độc đáo của mình để lại cho hậu thế những áng văn hay về thủ đô Thăng Long- Hà Nội yêu dấu và để thêm một lần được có lời cảm ơn nhà văn Nguyễn Tuân kính mến!

“NHỚ VỀ HÀ NỘI” CỦA NHẠC SĨ HOÀNG HIỆP

Dù có đi bốn phương trời, lòng vẫn nhớ về Hà Nội...

Đây là lời mở đầu của một ca khúc viết về Hà Nội nổi tiếng của nhạc sĩ Hoàng Hiệp. Một cảm giác lạ lùng, man mác ẩn hiện trong lòng tôi, nhớ lại thời niên thiếu xa xưa ấy... Tôi sinh ra ở Pháp Vân, Thanh Trì, Hà Đông, rồi quê tôi sáp nhập vào Hà Nội, cách Hồ Hoàn Kiếm khoảng bảy cây số. Đây là vùng nổi tiếng với Bánh cuốn Thanh Trì, Bún Lươn, Bún Ốc...

Tôi nhớ về Hà Nội thời mới bỡ ngỡ cắp sách đi học lớp năm (lớp 1) trường tiểu học Nguyễn Du, phố Bắc Ninh (nay đổi là trường Hàng Vôi, phố Hàng Vôi, Hà Nội). Thật là một ngôi trường uy nghi, bệ vệ với hai tầng, kiến trúc theo kiểu Pháp, điều này khiến cho một cậu học sinh bé bỏng càng run sợ, lúng túng trong buổi đẩu tiên tôi đi học; như nhà văn Thanh Tịnh đã viết:

"Hàng năm cứ vào cuối thu, lá ngoài đường rụng nhiều và trên không có những đám mây bàng bạc, lòng tôi lại nao nức những kỷ niệm mơn man của buổi tựu trường. Tôi quên thế nào được những cảm giác trong sáng ấy nảy nở trong lòng tôi như mấy cánh hoa tươi mỉm cười giữa bầu trời quang đãng..."

Hà Nội của ta, Thủ đô yêu dấu một thời đạn bom một thời hòa bình...

Với sự thăng trầm của lịch sử, Hà Nội đã trải qua biết bao thời kỳ đạn bom thời Toàn quốc Kháng chiến, qua 10 ngày chiến đấu, quân và dân Hà Nội đã giành thế chủ động, làm cho quân Pháp bị thiệt hại nặng, đã làm thất bại âm mưu đánh chiếm thành phố của Pháp. Sau khi đã giam chân địch được 2 tháng, thấy nhiệm vụ kìm chân, tiêu hao địch đã đạt yêu cầu và cần phải bảo vệ lực lượng, nên cấp trên quyết định để Trung đoàn Thủ đô rút lui ra ngoài.

Thời kỳ Mỹ thả bom Miền Bắc, Hà Nội đã bắn rơi nhiều máy bay Mỹ, đã lập nên trận "Điện Biên Phủ trên không", làm chấn động dư luận thế giới, bị thất bại nặng nề, Mỹ phải ngừng ném bom và ký Hiệp định Paris, chấm dứt chiến tranh. Cuối cùng, Hà Nội được sống trong thời kỳ hòa bình từ sau Hiệp định Geneve và sau ngày Tổ quốc thống nhất cho tới nay.

Nhớ phố Quang Trung, đường Nguyễn Du, những đêm Hoa sữa thơm nồng...

Và nhớ tiếng leng keng tầu (điện) sớm khuya, hướng ra Đống Đa, Cầu Giấy…

Việc đi học của tôi ở trường Nguyễn Du đang dệt trong tôi biết bao ước mơ thời niên thiếu thì tôi phải chuyển sang trường Trần Nhật Duật, ngôi trường mới xây xong nằm cạnh phòng tắm công cộng, gần cầu Long Biên. Thế là tôi đành chia tay với một số bạn, vì chỉ một số học sinh đang sống từ đoạn phố từ Hàng Thùng tới Trần Nhật Duật mới phải chuyển trường. Lần đầu tiên trong đời cậu học sinh lớp Ba mới biết thế nào là chia tay bạn bè, như nhạc sĩ Dzoãn Mẫn viết: "Biệt ly nhớ nhung từ đây. Chiếc lá rơi theo heo may, người về có hay?".

Học ở trường mới được một niên khóa, vì gia đình thân phụ dọn nhà, nên tôi lại phải chuyển về học tại trường tiểu học Quang Trung, tọa lạc gần góc phố Quang Trung và phố Nguyễn Du, nhìn ra hồ Thiền Quang. Trái tim tôi trải qua mấy cuộc chia tay, biệt ly nho nhỏ đó cũng khiến tôi bớt buồn bã, chán nản đôi chút. Chính trong lúc đang học lớp Nhất tại trường Quang Trung, thì ngày Giải phóng Hà Nội đến. Tất cả học sinh trường tôi đi bộ ra phố Huế để đón Bộ đội tiến về Hà Nội, không khí thật là tưng bừng, náo nhiệt vang khắp phố phường Hà Nội, một cảm giác lâng lâng, tự hào mà khó có thể tôi quên được. Tôi cứ tưởng tượng ra không khí vang lừng, hãnh diện đó, như trong bài hát "Tiến về Hà Nội", nhạc sĩ tài hoa Văn Cao đã viết:

"Trùng trùng quân đi như sóng. Lớp lớp đoàn quân tiến về. Chúng ta đi nghe vui lúc quân thù đầu hàng, cờ ngày nào tung bay trên phố... Năm Cửa Ô đón mừng đoàn quân tiến về. Như đài hoa đón mừng nở năm cánh đào chảy dòng sương sớm long lanh."

Sau ngày vui đó khoảng hai tháng, tôi cùng các bạn học sinh trường Quang Trung và các trường khác tại Hà Nội cùng nhau đến Vườn Bách thảo để dự Lễ mừng Cụ Hồ và Chính phủ trở về Thủ đô. Từ đây, Hà Nội sống trong thời kỳ hòa bình đầu tiên...

Khu vực phố Nguyễn Du nổi tiếng với những hàng cây hoa sữa, có hoa màu trắng như sữa, mùi thơm nồng, đã là nguồn cảm hứng cho nhiều nhạc sĩ có những sáng tác mang hoa sữa vào ca khúc của họ. Và hoa sữa cũng từng chứng kiến biết bao những cặp đang yêu, đến tình tự, thề nguyện sẽ yêu nhau trọn đời...

Ôi nhớ Hồ Gươm xanh thắm, nơi Tháp Rùa nghiêng soi bóng...

Thành cũ Thăng Long, hồn nước non thiêng, còn lắng đâu đây, dấu xưa oai hùng, Hà Nội ơi!

Vì sống ở gần Hồ Hoàn Kiếm tức Hồ Gươm, tôi có rất nhiều kỷ niệm với Hồ Gươm, với đền Ngọc Sơn, cầu Thê Húc cùng với tháp Bút và đài Nghiên. Hai di tích này do Nguyễn Văn Siêu, một nhà văn hóa lớn của Hà Nội, đã xây một tháp đá mà đỉnh là hình ngọn bút lông, trên thân tháp có tạc ba chữ "Tả thanh thiên" (viết lên trời xanh) và một đài Nghiên, là một cửa cuốn trên có đặt một cái nghiên bằng đá, tạc theo hình nửa quả đào. Qua Đài Nghiên là đến cầu Thê Húc (nơi đậu lại ánh sáng mặt trời ban mai). Đầu cầu bên kia là Đắc Nguyệt Lâu (lầu được trăng) tức cũng là cổng đền Ngọc Sơn. Đền là nơi thờ Văn Xương, Quan Vũ và Trần Hưng Đạo. Trước mặt bái đường là Trấn Ba Đình (đình chắn sóng), tại đây, cậu bé học trò lớp Ba đã ra đây, leo ra bờ đất bao quanh Đình, lấy đất sét về nặn tượng hình thú vật, hình lá cây, để nộp bài Thủ công cho thày giáo.

Xa trông, góc tây nam hồ là Gò Tháp Rùa. Tôi nhớ lại là có một lần duy nhất, khoảng năm 1953, Hà Nội có tổ chức Chợ Phiên ngay tại phố Lê Thái Tổ, nằm ven bờ hồ, chính tại Chợ Phiên, khách tham quan có thể mua vé để đi qua chiếc cầu Rồng - bằng phao làm dã chiến trên các thùng phuy nổi trên hồ, sang bên Gò, bước xuống thảm cỏ xanh mướt quanh Tháp Rùa cổ kính, để thăm nơi của các Cụ Rùa, lâu lâu bò lên nằm tắm nắng, đảo mắt ngắm hồ Gươm và thủ đô của chúng ta. Đây đúng là một dịp hi hữu mà tôi đã có cơ hội ra tận Gò của cụ Rùa thăm Tháp Rùa cổ kính, rêu phong. Hơn nữa, vì trường Nguyễn Du nằm ở gần Hồ Gươm, nên tôi đã có vài dịp, cùng các bạn học cùng trường, Rước Đèn màu sắc rực rỡ, ánh nến lập lòe xuyên qua giấy bóng kính nhiều màu sáng loáng vào đúng đêm trăng tròn Tết Trung thu, trông như học sinh chúng tôi đang chơi trò “Rồng Rắn lên mây” vòng quanh Hồ Hoàn Kiếm thân yêu của tuổi thơ.

TÓM TẮT

Qua những Áng văn đẹp về Hà Nội của nhà văn Nguyễn Tuân và ca khúc “Nhớ về Hà Nội” của nhạc sĩ Hoàng Hiệp, đã khiến người viết thả hồn về đất Thăng Long xa xưa, nhớ nhất là Lẵng hoa của Thủ đô, đó là Hồ Gươm xinh xắn và mỹ miều.

Biết bao kỷ niệm về Hồ Hoàn Kiếm đã khắc sâu vào trong lòng tôi - một câu bé học sinh tiểu học vô tư, ngây thơ - cho đến nay, da dẻ nhăn nheo, tóc đã nhuốm hai màu, vẫn không bao giờ phai mờ theo năm tháng...

PHẠM VŨ

Tham khảo: Sách báo về Nguyễn Tuân và ca khúc của Hoàng Hiệp

Phụ Bản III



Thư qua thư lại:

BỐ HỌA SĨ

CON LÀM NGƯỜI MẪU

Thiếu Khanh

Lý Quang Bình là một họa sỹ nổi tiếng người Tứ Xuyên, Trung Quốc. Những bức tranh của ông được giới chuyên môn đánh giá cao và được công chúng đón nhận rộng rãi. Sẽ chẳng có gì đáng nói nếu như người mẫu trong những bức tranh của Quang Bình không phải là... con gái ông, Lý Tần.


Hai cha con Lý Quang Bình, Lý Tần trước một tác phẩm rất nổi tiếng của ông

Vì vậy, tranh của Quang Bình bỗng trở nên một đề tài cực nóng ở bên Khựa và trở thành tâm điểm của các cuộc tranh cãi nảy lửa. Những người bảo thủ cho rằng: "Hành động của Quang Bình đã vượt qua ranh giới mà người họa sỹ không nên vượt, ảnh hưởng không tốt đến đạo đức và thuần phong mỹ tục".

Tuy nhiên, khi được hỏi, hai cha con Lý Quang Bình - Lý Tần cho biết: "Chúng tôi không quan tâm đến những màu mắt kính mà người khác đeo nó để nhìn vào chúng tôi. Chúng tôi rất hào hứng.". Lý Tần phát biểu thêm: "Tôi chỉ muốn làm mẫu cho những bức tranh sơn dầu của cha tôi và không bao giờ chấp nhận khỏa thân trong những hình thức khác như phim hay nhiếp ảnh…”.

Không chỉ cha con Quang Bình giải thích rằng hành động của họ là hoàn toàn nghệ thuật, mà vợ ông (tức mẹ của Lý Tần) cũng đồng ý, bà nói rằng: "Con gái tôi rất đẹp, tôi cảm thấy ganh tị với nó. Tôi cho rằng đây cũng là một cách hay để nó lưu giữ lại những thời khắc đẹp của tuổi xuân thì. Tôi rất buồn vì tôi đã không có được cơ hội như nó khi tôi còn trẻ.”

(From an Email)

*

LQN,

Tôi đã gặp cái này trên một trang web nào đó mà tôi đã không chia sẻ lại với bạn bè

Về các khái niệm luân lý và đạo đức có những điều khiến chúng ta thực sự bối rối. Có khi phương Đông vượt hẳn phương Tây về mặt luân lý trong quan niệm của chúng ta. Nhất là về mặt tình dục, chúng ta sẽ rất sai khi còn nghĩ rằng về mặt này phương Tây cởi mở và phương Đông khép kin. Xã hội Nhật, chẳng hạn, sẵn sàng cho ta "vỡ mặt" về chuyện này. Chúng ta có thể đã "ngủ quên" trước những thay đổi về văn hóa ở phương Đông.

Thân mến,

TK.

*

Em vẫn chưa thông chỗ này. Cha con, mẹ và con trai vấn đề ăn mặc phải thận trọng bởi nó là phạm trù LOẠN LUÂN, trừ trường hợp ốm đau, bất khả kháng.

thân ái

LQN

*

Phải. Hoàn toàn đúng như thế. Tuy đó là một qui định đạo đức, nhưng nó không căn cứ trên một quan niệm mang tính siêu hình. Đó là sự đúc kết của hàng vạn năm tiến hóa của cả nhân loại, cho nên quan niệm > qui định đạo đức này nhằm một mục đích rất cụ thể: bảo tồn và phát triển nòi giống.

Ngờ rằng có những sự tiến hóa nào đó của nhân loại nằm trên một vòng tròn có "chu vi" thời gian vài vạn năm. Quan niệm về sự loạn luân thuộc trong số đó chăng?

Loạn luân, về mặt ngôn ngữ, vừa là danh từ chuyển tải một khái niệm đạo đức mang tính ngăn cấm, vừa là động từ mang nghĩa hành động vi phạm đạo đức. Sự vi phạm này không phải xuất hiện tình cờ hay đột ngột. Nó bắt nguồn từ, hay là hệ quả của, một quan niệm khác, có thể bị coi là sự bế tắc trong đời sống tinh thần của xã hội tây phương như trong các phê phán trước đây mang tính chính trị nhiều hơn tính văn hóa và triết học, nhưng đồng thời, một mức độ nào đó quan niệm đó có thể là một sự cởi mở phóng khoáng theo tinh thần đạo học nguyên thủy "về nguồn" của đông phương. Quan niệm này, đặt tên cho nó là gì cũng được, đưa đến cái mà người ta cho là "trở về với tự nhiên". Ở một số xã hội tây phương có những clubs của những người "yêu thiên nhiên" (naturalists > naturists) sống khỏa thân ở nhà hay tại clubs của họ, hoặc thậm chí trong những khung cảnh thiên nhiên riêng biệt. Quan niệm của họ về cơ thể đã thay đổi rất mạnh mẽ. Người ta không còn coi cơ thể như một thứ gì xấu xa hay (xúi giục) tội lỗi cần phải che đậy, mà là một hình tượng đẹp đẽ đáng chiêm ngưỡng và đáng được (phô ra) để người khác chiêm ngưỡng. Chúng ta đã thấy những tấm ảnh phụ nữ tây phương khỏa thân nơi công cộng là vì vậy.

Điều đó, theo quan niệm của chúng ta, có thể là không đáng cổ vũ nhưng có lẽ cũng không đáng chê trách. Cuộc sống biến đổi theo biện chứng của nó mà. Cổ vũ hay chê trách đều có thể là các thái cực hòng can thiệp vào biện chứng đó một cách phản tự nhiên.

Nhiều người nhìn hiện tượng này của xã hội Tây phương qua con mắt đạo đức Đông phương để thấy không bằng lòng, và phê phán hay dè bỉu. Nhưng từ lâu, khái niệm "Đông phương" trong vấn đề này - có lẽ chỉ trong vấn đề này thôi - đã trở nên mơ hồ. "Đông phương" là ai? Và Đông phương có còn như trong tinh thần luân lý từ hàng ngàn năm qua không? Không! Nhiều nghiên cứu xã hội học sẵn sàng cho chúng ta biết nước Tàu xưa nay vẫn có hiện tượng loạn luân, trong khi nước Pháp thì không! Mà đạo đức Khổng Mạnh (trong đó có “qui luật” nghiêm nhặt nam nữ thụ thụ bất thân) thì phát xuất từ nước Tàu chớ đâu!

"Khu đèn đỏ" (red light district) không chỉ có ở một số quốc gia Bắc Âu cởi mở (Khoan nói về mặt tình dục. Tình dục chỉ là một hình thức đi xuống của sự "cởi mở" trong quan niệm đạo đức và thẫm mỹ chớ không phải nó là chính sự cởi mở trong quan niệm đó.) Nhưng "những khu đèn đỏ" cũng có mặt ở phương Đông - Thái Lan chẳng hạn. Nhật và Trung quốc là những quốc gia mà ta có thể nói trước kia là những "cường quốc văn hóa", nhưng tính "văn hóa" của họ bây giờ đã khác rồi. Ai cũng biết người Nhật có tục tắm hơi. Trong phòng tắm hơi gia đình các thành viên đều khỏa thân. Sự khỏa thân đối với người Nhật không hề là điều gì đáng nhíu mày. Nó rất tự nhiên. Xã hội Nhật đã coi đó là điều tự nhiên. (clip gởi kèm) Thậm chí học sinh ở trường có thể khỏa thân trước mặt nhau và làm tình tập thể một cách tự nhiên. Thế nên, chuyện loạn luân đã trở thành một bước chuyển tiếp rất dễ dàng, và đã xảy ra từ rất lâu trong xã hội Nhật. Ai cũng biết chánh phủ Nhật đã bãi bỏ đạo luật cấm loạn luân trong gia đình từ thế kỷ 19 lận cơ. Quan hệ tình dục loạn luân trong gia đình người Nhật là chuyện bình thường, kể cả sinh con cái với quan hệ đó cũng được luật pháp cho phép, tuy luật pháp Nhật không công nhận hôn nhân loạn luân trong giới hạn cha mẹ - con cái, và giữa anh chị em một gia đình. Khoảng những năm 70 và 80 của thế kỷ trước, vấn đề loạn luân lại được báo chí đề cập một cách chính thức nhân có một vài tác phẩm văn học và nghiên cứu xã hội nêu chủ đề này. Nhưng những thảo luận của báo chí không theo hướng phê phán mà chỉ làm rõ thêm.

Năm 2000, một cuốn sách của trường Đại học California (Berkeley), nhan đề Permitted and Prohibited Desires: Mothers, Comics, and Censorship in Japan , tác giả, bà Anna Allison, đề cập đến chuyện loạn luân giữa mẹ và con trai ở Nhật, nhất là trong các truyện bằng tranh phổ biến nhan nhản như truyện Doremon. Nhưng chuyện đó chẳng có gì mới cả cho nên dường như không ai thấy cần phải thảo luận gì thêm, vì nó đã khởi lên rầm rộ từ giữa thập niên 70, khi có một nhà văn xuất bản một tiểu thuyết "nghiêm túc" về đề tài này: một học sinh sắp thi vào đại học. Cậu học trò vừa đến tuổi dậy thì đang háo hức muốn khám phá về người khác phái, cộng thêm sự học hành căng thẳng, cậu ta rất có khả năng hỏng thi vào đại học. Người mẹ biết chuyện và lo lắng cho con trai mình, sợ sự căng thẳng đó khiến con mình không đỗ được vào đại học để có nhiều cơ hội cho tương lai, nên bà đã tự hiến thân làm người tình của con. Kết quả, cậu thanh niên giải tỏa được ức chế. Cậu thi đỗ. Nhưng "cuộc tình" mẹ con không dừng lại sau đó, mà vẫn tiếp diễn. (“Mô-típ” loạn luân này khá phổ biến trong loại sách mỏng gọi là “Light Novels with incest themes” trong văn học hiện đại Nhật)( [1] )

Câu chuyện tiểu thuyết ấy có thể là một trong những lý do đưa đến việc bàn tán trên báo chí Nhật tôi nói ở trên. Đến nay thì chuyện loạn luân không là vấn đề gì cả trong đời sống văn hóa của người Nhật như từ hàng trăm năm qua - ít ra cũng từ khi luật cấm loạn luân trong gia đình chính thức bị bãi bỏ từ thế kỷ 19. Chính xác là từ năm 1881.

Rút lại, có lẽ có hai vấn đề:

1/- Sự tiến hóa của con người với ý nghĩa của nó có khi rất mơ hồ: con người đi tới trước nhưng cũng có thể... chỉ để thấy phần sau lưng mình, vì có thể con đường tiến hóa là một con đường vòng chăng?

2/-Thấy người lại gẫm đến ta. Ta nên tự hào về tinh thần văn hóa và tính dân tộc của mình. Không những ta giữ được ngôn ngữ dân tộc sau 1050 năm nô lệ giặc Tàu, mà, ít ra cho đến nay, chuyện đạo lý căn cơ này ta vẫn còn vững. Đây không những là đạo lý mà có lẽ còn là một sự tư vệ của nòi giống. Khi so sánh với Tây phương anh chị em chú bác có khi có thể cưới nhau được; bên T àu, anh chị em cô cậu lấy nhau là chuyện bình thường, thì với ta họ xa ba đời có khi còn nhắc nhở. (Ai nói văn hóa Việt Nam là Văn hóa Tàu là ngu quá!).

Chỉ nên nhìn cha con họa sĩ Lý Quang Bình với sự hiểu biết thôi, nhưng từ đó cũng càng mừng cho dân tộc mình. Và càng rất tự hào. (Sở dĩ tôi không phổ biến cho bạn bè cái trang web nói về cha con họa sĩ đó là không muốn gợi một điều như thế trong suy nghĩ của người khác. Chẳng hay ho gì.)

Thiếu Khanh.

*

Em cám ơn anh

Một bài viết quá hay.

Em sẽ gởi cho các bạn em cùng đọc

Tuy nhiên ,trong tâm tư em khó mà chấp nhận được chuyện khỏa thân trong gia đình .Khỏa thân trong các club không sao, nhưng chăm bẳm với con mình như cái ông Tàu này khó chấp nhận. Điều đó nói lên cái gì? Đó là người Tàu họ làm giàu bằng mọi cách, kể cả các thủ đoạn bỉ ổi .Sau khi có tiền rồi tính tới. Đó là một thứ suy nghĩ cực kỳ thực dụng, tỉ như chuyện vô đạo đức trong thực phẩm, xâm lăng láng giềng. Sau đó đi chùa. Sự giả trá và hai mặt thật đáng xấu hổ cho một văn hóa mà Tàu rao giảng. Ngay cả chuyện ăn thịt người họ cũng lấp liếm nói lấy được.

Tại VN, các truyện tranh của Nhật, do người Việt không hiểu văn hóa NHẬT cho nên họ dịch tưới xượi chuyện tình dục, bậy bạ cho tuổi TEEN bán đầy các hiệu sách gần các trường cấp 2, 3. Người ta đã than thở nhiều nay đâu cũng vào đấy. Nếu một quốc gia "cường tráng", lớp lang thì không nói làm gì, nay thân thể VN đang bị phong cùi thì càng mau chết.

Vài giòng thăm anh

Cám ơn lắm lắm

Thân ái

LQN

™ ˜

Tác giả: Dương Lêh

Không biết từ bao giờ hắn thích ngắm nhìn tuyết rơi ngoài trời qua khung cửa sổ. Từ nhỏ, hắn đã có dịp trông thấy những tấm thiệp mừng Giáng sinh có hình ông già Noel ngồi xe do tuần lộc kéo trong khi tuyết rơi dưới bầu trời đầy sao, đẹp vô cùng. Trong đầu hắn cứ mong ước làm sao được đến một xứ sở nào đó có tuyết rơi vào mùa đông để hắn có thể chạy, chơi đùa trong khi tuyết rơi, bắt chước người ta đắp người tuyết, hay vo tròn những nắm tuyết chọi nhau với những đứa trẻ cùng xóm.

Dần dần lớn lên, được đi học, hắn biết trên đất nước hắn đang sống không có tuyết rơi vào mùa đông. Ngay cả cái thời tiết mùa đông ở đây cũng không rõ rệt chút nào. Lạnh thì cũng không lạnh bao nhiêu. Có năm hắn không cần phải mặc qua cái áo ấm mẹ hắn đã đan cho vẫn còn nằm trong tủ quần áo. Hắn lại ao ước một mùa đông nào đó, thời tiết đột nhiên thay đổi, nhiệt độ xuống thật thấp giống như những đất nước ở xa phía trên bắc bán cầu, để hy vọng từ trên trời cao rơi xuống những bông tuyết tha hồ ngắm cho đã mắt. Nhưng hắn vô cùng thất vọng khi thấy từ lúc còn bé cho đến lớn khôn, không hề có một ngày đột biến nào có thể có được tuyết rơi. Lớn lên hắn mới biết được ở tận phía bắc của đất nước hắn đang ở, sát biên giới với một nước láng giềng. Nơi đó có tuyết. Hình ảnh trên TV cho thấy bầu trời âm u, tuyết phủ rải rác trên những cành cây, ngọn cỏ, trong khi TV đang phổ biến bản tin thời tiết với lời kêu gọi: “Trời đang rét đậm rét hại, yêu cầu giữ ấm cho đàn gia súc”. Hắn không thích cảnh tuyết đang rơi mà cùng lúc đó mọi người phải lo canh cánh sợ rủi ro trâu bò và các loại gia súc khác bị lạnh mà chết hoặc cây trái bị giá rét làm hư hại và người dân ở đó đang sống trong hoàn cảnh khổ sở nhọc nhằn. Hắn chợt nghĩ người mình sao không biết thương yêu các loại gia súc mà họ đang nuôi dưỡng để chúng nó nuôi ngược lại chủ nhà nhiều gấp trăm gấp ngàn lần. Năm nào cũng vậy, cứ mùa lạnh đến thì TV ngày nào cũng nhắc nhở mọi người phải giữ ấm đàn gia súc nhất là trâu bò, nhưng nhìn lên TV mọi người vô cùng thất vọng khi thấy những cái chòi gọi là chuồng trâu chuồng bò, thật tình không ra cái chuồng chút nào. Chỉ có cái mái không đủ che nắng che mưa cho trâu bò nghỉ ngơi, còn vách thì trống toác, với vài thanh gỗ ngang dọc để giữ cho các cây cột không bị ngã. Có phải người ta vô tình, coi thường những động vật hằng ngày phải làm việc vất vả để đem lại cho họ sự sống. Có lẽ đúng như vậy. Người ta quá vô tình chỉ biết hưởng thụ những gì các loài động vật đó mang đến cho họ chứ họ không cần biết những loại động vật đó cũng cần ăn uống đầy đủ và được sưởi ấm như con người. Vô tình hay là tàn ác? Ngày nay qua các phương tiện truyền thông đại chúng, người dân ai cũng biết ở các nước tây phương, người ta chăm sóc các loài động vật có giá trị kinh tế cao rất chu đáo. Chuồng trâu, chuồng bò có cả máy điều hòa không khí khi thời tiết nóng nực và cũng có máy sưởi khi thời tiết giá lạnh. Đối với các loại động vật nuôi để lấy thịt làm thức ăn cho con người, người ta phải nghiên cứu tỉ mỉ và chế tạo ra các loại thực phẩm với chất lượng cao nhất để nuôi các loại động vật này một cách có hiệu quả. Bởi vậy mới có chuyện ở một nước châu Á người ta nuôi một giống bò đặc biệt với loại thức ăn cao cấp để tạo ra loại thịt bò Kobé, được bán ra với giá ngất ngưỡng trên trời cao. Nghe nói có người nhập loại thịt bò này về bán chung với phở, nâng giá một tô phở lên bảy tám trăm ngàn đồng. Ở những quốc gia tiên tiến đó, có những hội bảo vệ súc vật. Mọi sự ngược đãi súc vật đều bị lên án. Nghe nói ở Singapore, những người mua gà còn sống mang về nhà phải ẵm con gà trong tay, chứ không được nắm hai chân và chúc đầu gà xuống đất sẽ bị phạt. Ở Việt Nam mình con chó nuôi để giữ nhà cũng đem ra giết và xẻ thịt để ăn. Không cần nói ở đâu xa, chỉ việc lên ngã ba Ông Tạ sẽ thấy người ta bán thịt chó tràn lan. Vấn đề ở đây là không biết cơ quan y tế trong vai trò bảo vệ sức khỏe người dân, có bao giờ kiểm dịch các loại thịt chó ở đây hay không.

Cũng có lần xem trên TV, ở một nước phương tây, có một anh khuyển đi lang thang sao đó bị lọt xuống cống, không cách gì leo lên được, bèn nằm khóc ăng ẳng trong một góc ở dưới sâu. Người đi đường phát hiện, nhưng không ai dám nhảy xuống cống để ra tay nghĩa hiệp cứu anh khuyển này. Họ đã gọi cảnh sát đến để xử lý tình huống. Ngay lập tức xe cảnh sát hụ còi đến ngay hiện trường. Ông cảnh sát xem xét tình hình và đánh giá là ngoài khả năng của một cảnh sát viên. Thế là ông gọi xe cứu hỏa đến. Trong nháy mắt xe cứu hỏa cũng đến nơi với vài nhân viên cứu hỏa trong những bộ đồng phục đẹp mắt. Chỉ trong mười lăm phút toán lính cứu hỏa đã đưa được em chó từ dưới cống lên, lưỡi thè dài, thở hồng hộc. Sau đó em chó này được đưa về cơ quan thú y để chăm sóc và quản lý. Sao ở nước ngoài người ta thương yêu loài vật đến như vậy? Tôi nhớ hồi còn nhỏ tôi tham gia hội Hướng đạo sinh. Trong tổ chức này có quy định “Hướng đạo sinh phải thương yêu loài vật và cây cỏ”. Cả đám chúng tôi lứa tuổi mười hai, mười ba, đều chấp hành răm rắp. Tôi có hai giàn thun để đi bắn chim bằng nhánh cây ổi chắc chắn và rất đẹp, nhưng tôi phải cắt đứt dây thun, dùng dao chẻ mỗi cái ra làm hai rồi gom lại đem bỏ thùng rác. Giã từ những buổi chiều êm ả mà tôi thường cùng một tên bạn thả rong qua bệnh viện Chung Cheng rảo mắt lên những cành cây phượng vỹ tìm bắn những con chim trao trảo, hoặc chim se sẻ nhút nhát. Có thằng nhóc sợ bị huynh trưởng la rầy đến nỗi con kiến cũng không dám giết. Thấy con kiến bò trên tay, nó lấy tay kia nhẹ bắt con kiến quăng xuống đất, để cho nó bò đi chỗ khác.

Máy nghe nhạc đột nhiên phát ra giọng hát của một nam ca sĩ, “ngoài kia tuyết rơi đầy”. Thú thật ở trong thành phố này, cả tuần nay trời nóng như thiêu như đốt mà bất ngờ nghe ca sĩ hát bài này quả là lạc quẻ. Ngày nay đã có nhiều người ra nước ngoài định cư, đặc biệt ở các vùng phía bắc nước Mỹ, năm đầu tiên nhìn thấy cảnh tuyết rơi, họ vô cùng thích thú. Họ kể lại, có người chạy ra đường, đi dưới tuyết để tìm cảm giác mới lạ khi được đi dưới những bông tuyết lất phất bay trong không khí lạnh buốt. Có người hốt lớp tuyết dưới đất vê lại thành một cục tuyết tròn bằng nắm tay rồi tung lên sau đó dùng đầu đội như đội quả bóng. Nhưng chỉ được một lát họ phải chạy vào xe hoặc về nhà để mang bao tay vì giá rét làm cho hai bàn tay đau buốt. Người ta nói nếu để hai bàn tay trần ra ngoài tuyết lâu sẽ bị phỏng vì… lạnh. Một chỗ khác trên cơ thể cũng không chịu nổi cái lạnh giữa trời giá tuyết, đó là hai vành tai vì chúng sẽ bị tê cóng và trở nên giòn như miếng bánh khô do máu không đến được để nuôi vành tai, chỉ cần bẻ nhẹ một cái thì trái tai sẽ rời khỏi vành tai dễ dàng, không mong gì nối lại được nếu không vào bệnh viện thẩm mỹ. Từ đó về sau, mỗi khi ra đường ai cũng phải mua mũ trùm đầu và bịt kín hai lỗ tai.

Ngày xưa, thuở còn trai trẻ hắn cũng mò đến được Hoa Kỳ để theo một chương trình tu nghiệp về môn Tài chánh và Dự trù ngân sách. Khi hắn đến nơi, thời tiết đã ở vào cuối đông, nhiệt độ khoảng 300F tức là khoảng -10C. Sáng sớm, hắn lội bộ đến trường, tuyết còn rơi rất nhẹ. Những bông tuyết bé bằng đầu ngón tay, đọng trên vai áo khoác làm nổi bật màu trắng trên nền vải màu nâu sậm. Trong khi đi đường hắn phải một tay ôm cặp, một tay cho vào túi quần để đỡ lạnh. Tuyết cũng phủ lên một lớp mỏng màu trắng tinh khiết trên thảm cỏ xanh của sân vận động. Khi tay ôm cặp chịu lạnh hết nổi, hắn chuyền cặp qua tay kia và tay này cho lại vào túi quần. Cứ luân phiên như vậy cho đến khi bước vào khu vực nhà trường, không khí ấm lại vì có máy sưởi. Có hôm đang đi đến trường, tự nhiên hắn thấy nhột trong mũi bèn lấy khăn tay kê lên mũi hỉ một cái thật mạnh, khi nhìn lại khăn tay hắn thấy dính máu như lúc bị chảy máu cam ở nhà. Lúc đầu thấy hơi hoảng hốt nhưng khi vào lớp có máy sưởi tự nhiên hết.

Hôm nào buổi tối có trời mưa, nước mưa đọng ở các đường mương. Đến sáng, nước ở các đường mương đóng băng. Lần đầu tiên trông thấy cảnh đó, hắn và các tên bạn người nào cũng cảm thấy thích thú. Một đứa thích quá bước lên mặt băng đó tưởng chừng như đó là mặt băng to bằng sân khấu trong môn trượt băng nghê thuật. Không may cho nó, mặt băng vỡ ra, hai chân nó cắm xuống đường mương, nước văng tung tóe ướt cả giày và hai ống quần. Thì ra nước chỉ đóng băng một lớp mỏng trên mặt, phần nước sình ở phía dưới vẫn còn ở trạng thái lỏng.

Một người em định cư ở Canada đưa vợ con về thăm quê nhà, vừa ra khỏi khu vực hành khách của sân bay, đứa con gái mới năm tuổi đã khóc thét lên vì trời nóng quá. Mắt mũi cháu bé đỏ bừng. Mẹ nó phải ẵm nó vào một căn-tin có máy điều hòa không khí để dỗ cho cháu nín. Cậu em cho biết, ở cùng thời điểm đó bên Canada là -9 hoặc -100C, tại Saigon lúc bấy giờ là 350C, như vậy, chênh lệch giữa hai địa phương Saigon và Canada lúc bấy giờ là 44 hoặc 450C, Đứa bé gái mới năm tuổi phải khóc thét lên là đúng quá rồi. Tội nghiệp cả nhà phải tranh thủ đưa cháu lên taxi, về ngay khách sạn, sợ cháu phát bệnh vì thời tiết nóng quá. Được biết thêm tại nơi cậu em đang cư ngụ, gần lên đến Alaska, vào mùa đông tuyết phủ dày đặc, xe cộ không có lối để di chuyển, chính quyền phải cho xe ủi tuyết để dọn sạch lối cho xe cộ lưu thông. Qua ngày hôm sau thì đâu lại vào đó, xe ủi lại phải tiếp tục dọn đường trong khi xe cộ các loại nối đuôi chờ đợi trong cái lạnh buốt xương của thời tiết. Ngoài đường phố là vậy, còn người ở trong nhà cũng không khỏi khốn đốn. Tuyết rơi phủ đầy trên mái nhà, cho nên ở đây người ta sử dụng vật liệu để làm mái nhà phải đủ sức chịu đựng sức nặng của tuyết trong suốt mùa đông. Rồi tuyết rơi đầy trên mặt đất, cao dần, cao dần và cuối cùng phủ kín cửa ra vào. Đứng ngoài nhìn vào người ta có cảm tưởng căn nhà đã bị chôn vùi trong tuyết. Còn người ở bên trong có cảm tưởng như đang ở trong hang tuyết, giống như người Eskimo sống trong những căn nhà tuyết, gọi là igloo, trên các vùng băng giá quanh năm. Sau cùng, người trong nhà phải tìm mọi cách để ra ngoài dùng xẻng xúc tuyết, mở lại lối đi vào nhà. Khi mặt đường đóng băng, xe cộ di chuyển rất khó khăn, mặt đường rất trơn, dễ gây tai nạn. Nhiều người phải dùng lưới sắt bọc những cái bánh xe ô tô cho không bị trơn trợt, hoặc bị trôi như ghe thuyền trên mặt nước.

Những người dân sống trên vùng nhiệt đới, quanh năm suốt tháng không bao giờ được tiếp cận với tuyết, thường thấy những quốc gia tây Âu có cảnh tuyết rơi vào mùa đông cho rằng rất đẹp. Đất nước đẹp, con người cũng đẹp. Thậm chí ở những xứ lạnh, không cần có cảnh tuyết rơi cũng có nhiều cảnh đẹp thiên nhiên hơn những vùng quanh năm suốt tháng chỉ nhìn thấy ông trời lúc nào cũng hừng hực, rực lửa, và con người xứ lạnh cũng thấy đẹp đẽ hơn trong cách ăn mặc hay trong cách cư xử ngoài xã hội. Đà Lạt của Việt Nam là một ví dụ điển hình.

Dương Lêh

(6-2013)


GIẶC CÀO CÀO

Les sauterelles của Alphonse Daudet

Đây là kỷ niệm của một chuyến du lịch ở Algérie.

Đêm tối, tôi đến một nông trại ở trong vùng Sahel. Tôi không thể nào ngủ được: xứ thì lạ, sự giao động của cuộc hành trình, tiếng chó sói tru, kế đến là thời tiết nóng bức đè nặng, một sự nghẹt thở toàn diện, dường như là vải mùng không đủ thưa để cho một chút gió nào lọt qua…

Khi tôi mở cửa sổ, vào sáng sớm, một màng sương mùa hạ nặng nề, luân chuyển chậm chạp, kết tua vừa đen vừa đỏ, trôi nổi bồng bềnh trong không khí, như một đám khói thuốc súng ở trong bãi chiến trường vậy. Không một chiếc lá lay động, và trong những mảnh vườn cây trái, dưới tầm mắt của tôi, là những cây nho rải rác trên triền đồi, mà ánh nắng mặt trời làm cho trái nho thêm ngọt ngào, những cây trái Châu Âu ẩn náu trong góc râm, những cây cam, những cây quít, từng hàng dài tít mù, tất cả biểu hiện một dáng vẻ buồn bã. Cái sự bất động của lá cây đang đợi chờ một cơn bão tố.

Chính những cây chuối cũng vươn thẳng đứng âm thầm từng bụi đều đặn. Những cây sậy to xanh lá đó, như có cơn gió vô hình nào làm phất phơ nhẹ nhàng tàu lá đọt.

Tôi đứng nhìn một đỗi cái đồn điền diệu kỳ nầy, mà tất cả cây trái trên thế giới quy tụ về đây, cho ra mỗi loại, mỗi mùa, mỗi hoa quả ngoại lai…

Giữa những cánh đồng và những bụi cây điên điển um tùm, một dòng nước lấp lánh, mát mẻ, hiện ra trong cái buổi sáng ngột ngạt nầy.

Cứ mải ngắm cái sang trọng, cái trật tự của cảnh vật, cái đồn điền đẹp đẽ nầy với những mái nhà sáng trắng, những chuồng trại, những nhà xưởng…

Tôi nghĩ rằng đã hai chục năm qua, khi mà những con người dũng cảm đến lập nghiệp trong cái thung lũng của vùng Sahel nầy, họ chỉ gặp một cảnh nghèo nàn xơ xác, một vùng đất hoang vắng, lơ thơ mọc vài cây cọ, vài cây nhũ hương.

Tất cả đều phải được tạo ra.

Tất cả đều phải được xây dựng.

Mỗi khi có dân Arabes nổi dậy, người ta phải bỏ cày bừa để cầm súng chiến đấu.

Kế đó là bệnh hoạn, sốt rét, mùa màng thất bát, kinh nghiệm lần mò, sự đấu tranh với nhà cầm quyền hẹp hòi, luôn luôn bất ổn.

Biết bao nhiêu là sự kiên nhẫn tận tụy.

Biết bao nhiêu là công lao khó nhọc.

Biết bao nhiêu là trông nom, chăm sóc không mệt mỏi.

Đến ngày hôm nay, mặc dầu cái thời gian tồi tệ đã qua, và tài sản thu được đã khả quan, cả hai vợ chồng chủ điền đều đã thức dậy đầu tiên ở nông trại.

Vào giờ sáng sớm nầy, tôi nghe họ đi tới đi lui, trong cái nhà bếp rộng rãi ở tầng trệt, bận rộn lo pha cà phê cho công nhân điểm tâm…

Chẳng bao lâu, tiếng kẻng đổ, và một lúc sau, thầy thợ lũ lượt lên đường…

Những người thợ hái nho xứ Bourgogne.

Những tay thợ cày xứ Kabyle rách rưới.

Những thợ làm đất Mahonais đi chân không.

Những người Maltais.

Những người Lucquois.

Cả một dân tộc tạp chủng, khó lòng điều khiển.

Người chủ trại đứng trước cửa, bàn giao công việc trong ngày cho từng người với một giọng ngắn gọn khô khan. Khi xong công việc, người đàn ông dũng cảm nầy, ngửng đầu lên nhìn trời với một vẻ mặt lo lắng!... Thoạt nhìn thấy tôi ở cửa sổ, y nói:

- Thời tiết xấu cho mùa màng!. Có ngọn gió độc!...

Quả nhiên, mặt trời đang mọc lên dần thì có những làn gió nóng ngột ngạt từ phương nam thổi đến như hơi nóng thoát ra từ cái lò lửa. Người ta không biết trốn tránh ở đâu và xoay sở cách nào.

Cả một buổi sáng trải qua như vậy!...

Chúng tôi dùng cà phê trên một chiếc chiếu trong tiền sảnh, không còn đủ can đảm để nói chuyện hay cử động. Con chó thì nằm dài ra để tìm một chút hơi mát của nền gạch trong cái dáng thở hổn hển…

Bữa điểm tâm làm cho chúng tôi khỏe lại một chút. Một bữa điểm tâm phong phú và lạ lùng, gồm có: cá chép, cá hoa mè, hịt heo rừng, thịt nhím, bơ Staoueli, rượu nho Crescia, ổi, chuối… tất cả đều là những thực phẩm ngoại lai, rất giống với cái bối cảnh thiên nhiên đầy phức tạp đang bao quanh chúng tôi.

Người ta vừa rời khỏi bàn ăn…

Thình lình!, có những tiếng la vang dội, vượt qua cánh cửa đang đóng hờ để cản hơi nóng:

- Giặc cào cào!..., giặc cào cào!...

Ông chủ nhà trở nên xanh mét, cũng như người vừa nhận được một hung tin, và chúng tôi cùng nhau nhảy ra ngoài vội vàng!...

Chỉ trong vòng mười phút, cái gia cư lúc nãy đang yên lặng, thì bây giờ trở nên ồn ào náo nhiệt!..., tiếng chân chạy, tiếng la thất thanh!...

Những gia nhân nằm nghỉ trong bóng mát của hành lang cũng nhảy ra ngoài, làm ồn lên, với cây gậy, cây cuốc, cây đòn gánh, với bất kỳ dụng cụ kim loại nào nằm trong tầm tay: cái chảo đồng, cái thau nhôm, cái nồi niêu. Những gã chăn cừu thì thổi còi gọi gia súc. Kẻ khác thì thổi tù và, thổi kèn săn bắn… Tất cả tạo nên một sự huyên náo, ầm ĩ kinh hoàng, mà tiếng: “Du… du… du” chói tai liên tục nổi lên!...

Những người đàn bà Arabe ở lán bên cũng tất tả chạy qua.

Dường như theo lệ thường, chỉ cần một tiếng động lớn, một âm thanh rung động mạnh đến không khí là có thể xua đuổi được giặc cào cào, không cho chúng đáp xuống!...

Nhưng mà giặc cào cào ở đâu?!...

Những con vật kinh khủng đó ở đâu?!...

Tôi không thấy gì cả, trong cái bầu trời đang tỏa nhiệt nóng bức!...

Chỉ duy ở chân trời, có một đám mây dày đặc, xám xịt, giống như luồng mây đá, với tiếng vang ào ạt của cơn dông trong khu rừng đầy nhánh nhóc.

Đó là đoàn giặc cào cào đang tiến đến.

Chúng nó xòe cánh mà bay nương tựa lẫn nhau thành từng đám!... từng khối!...

Bất kể về những nỗ lực, những tiếng la hét của chúng tôi, đám mây đó vẫn cứ kéo đến mãi, và trải dài xuống đồng bằng một bóng mát rộng vô tận!...

Bỗng chốc, đám mây bay đến trên đầu chúng tôi. Ngay theo đó, người ta nhận thấy ở ngoài biên đám mây, trong phút chốc, có một sự rạn nứt, giống như những hạt mưa đá đầu tiên rơi rớt, rời rạc màu đỏ nhạt!... Kế đến, là đám mây nổ tung ra. Một trận mưa côn trùng sa xuống ồn ào, dày đặc!... Mịt mù tầm mắt, cánh đồng bị bao phủ hoàn toàn bởi những con cào cào to lớn bằng ngón tay!...

Và bây giờ là sự tàn sát bắt đầu!... Tiếng giày xéo gớm ghiếc!... Tiếng rơm rạ bị cắn phá!... Với cái bừa, với cái cày, với cây cuốc, người ta đào xới cái mặt đất chuyển động nầy, và người ta càng giết chóc bao nhiêu, thì chúng nó càng đến nhiều bấy nhiêu!...

Chúng nó lúc nhúc từng đống với những chân cẳng nghều ngào. Những con vật ở trên thì nhảy lung tung, bám vào mặt mũi của mấy con ngựa được thắng vào ách để cày bừa tiêu diệt, cho cái công tác dị hợm nầy!... Những con chó của nông trại, loại chó săn giống, cũng phóng ra đồng lăng xăng, nằm lăn chiêng ra, đè bẹp, nghiền nát cào cào một cách dữ tợn!...

Vào lúc đó, hai trung đội lính trận, có quân nhạc dẫn đầu, được phái đến để tiếp viện cho những người nông dân bất hạnh nầy và công cuộc sát hại cũng thay đổi cục diện!... Thay vì chà đạp, đập phá, những người lính nầy thiêu đốt chúng nó bằng cách là rải rắc thuốc súng dài dài…

Mệt lả vì giết chóc, ghê tởm bởi mùi hôi tanh, tôi đi vào nhà.

Ở trong trại thì cũng y chang như ở ngoài đồng. Chúng nó chui qua kẽ hở, vào đường ống khói. Trên vách ván, trên các tấm màn đã bị gậm nhấm gần hết, chúng nó bay nhảy lung tung, rơi rớt lê lết, bu bám vào tường với hình bóng xấu xa kỳ cục!..., và luôn luôn là cái mùi hôi tanh kinh hoàng!.

Bữa ăn trưa phải thiếu nước!.

Các bể chứa, lu hũ, giếng nước, ao hồ… tất cả đều bị ô nhiễm.

Buổi tối, trong phòng tôi, nơi mà người ta đã đập chết từng đống, tôi vẫn còn nghe tiếng lúc nhúc, tiếng khua cánh sột soạt ở dưới gầm bàn.

Đêm đó tôi không làm sao ngủ được.

Chung quanh nông trại, người ta cũng thức trắng đêm!...

Những ngọn đèn chạy rà rà mặt đất từ đầu nầy đến đầu kia cánh đồng.

Những lính trận vẫn tiếp tục thiêu đốt giặc cào cào mãi!...

Sáng hôm sau, tôi mở cửa sổ ra như hôm rồi.

Giặc cào cào đã rời đi hết rồi, nhưng mà không biết bao nhiêu là sự điêu tàn, chúng nó đã bỏ lại: không còn một cái bông, không còn một cọng cỏ, tất cả đều bị gậm cạp, đen đúa, chai nám!...

Những bụi chuối, những cây mơ, những cây đào, những cây cam, những cây quít chỉ còn lại trơ cành, mất đi cái vẻ đẹp xinh tươi hoa lá của sự sống!.

Người ta phục hồi lại nguồn nước, chùi rửa bể chứa, hồ nước.

Khắp nơi, người nông dân phải đào bới đất để tiếp tục tiêu diệt các ổ trứng. Những tảng đất đào lên đều được kiểm soát kỹ lưỡng!...

Và quả tim phải quặn đau khi nhìn thấy hàng ngàn cây cối đang vươn lên đầy nhựa sống, mà trong chốc lát bị phơi bày trần trụi, trong sự điêu tàn của một vùng đất xanh tươi mầu mỡ!...

Và giặc cào cào đi về đâu cũng không ai được biết!...

Dịch thuật: THANH CHÂU







Phụ Bản IV

Gian mà không ngoan

Sau đây là các câu chuyện khác về “gian mà không ngoan” Những tên lưu manh trộm cướp thường được liệt vào hạng ma lanh quỷ quái chứ ngu quá thì làm sao mà đi ăn cướp được. Ấy thế mà có những tên cướp ngu một cách lãng nhách không thể tưởng tượng được. Nếu có đặt giải thưởng về ngu thì những trường hợp sau đây đáng là những thí sinh có triển vọng.

1- Chẳng hạn như một tên ăn cướp kia, ở Colorado Spring, vào một tiệm chạp phô chĩa súng vào người bán hàng bắt mở "cash-box" nạp hết tiền trong đó. Sau khi người bán hàng thồn tiền vào bao giấy cho tên cướp thì hắn nhìn thấy chai rượu mạnh hảo hạng trên bục hàng sát tường liền ra lệnh cho người bán hàng bỏ chai rượu vào túi tiền đó luôn. Người bán hàng nhìn tên cướp rồi nói: - Luật chỉ cho phép bán rượu cho người 21 tuổi trở lên. Tướng của anh thì chẳng cần coi căn cước cũng biết anh chưa đủ 20 tuổi, tôi không thể đưa chai rượu cho anh được. Tên cướp cãi rằng anh ta đã quá 21 tuổi nhưng người bán hàng nhất định không tin và nhất định không đưa chai rượu. Cãi qua cãi lại một hồi tên cướp chắc sợ kéo dài sẽ bất lợi nên hắn bực mình mở ví lấy bằng lái xe đưa cho người bán hàng coi. Người bán hàng coi căn cước của tên cướp thì quả thật hắn đã quá 21 tuổi nên đồng ý đưa chai rượu mạnh cho tên cướp luôn. Tên cướp liền ba chân bốn cẳng vụt ra khỏi tiệm.

Tên cướp đi rồi người bán hàng liền gọi điện thoại cho cảnh sát và cho biết đầy đủ tên tuổi và địa chỉ của tên cướp. Hai giờ sau đó tên cướp bị xộ khám.

2- Chuyện sau đây còn lãng nhách hơn nữa: bà kia bị tên lưu manh nào đó "thổi" mất cái xe hơi. Bà báo cảnh sát và cho biết trong xe của bà có cái "cell phone" nữa. Ngày hôm sau cảnh sát gọi số điện thoại đó và tên cướp xe trả lời. Cảnh sát liền phịa rằng đọc quảng cáo thấy anh ta bán xe nên muốn coi xe để mua. Tên trộm xe liền hẹn giờ giấc và địa điểm để mang xe đến. Thế là xe được trả về cho chủ và tên thổi xe bị cho đi nằm ấp.

3- Anh chàng cướp nhà băng sau đây còn ngu trội hơn nữa. Chàng cướp này bước vào Bank of America ở San Francisco xếp hàng như mọi người chờ tới phiên giáp mặt với người phát ngân (teller) và trong khi chờ đợi chàng ta lấy một tấm "deposit form" viết mấy chữ: "Bỏ hết tiền vào bịch này nếu không tôi nổ súng". Trong khi chờ anh ta lo ngại rằng có người nào đó trong hàng đã nhìn thấy những gì anh viết họ có thể đi gọi cảnh sát rồi; thế cho nên anh ta ra khỏi Bank of America và bước vào hãng giữ tiền Wells Fargo bên kia đường. Chờ vài phút thì tới phiên, chàng ăn cướp liền đưa mảnh giấy cho "teller" của Wells Fargo. Chị này đọc qua trả lại cho hắn vừa chê hắn viết sai chính tả và bảo hắn rằng chị không thể đưa tiền cho hắn được vì hắn viết trên cái "deposit slip" của Bank of America. Bây giờ hắn phải viết lại trên "deposit slip" của Wells Fargo còn không thì hắn phải trở lại Bank of America.

Thấy rắc rối quá tên cướp liền trở lại Bank of America. Sau khi tên cướp đi rồi chị "teller" của Wells Fargo liền gọi cảnh sát, và ít phút sau tên định ăn cướp ngân hàng bị bắt trong khi đứng xếp hàng chờ trong Bank of America.

4- Người ta thường nói vỏ quít dầy thì móng tay nhọn. Anh chàng kia ở bên Ăng Lê lái xe quá vận tốc giới hạn vượt qua chỗ cảnh sát để máy rada và chụp hình tự động nên chàng ta không biết là mình sẽ bị "ticket". Ít ngày sau nhận được bao thư của sở cảnh sát giở ra thấy có một vé phạt 40 mươi bảng Anh và cảnh sát còn cẩn thận gửi kèm bức ảnh xe của anh ta ở "phạm trường". Thay vì gửi tiền nộp phạt chàng này liền láu cá gửi nộp tấm hình của 40 Anh kim mà thôi.

Ít ngày sau anh ta nhận được thư phúc đáp của sở cảnh sát, giở ra thì bên trong có bức hình của cái còng số 8. Anh ta liền gửi tiền nộp phạt ngay lập tức.

5- Trường hợp sau đây là cãi bứa nhưng gian mà không ngoan. Chàng nghiền cocain Christoper Jasen bị đưa ra tòa ở Pontiac (Michigan) cãi bứa rằng cảnh sát đã khám xét người anh ta mà không có lệnh của tòa (warrant). Bên biện lý nói rằng không cần phải có lệnh tòa vì túi "Jacket" của Chris gồ gồ lên như có súng trong đó khiến cảnh sát tình nghi nên có quyền khám. Chris nổi sùng quạt lại: "Vớ vẩn và vô căn cứ. Cái "jacket" của tôi nó như vậy chứ súng ở đâu?". Ngẫu nhiên bữa ra tòa Chris cũng vẫn mặc cái "jacket" hôm bị bắt. Chris liền cởi "jacket" đưa cho quan tòa coi. Quan toà ngắm nghía cái "jacket" rồi thò tay vào túi xem có gì không. Trước con mắt ngạc nhiên của Chris, quan tòa lôi ra hai gói cocain và ông ta bò lăn ra cười năm phút sau mới ngưng được để ra lệnh cho cảnh sát tống giam chàng Chris.

6- Trường hợp sau đây là giận quá hóa ngu. Đó là chàng Dennis Newton, 47 tuổi, ở Oklahoma City ra tòa về tội ăn cướp một tiệm chạp phô (convenience store) có vũ khí. Anh ta giận ông luật sư "thí" làm việc ấm ớ nên đuổi luật sư và tự biện hộ. Anh ta đã làm việc đó tương đối không có gì tệ cho lắm cho tới khi biện lý mời chị bán hàng tiệm chạp phô ra tòa làm nhân chứng để nhận diện một lần nữa. Sau khi nghe chị bán hàng xác nhận, Newton nổi giận đùng đùng chửi chị ta là quân nói láo và nói thêm: "Biết mi nói láo như thế thì bữa đó tao bắn bể đầu mi cho rồi...". Quan tòa và bổi thẩm đoàn được một trận cười bể bụng...

7- Lậy ông tôi ở bụi này.

Cảnh sát ở Detroit có chương trình đến các xóm để giáo dục con nít để ngừa và bắt các thành phần phạm pháp. Bữa kia cảnh sát đang chỉ dẫn cho đám con nít hệ thống điện toán trên xe có thể biết tên tuổi các người có tiền án hoặc đang bị truy tầm vv... thì cậu Gaitlan, 21 tuổi, đi ngang ghé lại coi. Cậu hỏi cảnh sát làm thế nào mà biết được? Cảnh sát bảo chỉ cần số bằng lái xe hay số an sinh xã hội thì có thể kiếm thấy. Gaitlan liền đưa bằng lái xe cho cảnh sát thử. Sau khi đánh ID của Gaitlan vào hệ thống điện toán thì cảnh sát liền còng tay Gaitlan tống giam vì cậu ta đang bị truy tầm về tội ăn cướp có vũ khi hai năm về trước ở St. Louis (Missouri).

8- Nhưng ngu như thế này thì sống sao nổi.

Đó là hai chàng ăn cướp cũng ở Detroit vào tiệm kia ăn hàng. Tên thứ nhất quơ súng lên trời la lớn: "Đứng yên tại chỗ, không người nào được lộn xộn, nếu nhúc nhích sẽ ăn đạn". Khi mọi người đứng chết cứng không dám nhúc nhích thì tên cướp thứ hai chạy lại két tiền... Tên cướp thứ nhất bắn tên thứ hai một phát chết ngắc và lẩm bẩm: "Tao đã bảo không được nhúc nhích mà lại..."

9- Ngu thì cũng ngu vừa vừa thôi chứ ngu như chàng này thì hết chỗ nói. Harold Russum ở San Francisco đã hai lần đi tù về tội hiếp dâm vẫn không chừa mà lại còn ngu nữa. Theo lời kể của nạn nhân Joan, 26 tuổi, thì bữa đó, 29-4-2000, khoảng 6 giờ chiều cô ta đang sửa soạn cơm tối thì bỗng nhiên nghe tiếng vỡ của kính cửa sổ và chàng ta hiện ra lừng lững giữa phòng khách. Harol chĩa súng ra lệnh cho Joan cởi quần áo ra. Joan từ từ cởi quần áo và suy nghĩ cách thoát thân nhưng không nghĩ ra được cách gì trong trường hợp khẩn cấp này. Khi tụt đến mảnh vải cuối cùng trên người Joan liền tươi cười bảo tên cường đạo: "Anh trông cũng đẹp trai vừa ý tôi lắm. Anh cần gì phải cưỡng hiếp tôi, tôi sẽ hiến dâng anh một buổi tối đê mê, nhưng tôi chưa ăn cơm chiều vậy anh dẫn tôi đi nhà hàng làm một chầu rồi về mình tha hồ thư thả".

Chẳng hiểu sao Harold lại đồng ý để Joan mặc quần áo trở lại và hai người đến nhà hàng gần đó. Sau khi ăn xong, Harold gọi "waiter" tính tiền thì Joan xin lỗi đi vào phòng vệ sinh. Nhưng thay vì vào phòng vệ sinh để tháo nước trong lòng Joan gọi 911.

Khi Joan trở lại bàn với Harold thì hai cảnh sát viên cũng vừa tới. Joan cho biết cô không thể quên được khuôn mặt của Harold nó thộn ra và khó tả vô cùng.

10- Đi ăn trộm đã ngu lại còn xạo không đúng sách. Đó là chàng Brian Walddington ở Des Moines (Iowa). Bữa đó anh Micheal Robert đi làm về thì thấy cửa sổ nhà bị vỡ và có vết máu. Khi vào nhà Robert thấy máu đầy ở nền nhà và thấy chàng Brian đang ngồi ở phòng khách đang ôm tay máu chẩy ròng ròng. Robert kềm chế Brian tại đó và gọi cảnh sát. Brian bị bắt về tội xâm nhập gia cư bất hợp pháp và ăn trộm (burglary).

Nhưng Brian khai rằng anh ta không biết tại sao anh ta lại ở nhà Robert mà anh ta chỉ nhớ rằng anh ta đang ở Danveport (cách nhà Robert 170 dặm) thì có một vài người ngoài địa cầu (aliens) túm lấy anh ta và liệng vào đây (nhà của Robert) khiến anh ta bị thương nên ngồi dưỡng thương.

Nhưng cảnh sát điều tra ra nhà Brian chỉ cách nhà Robert có 1 dặm, thế cho nên Brian bị tống giam với $13,000.00 tiền thế chân và ông cảnh sát trưởng nói với Brian rằng khi nào ông ta kiếm được những "aliens" mà chàng ta nói đó thì Brian sẽ được miễn tố.

11- Nhưng tên lưu manh sau đây phải công nhận là xứng đáng lãnh giải quán quân về lưu manh và ngu. Chàng này ở Charlotte (NC) mua một hộp thuốc xì gà thuộc loại hiếm và quý nhất thế giới. Vì quá quý nên chàng mua bảo hiểm để chống cháy hộp xì gà đó. Trong vòng một tháng, chưa trả tiền bảo hiểm tháng đầu, chàng ta đã hút sạch mẹ nó hộp xì gà. Thế nhưng chàng ta khiếu nại với hãng bảo hiểm đòi bồi thường vì xì gà cháy hết rồi. Trong đơn khiếu nại chàng ta ghi rõ bị "cháy liên tục bởi ngọn lửa nhỏ".

Hãng bảo hiểm từ chối bồi thường vì cho đó là tiêu thụ (consumed) chứ không phải cháy. Chàng ta thưa ra tòa và thắng kiện vì quan toàn căn cứ vào bản văn của "policy" thì đã viết rõ là bảo hiểm mất mát và "bị cháy" và bản văn không nói rõ là lý do cháy như thế nào. Vậy chỉ nói cháy thì anh ta hút cũng là cháy.

Công ty bảo hiểm không muốn chống án vì sẽ tốn tiền hơn nên bằng lòng bồi thường $15,000 cho mớ xì gà bị cháy. Sau khi nhận được $15,000 chàng này chưa kịp xài thì bị bắt tống giam về 24 tội đốt phá (arson). Căn cứ vào lời khai của chàng ta ở phiên toà trước và trong văn kiện bảo hiểm anh ta bị kết tội có âm mưu tự đốt phá tài sản của mình để lãnh bảo hiểm (intentionally burning his insured property). Tòa phạt chàng ta 24 tháng tù ở $24,000 tiền phạt.

Đào Minh Diệu Xuân st.

BẠN TÔI XVIII

hay là Máy Móc Chẳng Bao Giờ

Hoàn Toàn Thay Thế Được Con Người

Bốn người chúng tôi, gồm có tôi, hai vợ chồng một anh bạn, và một anh bạn khác đang ngồi ở quán Cà Phê Nến (vì có hàng ngàn ngọn nến được đốt dọc theo hành lang lối vào) thì Bạn Tôi tới. Anh cho biết có nhận được lời tôi mời anh lúc trưa nên tới để tán gẫu… cho qua ngày. Chúng tôi không cần sự giới thiệu nào vì đã biết nhau cả rồi, và mỗi người trong chúng tôi đều biết rất rõ là tất cả những gì anh em chúng tôi sẽ bàn cãi và tán gẫu với nhau sẽ chỉ có một đề tài duy nhất là “Chính Em” và sẽ chẳng bao giờ có, dù chỉ là hơi hám, cái gì liên quan tới “Cô Chị”!

Bạn tôi nói: “Mấy vị biết cô bạn Lý Th. Kim chứ?” Tất cả bốn người chúng tôi gật đầu, vì chúng tôi đều biết là cô bạn này hiện đang sống cuộc sống nữ đại gia, sau khi rời bỏ anh chồng là một giáo sư khá nổi tiếng, nhưng ít giàu, để lấy một người ngoại quốc làm tổng giám đốc một công ty đa quốc, có chi nhánh ở Việt Nam. Bạn tôi kể: Trưa hôm qua cô ta ghé nhà mình chơi bằng một chiếc Lexus đời mới dài thòng phải chạy vào cái hẻm bên cạnh nhà mình để chờ. Cô ta đến nhờ mình dịch hộ một lá thơ mà cô ta bắt được ở trong túi áo veste của anh chồng ngoại. Tôi dịch miệng ngay vì thơ chẳng nói gì lạ chỉ hỏi thăm và cho biết người viết có ghé Việt Nam nhưng không có thì giờ tới thăm anh ngoại nhân; dịch rồi tôi hỏi cô ta: “Giả sử đây là một thơ hẹn hò thì sao?” Cô ta trả lời tỉnh bơ: “Có hẹn hò thì cũng kệ bố nó, em công đâu mà ghen, miễn là em muốn gì nó cũng chịu là OK rồi!” Nghe hai tiếng OK tôi phát lộn ruột, nhưng cố nhịn không nổi nóng. Nhưng rồi cô ta đưa cho tôi xem một cái ví da to đùng và khoe: “Ông xã em mới đi Singapore về mua cho em đấy anh ạ. Anh có biết nó đáng giá bao nhiêu không? – 12.000 đô đấy anh ạ!” Kể đến đây bạn tôi hỏi: “Các bạn có biết mình phản ứng như thế nào không?” Chúng tôi đồng thanh trả lời là sao mà biết được, và bảo anh kể cho nghe. Anh vừa cười vừa kể: “Mình đi ngay ra bàn giấy, lấy một miếng bìa cạc tông cỡ 5cm x10cm, rồi lấy bút phớt đỏ viết lên trên: 12.000 đô Mẽo, lấy một chút keo phết vào mặt sau, và đem lại dán ngay vào mặt trước cái ví. Cô bạn hét lên: “Anh làm cái gì vậy?” Mình bình thản trả lời: “Anh giúp em làm cho mọi người biết là cái ví em cầm giá 12.000 đô mẽo chứ không phải vài ba trăm đô Mít!”, vì anh nhìn anh cũng chỉ nghĩ nó chỉ đáng giá độ 300 đô Mít là tối đa, làm sao mà biết được nó mắc tới mức đó? Mặt cô ta sưng lên một đống, cô ta giựt phắt tấm bìa các tông vứt về phía tôi và vùng vằng… ra về! Kể xong bạn tôi “bình loạn” thêm: “Nếu mình được những loại người bỏ tình theo tiền này ghét bỏ, giận dữ, thì mình phải tự hiểu là mình là người… hữu đa phước!

Tất cả mấy người chúng tôi cười rộ, hưởng ứng cách cư xử hơi bị bất bình thường của anh, và rồi câu chuyện giữa chúng tôi chuyển qua việc viết lách bằng com pú tè (chữ computer được Việt hóa). Tất cả mọi người đều đồng ý cho là máy tính lúc này thật là tuyệt vời, nhất là khi đem so sánh với cái máy chữ lọc cọc của những ngày xưa cũ. Này nhé! Sai thì có thể sửa ngay tại chỗ. Đánh xong bài viết chỉ cần bấm nút là vài phút sau bài viết của mình đã có mặt trên một trang mạng ở nơi ngàn trùng xa cách… bài viết tới rồi! Rồi, chị Duyên, nhân vật nữ duy nhất trong năm người chúng tôi bỗng nêu ra ý kiến cho rằng, ngay lúc này máy móc, thí dụ như máy tính thật là siêu việt, rất có thể trong một tương lai gần, máy móc có thể thay thế con người làm được hết mọi sự, và chị cho thí dụ là cái vụ phô tô sốp, phô tô xiếc, cái quái gì nó cũng làm được hết!

Nghe chị Duyên nói vậy, Bạn tôi phản pháo ngay, anh nói: Máy móc không bao giờ vượt được vai trò của con người và sẽ chẳng bao giờ hoàn toàn thay thế được con người”. Chị Duyên vui vẻ đáp lời: “Vâng, nếu anh quan niệm như vậy thì anh có thể đưa ra một thí dụ cụ thể nào minh chứng lời anh nói không?” Bạn tôi tươi cười trả lời: “Được quá đi chứ! Tôi xin đưa ra một thí dụ siêu cụ thể mà qua đó tất cả anh em mình đều có thể thấy rất rõ là vô phương chối cãi”. Và anh bắt đầu kể: Các bạn biết không? Cách đây hơn hai tháng mình bắt gặp tại một tiệm sách cũ một tờ nguyệt san mới xuất hiện khổ 14cmx20cm được in ấn tuyệt đẹp. Mình khoái quá và vội gửi điện thư cho ban biên tập để giao lưu, và gửi kèm theo điện thư một truyện ngắn của mình để đề nghị họ nếu thấy được thì đăng. Mấy ngày sau họ hồi âm và cho biết sẽ cho đăng truyện ngắn của mình vào số tới (số 14 thì phải). Được tin mình khoái quá, và còn được khoái hơn nữa khi thấy số báo tháng tới đó còn được giới thiệu trên mạng Việt Văn Mới tại Pháp. Khi thấy bìa trước bìa sau của số báo được giới thiệu, và khi thấy tên mình trong số tên các tác giả mình khoái chí tử, và hồi hộp mong chờ ngày tờ nguyệt san được phát hành.

Thế rồi ngày tươi đẹp đó cũng tới, và chiều hôm đó, mình ngồi gọi điện thoại tới cả chục nhà sách để hỏi có bán số báo được mong đợi đó không? Kết quả là mình được báo là nhà sách Hà Nội ở đường Nguyễn Thị Minh Khai có. Thế là vừa dùng cơm tối xong là mình thượng lên taxi để hộc tốc đi rước số báo, với tâm trạng mình vẫn cảm thấy từ trước tới nay mỗi khi đi rước một tân mẫu hậu. Kết quả là khi ẵm được quý thư về thì mình thực sự đã phải chi ra một số tiền bằng giá 5 quý thư, thay vì 1, khi tính cả số tiền taxi phải chi. Về tới nhà, mình để nàng nguyệt san trước mặt, chưa dở ra vội, mà để một phút nghía và thưởng thức vẻ đẹp của “nàng” đã, và thực sự cảm thấy là khâu trình bày rất là đẹp, rất là bắt mắt vân vân và vân vân… Rồi mình dở quý thư ra, tìm bài viết của mình nằm ở phần cuối để đọc, và hỡi ơi, chính vào lúc đó, mình đã từ đỉnh Thiên Đường, rớt cái bịch một cái xuống tới đáy Địa Ngục, khi thấy tác phẩm của mình chỉ dài có 11 trang mà mang trên mình tới 9 thương tích, trong đó có 5 vết thương rất nặng, ý mình muốn nói những lỗi in ấn thừa thiếu rất nặng chứ không phải chỉ đơn thuần là những lỗi chính tả. Này nhé từ chữ cuối cùng của trang đầu tiên sang chữ đầu tiên của trang thứ nhì: thiếu mất một chữ - từ chữ cuối cùng của trang thứ nhì sang trang thứ ba: thiếu mất 14 chữ - nơi đầu trang thứ tư: thừa 12 chữ - cuối trang thứ tư: thiếu mất cũng 12 chữ - đầu trang thứ sáu: thừa 14 chữ - đầu trang thứ bảy: thiếu mất 17 chữ - đầu trang thứ chín: thiếu mất 1 chữ - đầu trang thứ mười: thiếu mất 1 chữ, và cuối cùng cuối trang thứ mười: thừa một chữ. Than ôi! một truyện ngắn 11 trang mà thừa thiếu lung tung, có chỗ mất tới 17 chữ, thì nó còn ra cái gì nữa không? Tác giả đau xé ruột, còn độc giả thì cảm thấy bị khinh thường, vì không hiểu sao câu văn lại kỳ văn cục như thế này?

Vâng, thưa chị Duyên, đây chính là siêu thí dụ của tôi vì nó chứng minh được là máy móc dù tuyệt vời đến đâu đi nữa, nó đâu có phát hiện được sửa chữa được các sai sót này, và rồi nó cũng sẽ chẳng bao giờ hoàn toàn thay thế được một con người làm công việc dàn trang và in ấn này một cách cẩn trọng, biết tôn trọng tác giả và bản văn, cũng như biết tôn trọng độc giả.

Chị Duyên và cả mấy anh em chúng tôi đều chịu là Bạn tôi rất có lý…

Vũ Anh Tuấn

Những câu nói hay nhất

của Nick Vujicic...

1. Dù bạn có vấp ngã hàng trăm lần thì cũng đừng bỏ cuộc. Hãy đứng dậy!

2. Tìm kiếm sự giúp đỡ ở người khác không phải là một dấu hiệu của yếu kém. Đó là một dấu hiệu của sức mạnh.

3. Ngay cả khi bạn phải đối mặt với điều tồi tệ nhất, hãy làm hết khả năng để sẵn sàng đón đợi điều tốt đẹp nhất!

4. Tất cả mọi điều bạn làm để khiến cuộc sống của người khác trở nên tốt đẹp hơn đều khiến cho cuộc sống của bạn trở nên ý nghĩa hơn.

5. Sống không có giới hạn có nghĩa là biết được rằng bạn luôn có thứ gì đó để cho, luôn có thể làm điều gì đó để giảm nhẹ gánh nặng của người khác.

6. Khi bạn tìm kiếm hạnh phúc trong những đối tượng vật chất thuần túy, thì vật chất chẳng bao giờ là đủ cả. Hãy nhìn ra xung quanh. Hãy nhìn vào bên trong.

7. Tôi là một điều kỳ diệu. Bạn cũng là một điều kỳ diệu của cuộc sống.

8. Tôi biết chắc chắn rằng chừng nào bạn còn thở thì chừng ấy cuộc sống của bạn vẫn còn hy vọng.

9. Tôi chưa bao giờ thực sự tàn tật cho đến khi tôi mất hy vọng. Hãy tin tôi đi, mất hy vọng còn tồi tệ hơn cả mất chân tay.

10. Bạn và tôi không thể sống mà không có niềm tin, không thể sống mà không tin tưởng vào một điều gì đó.

11. Nếu nỗi đau đớn, khổ sở của bạn là một gánh nặng, thì bạn hãy tìm đến để chia sẻ và xoa dịu nỗi đau tương tự ở người khác và mang đến cho họ niềm hy vọng.

12. Bạn không bao giờ có thể thay đổi được quá khứ của bạn, nhưng bạn có thể thay đổi tương lai!

13. Tìm ra mục đích sống của bạn là bước quan trọng đầu tiên để sống một cuộc sống không giới hạn.

14. Nơi nào có ý chí và có những con sóng, thì nơi đó có cách để lướt sóng!

15. Bạn hãy luôn giữ ý nghĩ này: Không gì là không thể. Khi bạn cảm thấy mình thất bại và bị lấn át bởi một thách thức lớn, hãy tin rằng không gì là không thể.

16. Đạt được lý tưởng không phải là đạt được sự hoàn hảo trong suốt cuộc đời bạn, mà là tìm kiếm sự hoàn hảo.

17. Bạn có thể tin vào những giấc mơ của mình, nhưng bạn phải hành động để biến những giấc mơ ấy thành hiện thực.

18. Tất cả những gì xảy ra với bạn sẽ định nghĩa con người bạn, định nghĩa cuộc sống của bạn nếu bạn không hành động để định nghĩa chính mình.

19. Những ước mơ không chết chừng nào bạn còn nuôi dưỡng nó bằng niềm đam mê.

20. Phép màu tuyệt vời nhất là sự biến đổi từ bên trong con người chúng ta.

Hoàng Chúc st


LỜI ƯỚC NGUYỆN

ĐÀM LAN

- Hải An ơi! Ra đỡ hộ chị với.

Tiếng chị Nga lảnh lót làm tôi buông vội con dao xuống cái thớt.

- Ủa chứ mấy chàng thanh niên đâu mà để chị tha lôi vầy nè?

- Mấy đứa nó đang xếp bàn ghế. Em đem đám này vô bếp đi, còn hoa để chị mang lên cắm. Có thấy Dung Nhi đâu thì kêu lên hộ chị nha.

- Dạ.

Tôi mang những cái túi xách rau quả vào bếp khi chị Nga lại tất bật ôm đám hoa đi về phía hội trường. Vẫn cái dáng trẻ trung năng nổ hoạt bát của một Phó Giám đốc, hình như tôi chưa lúc nào thấy sự mệt mỏi hiện lên gương mặt chị thì phải. Bỗng một thoáng, tôi nhớ lại…

Hơn năm năm trước, một con bé lơ ngơ láo ngáo với tấm bằng đại học chưa kịp khô dấu mực. Thập thò trước bàn tuyển dụng, phập phồng với sự phán quyết của người ngồi sau cái bàn ấy. Anh Quang, Truởng phòng nhân sự với bộ mặt nghiêm nghị đến phát run. Để tôi phải hít đến ba hơi sâu trước khi trả lời phỏng vấn. May quá, cuồi cùng cũng lọt qua cửa ải vào đời, nói đúng hơn là vào Công ty Hoá chất Dệt-Nhuộm này. Cái tâm lý e dè, nhút nhát, ngần ngại của một con bé non choẹt chân ướt chân ráo lần hồi biến đâu mất. Tôi mau chóng làm quen công việc nhờ vào sự tận tình chỉ dẫn của những anh chị đến trước, và những lời động viên thân tình của chị Nga.

- Ráng lên nghe em, cái gì không biết cứ hỏi, không hỏi thì mãi mãi vẫn là không biết. Có ai bắt nạt em cứ méc chị, ở đây em cứ coi như ở nhà của mình vậy nha. Tâm lý có thoải mái thì làm việc mới hiệu quả được.

- Dạ. Em cám ơn chị.

Lúc đó, tôi không biết chị là phó Giám đốc của công ty, mà cũng không rõ chức phận của chị đến đâu, chỉ thấy hầu như chỗ nào cũng có mặt chị. Lâu dần tôi hiểu. Công ty này cứ như một đại gia đình vậy. Tiêu chí của công ty là: Văn Hoá – Tình cảm – Tôn trọng – Nhiệt tình. Không chỉ là những yêu cầu đối với tất cả anh chị em công nhân các bộ phận, mà cả ban lãnh đạo cũng hết sức thể hiện. Không hẳn là không có khoảng cách giữa công nhân và lãnh đạo, nhưng những khoảng cách ấy chỉ nhìn thấy trong một số yêu cầu của công việc, còn lại thì thật sự như người thân một nhà. Còn không phải sao. Khi mỗi mỗi niềm vui và khó khăn của mỗi gia đình đều được sự quan tâm động viên và hỗ trợ đúng lúc của ban lãnh đạo. Vào những ngày lễ tết, công ty đều có tổ chức những hoạt động chung, đó là sự gắn kết tình cảm và trách nhiệm cho tất cả mọi người. Để ai cũng cảm thấy mình thực sự là một nhân tố cần thiết và chan hoà cùng tập thể. Hàng năm, vào những lễ tiết của Phật giáo như rằm tháng bảy, Phật đản, và ngày kỷ niệm thành lập công ty, đều có mời Thầy đến cúng lễ rất trang nghiêm và thành kính. Những hoạt động này, tôn thêm nền căn bản cho công ty, không chỉ là một đức tin mà còn gieo một tâm thái an hoà, tín trọng cho mọi người. “Có thờ có thiêng, có kiêng có lành”. Không biết có phải nhờ thế mà công ty luôn làm ăn phát đạt hơn mười năm qua. Hai năm trước, trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế chung, những công nhân chúng tôi xì xào, không biết ai sẽ rơi vào cảnh thất nghiệp. Nhưng rồi vẫn không thấy có quyết định đáng buồn nào đưa ra từ ban lãnh đạo. Chỉ thấy những lời thăm hỏi như ân cần hơn, những quan tâm chia sẻ như thấu đáo hơn. Về sau tôi có nghe phong phanh, ban giám đốc quyết định bù chi bằng mọi giá để duy trì hoạt động của công ty ở mức bình ổn nhất. Trời không phụ lòng người, giai đoạn bấp bênh qua nhanh, và lộ trình của công ty tiếp tục những bước đều đặn. Với tôi, còn là một kỷ niệm nhớ đến suốt đời. Bởi cũng trong thời điểm đó, chúng tôi tổ chức lễ cưới. Bạn đời tôi cũng cùng trong công ty. Cũng chỉ định đơn giản một cái lễ ra mắt cho đủ thủ tục, nhưng chị Nga đã bắt phải tổ chức cho đàng hoàng tươm tất. “Cả đời mới có một lần, đơn giản quá không vui mà về sau tiếc mãi, các em không phải lo gì cả, công ty sẽ tổ chức đầy đủ cho các em.” Vậy là chúng tôi đã có một lễ cưới rôm rả đẹp đẽ như mọi lễ cưới khác. Ngày chúng tôi chào đón một hình hài bụ bẫm cũng như ngày công ty chào đón thêm một thành viên vậy. Niềm vui không chỉ trong phạm vi một gia đình mà trở thành một niềm vui chung. Cũng như hôm nay, tất cả mọi người đang chộn rộn cho một Lễ Giáng Sinh. Năm nào cũng vậy:

Không chỉ con chiên mà cả người ngoại đạo

Mỗi Giáng Sinh lại thêm một mùa vui

Ngày an lành cho trần thế nơi nơi

Niềm hạnh phúc râm ran lòng tay ấm

Đấy, tiếng chị Nga đang lảnh lót nơi đại sảnh, nơi một cây thông lớn đang giăng đèn trang trí. Nhìn khung cảnh chộn rộn, lòng ai cũng háo hấc một niềm chung chia hạnh phúc. Bữa tiệc cũng là nơi họp mặt của toàn thể các gia đình trong công ty. Những em bé sẽ được súng sính trong những bộ trang phục ngộ nghĩnh, và mừng vui đón những món quà của Ông già NOEL đem tới. Những món quà này cũng từ quỹ xã hội của công ty. Những điều mà một số bạn bè tôi phải ghen tị khi họ đang phục vụ ở những nơi khác. Sự ghen tị của họ càng làm tôi nhận thức rõ một điều “Sẽ không có kết quả tốt nếu không có sự gắn kết, cộng hợp một cách thân thiện giữa những con người trong cùng một mục đích”. Sự gắn kết này đã xoá đi tâm lý hạn chế của một người làm thuê. Trên thực tế, bất kỳ ai trong đời mà không là một người làm thuê chứ. Khi bạn đem đánh đổi công sức, trí tuệ của mình cho một món thù lao lớn nhỏ, thì đã có nghĩa là làm thuê rồi. Làm thuê. Nói một cách khác, chính xác hơn là sự trao đổi các nhu cầu đời sống. Quan niệm này có thể áp dụng cả từ vua chúa đến quan dân. Mỗi cương vị một trọng trách. Cuộc sống luôn là một sự công hợp và cộng hưởng. Sự khác biệt nếu có, chỉ từ cách đối xử giữa những cương vị, tính cách mà thôi.

Mùi thơm xào nấu nức cả một gian bếp, toả đến tận ngoài sân, khiến cho một số cái dạ dày sôi lục ục…

- Ui trời mấy mợ đảm đang ơi. Tra tấn cái lỗ mũi anh em ta quá chừng rồi nè. Kiểu này hổng biết còn đủ sức đi lễ nữa không đây.

- Đừng có mà rộn ràng quá nghe. Phải ăn có lúc, phải chơi có thì. Không đi lễ mai Chúa phạt thì đừng có la làng đó.

- Dạ, nhưng mà em hổng có biết Amen thì răng chừ?

- Thì hát bài “Lạy Chúa con là người ngoại đạo, nhưng tin có Chúa ở trên cao… ọ

- Nói đến hát mới nhớ, mấy giợng ca vàng của công ty lo mà đăng ký sớm đi nha, lát hồi giành nhau thì mệt lắm đó.

- Việc chi phải giành, người ta hát mình cũng hát… Jingle bell… Jingle… bell…

Một làn âm hưởng lây lan bất ngờ, khúc nhạc Mừng Chúa Giáng Sinh trỗi lên từ những đôi môi. Và những tiếng cười…

Lồng thêm một cái áo ấm cho bé Vy, đôi chân chập chững của bé cứ muốn tuột khỏi tay mẹ.

- Yên nào, đợi mẹ đi giày đẹp cho đã, đẹp thì ông già Noel mới cho quà nghe con.

- Em mặc bộ nào, anh ủi luôn cho nè.

- Bộ đồ em vắt ở ghế kìa.

Chúng tôi không đi lễ, vì không có đạo, nhưng vẫn long rong phố xá một lúc rồi về tập trung tại hội trường công ty. Bữa tiệc nửa đêm đã được chuẩn bị chu đáo. Đó mới là cuộc vui hoành tráng và ý nghĩa nhất đêm nay. Sẽ như những năm trước, cuộc vui kéo dài đến sáng, và hôm sau là một ngày nghỉ cho tất cả. Niềm phấn khích cứ bổi hổi trong tôi. Bất giác tôi ngước lên trời dâng lên một lời ước nguyện:

“Là người ngoại đạo, nhưng con cũng cầu xin Thiên Chúa ban cho một hồng ân. Xin cho tất cả các anh chị em trong công ty con, luôn luôn được mạnh khoẻ và hạnh phúc, nhất là anh chị Giám đốc, để dẫn dắt công ty mãi trường tồn và phát triển, để nơi đây sẽ mãi mãi là một ngôi nhà thứ hai cho chúng con. Amen.”

Tiếng chuông trầm thong thả… ngân xa.

Đàm Lan


|  51 |
 52 |
 53 |
 54 |
 55 |
 56 |
 57 |
 58 |
 59 |
 60 |
 61 |
 62 |
 63 |
 64 |
 65 |
|  66 |
 67 |
 68 |
 69 |
 70 |
 71 |
 72 |
 73 |
 74 |
 75 |
 76 |
 77 |
 78 |
 79 |
 80 |
|  81 |
 82 |
 83 |
 84 |
 85 |
 86 |
 87 |
 88 |
 89 |
 90 |
 91 |
 92 |
 93 |
 94 |
 95 |
|  96 |
 97 |
 98 |
 99 |
 100 |
 
|  51 |
 52 |
 53 |
 54 |
 55 |
|  56 |
 57 |
 58 |
 59 |
 60 |
|  61 |
 62 |
 63 |
 64 |
 65 |
|  66 |
 67 |
 68 |
 69 |
 70 |
|  71 |
 72 |
 73 |
 74 |
 75 |
|  76 |
 77 |
 78 |
 79 |
 80 |
|  81 |
 82 |
 83 |
 84 |
 85 |
|  86 |
 87 |
 88 |
 89 |
 90 |
|  91 |
 92 |
 93 |
 94 |
 95 |
|  96 |
 97 |
 98 |
 99 |
 100 |
 
Netadong.com thiết kế